Tải bản đầy đủ (.doc) (153 trang)

LUẬN văn tư tưởng hồ chí minh về dân vận và sự vận dụng vào công tác vận động nông dân ở tỉnh quảng bình trong những năm đầu thế kỷ XXI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (432.52 KB, 153 trang )

1

LUẬN VĂN-Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và sự vận dụng
vào công tác vận động nông dân ở tỉnh Quảng Bình trong
những năm đầu thế kỷ XXI

Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện
và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, trong
đó có tư tưởng về dân vận - một bộ phận hết sức quan trọng trong
toàn bộ di sản vô giá mà Người để lại cho Đảng và nhân dân các
dân tộc ở nước ta.
Có thể nói, tư tưởng dân vận của Hồ Chí Minh khơng những
chứa đựng tinh thần trọng dân, thương dân, hết lòng chăm lo lợi ích
của nhân dân, nhận rõ sức mạnh của nhân dân, mà còn chỉ ra nội
dung và phương thức vận động, tập hợp nhân dân.
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta ln ln xác
định rõ vai trị, vị trí quan trọng của công tác dân vận đối với sự
nghiệp cách mạng. Bước vào thế kỷ XXI, đất nước đứng trước
nhiều thời cơ và thách thức lớn; trong đó thách thức nổi bật là âm
mưu của các thế lực thù địch hịng chia rẽ, phá hoại khối đại đồn
kết tồn dân tộc Việt Nam. Do đó, cơng tác dân vận lúc này cần phải
được đẩy mạnh và tăng cường hơn nữa với những nội dung phù hợp


2

với tình hình mới của đất nước và thế giới nhằm phát huy cao độ
sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi mục tiêu của sự
nghiệp đổi mới đất nước.


Trong 20 năm đổi mới vừa qua (1986-2006), công tác dân
vận do Đảng tổ chức, lãnh đạo đã tạo ra động lực lớn cho các phong
trào thi đua u nước, góp phần khơng nhỏ làm chuyển biến tình
hình kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, chống lại có hiệu
quả âm mưu "diễn biến hồ bình" của các thế lực thù địch, tạo thế
và lực cho đất nước; đồng thời góp phần mở rộng quyền dân chủ,
cải thiện đời sống nhân dân, củng cố niềm tin của nhân dân đối với
Đảng và Nhà nước.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công tác dân vận vẫn
còn một số yếu kém cần được khắc phục. Việc triển khai thực hiện
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước còn thiếu
đồng bộ, nhiều nơi còn làm hình thức, chiếu lệ. Đáng tiếc các cấp
uỷ đảng, cấp chính quyền, cán bộ, đảng viên ở một số nơi vẫn chưa
nhận thức đúng vị trí và tầm quan trọng của cơng tác dân vận, thậm
chí cịn xem nhẹ cơng tác này, khơng coi đó là nhiệm vụ quan trọng
của cả hệ thống chính trị. Tình trạng một số cán bộ, đảng viên quan
liêu, ngại đi cơ sở nắm bắt nguyện vọng của nhân dân, thậm chí lợi
dụng chức quyền, làm trái đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước để tham nhũng, trục lợi, vi phạm quyền dân chủ của nhân dân
cịn khá phổ biến. Tình trạng này là nguyên nhân chính gây ra các


3

vụ khiếu kiện, làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng và
Nhà nước.
Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH)
đất nước, yêu cầu tập hợp, đoàn kết, vận động nhân dân tiếp tục
được đặt ra một cách bức thiết. Do vậy, công tác dân vận đã được đề
cập trong nhiều nghị quyết của Đảng, đặc biệt Hội nghị Ban Chấp

hành Trung ương Đảng lần thứ 7 khố IX, có ba nghị quyết về cơng
tác dân vận nhằm đáp ứng những yêu cầu bức thiết của nhân dân và
huy động tối đa nội lực, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Vì vậy,
nghiên cứu, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác dân vận và
tích cực đưa đường lối, chủ trương của Đảng vào cuộc sống, tạo ra
sự chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa trong cơng tác vận động nhân dân
là một địi hỏi bức thiết hiện nay.
Với những lý do đó, tơi chọn đề tài "Tư tưởng Hồ Chí Minh
về dân vận và sự vận dụng vào công tác vận động nông dân ở
tỉnh Quảng Bình trong những năm đầu thế kỷ XXI" làm đề tài
nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp thạc sĩ chun ngành Hồ Chí
Minh học.
2. Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác dân vận là
một công việc cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Do vậy, việc
nghiên cứu này được nhiều cơ quan, tổ chức và nhiều nhà khoa học
quan tâm thực hiện và đã có nhiều cơng trình nghiên cứu được cơng
bố. Sau đây là một số cơng trình tiêu biểu mà tôi đã tham khảo:


