Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

Tài liệu Luận văn: Đầu tư phát triển ngành công nghiệp điện tử Hà Nội. Thực trạng và giải pháp ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (895.43 KB, 126 trang )


1



Luận văn
Đầu tư phát triển ngành
công nghiệp điện tử Hà Nội.
Thực trạng và giải pháp

2
LỜI NÓI ĐẦU
Ngành CNĐT Việt Nam nói chung và ngành CNĐT Hà Nội nói riêng bắt đầu
được xây dựng từ những năm 1960 nhưng chỉ sau khi thống nhất đất nước, đặc biệt
là từ khi thực hiện đường lối đổi mới kinh tế, ngành CNĐT mới phát triển nhanh
chóng, góp phần không nhỏ vào những thành tựu chung của cả nước. Nhờ áp dụng
những tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ, tranh thủ đầu tư nước ngoài, chỉ trong
một thời gian tương đối ngắn, chúng ta đã sản xuất được nhiều sản phẩm điện tử tin
học- viễn thông phục vụ nhu cầu trong nước và bước đầu đã có xuất khẩu. Hiện nay,
ngành CNĐT Việt Nam được đánh giá là ngành có tiềm năng phát triển trong quá
trình hội nhập quốc tế cùng cả nước.
Thủ đô Hà Nội với vai trò là “ trái tim của cả nước, đầu não chính trị, hành
chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hoá, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch
quốc tế” đã, đang và sẽ phải đi đầu trong sự nghiệp CNH – HĐH nên ngành CNĐT
luôn được đặt trong số những ngành được ưu tiên phát triển. Nghị quyết 15-NQ/TW
của Bộ chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển ngành CNĐT Thủ Đô Hà
Nội trong thời gian 2001- 2010 ghi rõ: “ Tiếp tục phát triển công nghiệp có chọn
lọc, đột phá những ngành hàng, sản phẩm sử dụng công nghệ hiện đại, kỹ thuật
tiên tiến, có hàm lượng chất xám cao…Trước mắt ưu tiên một số sản phẩm chủ lực
thuộc các ngành điện - điện tử – tin học, cơ kim khí, dệt – may, da dày, chế biến
thực phẩm và vật liệu mới”. Đại hội Đảng bộ lần thứ VIII tiếp tục khẳng định: “


Các ngành công ngiệp chủ lực được xác định theo thứ tự: điện - điện tử – thông
tin, cơ kim khí, dệt may da dày, chế biến thực phẩm, nguyên vật liệu”.
Xu thế toàn cầu hoá, tự do hoá thương mại và xu thế chuyển giao công nghệ
nhanh dưới sức ép của tốc độ phát triển khoa học công nghệ hiện nay đã tác động
mạnh đến sự phát triển của thị trường hàng điện tử ở mỗi quốc gia và trên toàn thế
giới. Điều này vừa tạo thuận lợi, vừa gây khó khăn cho sự phát triển của ngành
CNĐT Hà Nội. Một mặt Hà Nội có thể xây dựng chiến lược “đi tắt đón đầu” trong
công nghệ để nhanh chóng xây dựng hàng điện tử vững mạnh, có sức cạnh tranh
trong khu vực và trên thế giới. Nhưng mặt khác, thị trường hàng điện tử Hà Nội còn
non trẻ, các sản phẩm chưa có sức cạnh tranh cao, có nguy cơ bị thao túng bởi thị
trường hàng điện tử nước ngoài.

3
Đánh giá đúng thực trạng của ngành CNĐT Hà Nội để từ đó có những giải pháp
đầu tư phát triển ngành là một vấn đề hết sức cần thiết. Vì vậy nên em chọn đề tài: “
Đầu tư phát triển ngành công nghiệp điện tử Hà Nội. Thực trạng và giải pháp”
làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
Đề tài được kết cấu gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận chung
Chương II: Thực trạng tình hình đầu tư phát triển ngành CNĐT Hà Nội
Chương III: Một số giải pháp đầu tư phát triển ngành CNĐT Hà Nội
Do vấn đề đầu tư phát triển ngành CNĐT Hà Nội là một vấn đề mới và phức
tạp, điều kiện về số liệu chưa được cung cấp một cách đầy đủ. Mặt khác, do trình
độ và thời gian hạn chế nên đối tượng phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ bao gồm:
Đối tượng nghiên cứu: Là ngành CNĐT Hà Nội bao gồm các lĩnh vực sản xuất
thiết bị (điện tử dân dụng, điện tử công nghiệp và chuyên dụng, công nghệ thông tin
và viễn thông), sản xuất vật liệu, linh phụ kiện điện tử, các sản phẩm phần mềm, các
dịch vụ (tin học, điện tử công nghiệp và chuyên dụng, viễn thông).
Phạm vi nghiên cứu của đề tài bao gồm: Các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh
trong lĩnh vực điện tử – tin học – viễn thông thuộc mọi thành phần kinh tế trên địa

bàn Hà Nội (các doanh nghiệp trung ương và địa phương).
Do trình độ còn hạn chế nên bài viết không tránh khỏi những thiếu xót nhất định.
Kính mong được các thầy cô và các bạn góp ý để bài viết được hoàn chỉnh hơn.
Trong quá trình làm đề tài này, em đã được sự chỉ bảo, hướng dẫn tận tình của
các thầy cô trong khoa và các cô chú ở Phòng Công nghiệp – Thương mại – Du lịch
thuộc Sở Kế hoạch & Đầu tư Hà Nội. Em xin đặc biệt gửi lời cảm ơn sâu sắc đến
thầy giáo, Thạc sỹ Từ Quang Phương – Trưởng bộ môn kinh tế đầu tư và cô Vũ
Thanh Hương, Chuyên viên thuộc phòng Công nghiệp – Thương mại – Du lịch đã
trực tiếp hướng dẫn, giúp em hoàn thành chuyên đề này.



4
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
I- CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ
1- Khái niệm đầu tư và đầu tư phát triển
Xuất phát từ phạm vi phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư, chúng ta có
thể có các cách hiểu khác nhau về đầu tư (còn gọi là hoạt động đầu tư).
Đầu tư theo nghĩa rộng là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các
hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương
lai lớn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Nguồn lực đó có thể là
tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ.
Những kết quả đó có thể là sự gia tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn), tài
sản vật chất (Nhà máy, đường xá…) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện để làm việc
với năng suất cao hơn trong nền sản xuất xã hội.
Trong các kết quả đạt được trên đây, những kết quả là tài sản vật chất, tài sản trí
tuệ và nguồn nhân lực tăng thêm có vai trò quan trọng trong mọi lúc, mọi nơi, không
chỉ đối với người bỏ vốn mà còn đối với cả nền kinh tế. Những kết quả này không
chỉ người đầu tư mà cả nền kinh tế đều được thụ hưởng.

Theo nghĩa hẹp thì đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn lực ở
hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn
các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó.
Như vậy, nếu xem xét trong phạm vi một quốc gia thì chỉ có các hoạt động sử
dụng các nguồn lực ở hiện tại để trực tiếp làm tăng các tài sản vật chất, nguồn nhân
lực và tài sản trí tuệ hoặc duy trì hoạt động của các tài sản và nguồn nhân lực sẵn có
thuộc phạm trù đầu tư phát triển.
Từ đây, ta có định nghĩa về đầu tư phát triển như sau:
Đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực
vật chất, lao động và trí tuệ để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và cấu trúc hạ tầng,
mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng và đào tạo
nguồn nhân lực, thực hiện chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của
các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực
mới cho nền kinh tế xã hội, tạo việc làm và nâng cao đời sống của mọi thành
viên trong xã hội.

