TÒA ÁN HÌNH SỰ QUỐC TẾ
Một số vấn đề pháp lý cơ bản
TRẦN THĂNG LONG
Khoa Luật quốc tế ĐH Luật TP. HCM
1. Vài nét về quá trình hình thành Tòa án Hình sự
quốc tế:
Nhu cầu về một tòa án hình sự ở quy mô quốc tế đã
được nhắc đến vào cuối thế kỷ XIX. Vào đầu 1872,
Gustave Moynier, một người Thuỵ Sĩ, đã đưa ra ý
kiến này khi chứng kiến sự bạo tàn của cuộc chiến
tranh Pháp – Phổ (1870 – 1871). Tuy nhiên, tại thời
điểm đó, một ý kiến như vậy đã không nhận được sự
ủng hộ tích cực từ phía các quốc gia1.
Lần đầu tiên Đại hội đồng (Liên Hợp Quốc) đã công
nhận nhu cầu có một cơ chế thường xuyên nhằm truy
tố những kẻ sát nhân và những tội phạm chiến tranh
vào năm 1948 trong hai phiên tòa Nuremberg và
Tokyo xét xử những tội phạm Đức Quốc xã2 và Nhật
Bản3. Từ thời điểm đó trở đi, rất nhiều điều ước quốc
tế đã xác định và nghiêm cấm các hành vi tội ác
chiến tranh cùng với sự phát triển của luật quốc tế
bảo vệ nhân quyền. Tuy nhiên những điều ước quốc
tế đó lại không đưa ra được đề xuất khả thi nào về
một cơ chế quy kết trách nhiệm hình sự của các cá
nhân. Thế kỷ vừa qua đã chứng kiến những đau
thương, mất mát tồi tệ nhất của nhân loại trong lịch
sử. Chỉ riêng trong 50 năm vừa qua, đã có hơn 250
cuộc xung đột đã nổ ra khắp thế giới, hơn 80 triệu
thường dân trong đó hầu hết là phụ nữ và trẻ em đã
chết trong những cuộc xung đột đó và hơn 170 triệu
người đã bị tước đoạt các quyền, tài sản và phẩm giá
của họ4.
Chỉ đến khi Quy chế Rome về việc thành lập Tòa án
hình sự quốc tế5 được thông qua thì một thiết chế
quốc tế thường trực có thẩm quyền truy tố những kẻ
vi phạm luật quốc tế về nhân đạo mới thực sự được
hình thành. 160 quốc gia đã tham gia vào Hội nghị
ngoại giao của Liên Hợp quốc (LHQ) được tổ chức
tại Rome từ 15/6 đến 17/7/1998 để thành lập ra Tòa
án hình sự quốc tế (International Criminal Court).
Văn bản dự thảo được đệ trình tại Hội nghị lần này là
kết quả của những cuộc đàm phán lớn và những thỏa
hiệp rất thận trọng. Văn kiện đã được các đoàn đại
biểu có mặt đồng ý thông qua trọn gói (package deal)
bằng bỏ phiếu, trong đó có 120 phiếu ủng hộ, 7 phiếu
chống và 21 quốc gia không tham gia bỏ phiếu. Đây
là một sự kiện hết sức có ý nghĩa đúng vào lúc cả
nhân loại kỷ niệm 50 năm ngày thông qua Tuyên
ngôn thế giới về quyền con người (10/12/1948). Khi
mới thông qua, nhiều luật gia đã dự đoán rằng phải
mất vài thập kỷ mới đạt được con số 60 quốc gia phê
chuẩn đủ để Quy chế có hiệu lực. Tuy nhiên, với việc
10 quốc gia phê chuẩn Quy chế ngày 11/4/20026,
Quy chế sẽ bắt đầu phát sinh hiệu lực từ ngày
01/7/2002 căn cứ theo Điều 1267.
Quy chế được chia thành 13 phần và 128 điều khoản
trong đó định nghĩa về các tội phạm hình sự, thẩm
quyền xét xử, cơ cấu tổ chức, thẩm quyền của Tòa,
chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của các cơ quan cũng
như những nguyên tắc chung của luật hình sự, bản
án, thủ tục tố tụng hình sự, việc thi hành các bản án
và hợp tác trong lĩnh vực hình sự, đặc biệt nhấn mạnh
đến những nguyên tắc của luật hình sự quốc tế…8.