4

- Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận của TS. Đỗ Quang Tuấn,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; Khái niệm, nguồn gốc và quá
trình hình thành tư tưởng của Hồ Chí Minh về dân vận của PGS.TS
Nguyễn Bá Linh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; Phong
cách dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh của TS. Thanh Tuyền, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; Cán bộ dân vận thấm nhuần lời
dạy của Bác Hồ, của TS. Trịnh Xuân Giới, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2005; Tác phẩm dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi

mãi toả sáng, soi đường cho cơng tác dân vận của Đảng trong thời
kỳ mới của TS. Nguyễn Văn Hùng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2005; Tư tưởng dân vận của Hồ Chí Minh với việc xây dựng kỹ
năng, nghiệp vụ công tác dân vận của Lương Ngọc, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2005; Chủ tịch Hồ Chí Minh với cơng tác dân vận
của hệ thống chính trị của Đinh Hồng Vân, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2005; Quyền hạn và lợi ích của dân trong bài báo dân vận
của Chủ tịch Hồ Chí Minh của Nguyễn Thị Cận, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2005; Quan hệ giữa chính quyền nhà nước và nhân dân
trong sự nghiệp cách mạng của PGS.TS Trần Quang Nhiếp, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng
tác vận động nơng dân của Lê Hồng Minh, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2005; GS. Văn Tạo: Học tập tư tưởng dân vận Hồ Chí
Minh, Tạp chí Dân vận, số 5-2000; PGS.TS Nguyễn Tri Thư: Tư
tưởng Hồ Chí Minh về một số vấn đề trong cơng tác vận động quần
chúng, Tạp chí Dân vận, số 1+2, 2000; PGS.TS Hồng Chí Bảo: Hồ


5

Chí Minh với quan điểm thực tiễn và phương pháp khoa học về dân
vận, Tạp chí Dân vận, số 10-2000; TS. Phạm Văn Khánh: Tư tưởng
Hồ Chí Minh về sức mạnh nhân dân và cơng tác dân vận, Tạp chí
Dân vận, số 10-2003; PGS.PTS Đức Vượng: Đầu xuân suy ngẫm về
dân vận trong sự nghiệp đổi mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Tạp
chí Dân vận, số 1+2, 1999; PGS.TS Bùi Đình Phong: Vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về dân vận vào việc thực hiện đại đoàn kết toàn
dân tộc, Tạp chí Cộng sản, số 9-2003; GS.TS Mạch Quang Thắng:
Dân vận - vấn đề luôn luôn mới (qua nghiên cứu tác phẩm "Dân
vận" của Hồ Chí Minh), Tạp chí Lý luận chính trị, 8-2006.

Ngồi ra, rất nhiều bài viết, luận văn, cuốn sách mà nội dung
đề cập đến công tác dân vận cũng đã được cơng bố, như: Chính
quyền và nhiệm vụ dân vận của Nguyễn Khánh, Tạp chí Cộng sản,
số 1-1995; Lại bàn về dân vận của GS. Đặng Nguyên Anh, Tạp chí
Dân vận, số 1-2003; "Dân vận khéo thì việc gì cũng thành cơng"
của Phạm Thế Duyệt, Tạp chí Dân vận, số 10-2002; Cơng tác dân
vận là một bộ phận quan trọng của công tác cách mạng của Phan
Diễn, Tạp chí Dân vận, số 11-2000; Cơ quan nhà nước làm công tác
dân vận như thế nào của Nguyễn Khánh, Tạp chí Dân vận, số 82000; Dân vận - một nhiệm vụ quan trọng của chính quyền của
Nguyễn Khánh, Tạp chí Cộng sản, số 8-1996; Cơng tác dân vận của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình thực hiện đường lối đổi
mới (1986 - 1996), Luận văn thạc sĩ Lịch sử của Nguyễn Thị Ngọc
Mai, 2002.


6

Nhìn chung các cơng trình nghiên cứu của tập thể và cá nhân
nêu trên đã làm sáng tỏ lý luận và một số nội dung cụ thể của tư
tưởng Hồ Chí Minh về dân vận. Song chưa có cơng trình nào nghiên
cứu một cách hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận. Tuy
nhiên, những cơng trình này là những tài liệu quý báu để tôi tham
khảo, kế thừa nhằm nghiên cứu, trình bày một cách tương đối hệ
thống tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và vận dụng tư tưởng đó
vào việc đánh giá thực trạng cơng tác dân vận trong những năm đầu
thế kỷ XXI của tỉnh Quảng Bình; trên cơ sở đó xác định phương
hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác nơng vận của
tỉnh này trong thời gian tới.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích

Làm rõ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận, trên cơ sở đó
đánh giá thực trạng, nêu ra phương hướng và đề xuất các giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng công tác nơng vận hiện nay ở tỉnh Quảng
Bình.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhằm đạt được mục đích nêu trên, luận văn thực hiện những
nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
- Phân tích cơ sở hình thành và nội dung cơ bản tư tưởng Hồ
Chí Minh về dân vận.


