Tải bản đầy đủ (.docx) (83 trang)

Tài liệu Đề tài: Huy động vốn tại ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chi nhánh Mỹ Hào- Thực trạng và giải pháp ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (495.23 KB, 83 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
LỜI NÓI ĐẦU
Đất nước ta đang trong thời kì đổi mới, phát triển kinh tế, ổn định chính trị
và xã hội đang là nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn hiện nay. Từ một nền kinh tế
kém phát triển thu nhập bình quân đầu người thấp, cơ sở hạ tầng thấp kém về mọi
mặt. Do vậy, để phát triển chúng ta cần phải có vốn, Đảng và nhà nước ta đã xác
định phát triển kinh tế ổn định và vững chắc có trọng tâm trong đầu tư. Do đó chủ
trương “vốn trong nước là quyết định, vốn nước ngoài là quan trọng” luôn được
quán triệt trong quản lý kinh tế, quản lý đầu tư và đặc biệt trong hoạt động tín
dụng đầu tư. Trong khi thị trường vốn ở nước ta chưa phát triển thì kênh
dẫn vốn quan trọng cho hoạt kinh tế nói chung và hoạt động đầu tư đầu tư
phát triển nói riêng hiện nay chính là hệ thống ngân hàng. Nhờ có hệ thống
này mà vốn được lưu chuyển từ nơi thừa sang nơi thiếu, giúp cho việc lưu
chuyển vốn hiệu quả, tạo vốn cho các công cuộc đầu tư góp phần thúc đẩy
kinh tế phát triển.
Thực hiện đường lối phát triển của Đảng và Nhà nước trong những năm qua
ngành ngân hàng nói chung và ngân hàng Nông nghiệp&phát triển nông thôn
(NHNo&PTNT) nói riêng đã không ngừng đổi mới và hoàn thiện cho phù hợp với
tình hình mới, tăng cường công tác huy động mọi nguồn vốn cho đầu tư phát triển,
đẩy mạnh cho vay đối với các thành phần kinh tế, hiện đại hoá công nghệ ngân
hàng Chính vì vậy đã góp phần quan trọng vào công cuộc đầu tư thúc đẩy nền
kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao, kiềm chế lạm phát và ổn định đời sống nhân
dân. Song bên những thành công và kết quả đạt được thì hệ thống ngân hàng nói
chung và NHNo&PTNT riêng đang còn tồn tại nhiều yếu kém đó là nguồn vốn
huy động có thời gian dài còn thiếu, công tác huy động còn nhiều bất cập, hệ
thống ngân hàng chưa đáp ứng được nhu cầu huy động vốn cho nền kinh tế…
Như ta đã biết, Ngân hàng thương mại (NHTM) với vai trò trung gian tài
chính trong việc huy động vốn để tái cấp vốn cho nền kinh tế là quan trọng nhất.
Lê Thị Ngọc Mai- CQ47/15.03 Trang 1
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
Tuy nhiên ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt chủ yếu kinh doanh