Căn cứ theo Điều 120, các quốc gia tham gia không
được phép bảo lưu đối với bất kỳ điều khoản nào
trong Quy chế.
2. Đặc điểm của Tòa:
Theo Điều 4 của Quy chế Rome 1998 thì Tòa án
Hình sự quốc tế (dưới đây gọi tắt là “Tòa”) sẽ có tư
cách chủ thể luật quốc tế và năng lực pháp lý để thực
hiện các chức năng và những mục đích của mình.
Căn cứ vào Quy chế, Tòa sẽ thực hiện các chức năng
và quyền hạn của mình trên lãnh thổ của quốc gia
thành viên Quy chế bất kỳ và căn cứ vào những thỏa
thuận riêng, trên lãnh thổ của một quốc gia khác
không phải là thành viên của Quy chế. Với tư cách
chủ thể độc lập như vậy, Tòa sẽ thực hiện các quan
hệ với LHQ dựa trên cơ sở những thỏa thuận song
phương giữa Tòa với tổ chức LHQ. Tòa sẽ đặt trụ sở
tại La Haye - Hà Lan. Ngôn ngữ làm việc chính thức
của Tòa là tiếng Anh, Pháp, Nga, Tây Ban Nha,
Trung Quốc và Arập. Tòa có những đặc điểm sau:
- Là một Tòa án thường trực (Permanent Court). Tòa
hình sự quốc tế trong tương lai sẽ khác hai Tòa án
quân sự Nuremberg và Tokyo xét xử những tên tội
phạm chiến tranh Đức Quốc xã và Nhật bản cũng như
Tòa án ad hoc về Nam Tư 9 và Rwanda10 về thẩm
quyền theo địa lý và phạm vi thời gian. Hai Tòa ad
hoc nói trên do Hội đồng Bảo an (HĐBA) LHQ
thành lập và được ủy nhiệm nhằm xét xử chỉ những
tội phạm được thực hiện tại những khu vực nói trên
theo những khoảng thời gian xác định.
- Là một Tòa hình sự (Criminal Court). Tòa sẽ xét xử
trực tiếp những tội phạm hình sự căn cứ theo những
quy định của Quy chế. Do vậy, Tòa khác với Tòa án
Công lý quốc tế (The International Court of Justice)
có chức năng giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia
là chủ yếu. Tòa hình sự quốc tế với ý nghĩa đó có cơ
cấu tổ chức và hoạt động tương tự như các tòa hình
sự của các quốc gia, trong đó có công tố viên (The
Prosecutor) có chức năng điều tra và truy tố trước
Tòa tương tự như chức năng của kiểm sát viên và
công tố viên trong tòa hình sự ở các quốc gia. Mặt
khác, những tội phạm được đưa ra xét xử trước Tòa
là những tội phạm hình sự quốc tế nguy hiểm nhất
đáp ứng các yếu tố cấu thành tội phạm căn cứ vào
luật hình sự quốc tế (International Criminal Law),
trình tự thủ tục để truy tố và đưa ra xét xử căn cứ vào
những trình tự thủ tục tố tụng hình sự quốc tế
(International Criminal Procedure).
- Là một thiết chế độc lập với các Tòa án hình sự
trong nước. Thẩm quyền xét xử của Tòa là sự ‘bổ
trợ” (Complementarity) đối với thẩm quyền xét xử
của các Tòa án trong nước. Do vậy, Tòa không phải
là một cấp xét xử cao hơn so với các Tòa trong nước
hoặc là một Tòa phúc thẩm đối với các Tòa án quốc
gia. Thẩm quyền xét xử của Tòa và hoạt động của
Tòa không ảnh hưởng và chi phối đến thẩm quyền và
hoạt động tương tự của các Tòa trong nước mà trái lại
có sự độc lập một cách tương đối.