7

- Phân tích thực trạng cơng tác nơng vận trong những năm
đầu thế kỷ XXI của tỉnh Quảng Bình, từ đó rút ra nguyên nhân, bài
học kinh nghiệm của thực trạng trên.
- Trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và đánh giá
thực trạng công tác nông vận, đề xuất phương hướng, giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng công tác nông vận trong những năm đầu
thế kỷ XXI ở tỉnh Quảng Bình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và việc qn
triệt, vận dụng tư tưởng đó trong vận động nơng dân ở tỉnh Quảng
Bình.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ nghiên cứu quá trình hình thành và nội dung cơ
bản tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận; nghiên cứu việc vận dụng tư
tưởng đó trong cơng tác nơng vận những năm đầu thế kỷ XXI ở tỉnh
Quảng Bình.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận của luận văn là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về công tác dân vận.
- Phương pháp luận của luận văn là phương pháp duy vật
biện chứng của triết học Mác - Lênin.


8

- Về phương pháp cụ thể, luận văn sử dụng phương pháp lịch
sử kết hợp với phương pháp lơgíc là chủ yếu, ngồi ra cịn sử dụng
nhiều phương pháp khác như thống kê, so sánh...
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Luận văn nghiên cứu một cách tương đối tồn diện, hệ
thống tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận.
- Trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận, luận
văn làm rõ thực trạng công tác vận động nông dân hiện nay ở tỉnh
Quảng Bình, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm về công tác này.
- Luận văn mạnh dạn nêu ra một số giải pháp cơ bản nhằm
nâng cao chất lượng công tác nông vận trong giai đoạn hiện nay ở
tỉnh Quảng Bình.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ tính cách mạng và khoa học của tư
tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác dân vận. Tính cách mạng và tính
khoa học của tư tưởng này khơng chỉ có ý nghĩa và giá trị to lớn trong
sự nghiệp đấu tranh giành lại và bảo vệ độc lập dân tộc, mà cả trong
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên
cứu, giảng dạy công tác dân vận và làm công tác dân vận, nhất là làm

công tác dân vận đối với nông dân.
8. Kết cấu của luận văn


9

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tham khảo, luận
văn có 2 chương, 6 tiết.


10

Chương 1
tư tưởng hồ chí minh về dân vận
1.1. quan niệm về dân, dân chủ, dân vận của Chủ tịch Hồ
Chí Minh
1.1.1. Quan niệm về dân
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người suốt đời đấu tranh đưa dân tộc
Việt Nam từ dân tộc nô lệ thành dân tộc tự do, đưa người dân Việt
Nam từ thân phận người dân thuộc địa lên địa vị người làm chủ đất
nước; đồng thời Người cũng suốt đời phấn đấu xây dựng một nước
Việt Nam độc lập, thống nhất, dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, văn minh. Khái niệm "dân" trong tư tưởng Hồ Chí Minh là sự
tiếp thu và phát triển những quan điểm tiến bộ về dân trong lịch sử
tư tưởng dân tộc Việt Nam, lịch sử tư tưởng phương Đông, phương
Tây và khái niệm quần chúng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Hồ Chí Minh đã rút ra một hệ thống các quan niệm về dân. Cho
dù xét theo cách tiếp cận nào thì quan niệm của Hồ Chí Minh về
dân Việt Nam có thể khái quát trên các nội dung sau:
Dân là những người chung một nước, chung một cộng đồng,

chung một lãnh thổ thống nhất, là đồng bào, là "con Rồng cháu
Tiên", là "con Hồng cháu Lạc", là anh em ruột thịt, là các tầng lớp,
các đoàn thể, là những người cùng giai cấp, là những người yêu
nước, là lực lượng cách mạng…


11

Hồ Chí Minh mở rộng nội hàm khái niệm “dân” đến tất cả
những ai thừa nhận mình là “Con dân đất Việt”. Người thường nói
đến “Con Rồng cháu Tiên”, “đồng bào”, gốc tích Việt Nam, “Hồng
Bàng là tổ tiên ta”, “người chung một nước”, không phân biệt dân
tộc thiểu số với dân tộc đa số, người có tín ngưỡng với người khơng
có tín ngưỡng, khơng phân biệt “già, trẻ, trai, gái, giàu, nghèo, quý,
tiện”. Dân là toàn bộ đồng bào trong đại gia đình các dân tộc Việt
Nam, kể cả người Việt Nam ở nước ngoài.
Dân là “toàn thể nhân dân Việt Nam, khơng phân biệt nịi giống,
gái trai, giàu, nghèo, giai cấp, tôn giáo” [26, tr.8].
Dân ở đây trừ bọn phản bội, làm tay sai cho đế quốc thực dân đi
ngược lại quyền lợi, nguyện vọng của toàn dân, dân tộc. Nói đến
dân cũng là nói đến tuyệt đại đa số nhân dân là cơng nhân, nơng
dân, trí thức và những người lao động khác. Với quan niệm đó,
Người cho rằng giai cấp tư sản dân tộc - những người có lịng u
nước, cũng là dân; họ cũng có đóng góp nhất định trong sự nghiệp
cách mạng giải phóng dân tộc. Hồ Chí Minh phân tích một cách sâu
sắc và khoa học lực lượng quần chúng ở nước ta và chỉ rõ: “Nhân dân
là: bốn giai cấp công, nông, tiểu tư sản, và tư sản dân tộc. Dưới sự
lãnh đạo của giai cấp công nhân và của Đảng, các giai cấp ấy đồn kết
lại, bầu ra chính phủ của mình” [49, tr.214]. Quan niệm về dân như
vậy đã tạo ra một sự thuyết phục mạnh mẽ để tập hợp các lực lượng