5
2- Đặc điểm của hoạt động đầu tư phát triển
Hoạt động đầu tư phát triển có các đặc điểm khác biệt với các loại hình đầu tư
khác là
Thứ nhất: Hoạt động đầu tư phát triển đòi hỏi một số vốn lớn và nằm khê
động trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Tiền, vật tư, lao động cần huy động cho
một công cuộc đầu tư là rất lớn và phải sau một thời gian khá dài thực hiện đầu tư
chúng mới phát huy tác dụng.
Thứ hai: Thời gian để tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi các thành
quả của nó phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều năm tháng với nhiều biến động
xảy ra.
Thứ ba: Thời gian cần hoạt động để có thể thu hồi đủ vốn đã bỏ ra đối với các
cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất kinh doanh thường đòi hỏi nhiều năm tháng
và do đó không tránh khỏi sự tác động hai mặt tích cực và tiêu cực của các yếu tố

không ổn định về tự nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế.
Thứ tư: Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển có giá trị sử dụng lâu
dài, nhiều năm tháng, có khi hàng ngàn năm và thậm chí tồn tại vĩnh viễn như các
công trình kiến trúc nổi tiếng thế giới như kim tự tháp Ai Cập, Vạn Lý Trường
Thành ở Trung Quốc, Ăngco Vat ở Campuchia… Điều này nói lên giá trị to lớn của
các thành quả đầu tư phát triển
Thứ năm: Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển là các công trình xây
dựng sẽ hoạt động ngay tại nơi nó được tạo dựng nên. Do đó các điều kiện về địa
hình, thời tiết tại đó có ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện đầu tư cũng như tác
dụng sau này của các kết quả đầu tư. Thí dụ: Quy mô đầu tư để xây dựng nhà máy
sàng tuyển than ở khu vực có mỏ than tuỳ thuộc rất nhiều vào trữ lượng than của
mỏ. Nếu trữ lượng than của mỏ ít thì quy mô nhà máy sàng tuyển than cũng không
nên lớn để đảm bảo cho nhà máy hàng năm hoạt động hết công suất với số năm tồn
tại của nhà máy theo dự kiến trong dự án. Đối với nhà máy thuỷ điện, công suất phát
điện tuỳ thuộc nhiều vào nguồn nước nơi xây dựng công trình. Sự cung cấp điện đều
đặn, thường xuyên phụ thuộc nhiều vào tính ổn định của nguồn nước. Không thể di
chuyển nhà máy thuỷ điện như di chuyển những máy tháo rời do các nhà máy sản
xuất ra từ địa điểm này đến địa điểm khác. Việc xây dựng các nhà máy ở nơi địa
chất không ổn định sẽ không đảm bảo an toàn cho quá trình hoạt động sau này, thậm
chí cả trong quá trình xây dựng công trình.

6
Thứ sáu: Mọi thành quả và hậu quả của quá trình thực hiện đầu tư chịu ảnh
hưởng nhiều của các yếu tố không ổn định theo thời gian và điều kiện địa lý của
không gian.
Do đó, để đảm bảo cho mọi công cuộc đầu tư đem lại hiệu quả kinh tế- xã hội
cao đòi hỏi phải làm tốt công tác chuẩn bị.
II- ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP ĐIỆN TỬ
1.Khái quát về ngành CNĐT
1.1– Khái niệm công nghiệp điện tử

Điện tử – viễn thông – công nghệ thông tin là 3 lĩnh vực công nghiệp riêng biệt
nhưng lại có mối quan hệ hết sức chặt chẽ với nhau và thường được nghiên cứu,
đánh giá dưới góc độ như một ngành công nghiệp chung – công nghiệp điện tử.
Như vậy, công nghiệp điện tử được xác định là ngành công nghiệp sản xuất thiết
bị (điện dân dụng, điện tử công nghiệp và chuyên dụng, công nghệ thông tin, viễn
thông); sản xuất vật liệu, linh phụ kiện điện tử, các sản phẩm phần mềm; các dịch vụ
(tin học, điện tử công nghiệp và chuyên dụng, viễn thông).
1.2- Đặc điểm của ngành CNĐT
- Đặc điểm về công nghệ: CNĐT là ngành có công nghệ phát triển với tốc độ
rất nhanh. Công nghệ điện tử là động lực thúc đẩy và phát huy tác dụng của nhiều
công nghệ khác, kéo theo những biến đổi mang tính dây chuyền, vì vậy được coi là
công nghệ cơ sở của xã hội hiện đại. Không có công nghệ điện tử sẽ không có công
nghiệp hoá ở trình độ hiện nay. CNĐT luôn gắn liền với cách mạng khoa học công
nghệ, đặc biệt là công nghệ cao. Ngành công nghiệp này cần lượng vốn rất lớn để
đầu tư cho các lĩnh vực sản xuất, thiết kế sản phẩm, nghiên cứu – triển khai và đổi
mới công nghệ nên hầu hết các sản phẩm điện tử nổi tiếng trên thế giới đều thuộc về
các công ty, tập đoàn sản xuất mạnh về công nghệ (Sony, LG, Fujitsu, Toshiba,
Masushita…).
- Đặc điểm về sản phẩm: Sản phẩm của ngành CNĐT có hàm lượng chất xám
cao, cơ cấu sản phẩm luôn thay đổi, giá trị phần mềm và dịch vụ chiếm tỷ trọng cao.
Chu kỳ sống của sản phẩm CNĐT ngày càng rút ngắn do tốc độ phát triển của công
nghệ.

7
- Đặc điểm về thị trường: Các tập đoàn, các hãng điện tử lớn luôn cạnh tranh
gay gắt trong việc chiếm lĩnh thị trường, đồng thời lại phải liên kết, hợp tác với nhau
để lập nên mạng lưới sản xuất, kinh doanh trên phạm vi thế giới.
1.3 – Phân loại sản phẩm công nghiệp điện tử
Các sản phẩm CNĐT được phân loại theo nhiều cách khác nhau, thông
thường chúng được phân thành:

- Thiết bị điện tử dân dụng: Là các thiết bị điện tử được sử dụng trong đời sống
sinh hoạt gia đình như: radio, máy thu hình, radio cassette, đầu video, đầu CD,
VCD, DVD…
- Thiết bị điện tử công nghiệp và chuyên dụng: Là các thiết bị điện tử dùng cho
các ngành công nghiệp, giao thông – vận tải, y tế, hải quan, văn hoá, giáo dục, an
ninh quốc phòng, nghiên cứu khoa học…
- Thiết bị công nghệ thông tin (CNTT): Bao gồm các loại máy tính, thiết bị
mạng, thiết bị ngoại vi…
- Thiết bị viễn thông: Là tất cả các thiết bị điện tử dùng để phục vụ liên lạc, trao
đổi, truyền tin…
- Phần mềm: Bao gồm tất cả các loại phần mềm hệ thống, phần mềm nhúng,
phần mềm ứng dụng…sử dụng trong các loại máy tính, máy móc chuyên dụng, thiết
bị viễn thông, thiết bị điện tử dân dụng…
- Thiết bị công nghệ CNĐT thuộc công nghiệp chế tạo máy công cụ cho CNĐT
Ngoài ra, theo giác độ của các nhà sản xuất còn có thể phân loại như sau:
- Vật liệu điện tử: Gồm vật liệu bán dẫn, vật liệu quang tử, vật liệu gốm, vật liệu
kim loại hay hợp kim, vật liệu polyme, vật liệu hữu cơ
- Linh kiện và cấu kiện điện tử: Gồm linh kiện thụ động, linh kiện tích cực, các
loại mạch tích hợp (IC), linh phụ kiện có liên quan nhiều đến cơ khí, nhựa và các
ngành công nghiệp khác, đèn hình, các bộ hiển thị, các bảng mạch điện tử…
- Các thiết bị phần cứng điện tử, tin học viễn thông.
- Các phần mềm bao gồm phần mềm nhúng, phần mềm hỗ trợ thiết kế, phần
mềm hỗ trợ quản lý, các phần mềm tiện ích, các phần mềm giải trí, phần mềm hỗ trợ
giáo dục, đào tạo, y tế…