- Là một chủ thể của Luật quốc tế. Tòa án do các
quốc gia độc lập có chủ quyền thỏa thuận thành lập
nên với mục đích ngăn ngừa và trừng trị những hành
vi nguy hiểm nhất xâm phạm đến cộng đồng quốc tế
nói chung. Tòa được hình thành trên cơ sở điều ước
quốc tế là Quy chế Rome 1998, trong đó chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn, phạm vi hoạt động, thẩm
quyền của Tòa được ghi nhận cụ thể. Tòa có cơ cấu
tổ chức chặt chẽ, thống nhất và có khả năng đảm bảo
sự hoạt động ổn định, lâu dài. Tư cách chủ thể của
Tòa độc lập với các quốc gia thành viên và hoạt động
của Tòa căn cứ trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản
của luật quốc tế và không can thiệp vào công việc nội
bộ của các quốc gia thành viên.
- Tòa là một thiết chế độc lập với LHQ. Khác với Tòa
án Công lý quốc tế11, Tòa có vị trí pháp lý độc lập
với LHQ, điều đó thể hiện không chỉ ở cơ cấu tổ
chức, chức năng, nhiệm vụ quyền hạn mà còn ở chỗ,
Tòa có nguồn tài chính là sự đóng góp từ phía các
thành viên chứ không phải sự hỗ trợ tài chính từ phía
LHQ.
- Đối tượng chịu sự xét xử của Tòa là các cá nhân.
Đặc điểm này giúp phân biệt với Tòa án Công lý
quốc tế ở chỗ Tòa án Công lý quốc tế chỉ giải quyết
các tranh chấp giữa các chủ thể của luật quốc tế mà
thôi. Do đó Tòa án Công lý quốc tế không chấp nhận
những vụ việc mà một bên hoặc các bên là những cá
nhân.
3. Thành phần và tổ chức của Tòa:
a. Thành phần:
Theo Điều 34 Quy chế Rome thì Tòa Hình sự quốc tế
gồm có 4 cơ quan chính: Chủ tịch Tòa án (The
Presidency); 1 Bộ phận phúc thẩm (Appeals
Division); 1 Bộ phận xét xử (Trial Division) và 1 Bộ
phận Tiền xét xử (Pre-Trial Division); văn phòng
Công tố viên (The Office of the Prosecutor) và Thư
ký Tòa (Registrar).
- Chủ tịch Tòa án (The Presidency)
Theo Điều 38, Chủ tịch Tòa án bao gồm Chủ tịch,
Phó Chủ tịch thứ nhất và Phó Chủ tịch thứ hai.
Những người này sẽ được bầu trong số các thẩm
phán với đa số tuyệt đối. Chủ tịch Tòa án là cơ quan
chịu trách nhiệm về các công việc hành chính của
Tòa trừ những chức năng thuộc về Văn phòng Công
tố viên cũng như những chức năng khác được quy
định trong Quy chế (Điều 38 (3), (b)). Để thực hiện
tất cảnhững trách nhiệm của mình, Chủ tịch Tòa án
sẽ hợp tác với sự nhất trí của Công tố viên về tất cả
các vấn đề liên quan tới chức năng của nhau.
- Các Bộ phận của Tòa (Bộ phận xét xử, Bộ phận tiền
xét xử và Bộ phận Phúc thẩm)
Theo Điều 39, ngay sau khi bầu ra các thẩm phán,
Tòa sẽ tự lập ra các Bộ phận cụ thể càng sớm càng
tốt. Các chức năng tư pháp của Tòa sẽ do các Ủy ban
trong từng Bộ phận thực hiện.
Bộ phận Phúc thẩm (Appeals Division) sẽ bao gồm
Chủ tịch Tòa án và 4 thẩm phán khác; Bộ phận Xét
xử (Trial Division) sẽ gồm không quá 6 thẩm phán và
Bộ phận Tiền xét xử (Pre-Trial Division) sẽ gồm
không quá 6 thẩm phán. Nhiệm vụ cụ thể của các
thẩm phán trong từng Bộ phận nói trên sẽ căn cứ vào
tính chất của từng loại Bộ phận, tiêu chuẩn và kinh
nghiệm của các thẩm phán. Do đó, thành phần của
mỗi Bộ phận sẽ bao gồm một tỷ lệ thích hợp các nhà
chuyên môn trong lĩnh vực luật hình sự và tố tụng
hình sự quốc tế. Đặc biệt, các Bộ phận xét xử và Tiền
xét xử sẽ bao gồm chủ yếu các thẩm phán có kinh
nghiệm trong lĩnh vực xét xử tội phạm hình sự.