tiến bộ xã hội thành một mặt trận rộng rãi, làm nên thắng lợi của cách
mạng.


12

1.1.2. Quan niệm về dân chủ
Từ quan niệm về dân, Hồ Chí Minh đi đến quan niệm mới về
dân chủ. Bằng những mệnh đề giản dị, hàm súc, ngắn gọn mà đầy
đủ ý nghĩa, Hồ Chí Minh khái quát bằng cách riêng của mình những
giá trị văn hố dân chủ nhân loại từ cổ đại đến hiện đại mà lại rất
Việt Nam - cụ thể và thiết thực nên ai đọc cũng nhận thức được
ngay. Người viết: “Chế độ của ta là chế độ dân chủ. Nhân dân là
chủ” [49, tr.368]; “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân,
vì dân là chủ” [48, tr.515]; “Bây giờ chúng ta là dân chủ. Dân chủ là
thế nào? Là dân làm chủ” [50, tr.375]; “ Nước ta là nước dân chủ,
nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ ” [49, tr.452]; “Chế độ ta là
chế độ dân chủ. Tức là nhân dân làm chủ” [52, tr.251]. “Nhân dân là
người chủ nắm chính quyền, nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt
mình thi hành chính quyền ấy thế là dân chủ” [49, tr.218-219].
Có thể coi quan niệm trên đây là quan niệm chính thức của Hồ
Chí Minh về dân chủ và đó là quan niệm ngắn gọn nhất, phản ánh
đúng thực chất và nội dung quan niệm của Người về dân chủ.
Cũng có thể thấy quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ cịn
thể hiện nội dung căn bản nhất của loài người về khái niệm dân chủ.
Người viết:
Nước ta là nước dân chủ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
Cơng việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.



13

Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.
Chính quyền xã đến Chính phủ trung ương do dân cử
ra.
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân
[47, tr.698].
Như vậy, trong quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ, vấn
đề nhất quán và sáng tỏ nhất là sự khẳng định ngay chế độ dân chủ
của nước ta phải thể hiện “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”, “quyền
hành”, “trách nhiệm, lực lượng” là “của dân”, “đều ở nơi dân”.
Quan niệm đó cũng chỉ ra phương thức tổ chức, vận hành của xã hội
dân chủ là chế độ đại diện, uỷ quyền, trong đó chính quyền và đoàn
thể “do dân cử ra và do dân tổ chức nên”.
Tóm lại, quan niệm dân chủ ở nước ta được Hồ Chí Minh chỉ
ra là: dân là chủ và dân làm chủ; bản chất của vấn đề dân chủ là
quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân, địa vị của dân là cao nhất,
dân là chủ thể của mọi quyền lực. Có thể nói tồn bộ tư tưởng chủ
đạo về dân chủ của Hồ Chí Minh nằm trong chữ "Dân".
1.1.3. Quan niệm về dân vận
Dân vận là một hoạt động vận động, giác ngộ quần chúng
nhân dân làm cho dân hiểu, dân biết, dân bàn, dân kiểm tra, dân
quyết định trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ cách mạng do
Đảng ta lãnh đạo.


14


Hồ Chí Minh thường dùng thuật ngữ “Cơng tác quần chúng” và
“dân vận” để chỉ một lĩnh vực công tác của Đảng. Vấn đề dân vận có
nhiều khái niệm khác nhau và cho đến nay vẫn chưa có khái niệm nào
xúc tích, dễ hiểu, lại độc đáo như khái niệm mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh viết trong bài “Dân vận”.
Người viết:
Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một
người dân khơng để sót một người dân nào, góp thành lực
lượng tồn dân, để thực hành những cơng việc nên làm,
những cơng việc Chính phủ và Đồn thể giao cho.
Dân vận không thể chỉ dùng báo chương, sách vở, mít
tinh, khẩu hiệu, truyền đơn, chỉ thị mà đủ.
Trước nhất là phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi một
người dân hiểu rõ ràng: Việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm
vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được.
Điểm thứ hai là bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân,
hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế
hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động
viên và tổ chức toàn dân ra thi hành.
Trong lúc thi hành phải theo dõi, giúp đỡ, đơn đốc,
khuyến khích dân.
Khi thi hành xong phải cùng với dân kiểm thảo lại công
việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng [47, tr.698699].