8
2. Đặc thù của hoạt động đầu tư phát triển ngành CNĐT
Từ đặc điểm ngành CNĐT đã nêu ở trên, chúng ta có đặc thù của hoạt động đầu
tư phát triển ngành CNĐT như sau:
Thứ nhất: Vốn đầu tư cho phát triển ngành CNĐT thường rất lớn, tỷ lệ lãi cao,

thời gian thu hồi vốn nhanh và không bị hạn chế phát triển như một số ngành khác.
Do vậy, đầu tư phát triển ngành CNĐT là hoạt động đầu tư trọng điểm của hầu hết
các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước phát triển.
Thứ hai: Tốc độ các hoạt động đầu tư trong ngành CNĐT thường thường diễn
ra rất nhanh chóng. Điều này là do cơ cấu sản phẩm CNĐT luôn thay đổi và chu kỳ
sống của các sản phẩm CNĐT ngày càng rút ngắn.
Thứ ba: Trong cơ cấu vốn đầu tư cho phát triển ngành CNĐT thì vốn đầu tư cho
thiết bị công nghệ thường chiếm một tỷ lệ rất lớn, khoảng từ 50-60% tổng vốn đầu
tư dành cho phát triển ngành.
Thứ tư: Song song với việc đầu tư phát triển sản xuất sản phẩm CNĐT, phải
tiến hành đầu tư phát triển các ngành sản xuất phụ trợ như sản xuất nhựa, xốp…
Thứ năm: Vốn đầu tư dành cho hoạt động thu hút, đào tạo và nâng cao trình độ,
tay nghề cho người lao động, cho thiết kế sản phẩm, nghiên cứu triển khai… thường
chiếm một phần đáng kể trong vốn đầu tư phát triển ngành.
3.Sự cần thiết phải đầu tư phát triển ngành CNĐT
CNĐT là ngành công nghiệp mũi nhọn trong nền kinh tế quốc dân của nhiều
nước trên thế giới. CNĐT đặc biệt là CNTT đang thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển
của nhiều ngành kinh tế khác, trở thành cơ sở nền tảng trong các lĩnh vực kinh tế –
an ninh – quốc phòng của mọi quốc gia.
CNĐT được coi là một trong những ngành công nghiệp có tính cạnh tranh cao
và góp phần rất lớn vào sự tăng trưởng kinh tế. Nó ảnh hưởng sâu rộng đến nền kinh
tế toàn cầu, tác động mạnh đến nhiều lĩnh vực như sản xuất chế tạo, tài chính ngân
hàng, thương mại, dịch vụ, y tế, giáo dục, vận tải, môi trường…Có thể coi CNĐT và
CNTT là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai và mang tính toàn cầu hoá. Do
vậy, hầu hết các nước công nghiệp phát triển và phần lớn những nước đang phát
triển đều có những chính sách quốc gia nhằm phát triển CNĐT; trong đó phải kể
đến các nước đi đầu như Mỹ, EU, Nhật Bản và những nước áp dụng thành công như
NiCs, ASEAN, Trung Quốc, Ấn Độ…

9

Ngành CNĐT đóng vai trò quan trọng vào tăng trưởng kinh tế; tiếp thu nhanh
những tiến bộ trong khoa học – công nghệ – kỹ thuật; hiệu quả mang lại cao, giá trị
gia tăng lớn và không bị hạn chế phát triển như một số ngành khác. Sự phát triển
của CNĐT thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, kéo theo sự phát triển của các ngành
công nghiệp và dịch vụ khác, tạo cơ sở thu hút lao động, giải quyết việc làm. Theo
đánh giá chung về 20 nhóm ngành công nghiệp trên thế giới thì CNĐT đứng đầu về
thu hút lao động, đứng thứ hai về doanh thu trên vốn (sau ngành luyện kim), đứng
thứ ba về doanh thu tuyệt đối (sau ngành lọc dầu và ô tô). Ngoài ra, CNĐT cũng
chính là ngành tạo cơ sở cho việc hình thành và phát triển kinh tế tri thức, đồng thời
là một ngành sản xuất chủ lực trong nền kinh tế tri thức.
Sự phát triển của ngành CNĐT ở các nước còn góp phần quan trọng trong GDP
và tổng sản lượng của ngành chế tạo. Điều này thể hiện qua bảng sau:
Bảng 1: Tỷ lệ sản phẩm điện tử trong tổng sản lượng ngành chế tạo
và GDP của một số nước (%)

Nước Trong tổng sản lượng ngành chế tạo Trong GDP
1975 1990 2001 1975 1990 2002
Nhật Bản 9,3 17,5 22,0 2,3 6,2 7,0
Hàn Quốc 9,7 12,0 25,0 2,1 3,0 7,0
Đài Loan 11,6 14,6 20,0 2,1 6,2 7,0
Đức 11,0 13,7 15,0 3,7 4,5 5,0
Mỹ 8,1 11,1 15,0 1,8 2,5 3,3
Anh 8,3 9,9 12,0 2,2 2,2 2,9
Pháp 8,0 7,6 11,0 2,1 2,0 2,8
Italia 8,9 9,7 11,0 2,5 2,6 2,9
Nguồn : The World Bank, 2002

So sánh năm 2002 với năm 1975, tỷ lệ sản phẩm điện tử trong công nghiệp chế
tạo ở Mỹ tăng từ 8,1% lên 15%, Nhật Bản từ 9,3% lên 22%, Hàn Quốc từ 9,7 lên
25%, Đài Loan từ 11% lên 20%. Ngày nay, Mỹ đang dẫn đầu thế giới trong việc sử

dụng máy tính các nhân với tỷ lệ 37,6% dân số, trong khi Nhật Bản là 7,26% và
Đức là 5,26%. Điều đó cho thấy các nước đều nhận thức CNĐT là một ngành công
nghiệp chiến lược trong sự nghiệp phát triển kinh tế của mình.
Riêng đối với các nước đang phát triển, sự phát triển của ngành CNĐT có một
vai trò rất quan trọng bởi vì:

10
- Góp phần thúc đẩy sự tham gia của các nước này vào quá trình toàn cầu hoá
sản xuất và thương mại. Nó góp phần làm tăng dung lượng thông tin trong các hoạt
động kinh tế, linh hoạt hoá các giao dịch kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài, nâng
cao hiệu quả trong quản lý sản xuất, kinh doanh, tạo nên sự chuyên môn hoá và mở
rộng quy mô kinh tế;
- Làm tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế thông qua việc chuyển đổi các
ngành công nghiệp sản xuất hàng hoá thông thường sang sản xuất các sản phẩm
công nghiệp có hàm lượng chất xám cao.
- Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, giảm những tác động xấu đến môi
trường trong quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá.
4– Nội dung đầu tư phát triển ngành CNĐT
4.1 - Đầu tư vào máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ, cơ sở hạ tầng
Đầu tư vào tài sản cố định đóng vai trò quan trọng nhất trong hoạt động của các
ngành công nghiệp nói chung và ngành công nghiệp điện tử nói riêng bởi hai lý do
sau:
Thứ nhất, chi phí cho các hạng mục chiếm tỷ lệ cao trong tổng số vốn đầu tư.
Thứ hai, nó là bộ phận cơ bản tạo ra sản phẩm – hoạt động chính của mỗi ngành.
Như vậy, hoạt động đầu tư vào tài sản cố định đóng vai trò cực kỳ quan trọng nếu
không nói là quyết định đối với phần lợi nhuận thu được của ngành. Các hãng
thường tăng cường thêm tài sản cố định khi họ thấy trước được những cơ hội có lợi
để mở rộng sản xuất, hoặc vì họ có thể giảm bớt chi phí bằng cách chuyển sang
những phương pháp sản xuất dùng nhiều vốn hơn.
Ta đi xem xét đầu tư vào cơ sở hạ tầng xây dựng. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng

là một trong những hoạt động được thực hiện đầu tiên của mỗi công cuộc đầu tư (trừ
trường hợp đầu tư chiều sâu). Hoạt động đó bao gồm các hạng mục xây dựng nhằm
tạo điều kiện và đảm bảo cho dây chuyền thiết bị sản xuất, công nhân hoạt động
được thuận lợi an toàn.
Để thực hiện tốt các hạng mục này, trước tiên phải tính đến các điều kiện thuận
lợi, khó khăn của vị trí địa lý, địa hình, địa chất…đồng thời phải căn cứ vào yêu cầu
về đặc tính kỹ thuật của máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ sản xuất, cách tổ
chức điều hành, nhu cầu dự trữ, số lượng công nhân…Các hạng mục được chia
thành các nhóm cơ bản sau:

11
- Các phân xưởng sản xuất chính, phụ.
- Hệ thống điện.
- Hệ thống nước
- Hệ thống giao thông, bến đỗ, bốc dỡ hàng
- Hệ thống thắp sáng, điều hoà không khí
- Văn phòng, phòng học, tường rào
- Nhà ăn, khu giải trí, vệ sinh
- Hệ thống sử lý chất thải và bảo vệ môi trường
- Hệ thống thông tin liên lạc
Đối với mỗi hạng mục công trình, phải xem xét, cân nhắc và quyết định : diện
tích xây dựng, đặc điểm kiến trúc (bê tông cốt thép, gạch, khung thép…), kích thước
và chi phí…
Về mặt chi phí: thông thường để tính toán chi phí xây dựng, người ta dựa trên
chi phí một đơn vị xây dựng, từ đó tính cho toàn bộ diện tích của hạng mục.
CFi = Pi * Si
Trong đó: CFi là chi phí xây dựng của hạng mục i
Pi là giá thành một đơn vị diện tích của hạng mục i
Si là diện tích xây dựng của hạng mục i
Khi đó, tổng chi phí toàn bộ hạng mục xây dựng là:

CF =  CFi, i = 1,n
Riêng hệ thống điện nước và các bộ phận khác có tỷ lệ máy móc thiết bị lớn thì
tính theo giá thành của máy móc thiết bị cùng với các chi phí phụ khác.
Cùng với đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, ngành CNĐT còn phải dành một số
lượng vốn cực lớn cho đầu tư vào máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ. Trong
điều kiện ngày nay với sự phát triển chóng mặt của khoa học công nghệ đặc biệt
trong lĩnh vực công nghiệp điện tử thì việc lựa chọn đầu tư vào loại máy móc công
nghệ nào phải được thực hiện dựa trên các nguyên tắc, tiêu chuẩn sau:
- Việc đầu tư đó phải cho phép sản xuất ra các sản phẩm có tính cạnh
tranh cao
- Việc đầu tư phải cho phép khai thác và sử dụng có hiệu quả các lợi thế
so sánh của doanh nghiệp, ngành, của vùng.

12
- Giá cả và trình độ công nghệ phải phù hợp với xu thế phát triển và năng
lực của doanh nghiệp ngành đó.
Máy móc thiết bị được liệt kê và sắp xếp thành các nhóm sau:
- Máy móc thiết bị chính trực tiếp sản xuất
- Thiết bị phụ trợ
- Thiết bị vận chuyển, bốc xếp, băng chuyền
- Máy móc và thiết bị đo lường, kiểm tra chất lượng
- Thiết bị an toàn, bảo hộ lao động
- Các loại xe đưa đón công nhân, xe con, xe tải
Về mặt chi phí, giá của máy móc thiết bị là một phạm trù cụ thể nhưng lại rất
khó xác định bởi có nhiều thành phần, đó là chi phí sản xuất, chi phí mua bằng sáng
chế, bí quyết kỹ thuật, tên hiệu thương mại, chi phí huấn luyện chuyên môn, chi phí
lắp đặt, vận chuyển…Phần khó xác định nhất là chi phí bằng sáng chế, bí quyết kỹ
thuật. Hơn nữa, chẳng có ý nghĩa gì khi mua được máy móc thiết bị giá rẻ nhưng
đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh thì không hiệu quả. Chính vì vậy, khi mua
sắm trang bị máy móc thiết bị đòi hỏi phải có sự am hiểu nhất định về lĩnh vực công

nghệ. Để có thể mua được thiết bị như mong muốn, thông thường các doanh nghiệp
dùng phương thức đấu thầu.
4.2- Đầu tư phát triển nguồn nhân lực
Lực lượng sản xuất là nhân tố quyết định và thể hiện trình độ văn minh của nền
sản xuất xã hội. Mác đã từng nói: “Trình độ sản xuất của một nền kinh tế không
phải ở chỗ xã hội đó sản xuất ra cái gì mà là xã hội đó dùng cái gì để sản xuất”.
Cùng với việc đề cao vai trò của lực lượng sản xuất, Lênin khẳng định: “Lực lượng
sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân và người lao động”.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm cho xã hội, người lao động
không những là một yếu tố của quá trình đó mà còn là yếu tố quan trọng, tác động
có tính chất quyết định vào việc phát huy đồng bộ và có hiệu quả các yếu tố khác.
Nếu chúng ta có nhà xưởng, có nguyên vật liệu, có máy móc thiết bị nhưng thiếu
bàn tay công nghệ người thì chúng ta cũng không thể có sản phẩm cung cấp cho xã
hội. Như vậy, nguồn lực lao động là một tài sản quý giá của mỗi doanh nghiệp, đặc
biệt là đối với các doanh nghiệp điện tử. Do vậy, trong quá trình phát triển, mỗi

13
doanh nghiệp phải phát huy được hiệu quả nguồn nhân lực của mình, đồng thời ngày
càng nâng cao chất lượng cũng như số lượng nguồn nhân lực của mình.
Hoạt động quản lý nhân lực của doanh nghiệp bao gồm các hoạt động tuyển
dụng, đào tạo, sử dụng, đào tạo lại, đào tạo nâng cao…Các hoạt động này có thể
xen kẽ hay tách biệt, có thể trước, có thể sau tuỳ theo đặc điểm và quy mô của
doanh nghiệp.
Thứ nhất, công tác tuyển dụng. Công việc này không đòi hỏi nhiều chi phí (vì
thông thường chi phí này do người tham gia tuyển dụng bỏ ra) nhưng lại đòi hỏi
khâu chuẩn bị hết sức chu đáo, tỉ mỉ bởi mức độ ảnh hưởng của nó đến hoạt động
tương lai của doanh nghiệp; việc chuẩn bị từ thông báo tuyển dụng, ấn định các tiêu
chuẩn tuyển dụng và lựa chọn các phương thức phụ trợ cho việc tuyển dụng (dùng
khoa triết tự, thi trắc nghiệm, thử thách chuyên môn…), lựa chọn ban tham mưu
tuyển dụng…Đối với một số doanh nghiệp có quy mô lớn, họ tuyển dụng các thanh

niên có kết quả tổng quát tốt và cho các thanh niên này làm 2 hay 3 năm ở các bộ
phận khác nhau để giúp họ thành thạo với guồng máy của doanh nghiệp trước khi
chính thức bổ nhiệm vào chuyên ngành chỉ định.
Thứ hai, công tác sử dụng. Đây là hoạt động ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu
quả hoạt động của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp biết sử dụng đúng người, đúng
việc, phát huy hết khả năng của người lao động thì chắn chắn đem lại hiệu quả tốt.
Ngược lại, doanh nghiệp sẽ không phát huy được lợi thế về nguồn nhân lực, thậm
chí lại chịu tác dụng ngược chiều đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Công tác này đòi hỏi ban lãnh đạo phải nắm sâu, sát năng lực các
nhân viên để có thể tạo môi trường thuận lợi cho họ phát huy tốt khả năng của mình
và góp phần vào sự phát triển của doanh nghiệp. Ở đây cách nhìn của ban lãnh đạo
được đánh giá rất cao.
Thứ ba, công tác đào tạo. Đây là một trong những hoạt động quan trọng nhất
của hoạt động đầu tư nguồn nhân lực trong doanh nghiệp. Đào tạo quyết định phẩm
chất chính trị, năng lực quản lý, trình độ tay nghề của người lao động. Đào tạo của
doanh nghiệp có thể chọn cách đào tạo bên ngoài do các tổ chức chuyển về, đào tạo
đảm trách hay tổ chức các khoá đào tạo nội bộ. Về đối tượng đào tạo được chia
thành ba đối tượng:
- Đào tạo lực lượng cán bộ quản lý, cán bộ chuuyên môn

14
- Đào tạo đội ngũ cán bộ ngiên cứu khoa học công nghệ
- Đào tạo nâng cao tay nghề cho đội ngũ công nhân
Có thể nói, lực lượng quản lý trong doanh nghiệp không đông về mặt số lượng
nhưng lại có tính chất quyết định tới sự thành bại của doanh nghiệp. Trước đây, một
quan niệm đã ăn sâu vào trong xã hội đó là cán bộ quản lý là người đi lên từ công
nhân, người lao động. Chỉ những người có tích luỹ kinh nghiệm thì mới quản lý
được. Quản lý khi đó không được coi là một nghề. Đó là quan niệm hết sức lỗi thời,
đặc biệt trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay.
Trong nền kinh tế thị trường, người quản lý trong mỗi doanh nghiệp không chỉ