Các Ủy ban (Chambers) chính là những bộ phận hành
chính (Administrative sub-units) của các Bộ phận.
Theo Điều 39 (2), (c) thì trong mỗi Bộ phận có thể sẽ
có nhiều hơn một Ủy ban tùy thuộc vào nhu cầu việc
thực hiện có hiệu quả khối lượng công việc của Bộ
phận. Ủy ban Phúc thẩm (Appeals Chamber) sẽ bao
gồm tất cả các thẩm phán của Bộ phận Phúc thẩm.
Các chức năng của Ủy ban xét xử (Trial Chamber) sẽ
do 3 thẩm phán của Bộ phận xét xử thực hiện, các
chức năng của Ủy ban tiền xét xử (Pre-Trial
Chamber) sẽ do 3 thẩm phán của Bộ phận tiền xét xử
hoặc một thẩm phán của Bộ phận tiến hành.
Chức năng và thẩm quyền của các Ủy ban được quy
định một cách cụ thể trong nhiều điều khoản tương
ứng chủ yếu tại phần II, III, V và VIII của Quy
chế12.
- Văn phòng Công tố viên (The Office of the
Prosecutor)
Văn phòng công tố viên là một cơ quan độc lập của
Tòa chịu trách nhiệm tiếp nhận các đệ trình từ phía
các quốc gia thành viên cũng như những đệ trình của
Hội đồng Bảo an và những thông tin khác nhằm
chứng minh về các tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử
của Tòa đồng thời tiến hành xem xét và thực hiện các
hoạt động điều tra và truy tố các tội phạm đó trước
Tòa. Công tố viên (Prosecutor) là người đứng đầu
Văn phòng Công tố viên, có toàn quyền quyết định
các vấn đề về quản lý và hành chính của văn phòng,
như nhân viên, phương tiện bảo đảm hoạt động và
những vấn đề khác (Điều 42 (1), (2)).
- Ban Thư ký Tòa án (The Registry)
Ban Thư ký của Tòa án sẽ chịu trách nhiệm về những
vấn đề không thuộc chức năng tư pháp liên quan đến
việc quản lý hành chính và phục vụ của Tòa. Đứng
đầu là Thư ký Tòa (Registrar) là viên chức hành
chính của Tòa hoạt động dưới quyền của Chủ tịch
Tòa án. Thư ký Tòa sẽ có nhiệm kỳ 5 năm, có quyền
bầu lại và phục vụ toàn thời gian (full-time basis).
Thư ký Tòa sẽ được các thẩm phán bầu ra bằng bỏ
phiếu kín có lưu ý đến sự giới thiệu của Hội đồng
toàn thể các quốc gia thành viên (The Assembly of
States Parties)13. Trong trường hợp cần thiết và theo
sự giới thiệu của Thư ký, các thẩm phán có thể sẽ bầu
ra Phó thư ký theo cách thức tương tự. Các Phó Thư
ký sẽ có nhiệm kỳ 5 năm hoặc ngắn hơn theo sự
quyết định của đa số tuyệt đối các thẩm phán.
b. Những tiêu chuẩn, sự đề cử và bầu chọn của các
thẩm phán:
Tòa sẽ bao gồm 18 thẩm phán. Tuy nhiên Chủ tịch
Tòa án có thể sẽ đề xuất một số lượng nhiều hơn 18
thẩm phán nhằm đáp ứng các yêu cầu công việc của
Tòa. Chủ tịch Tòa án sẽ phải giải trình lý do để đề
xuất số lượng đó tại một kỳ họp của Hội đồng toàn
thể các quốc gia thành viên và sẽ được chấp thuận
với tỷ lệ 2/3 số thành viên. Ngược lại, Chủ tịch Tòa
án sau đó cũng có thể đề xuất một số lượng các thẩm
phán ít hơn căn cứ vào số lượng công việc thực tế của
Tòa. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp, số thẩm phán
sẽ không thể ít hơn 18. Đây là một thủ tục đơn giản
và tương đối mềm dẻo cho phép điều chỉnh quy mô
của Tòa căn cứ vào công việc thực tế của Tòa mà
không cần thiết phải sửa đổi Quy chế.