15

Như vậy, công tác dân vận theo tư tưởng Hồ Chí Minh là phải
có đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn, kịp thời; phải làm

cho người dân hiểu rõ chủ trương, chính sách và việc thực hiện chủ
trương, chính sách sẽ đưa lại lợi ích cho nhân dân và do nhân dân
thực hiện, không ai làm thay dân được; phải sâu sát nhân dân, sâu
sát cơ sở, bàn bạc với dân, với cơ sở về kế hoạch thực hiện chủ
trương, chính sách cho phù hợp với hồn cảnh của từng địa phương,
từng cơ sở, phù hợp với khả năng của nhân dân và phải hướng dẫn
nhân dân thực hiện chủ trương, chính sách; trong và sau khi thực
hiện cần phải theo dõi, đôn đốc kiểm tra, rút kinh nghiệm để kịp
thời bổ sung, uốn nắn những thiếu sót, lệch lạc, sai lầm trong chủ
trương, chính sách, trong tổ chức thực hiện, đồng thời để khen
thưởng và phê bình.
1.2. Cơ sở và q trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
về dân vận
1.2.1. Cơ sở hình thành
Cơ sở lí luận:
Tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có tư tưởng dân vận, hình
thành và phát triển có nguồn gốc từ nhiều yếu tố, trên cơ sở kế thừa
và phát triển biện chứng chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn
kết của dân tộc, tinh hoa văn hoá nhân loại, đặc biệt là chủ nghĩa
Mác - Lênin.
1.2.1.1. Tư tưởng và văn hoá truyền thơng Việt Nam trong đó
chủ nghĩa u nước giữ vị trí hàng đầu


16

Tư tưởng dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và phát
huy tinh thần “trọng dân”, “yêu dân”, “dựa vào dân” của ông cha ta
trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước.
Bản “Tuyên ngôn Độc lập” của Lý Thường Kiệt có tác dụng

“Dân vận” to lớn trong đấu tranh giữ nước và dựng nước. Bản
Tuyên ngôn đã động viên toàn dân chống quân Tống xâm lược. Từ
phòng tuyến Như Nguyệt đã vọng lên lời thơ “Thần diệu” thơi thúc
lịng người đứng lên giữ nước:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư" [3, tr.65].
Tổng kết các bài học lớn của cuộc kháng chiến chống quân
Nguyên- Mông, Trần Quốc Tuấn nhận thấy rằng nguyên nhân lớn
nhất của chiến thắng là “Vua tơi đồng tâm, anh em hồ thuận, cả
nước góp sức”, và ông căn dặn: "Phải khoan thử sức dân để làm kế
bền gốc sâu rễ, đó là thượng sách giữ nước”. Những lời tâm huyết đó
đã thúc giục lịng người đứng lên giết giặc lập công.
Lê Lợi, Nguyễn Trãi bằng chiến lược đánh vào lịng người đã
động viên tồn qn, toàn dân trên tư tưởng "Việc nhân nghĩa cốt ở
yên dân", "chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân".
Tổng kết chiến thắng quân Minh, Nguyễn Trãi nhấn mạnh
nguyên nhân thắng lợi là gắn bó với nhân dân, và vận động, giáo
dục, phát huy sức mạnh của nhân dân:


17

"Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phất phới
Tướng sĩ một lịng phụ tử, hồ nước sông chén rượu ngọt ngào"
[3, tr.78].
Như vậy, để tập hợp lực lượng, các chính quyền phong kiến đã
biết phát huy tinh thần yêu nước của các tầng lớp nhân dân, đứng
dưới ngọn cờ cứu nước. Trước hoạ ngoại xâm, cứu nước là để cứu

dân. Kẻ ngoại xâm “nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con
đỏ xuống dưới hầm tai vạ” [3, tr.76], nên cứu nước và giành lại nền
độc lập cho đất nước là để cứu dân. Sau khi thắng lợi, các triều đại
phong kiến Việt Nam đều có ý định thực hiện "kế sâu rễ, bền gốc là
khoan thử sức dân".
Đến đầu thế kỷ XX, các nhà yêu nước tiêu biểu như Phan Bội
Châu, Phan Chu Trinh vượt qua hệ tư tưởng phong kiến, tiếp thu
tư tưởng dân chủ tư sản, thực hiện một bước tiến về chất trong
lịch sử tư tưởng dân tộc nói chung và trong vấn đề vận động quần
chúng nói riêng. Tuy nhiên, các nhà yêu nước nổi tiếng này chưa
có phương pháp đánh giá và công tác vận động nhân dân một cách
khoa học, nên phải chịu “trăm thất bại” mà không một thành cơng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa truyền thống “yêu nước, trọng
dân” của ông cha trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, do đó đã đưa
cơng tác dân vận lên thành một khoa học.
1.2.1.2. Chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc lý luận tư tưởng
chủ yếu của sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung,
trong đó có tư tưởng dân vận