thực hiện những công việc “thành tên” mà còn phải năng động, sáng tạo trong những
công việc, những tình huống khó khăn, nhạy cảm. Do đó nếu người quản lý không
học tập, không nâng cao nhận thức, trình độ của mình thì khó có thể đứng vững và
đi lên trong nền kinh tế thị trường. Việc đầu tư cho đào tạo cán bộ quản lý thông
qua các chi phí cho việc tham gia hội thảo, tham gia thực tế, đào tạo ngắn hạn, dài
hạn, nghiệp vụ quản lý…Đây là những chi phí không lớn nhưng hết sức quan trọng.
Đào tạo cán bộ nghiên cứu và ứng dụng khoa học: Với việc khoa học phát triển
như vũ bão, các doanh nghiệp cần phải thích nghi với điều kiện mới để có thể cạnh
tranh và vươn lên. Việc đầu tư cho cán bộ nghiên cứu và ứng dụng khoa học là một
trong những nhiệm vụ vô cùng cấp bách đặc biệt là đối với các doanh nghiệp CNĐT
trong điều kiện hiện nay. Họ sẽ là người đem lại tri thức mới và đưa tiến bộ khoa
học kỹ thuật vào hoạt động sản xuất kinh doanh, góp phần cực kỳ quan trọng cho sự
lớn mạnh không ngừng của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nên bỏ ra một phần thích
đáng trong lợi nhuận của mình để đầu tư cho hoạt động này.
Đào tạo tay nghề cho công nhân. Đây là lực lượng chịu ảnh hưởng mạnh của
công tác đào tạo cả về chất lượng lẫn số lượng. Đào tạo công nhân có thể diễn ra ở
trường đào tạo, cũng có thể đào tạo ngay khi lao động sản xuất. Trong giai đoạn có
sự phát triển mạnh mẽ về khoa học công nghệ và sự cạnh tranh gay gắt như hiện nay
đòi hỏi tay nghề của người công nhân phải vững và kịp thời thích ứng được với sự
phát triển của khoa học. Điều đó đòi hỏi quá trình đào tạo lại, đào tạo nâng cao tay
nghề của công nhân là tất yếu khách quan.

15
4.3- Đầu tư cho công tác tiếp thị, xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường
Một doanh nghiệp có mặt hàng tốt nhưng không biết quảng bá mặt hàng của
mình cho mọi người biết thì việc tiêu thụ sẽ gặp nhiều khó khăn, sản xuất không
được mở rộng, doanh nghiệp chỉ dậm chân tại chỗ trong khi các doanh nghiệp khác
nhờ làm tốt công tác tiếp thị, xúc tiến, mở rộng thị trường liên tục phát triển. Điều
đó cho thấy công tác này là cực kỳ quan trọng, mang tính sống còn đối với mỗi
doanh nghiệp, nếu các doanh nghiệp không dành một phần thích đáng cho công tác

này thì sẽ bị đào thải bởi tính cạnh tranh khốc liệt của nền kinh tế thị trường.
Tỷ lệ đầu tư dành cho công tác này ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu
vốn đầu tư của doanh nghiệp. Đầu tư cho công tác này bao gồm đầu tư cho hoạt
động điều tra, nghiên cứu, mở rộng thị trường, đầu tư công tác tiếp thị, quảng cáo…
Đẩy mạnh hoạt động đầu tư cho các hoạt động marketing này chính là nhiệm vụ
hàng đầu của các doanh nghiệp điện tử hiện nay, qua đó giúp sản phẩm điện tử của
ta từng bước có mặt trên thị trường quốc tế, nâng cao kim ngạch xuất khẩu, nâng
cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
4.4- Đầu tư cho thương hiệu, bản quyền, R&D
Ngày nay, các sản phẩm CNĐT có chu kỳ ngày càng ngắn, hàm lượng chất
xám trong mỗi sản phẩm này càng cao nên đầu tư cho công tác nghiên cứu phát triển
có vai trò cực kỳ quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp. Theo các nhà kinh tế thì
trong lĩnh vực công nghiệp điện tử hiện nay, công tác này đã trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp. Do vậy, nếu các doanh nghiệp không dành một tỷ lệ thích đáng cho
công tác này thì sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp đó thật sự khó khăn vì
khi chu kỳ sản phẩm kết thúc mà doanh nghiệp không có sản phẩm mức đưa ra thì
sẽ không những không củng cố uy tín của mình mà còn mất dần khách hàng cũ. Hơn
nữa, nếu hoạt động nghiên cứu triển khai của các doanh nghiệp này không mạnh,
sản phẩm mới tung ra sau đối thủ cạnh tranh, họ có thể bị thua lỗ do không chiếm
lĩnh được thị trường.
Tỷ lệ đầu tư cho hoạt động này trong cơ cấu đầu tư của các doanh nghiệp ngày
càng được nâng cao. Vốn đầu tư cho hoạt động này bao gồm chi phí để thu hút các
nhà khoa học, chi phí xây dựng, nâng cấp các trung tâm nghiên cứu triển khai, chi
phí để mua sắm các trang thiết bị cho công tác này và các chi phí thử nghiệm sản

16
phẩm. Tăng cường đầu tư cho hoạt động này chính là định hướng phát triển của các
doanh nghiệp điện tử trong tương lai.
Nếu như tăng cường đầu tư cho R&D mà lại không đầu tư cho việc đăng ký
bản quyền thì đây là một điều thật sự lãng phí bởi vì các đối thủ cạnh tranh có thể ăn

cắp bản quyền phát minh sáng chế của doanh nghiệp. Như vậy nghĩa là họ có thể
sản xuất ra sản phẩm giống doanh nghiệp mà với giá rẻ hơn nhiều do không phải
mất chi phí nghiên cứu triển khai. Điều đó cũng có nghĩa là doanh nghiệp đã mất
không chi phí nghiên cứu sản phẩm. Do vậy, vấn đề đầu tư cho công tác đăng ký
bản quyền ngày càng được các doanh nghiệp coi trọng và bắt đầu thực hiện nó như
một thói quen. Đây là một thói quen rất tốt cần được các doanh nghiệp cũng như
nhà nước khuyến khích thực hiện.
Thương hiệu bản là bộ mặt của mỗi doanh nghiệp. Khi nói đến doanh nghiệp,
hình ảnh đầu tiên mà khác hàng nhớ đến chính là thương hiệu. Vì vậy, thương hiệu
góp phần phần quan trọng trong quá trình tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp
này. Đầu tư cho hoạt động này luôn là vấn đề không thể thiếu đối với các doanh
nghiệp, đặc biệt là trong nền kinh tế cạnh tranh và hội nhập như hiện nay. Trước
đây, hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp ngành
CNĐT nói riêng do chưa quan tâm đúng mức đến vấn đề này nên đã phải chịu rất
nhiều thiệt thòi trong các hoạt động sản xuất kinh doanh, nhất là trong hoạt động
xuất khẩu và làm ăn với đối tác nước ngoài. Các sản phẩm có chất lượng của ta
nhưng không có thương hiệu không thể xuất khẩu trực tiếp ra nước ngoài được mà
phải xuất khẩu qua nước thứ ba, chịu ép giá. Các hàng hoá có uy tín thì lại bị nước
ngoài làm nhái, giả mạo do chưa đăng ký bản quyền với nhà nước nên không được
bảo vệ.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này nên trong thời gian gần đây,
hoạt động đầu tư cho lĩnh vực này đã được quan tâm. Chi phí cho công tác này bao
gồm chi phí cho hoạt động nghiên cứu, thiết kế, xây dựng thương hiệu, chi phí cho
việc lựa chọn thương hiệu và chi phí làm và đưa thương hiệu ra thị trường.
5- Nguồn vốn đầu tư phát triển ngành CNĐT
Đầu tư phát triển ngành CNĐT là một hoạt động đòi hỏi một lượng vốn lớn. Đối
với nước ta, lượng vốn này thường được huy động từ hai nguồn, nguồn vốn đầu tư
trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài.