- Tiêu chuẩn:
Theo Điều 36 (3), (b) thì những thẩm phán được chọn
từ những người có phẩm chất đạo đức tốt, không
thiên vị, liêm chính và có đáp ứng đầy đủ những tiêu
chuẩn để được bầu vào những chức vụ tư pháp cao
nhất ở nước họ. Thêm vào đó, các thẩm phán được đề
cử phải có đầy đủ năng lực trong lĩnh vực luật hình
sự và tố tụng hình sự cũng như có kinh nghiệm tham
gia trong các vụ án hình sự như thẩm phán, công tố
viên hoặc luật sư hoặc có năng lực trong những lĩnh
vực liên quan của luật quốc tế như nhân quyền, luật
quốc tế về nhân đạo và có kinh nghiệm sâu rộng
trong chuyên môn pháp lý có liên quan đến chức
năng và hoạt động của Tòa. Ngoài ra, họ còn phải có
kiến thức sâu rộng và thông thạo ít nhất là một ngôn
ngữ làm việc của Tòa.
Các thẩm phán sẽ không thể tham gia vào bất kỳ vụ
việc nào mà có những cơ sở xác đáng để nghi ngờ về
sự vô tư của họ. Các thẩm phán cũng có thể bị từ chối
tư cách tham gia vào một vụ việc nếu trước đó họ đã
đảm nhận một vị trí bất kỳ trong vụ án liên quan đến
người đang bị điều tra hoặc cáo buộc trước Tòa hoặc
trong một vụ án hình sự có liên quan đến người bị
cáo buộc hoặc điều tra nói trên tại Tòa án quốc gia.
Trong trường hợp này, yêu cầu xem xét tư cách của
thẩm phán sẽ do Công tố viên hoặc bất kỳ người đang
bị cáo buộc hoặc điều tra nào đưa ra và sẽ được quyết
định bởi một đa số tuyệt đối các thẩm phán (Điều
41).
- Sự đề cử và bầu chọn thẩm phán của Tòa
Theo Điều 36 (4) thì các ứng viên sẽ do các quốc gia
thành viên đề cử và họ phải là công dân của những
nước đó. Một quốc gia có thể chọn lựa theo thủ tục
đề cử ứng viên vào các chức vụ tư pháp cao nhất ở
nước mình hoặc có thể quyết định thủ tục đề cử các
ứng viên cho Tòa án Công lý quốc tế nhưng không
thể có hai thẩm phán đồng thời là công dân của cùng
một nước.
Khi bầu chọn các thẩm phán, các quốc gia thành viên
sẽ phải lưu ý tới sự đại diện của các hệ thống pháp
luật chính trên thế giới; sự đại diện cho các khu vực
địa lý và sự cân bằng giữa tỷ lệ nam và nữ. Ngoài ra,
các quốc gia thành viên cũng phải lưu ý đến yêu cầu
của các thẩm phán phải chuyên sâu về các lĩnh vực
đặc biệt như bạo lực đối với phụ nữ hoặc trẻ em.
Theo Điều 35, Tất cả các thẩm phán sẽ được bầu là
những thành viên toàn thời gian (Full-time basis) của
Tòa. Nhiệm kỳ của thẩm phán là 9 năm và sẽ không
thể được bầu lại. Các thẩm phán sẽ được bầu bằng bỏ
phiếu kín tại hội nghị bầu các thẩm phán của Hội
đồng toàn thể các quốc gia thành viên, những thẩm
phán trúng cử là những người có số phiếu cao nhất và
được 2/3 số quốc gia thành viên có mặt bỏ phiếu.