18

Hồ Chí Minh là nhà yêu nước Việt Nam đầu tiên đến với chủ
nghĩa Mác - Lênin và cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917.
Người coi chủ nghĩa Mác - Lênin không những là cái “cẩm nang
thần kỳ", mà còn là "kim chỉ nam" và "là mặt trời soi sáng con
đường chúng ta đi tới mục đích cuối cùng", đó là chủ nghĩa xã hội
và chủ nghĩa cộng sản. Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin
là đến với tri thức tiên tiến của thời đại, là tiếp thu sức mạnh và giá
trị tinh thần của nhân loại.

Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ các đảng cộng sản đều phải làm
cơng tác vận động nhân dân. Đó là một cơng tác lâu dài và phải kiên
trì thực hiện.
Giai cấp công nhân phải làm công tác dân vận để giành lấy sự
đồng tình, sự ủng hộ của đa số nhân dân lao động trong cuộc đấu
tranh cách mạng của mình; và phải nhận thức rằng, mỗi thời kỳ cách
mạng khác nhau phải có những hình thức, nội dung công tác dân
vận khác nhau.
Nghiên cứu lịch sử đấu tranh giai cấp ở Pháp năm 1848, C. Mác
và Ph. Ăngghen viết trong lời nói đầu tác phẩm “Đấu tranh giai cấp
ở Pháp từ 1848 đến 1850” rằng:
Đã qua rồi, thời kỳ những cuộc đột kích, thời kỳ những
cuộc cách mạng do những nhóm thiểu số tự giác cầm đầu
những quần chúng không tự giác tiến hành. ở nơi nào mà
vấn đề đặt ra là phải cải tạo hoàn toàn chế dộ xã hội, thì bản
thân quần chúng phải tự mình tham gia vào công cuộc cải


19

tạo ấy, phải tự mình hiểu rõ vì sao phải tiến hành đấu tranh,
vì sao mình phải đổ máu và hy sinh tính mạng [42, tr.775].
Như vậy, theo C.Mác và Ph. Ăngghen, muốn thắng lợi, các
cuộc cách mạng xã hội khơng phải do những cá nhân, những nhóm
người nhỏ bé cầm đầu, những quần chúng không tự giác tiến hành,
mà phải do các chính đảng có lý luận tiên phong của các giai cấp
lãnh đạo; các đảng đó phải biết thuyết phục, giác ngộ và tập hợp
đông đảo quần chúng, huấn luyện quần chúng dám xả thân đấu
tranh.
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ rằng sức mạnh của quần chúng

nhân dân là vô địch; cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Tuy
nhiên, quần chúng nhân dân chỉ có thể phát huy được sức mạnh của
mình khi họ được tổ chức lại:
Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C.Mác và Ph.Ăngghen
viết: “Mục đích trước mắt của những người cộng sản cũng là mục
đích trước mắt của tất cả các đảng vô sản khác: tổ chức những người
vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp
vơ sản giành lấy chính quyền” [41, tr.615].
Phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin khẳng
định rằng:
1) Không một phong trào cách mạng nào mà lại vững
chắc được nếu khơng có một tổ chức ổn định và duy trì
được tính liên tục gồm những người lãnh đạo; 2) Càng có
đơng đảo quần chúng được thu hút tự phát vào cuộc đấu


20

tranh, tạo thành cơ sở cho phong trào và tham gia phong
trào, thì càng cấp thiết phải có một tổ chức như thế và tổ
chức ấy lại càng phải vững chắc (nếu khơng thì bọn mị dân
sẽ dễ lơi cuốn được những tầng lớp lạc hậu trong quần
chúng); một tổ chức như thế thì chủ yếu phải gồm những
người lấy hoạt động cách mạng làm nghề nghiệp của mình
[35, tr.158-159].
Vì vậy, V.I.Lênin nhấn mạnh "hãy cho chúng tôi một tổ chức
những người cách mạng, và chúng tôi sẽ đảo ngược nước Nga lên!"
[35, tr.162].
Muốn có sức mạnh phải thống nhất ý chí, phải đồn kết, phải có
tổ chức. Vì thế trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C. Mác và

Ph. Ăngghen viết: “Vơ sản tất cả các nước, đồn kết lại!” [41,
tr.646]. Vận dụng tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen vào thời đại
của mình - thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản, Lênin
kêu gọi mở rộng khối đại đồn kết của giai cấp cơng nhân với các
dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.
Về phương hướng công tác dân vận, chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ
rõ cần phải dùng phương pháp nêu gương và giúp đỡ; trong cơng
tác dân vận thì những tấm gương, những mơ hình thực tiễn cụ thể có
tác dụng cổ vũ, động viên, hướng dẫn quần chúng nhân dân rất to
lớn; đối với quần chúng nhân dân không được dùng mệnh lệnh áp
đặt ý chí chủ quan của cá nhân lãnh đạo đối với họ.