17

5.1. Nguồn vốn đầu tư trong nước
Với các doanh nghiệp điện tử quốc doanh, nguồn vốn đầu tư được hình thành từ
nhiều nguồn nhất bao gồm vốn ngân sách (lấy từ tích luỹ của ngân sách, vốn khấu
hao cơ bản, vốn viện trợ qua ngân sách), vốn tự có của doanh nghiệp, vốn vay của
các tổ chức tài chính – tín dụng, vốn hỗ trợ đầu tư với lãi suất ưu đãi, vốn do phát
hành trái phiếu, vốn góp liên doanh liên kết với các cá nhân, tổ chức trong và ngoài
nước và các hình thức huy động vốn khác quy định theo điều 11 Nghị định 56/Chính
Phủ ngày 3 tháng 10 năm 1996.
Với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, nguồn vốn đầu tư bao gồm: vốn tự có,
vốn vay (vốn vay thương mại và vốn vay với lãi suất ưu đãi), vốn cổ phần, vốn liên
doanh liên kết với các cá nhân trong và ngoài nước. Đối với các công ty cổ phần,
vốn đầu tư ngoài các nguồn vốn trên đây còn bao gồm tiền thu được do phát hành
trái phiếu (nếu có đủ điều kiện theo luật doanh nghiệp)
Có thể nói rằng, nguồn vốn trong nước đóng vai trò cực kỳ quan trọng tới sự
phát của ngành CNĐT nước ta. Vốn đầu tư trong nước được xem là bộ phận đối
ứng rất quan trọng để thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào ngành này. Để có thể phát
triển ngành CNĐT, vốn trong nước đóng vai trò quyết định trong việc xây dựng cơ
sở hạ tầng nhằm thu hút vốn từ bên ngoài vào đầu tư. Nguồn vốn này mang tính chất
lâu dài và ổn định. Tuy nhiên, hiện nay nguồn vốn này còn chiếm một phần tương
đối nhỏ so với vốn đầu tư nước ngoài trong cơ cấu vốn đầu tư của ngành CNĐT. Do
vậy, việc tăng cường thu hút nguồn vốn đầu tư này là vấn đề hết sức quan trọng đối
với sự phát triển của các doanh nghiệp điện tử trong tương lai. Điều này không chỉ
cần sự nỗ lực hết mình của các doanh nghiệp mà còn cần sự giúp đỡ từ phía các cơ
quan, ban ngành chức năng của nhà nước.
5.2 - Nguồn vốn đầu tư nước ngoài
Vốn đầu tư nước ngoài vào ngành CNĐT nước ta chủ yếu
được thực hiện dưới hình thức đầu tư trực tiếp của một số các nhà
đầu tư như: Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan và một số nhà đầu tư của
khu vực Đông Nam Á.
Thực tế hiện nay vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỉ phần tuyệt đối

và có vai trò quyết định đối với sự phát triển của ngành CNĐT.

18
Nguồn vốn này không chỉ giúp bổ xung lượng vốn thiếu hụt cực kỳ
lớn trong đầu tư phát triển ngành mà vốn đầu tư nước ngoài còn
góp phần quan trọng trong việc tăng cường tiềm lực khoa học công
nghệ cho ngành thông qua các hoạt động đầu tư mới, các hoạt động
chuyển giao công nghệ giữa các doanh nghiệp trong nước và các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Hơn thế nữa, với sự hoạt
động của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài ở Việt Nam, đặc biệt
là các nhà sản xuất nổi tiếng thế giới về lĩnh vực này như Sony,
Phillips, Toshiba, Panasonic, Sanyo, Daewoo…sẽ giúp cho sản
phẩm điện tử Việt Nam sớm có mặt trên thị trường thế giới. Ngoài
ra, hoạt động đầu tư nước ngoài cũng góp phần nâng cao tay nghề
cũng như trình độ quản lý của lực lượng lao động trong ngành
CNĐT.
Như vậy là với đặc thù của ngành kỹ thuật cao, CNĐT đòi hỏi một lượng vốn
rất lớn mà ban đầu các doanh nghiệp điện tử trong nước khó đáp ứng được đầy đủ.
Vì vậy, trong thời gian tới nguồn vốn đầu tư nuớc ngoài sẽ vẫn chiếm một vị trí quan
trọng và ngành CNĐT vẫn phải dựa vào nguồn vốn đầu tư này để xây dựng cơ sở
vật chất, nền tảng công nghệ cho ngành trong tương lai. Song bên cạnh nguồn vốn
đầu tư nước ngoài cần có chiến lược huy động các nguồn vốn trong nước đầu tư
phát triển CNĐT. Vốn trong nước và vốn đầu tư nước ngoài hợp thành nguồn tài
chính tổng hợp để đầu tư phát triển. Vấn đề đặt ra cho những nhà đầu tư là phải biết
xem xét tỷ trọng của mỗi loại nguồn vốn trong tổng số vốn đầu tư để dựa vào đó có
kế hoạch khai thác. Từng nguồn vốn này có ý nghĩa gì đối với hoạt động đầu tư. Tỷ
trọng giữa nguồn vốn trong nước và nguồn vốn ngoài nước thế nào là hợp lý, hiệu
quả sử dụng các nguồn vốn này như thế nào. Qua đó đề ra biệp pháp tăng cường
huy động vốn từ cả hai nguồn và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn trên.


19
III- KINH NGHIỆM MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ KHU VỰC
VỀ PHÁT TRIỂN CNĐT
1.Khái quát về quá trình phát triển CNĐT trên thế giới
Lịch sử ngành CNĐT trên thế giới trải qua các bước phát triển
vượt bậc theo từng thập kỷ: Thập kỷ 50, là thời kỳ phát triển công
nghiệp máy tính cỡ lớn với sự kiện Mỹ cho ra đời chiếc máy tính
điện tử đầu tiên (1946) và phát minh ra bóng đèn bán dẫn (1952).
Trong thập kỷ này, máy điện thoại, tổng đài nội bộ cũng xuất hiện.
Thập kỷ 60, là thời kỳ chế tạo máy tính điện tử có tính năng cao,
đặc biệt là việc Mỹ chế tạo ra mạch tổ hợp IC và máy tính thế hệ
360, 370. Đây cũng là thời kỳ chế tạo ra máy thu hình đen trắng,
máy thu hình màu, máy thu sóng vô tuyến, bóng bán dẫn, mạch tích
hợp, bóng điốt, bảng in đèn hình. Thập kỷ 70, CNĐT bắt đàu có sự
tiến bộ vượt bậc khi Mỹ tung ra loại máy tính sử dụng các mạch
tích hợp cỡ lớn. Máy Fax, máy photocopy, bóng điốt phát quang,
bàn phím, thiết bị đầu cuối, monitor bắt đầu được đưa vào áp dụng
trong sản xuất và đời sống xã hội. Thập kỷ 80, CNĐT có sự tiến bộ
kỹ thuật cực kỳ nhanh với sự ra đời của máy in, máy vi tính, bộ
điều khiển đĩa, máy quét ảnh, thiết bị tiếp sóng máy thu hình vệ
tinh, thiết bị về tinh…Thập kỷ 90, là sự phát triển các sản phẩm
điện tử có độ tích hợp cao, hệ thống hoá, tăng thêm tính năng, siêu
nhỏ, nhẹ hơn và giá thấp đi rất nhiều. Trong thập kỷ này, máy tính
xách tay được đưa vào sử dụng. Về công nghệ sử lý, tần số đã tăng
từ 30 MHz (1989) lên 200 MHz (2000) và số bit đã tăng từ 32 Bits
MPU thế hệ thứ 2 lên 64 Bits MPU thế hệ thứ nhất. Đặc biệt, từ
cuối thập kỷ 90 với sự phát triển vượt bậc của công nghệ Internet
và thiết bị viễn thông di động đã mở ra một thời kỳ mới trong sự
phát triển của CNĐT và CNTT trên toàn thế giới, mở ra cơ hội


20
bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp tại các nước có trình độ kinh
tế khác nhau cùng tham gia nền kinh tế số.
2 – Chính sách phát triển CNĐT của một số nước
2.1 – Nhật Bản: Bảo hộ và khuyến khích mạnh mẽ ngành CNĐT
Chính phủ Nhật Bản đã thực thi nhất quán chính sách bảo hộ và
khuyến khích mạnh mẽ ngành CNĐT trong suốt 40 năm qua. Các
luật khuyến khích ra đời 7 năm một (1957, 1964, 1971, 1986) về bản
chất là thực hiện bảo hộ và khuyến khích phát triển ngành CNĐT,
thể hiện ở các điểm sau;
- Chỉ định rõ vài chục sản phẩm từng thời kỳ
- Hạn chế đầu tư trực tiếp nước ngoài
- Những biện pháp khuyến khích đồng bộ cả về mặt “ cung” (trợ giúp tài chính,
thuế, nhập công nghệ gốc…) lẫn mặt “cầu” (kiểm soát nhập khẩu hàng hoá và đầu
tư nước ngoài ).
- Quan tâm đặc biệt đến hoạt động nghiên cứu – triển khai
Năm 2000, Thủ tướng mới của Nhật Bản đã chính thức đặt cuộc cách mạng IT
lên hàng đầu trong chiến lược kinh tế dài hạn của quốc gia. Cùng với cuộc khởi
xướng đầy tham vọng này của Chính Phủ, hàng loạt các công ty lớn của Nhật Bản
đã có những chuyển hướng rõ rệt nhằm nắm bắt cơ hội mới trong lĩnh vực mà xưa
nay Nhật Bản chưa có sự chú ý. Bước đầu họ đã có những thành công rõ rệt, nhất là
trong lĩnh vực thiết bị di động cầm tay (PDA, Web – TV )
2.2 - Hàn Quốc: Phát huy vai trò quyết định của Chính Phủ
Tiến sau Nhật Bản hàng thập kỷ, học tập kinh nghiệm Nhật Bản, Hàn Quốc phát
huy vai trò quyết định của Chính Phủ trong việc phát triển CNĐT. Trong 30 năm
(1967-1977), Chính Phủ đã ban hành 47 văn bản khuyến khích ngành điện tử, từ
hoạch định chiến lược, kế hoạch thực thi, gây quỹ thúc đẩy và đào tạo kỹ thuật viên,
chỉ định sản phẩm và lĩnh vực chủ lực, ưu tiên xuất khẩu, nâng cao mức tự cung cấp,
đầu tư sâu công nghệ …
Hàn Quốc có chính sách miễn thuế cho các xí nghiệp sản xuất điện tử trong nhiều