Trong lần bầu cử đầu tiên, 1/3 số thẩm phán sẽ bầu
bằng cách rút thăm cho một nhiệm kỳ 3 năm, những
người này có thể được bầu lại với nhiệm kỳ toàn thời
gian; 1/3 số thẩm phán sẽ được bầu bằng rút thăm với
nhiệm kỳ 6 năm và số còn lại sẽ được bầu với nhiệm
kỳ 9 năm. Đối với những thẩm phán được giao nhiệm
vụ tại các Tòa xét xử và Tòa phúc thẩm, trong trường
hợp nhiệm kỳ của họ đã hết, họ vẫn sẽ tiếp tục theo
đuổi vụ án mà họ đã đảm nhận trước khi nhiệm kỳ
của họ chấm dứt.l
1 History of the idea of an International Criminal
Court -
2 Tòa án quân sự Nuremberg (The Nuremberg
Military International Tribunal) được Liên Hợp quốc
thành lập để xét xử những tội phạm chiến tranh Đức
Quốc xã vào năm 1945
3 Tòa án quân sự Tokyo (the Tokyo Military
International Tribunal) được Liên Hợp quốc thành
lập để xét xử những tội phạm chiến tranh Nhật Bản
vào năm 1945
4 Questions and Answers on the International
Criminal Court –
5 Nguyên bản tiếng Anh: The Statute of the
International Criminal Court. Theo phân loại về tên
gọi trong Luật Điều ước quốc tế thì “Statute” sẽ được
gọi là “Quy chế”, dùng để chỉ một điều ước quốc tế
quy định việc thành lập một tổ chức quốc tế nào đó,
quy định chức năng, thẩm quyền, cơ cấu tổ chức và
hoạt động của tổ chức quốc tế đó, ví dụ như Quy chế
của Tòa án Công lý quốc tế (Statute of the
International Court of Justice).
6 10 quốc gia gửi thư phê chuẩn đến Ban Thư ký của
LHQ vào ngày 11/4/2002 là Bosnia – Herzegovina,
Bungari, Campuchia, CHDC Công gô, Ailen,
Jordani, Mông cổ, Nigiê, Rumania và Slovakia.
7 Điều 126 quy định “Quy chế sẽ có hiệu lực vào
ngày đầu tiên của tháng tiếp theo sau 60 ngày kể từ
khi Ban Thư ký của LHQ nhận được thư phê chuẩn,
phê duyệt, chấp thuận hoặc gia nhập thứ 60” – Quy
chế Rome 1998 về thành lập Tòa án hình sự quốc tế –
Nguyên bản tiếng Anh.
8 Quy chế Rome 1998 về thành lập Tòa án Hình sự
quốc tế (nguyên bản tiếng Anh) –
9 Tòa án hình sự về Nam Tư cũ – ICTY
(International Tribunal for the prosecution of persons
responsible for serious violations of international
humanitarian law committed in the territory of the
Former Yugoslavia) được thành lập bởi Hội đồng
Bảo an LHQ theo Nghị quyết số 827 ngày 25 tháng 5
năm 1993, là một tòa án ad hoc với mục đích xét xử
cá nhân chịu trách nhiệm về những vi phạm nghiêm
trọng luật nhân đạo quốc tế trên lãnh thổ của Nam Tư
cũ.
10 Tòa án hình sự về Rwanda – ICTR (International
Criminal Tribunal for the prosecution of persons
responsible for Genocide in the territory of Rwanda
and other such violations committed in the territory
of neighboring states) tương tự như ICTY được thành
lập theo Nghị quyết số 995 của Hội đồng Bảo an
LHQ nhằm xét xử những cá nhân đã thực hiện các
cuộc thảm sát lớn , phạm các tội ác diệt chủng và tội
ác chống lại loài người ở Rwanda, tháng 11 năm
1994.
11 Xem Điều 92 Hiến chương LHQ và Điều 1 Quy
chế Tòa án quốc tế
12 Xem Quy chế Rome 1998 về thành lập Tòa án
Hình sự quốc tế (nguyên bản tiếng Anh) –
13 Theo Điều 112 (1) thì Hội đồng toàn thể các quốc
gia thành viên được thành lập bao gồm đại diện của
tất cả các quốc gia là thành viên của Quy chế.