21

V. I. Lênin rất coi trọng công tác thuyết phục, giáo dục và nêu
gương đối với quần chúng nhân dân. Người đề ra nhiệm vụ hàng
đầu cho các đảng cộng sản là phải “thuyết phục cho đa số nhân dân
thấy được sự đúng đắn của cương lĩnh và sách lược của mình” [37,
tr.208]. Nhiệm vụ chiến lược quan trọng trong thời kỳ giành được
chính quyền, xây dựng chủ nghĩa xã hội là quản lý, nhưng “Chúng
ta phải suy nghĩ kỹ rằng muốn quản lý được tốt, thì ngồi cái tài biết
thuyết phục, biết chiến thắng trong cuộc nội chiến, còn cần phải biết
tổ chức trong lĩnh vực thực tiễn” [37, tr.210]. Đồng thời, V. I. Lênin
phê phán những đảng viên, cán bộ, những tổ chức đảng không
gương mẫu, không dũng cảm hoặc “rất ít dùng những điển hình,
những tấm gương cụ thể, sinh động, lấy trong mọi lĩnh vực của đời
sống, để giáo dục quần chúng” [38, tr.109]; Người yêu cầu lấy kinh
nghiệm, lấy ví dụ thực tế để chứng minh cho quần chúng thấy rõ sự
cần thiết của công việc đang làm và coi đó là một biện pháp có hiệu

quả.
Để vận động quần chúng, V. I. Lênin khuyến khích mở rộng dân
chủ, cơng khai làm cho mỗi người dân biết công việc của Đảng, của
Nhà nước. Đây là phương pháp vận động quần chúng có tác dụng
nâng cao tính chủ động, tính tích cực sáng tạo, cách mạng của quần
chúng. V. I. Lênin viết: “Một nước mạnh là nhờ ở sự giác ngộ của
quần chúng. Nước mạnh là khi nào quần chúng biết rõ tất cả mọi cái
quần chúng có thể phán đốn được về mọi cái, và đi vào hành động
một cách có ý thức” [36, tr.23].


22

V. I. Lênin rất trân trọng ý kiến của quần chúng; xem tâm tư,
nguyện vọng của quần chúng nhân dân là những nguồn thơng tin
cực kỳ q báu để hình thành chính sách. Vì vậy, Người đề nghị tìm
mọi cách để duy trì, phát triển và mở rộng hội nghị cơng nhân, nơng
dân ngồi Đảng, vì thơng qua những hội nghị như thế, Đảng có thể
“nhận xét tâm trạng của quần chúng, gần gũi họ, giải quyết những
nhu cầu của họ, giao cho những phần tử tốt nhất, trong số họ đảm
nhiệm những chức vụ trong bộ máy nhà nước..” [39, tr.39].
Như vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin là thế giới quan khoa học, là
cơ sở phương pháp luận giúp Hồ Chí Minh tổng kết, tiếp thu có
chọn lọc các học thuyết tư tưởng của nhân loại, đường lối của cách
mạng thế giới. Với ý nghĩa đó, chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở, là
nguồn gốc lý luận chủ yếu nhất để Người nâng cao truyền thống yêu
nước của dân tộc theo phương hướng “Giải phóng dân tộc bằng con
đường cách mạng vơ sản”, hình thành và hồn chỉnh tư tưởng về
con đường cách mạng Việt Nam nói chung, về tư tưởng dân vận nói
riêng để vận động, giáo dục, tổ chức nhân dân hành động dưới ngọn

cờ của đảng nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người.
* Cơ sở thực tiễn:
Điều kiện tự nhiên và hoàn cảnh lịch sử của nước ta đã tạo nên
mối quan hệ đồn kết, gắn bó chặt chẽ với nhau trong chống chọi
với thiên nhiên cũng như trong chống giặc ngoại xâm của cộng
đồng người Việt. Lịch sử đã chứng minh truyền thống đoàn kết, ý


23

chí độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường của dân tộc ta đã được hun đúc
qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Hồ Chí Minh là người
am hiểu sâu sắc lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân
tộc; đã nhận thức được lịch sử Việt Nam thời phong kiến, tuy chỉ là
những việc đấu tranh thay đổi triều đại nhưng đã ghi lại những tấm
gương tâm huyết dựng nước và giữ nước của cha ông ta. Khi đất
nước bị giặc xâm lăng, “Vua tôi đồng lịng, anh em hồ thuận, cả
nước góp sức” và “Khoan thử sức dân để làm kế sâu rễ, bền gốc là
thượng sách giữ nước”. Hội nghị Diên Hồng đời Nhà Trần là một
điển hình của truyền thống đồn kết toàn dân tộc nhằm tập hợp mọi
lực lượng, thu phục tướng sĩ, nhân tài, phát huy sức mạnh của cả
dân tộc để đánh đuổi kẻ thù. Truyền thống này được Hồ Chí Minh
kế thừa và phát huy lên một tầm cao mới, trong thời đại mới.
Năm 1858, thực dân Pháp tấn công bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng),
mở đầu cuộc vũ trang xâm lược và áp bức của chúng đối với dân tộc
ta. Chúng đã thi hành nhiều chính sách nguy hiểm và bằng mọi thủ
đoạn độc ác, đê hèn để bóc lột nhân dân ta, đặc biệt là chính sách
“chia để trị”. Với chính sách đó kẻ thù hịng phân biệt, tách rời giữa
đồng bào miền xuôi với đồng bào miền ngược, giữa đồng bào không