năm đầu hoạt động và miễn thuế cho các khoản đầu tư vào sản phẩm mới, nghiên

21
cứu – triển khai. Hàn Quốc tổ chức hoàn hảo “ hệ thống nắm bắt sản phẩm” phục vụ
chiến lược xuất khẩu điện tử như ngành mũi nhọn.
2.3 - Đài Loan: Mở cửa cho đầu tư nước ngoài, xây dựng công nghiệp tiên
tiến toàn diện
Sau thời kỳ công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu (1950-1960), Đài Loan là công
trường lắp ráp thuê cho Nhật – Mỹ, thực hiện mở rộng thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài; phối hợp với các công ty bản địa vốn được khuyến khích mạnh mẽ vào ngành
công nghệ cao và xuất khẩu (thông qua điều tiết thường xuyên của Chính Phủ) kể cả
xuất khẩu tại chỗ cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài; tạo môi
trường tiêu thụ mạnh bán thành phẩm của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài, chế tạo thiết bị tổng thành cho mọi thị trường. Năm 1970, Đài Loan đã có 3
khu chế xuất mạnh, 1974 thành lập tổ chức nghiên cứu dịch vụ điện tử, chế tạo
mạch IC hiện đại, phổ biến rộng cho nhiều công ty, sản xuất quy mô lớn. Giai đoạn
1980-1990, Đài Loan thực hiện chính sách công nghiệp mới, ưu tiên điện tử một
cách toàn diện: điện tử dân dụng, vật liệu, linh kiện và cấu kiện tự động ở trình độ
công nghệ mới nhất trên mọi khâu: thiết kế sản phẩm, công nghệ sản xuất, đổi mới
chất lượng, gia tăng tự động hoá, giảm thiểu năng lượng, quản lý kinh doanh, đào
tạo nhân sự phần mềm và tài chính, góp vốn…
Tóm lại, Đài Loan đã thực sự là công trường tiên tiến – toàn
diện của Châu Á về điện tử nói chung và đặc biệt mạnh về công
nghiệp sản xuất bảng mạch điện tử.
2.4 - Trung Quốc: Công nghiệp rẻ – một lợi thế cạnh tranh
Sức cạnh tranh đặc biệt của các sản phẩm điện tử của Trung Quốc là giá rẻ.
Nhân công của Trung Quốc có giá rẻ vào loại bậc nhất trên thế giới. Điều kiện thu
hút đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc hấp dẫn hơn nước ta và nhiều nước khác,
nên dòng tài chính nước ngoài vào Châu Á chủ yếu dồn vào Trung Quốc.
Tuy nhiên, sản phẩm điện tử của Trung Quốc chưa có chất lượng thực sự cao.

Trong tổng giá trị 49 tỷ USD / năm các mặt hàng điện tử tin học của Trung Quốc, tỷ
trọng xuất khẩu tương đối thấp, chỉ khoảng 6%. Điều này cho thấy thế yếu của hàng
điện tử Trung Quốc trên thị trường khu vực và thế giới. Trung Quốc có thị trường
nội địa quá lớn và có nhiều mục tiêu chiến lược xuất khẩu khác phải ưu tiên.
2.5 – Ấn Độ: Gia công phần mềm tiến tới xuất khẩu sản phẩm toàn diện

22
Từ đầu những năm 1980, Chính Phủ Ấn Độ đã tập trung đầu tư và thực hiện
những chính sách ưu đãi đặc biệt cho ngành công nghiệp gia công và làm thuê dịch
vụ phần mềm cho nước ngoài, tiến tới tự mình thiết kế hoàn thiện trọn gói các sản
phẩm phần mềm xuất khẩu, đưa ngành công nghiệp phần mềm thực sự trở thành một
ngành công nghiệp mũi nhọn của nước này. Trong những năm 1990, mức tăng
trưởng trong xuất khẩu của ngành công nghiệp phần mềm đạt trung bình 56,21% /
năm, doanh số năm 1998 đạt 1,8 tỷ USD, đưa tỷ trọng xuất khẩu của công nghiệp
phần mềm chiếm tới 54,6% tổng xuất khẩu của toàn bộ ngành CNĐT, CNTT của
Ấn Độ.
2.6 – Các nước ASEAN – CNĐT là ngành công nghiệp trọng điểm
Singapore có 1.500 công ty điện tử, trong đó có 643 công ty sản xuất phụ tùng,
linh kiện (công nghiệp phụ trợ) trực tiếp nhận vật liệu để xử lý tiếp, có tổng sản
lượng gần 36 tỷ USD/ năm, trong đó 10 tỷ là hàng phụ tùng – linh kiện. Tốc độ tăng
trưởng 20 –30%/ năm.
Malaysia chiếm vị trí thứ 2 trong ASEAN, sau Singapore về sản lượng hàng
điện tử, trị giá tới 19,61 tỷ USD, trong đó 14,5 tỷ là công nghiệp phụ trợ (phụ tùng,
linh kiện, kể cả phần do sản xuất mạch bán dẫn, chiếm 10 tỷ USD, còn lại là điện
trở, tụ điện, cuộn cảm, biến thế, mạch in, cấu kiện cơ khí chính xác, phụ tùng máy
tính).
Kim ngạch xuất khẩu linh kiện bán dẫn của Malaisia đứng đầu ASEAN và thứ 3
thế giới sau Mỹ và Nhật.
Indonesia khởi đầu công nghiệp điện tử chậm hơn Singapore 1 thập kỷ, và cũng
bằng việc gia công lắp ráp thuê, sản lượng năm 1991 là 1 tỷ USD, nhưng đã tăng tốc

34% / năm; đến năm 1997 đạt 8,1 tỷ USD. Công nghiệp sản xuất các linh kiện phụ
trợ của Indonesia không lớn (87/ 485 công ty), chủ yếu là bán dẫn, mạch in, đèn
hình, tụ, trở, thạch anh, ferit, cuộn cảm, biến thế. Khoảng 70-80% linh kiện còn lại
được nhập khẩu.
Philippin: CNĐT là ngành chủ chốt, có sản lượng chiếm tỷ trọng cao trong kim
ngạch xuất khẩu (năm 1998 đạt 25,23 tỷ USD, chiếm 58% kim ngạch xuất khẩu).
Cũng như Malaysia, ngành vật liệu – linh kiện bán dẫn của Philippin có vị trí cao
trong tổng sản lượng của nước này.

23
Thái Lan: CNĐT là ngành mũi nhọn ưu tiên phát triển (đạt giá trị 17,6 tỷ USD,
chiếm 33% kim ngạch xuất khẩu của Thái Lan). Công nghiệp sản xuất linh kiện bán
dẫn, điện trở, tụ điện, đèn hình, mạch in, cuộn cảm, biến thế, cơ khí, nhựa, phụ tùng
máy tính…phát triển mạnh; riêng sản lượng đĩa cứng đứng thứ hai thế giới.
Trước năm 1980, hoạt động công nghiệp của Thái Lan chủ yếu là lắp ráp ô tô, xe
máy, chế biến thực phẩm, dệt may…Sản xuất công nghiệp chỉ là nhằm đáp ứng thị
trường nội địa. Sau đó, do biết tranh thủ những cơ hội đầu tư, loại bỏ nhiều rào cản,
đất nước này nhanh chóng thúc đẩy mọi hoạt động sản xuất có định hướng xuất
khẩu. Từ khởi điểm khá thấp trong khu vực, 20 năm qua Thái Lan đã công nghiệp
hoá nhiều ngành, trong đó có điện - điện tử.
3 – Một số bài học kinh nghiệm cho việc phát triển ngành CNĐT ở Việt
Nam và Hà Nội
Từ những kinh nghiệp của các nước như đã phân tích như trên, có thể rút ra
một số bài học kinh nghiệm để áp dụng vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam nói chung
và Hà Nội nói riêng như sau:
- Vai trò của Chính Phủ : Chính Phủ đóng vai trò quan trọng trong phát triển
CNĐT, nếu Chính Phủ có những chính sách hỗ trợ phù hợp thì ngành CNĐT có thể
phát triển tốt (như kinh nghiệm của Nhật, Hàn, Malaysia), đặc biệt trong thời đại
ngày nay khi cần phát triển hạ tầng công nghệ thông tin quốc gia, cần tiếp nhận
chuyển giao các công nghệ mới, công nghệ cao.

- Xây dựng một nền kinh tế định hướng xuất khẩu: Đối với các quốc gia có quy
mô thị trường nội địa không lớn như nước ta, chiến lược hướng về xuất khẩu giúp
cho các ngành công nghiệp (đặc biệt là ngành công nghệ cao như CNĐT) mở rộng
được quy mô hoạt động cũng như tiếp thu được các tiến bộ về khoa học công nghệ
của thế giới để phát triển.
- Chính sách ưu tiên phát triển CNĐT trong từng thời kỳ: Ngay cả quốc gia
hàng đầu về CNĐT như Nhật Bản cũng cần phải có những chính sách ưu tiên phát
triển CNĐT. Những chính sách này phải được thay đổi cho phù hợp với sự phát
triển chung của khu vực và thế giới. Đối với nước ta, CNĐT là một ngành công
nghiệp còn quá non trẻ nên rõ ràng cần phải có những quy định mang tính chất ưu
đãi đặc thù phù hợp với từng thời kỳ phát triển nhất định.

24
- Từng bước xây dựng nền tảng công nghệ cao: Đây là bài học của Hàn Quốc:
lúc đầu dựa vào công nghệ nước ngoài nhưng sau đó phải nhanh chóng vươn lên làm
chủ công nghệ và từng bước sáng tạo ra công nghệ mới. Có như vậy mới có thể tạo
dựng được một ngành CNĐT phát triển độc lập.
- Thu hút đầu tư nước ngoài: Từ một nước đi sau, để phát triển CNĐT thì thu
hút đầu tư nước ngoài có thể là con đường ngắn nhất. Đầu tư trực tiếp từ nước ngoài
đóng một vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng nhanh chóng của ngành CNĐT các
nước Đông Nam Á. Thực tế là hầu hết những nhà sản xuất linh kiện điện tử lớn hoạt
động ở Thái Lan và Malaysia đều có nguồn vốn từ Nhật Bản và Hàn Quốc. Đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đã giảm đi đáng kể từ sau cuộc khủng hoảng
kinh tế tài chính của các nước Đông Nam Á nhưng bắt đầu có một vài dấu hiệu khả
quan hơn trong những năm gần đây. Đối với Việt Nam, cần đặc biệt quan tâm thúc
đẩy các nhân tố khuyến khích và có đối sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài có
hiệu quả. Đối với Hà Nội cần có những ưu đãi mạnh hơn về giá thuê đất, về hỗ trợ
lao động…thì mới có thể thu hút ngày càng nhiều đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Một nền giáo dục tiếp cận với các kiến thức tiên tiến của thế giới: Kinh
nghiệm của các nước cho thấy cần phải có sự định hướng giáo dục và đào tạo nhân

lực với các nội dung tiên tiến. Cần đề ra các chương trình mục tiêu để đào tạo các
nhà quản lý cũng như để đào tạo kỹ năng, xây dựng một lực lượng lao động của
ngành CNĐT để đến năm 2010 có trình độ ngang tầm với các nước tiên tiến trong
khu vực.
- Xác định và có chính sách hỗ trợ một số lĩnh vực ưu tiên trong ngành CNĐT:
Các nước đã thành công trong việc phát triển ngành CNĐT, đặc biệt là các nước đi
sau như Hàn Quốc, Đài Loan, ASEAN đều có mô hình riêng trong việc xác định
hướng ưu tiên phát triển CNĐT. Khi xem xét các đặc trưng của sản phẩm (cách thức
sản xuất, quy mô đầu tư …) và môi trường trong và ngoài nước (những nhân tố thúc
đẩy hoặc kìm hãm đầu tư) có thể thấy 3 lĩnh vực chính mà Việt Nam cần tích cực nỗ
lực để thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhằm đẩy mạnh xuất khẩu, đó là: sản xuất linh
phụ kiện (cả linh kiện điện tử lẫn phụ kiện cơ khí nhựa…), thiết bị và linh phụ kiện
ngành thông tin liên lạc, công nghiệp công nghệ thông tin (cả phần cứng và phần
mềm).

25
4-Tác động của sự phát triển kinh tế thế giới, xu thế hội nhập và hợp tác
quốc tế và hợp tác quốc tế tới sự phát triển ngành CNĐT Hà Nội
4.1 – Tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực
a – Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và hiệp định ưu đãi thuế quan có
hiệu lực chung ( CEPT)
Ngành công nghiệp điện tử các nước ASEAN phát triển với tốc độ trung bình
khoảng 15%/ năm trong suốt 10 năm qua và đạt 116 tỷ USD vào năm 2000. Quy mô
sản xuất của khu vực này hiện nay bằng 1/ 2 giá trị sản xuất của Nhật Bản, nhưng lại
lớn hơn Hàn Quốc, Đài Loan và cả Trung Quốc. Khu vực này cung cấp 15% hàng
điện tử cho thị trường thế giới. Tuy nhiên, ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài
chính tiền tệ năm 1997 đã dẫn đến giảm sút mạnh các sản phẩm điện tử – tin học do
tăng chi phí nhập khẩu linh kiện và đầu tư nước ngoài giảm sút. Tuy vậy, sau năm
2000, ngành CNĐT các nước ASEAN đang có dấu hiệu phục hồi.
Sự phát triển của CNĐT các nước ASEAN đã và đang được hỗ trợ về vốn và

công nghệ từ các công ty Nhật Bản và các nước EU, Mỹ, Hàn Quốc…Các công ty
này đã thành lập các cơ sở xuất khẩu lớn ở Singapore, Malaysia và Thái Lan ngay
từ những năm 1980 khi các nước này có chính sách thu hút mạnh đầu tư trực tiếp
nước ngoài.
Để tham gia hội nhập, Việt Nam đã và đang chuyển đổi hệ thống pháp lý, thị
trường, hệ thống hành chính, hệ thống tính toán các chỉ tiêu kinh tế, hệ thống thông
tin kinh tế, hệ thống hải quan, hệ thống thuế…và đổi mới cả hướng đào tạo nguồn
nhân lực. Việc tham gia ASEAN đã tạo điều kiện cho Việt Nam tiếp cận được với
các thông lệ quốc tế ở những bước đi ban đầu, giúp ta có kinh nghiệm khi tiếp cận
với các tổ chức mang tính toàn cầu hơn như APEC và WTO.
Hiệp định CEPT là một thoả thuận giữa các thành viên ASEAN trong việc giảm
thuế quan trong thương mại nội bộ ASEAN xuống còn 0 – 5%, đồng thời loại bỏ
các hạn chế định lượng và các hàng rào phi thuế quan trong vòng 10 năm bắt đầu từ
1/1/1993 và hoàn thành vào 1/1/2003 (riêng Việt Nam đến 1/1/2006). Chỉ khi CEPT
được hoàn thành thì khu vực mậu dịch tự do ASEAN mới thực sự được thành lập,
tạo điều kiện tăng cường trao đổi buôn bán trong một hệ khối thông qua việc loại bỏ
các hàng rào thuế quan và phi thuế quan trong nội bộ khu vực; thu hút các nhà đầu
tư nước ngoài vào khu vực thông qua việc hình thành khối thị trường chung tự do

×