theo đạo với đồng bào theo đạo… Nguy hiểm hơn, chúng đã chia
đất nước ta thành ba miền: Bắc - Trung - Nam; mỗi miền có một chế
độ cai trị khác nhau nhằm tập trung phá hoại khối đại đoàn kết dân
tộc, một truyền thống có từ lâu đời của chúng ta. Thực tế đó đặt ra
cho cách mạng nước ta phải thực hiện chiến lược đoàn kết để tập


24

hợp mọi lực lượng u nước có thể đồn kết được, không phân biệt
đảng phái, giai cấp, giàu nghèo thành một mặt trận thống nhất, tạo
thành sức mạnh của toàn dân tộc. Có vậy, mới giành được thắng lợi,
đưa cách mạng tiến lên.
Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, phong trào yêu
nước Việt Nam đã diễn ra rất mạnh mẽ. Từ phong trào Cần Vương,
Yên Thế cuối thế kỷ XIX, đến các phong trào Đông Du, Duy Tân đầu
thế kỷ XX, các thế hệ người Việt Nam yêu nước nối tiếp nhau đứng
dậy chống ngoại xâm, nhưng đều thất bại. Hồ Chí Minh nhận thấy
được những hạn chế của các nhà yêu nước trong chủ trương tập hợp
lực lượng và trong việc nắm bắt những đòi hỏi khách quan của lịch sử
dân tộc trong giai đoạn này. Đây cũng chính là lý do, là điểm xuất
phát để Hồ Chí Minh quyết tâm ra nước ngồi tìm chân lý cách mạng,
rồi trở về nước cùng với nhân dân cứu nước.
* Thực tiễn thế giới:
Trong hành trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh khảo sát
nhiều nước tư bản chủ nghĩa và nhiều nước thuộc địa, phụ thuộc ở
hầu khắp các châu lục. Cuộc khảo nghiệm đó đã giúp Người nhận ra
một sự thật là: Giới cần lao ở các dân tộc thuộc địa tiềm ẩn một sức
mạnh vĩ đại; song cuộc đấu tranh của họ chưa đi đến thắng lợi, bởi
vì các dân tộc bị áp bức chưa biết tập hợp lại, chưa biết đoàn kết

chặt chẽ với giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở “chính
quốc”, chưa có tổ chức và chưa biết tổ chức. Hồ Chí Minh nghiên
cứu một cách thấu đáo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga


25

năm 1917 và những bài học kinh nghiệm quý báu mà cuộc cách
mạng này đem lại cho phong trào cách mạng thế giới; đặc biệt là bài
học về huy động, tập hợp lực lượng quần chúng công nông đông
đảo để giành chính quyền cách mạng.
Đối với phong trào cách mạng của các nước thuộc địa và phụ
thuộc, Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến phong trào cách mạng ở
Trung Quốc và ấn Độ là hai nước có thể đem lại cho Việt Nam
nhiều bài học rất bổ ích về tập hợp các lực lượng yêu nước, tiến bộ
để tiến hành cách mạng, như kinh nghiệm tập hợp lực lượng của
Tôn Dật Tiên trong Cách mạng Tân Hợi (1911) ở Trung Quốc và
của lãnh tụ đấu tranh đòi độc lập Mahatma Ganđi ở ấn Độ.
1.2.2. Quá trình hình thành phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
về dân vận
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí
Minh đã dành khơng ít tâm sức của mình vào cơng việc to tát, vĩ đại
và hệ trọng bậc nhất là vận động, tổ chức và lãnh đạo quần chúng
làm cách mạng. Lý luận Dân vận của Hồ Chí Minh hồ làm một với
thực hành công tác dân vận, một cuộc thực hành bền bỉ kéo dài
trong suốt cuộc đời của Người. Tư tưởng dân vận của Người được
hình thành, phát triển và hồn thiện gắn liền với q trình hoạt động
cách mạng của Người; gắn liền với quá trình phát triển, thắng lợi
của cách mạng Việt Nam.
1.2.2.1 Thời kỳ thơ ấu đến năm 1920: tham gia hoạt động yêu

nước và hình thành tư tưởng yêu nước, tư tưởng dân vận


×