trên lĩnh vực tiền tệ cho nên bắt buộc phải hoạt động có hiệu quả để vừa đảm bảo
mục tiêu an toàn trong hoạt động vừa có thể đứng vững trong nền kinh tế thị trường
và qua đó thực hiện có hiệu quả vai trò dẫn vốn của mình.
Chi nhánh NHNo&PTNT Mỹ Hào là một chi nhánh thành viên của
NHNo&PTNT Việt Nam. Với hoạt động chủ yếu trên lĩnh vực nông nghiệp nông
thôn, cũng giống như các NHTM khác, chi nhánh rất quan tâm tới nguồn vốn huy
động từ nền kinh tế để có thể tiến hành hoạt động kinh doanh.
Nhận thức được vấn đề này, sau một thời gian thực tập tại NHNo&PTNT
Mỹ Hào, được sự giúp đỡ tận tình của ban lãnh đạo, cán bộ nhân viên phòng kế
toán cũng như sự hướng dẫn của thầy giáo Lã Thị Lâm và được tiếp cận với các
hoạt động của ngân hàng, em đã chọn đề tài nghiên cứu với nội dung: "HUY
ĐỘNG VỐN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT
TRIỂN NÔNG THÔN MỸ HÀO - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP"
Ngoài lời mở đầu và kết luận, bố cục của chuyên đề gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận chung về tình hình huy động vốn của NHTM.
Chương II: Thực trạng công tác huy động vốn tại NHNo&PTNT Mỹ Hào.
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác huy động
vốn tại NHNo&PTNT Mỹ Hào.
Vấn đề trên là một lĩnh vực nghiên cứu phức tạp, đan xen nhiều yếu tố vĩ
mô và vi mô, mang tính khách quan và chủ quan. Bản thân em trong quá trình
nghiên cứu và tìm hiểu cả về lý luận, thực tiễn còn có những hạn chế nhất định,
không tránh khỏi thiếu sót.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo hướng dẫn Lã Thị Lâm và đơn vị thực
tập đã giúp đỡ em trong quá trình nghiên cứu đề tài.
Lê Thị Ngọc Mai- CQ47/15.03 Trang 2
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
CHƯƠNG I:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG
VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHTM VÀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG

VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Tổng quan về NHTM
1.1.1 Khái niệm
Ngân hàng thương mại đã có một quá trình hình thành và phát triển lâu
dài. Ngay nửa đầu thế kỷ XVI, ở Châu Âu đã ra đời một số ngân hàng đầu
tiên mà tiền thân là những tổ chức cho vay nặng lãi. Vào thời điểm này, ngân
hàng phát triển ở trình độ thấp, hoạt động của ngân hàng chỉ gói gọn trong
lĩnh vực giữ hộ tiền và cho vay. Cùng với sự phát triển không ngừng của nền
kinh tế, hoạt động của NHTM cũng được từng bước được củng cố và hoàn
thiện, chuyển hoá dần theo hướng đa năng. Theo một số chuyên gia về ngân
hàng trên thế giới thì ngân hàng trong nền kinh tế trên thị trường được quan
niệm là “Ngân hàng là một doanh nghiệp đặc biệt hoạt động trong lĩnh vực
tài chính tiền tệ, tuân thủ theo pháp luật theo đuổi mục tiêu lợi nhuận”. Theo
luật các tổ chức tín dụng của Việt Nam được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam khóa X, kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 12/12/1997
“Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động
ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Và hoạt động ngân
hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ, các dịch vụ ngân hàng với nội dung thường
xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này cấp tín dụng và cung ứng các dịch
vụ thanh toán”.
Theo các nhà Kinh tế học thế giới thì “Ngân hàng Thương mại là một loại
hình doanh nghiệp hoạt động và kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ và tín dụng”.
Theo cách tiếp cận trên phương diện những loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung
cấp thì “NHTM là một loại hình tổ chức tài chính, cung cấp một danh mục các
dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực
Lê Thị Ngọc Mai- CQ47/15.03 Trang 3
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
hiện nhiều chức năng tài chính nhất định so với bất kỳ một tổ chức nào trong nền
kinh tế”.
Theo tính chất và hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng

thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách,
ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác.
Qua đây chúng ta có thể thấy rằng trên mỗi phương diện khác nhau tại mỗi quốc gia
khác nhau lại có những quan niệm, nhìn nhận khác nhau, tuy nhiên tất cả điều đó đều
cho chúng ta những cách hiểu sâu hơn về khái niệm ngân hàng nói chung và Ngân
hàng Thương Mại nói riêng đồng thời qua đó giúp chúng ta có thể hiểu rõ hơn về các
hoạt động và các loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp.
Tuy nhiên, để hiểu rõ hơn khái niệm về NHTM chúng ta cần xem xét đặc
điểm của ngân hàng thương mại:
Trước hết, hoạt động NHTM là hình thức kinh doanh kiếm lời, theo đuổi
mục tiêu lợi nhuận là chủ yếu. Ngân hàng thực hiện hai hình thức hoạt động
là kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng. Trong đó, hoạt động kinh doanh
tiền tệ được biểu hiện ở nghiệp vụ huy động vốn dưới các hình thức khác
nhau, để cấp tín dụng cho khách hàng có yêu cầu về vốn với mục tiêu tìm
kiếm lợi nhuận. Ngân hàng thương mại là người “đi vay để cho vay” nhằm
mục đích kiếm lời. Các hoạt động dịch vụ ngân hàng được biểu hiện thông
qua các nghiệp vụ sẵn có về tiền tệ, thanh toán, ngoại hối, chứng khoán, để
cam kết thực hiện công việc nhất định cho khách hàng trong một thời gian
nhất định nhằm mục đích thu phí dịch vụ hoặc hoa hồng.
Hai là, hoạt động ngân hàng thương mại phải tuân thủ theo quy định của
pháp luật, nghĩa là chỉ khi NHTM thoả mãn đầy đủ các điều kiện khắt khe do
pháp luật qui định như điều kiện về vốn, phương án kinh doanh thì mới
được phép hoạt động trên thị trường.
Lê Thị Ngọc Mai- CQ47/15.03 Trang 4
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
Ba là, hoạt động Ngân hàng thương mại là hình thức kinh doanh có độ rủi
ro cao hơn nhiều so với các hình thức kinh doanh khác và thường có ảnh
hưởng sâu sắc tới các ngành khác và cả nền kinh tế.
1.1.2 Chức năng của NHTM
Tầm quan trọng của Ngân hàng thương mại được thể hiện qua các chức

năng của nó. Các nhà kinh tế học đã ví ngân hàng thương mại là trái tim của
nền kinh tế. Ngân hàng hút tiền về, bơm tiền đi vì thế các nguồn vốn nhàn rỗi
được khơi thông đưa tiền từ nơi thừa đến nơi thiếu, giúp cho quá trình lưu
chuyển tiền tệ một cách hiệu quả. Các chức năng của NHTM có thể được nêu
ra dưới nhiều khía cạnh khác nhau, nhưng bao gồm ba chức năng chủ yếu:
chức năng trung gian tín dụng, chức năng trung gian thanh toán và chức năng
tạo tiền của ngân hàng thương mại.
 Ngân hàng Thương mại - trung gian tín dụng
Đây là chức năng đặc trưng và cơ bản nhất của Ngân hàng thương mại và
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Thực hiện chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng là “cầu nối” giữa cung
và cầu vốn trong nền kinh tế, khơi nguồn vốn từ những người có vốn nhàn
rỗi sang những người có nhu cầu về vốn.
Trong nền kinh tế, do các đơn vị kinh tế có nhu cầu về tiền, vốn vào thời
điểm khác nhau là khác nhau, gây ra hiện tượng thừa, thiếu tạm thời. Ngân
hàng Thương mại là người trung gian có vai trò chuyển đổi kỳ hạn nợ, thay
đổi thời kỳ đáo hạn của các khoản, món nợ.
Ngân hàng Thương mại huy động và tập trung các nguồn vốn tiền tệ tạm
thời nhàn rỗi của các chủ thể trong nền kinh tế để hình thành nguồn vốn cho
vay. Mặt khác, trên cơ sở số vốn đã huy động được, ngân hàng cho vay để
đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng, của các chủ thể kinh tế
góp phần đảm bảo sự vận động liên tục của guồng máy kinh tế xã hội, thúc
Lê Thị Ngọc Mai- CQ47/15.03 Trang 5
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
đẩy tăng trưởng kinh tế. Như vậy, Ngân hàng Thương mại vừa là người đi
vay, vừa là người cho vay.
 Ngân hàng Thương mại - trung gian thanh toán
Việc làm trung gian thanh toán của Ngân hàng ngày nay đã phát triển đến
tầm mức rất đa dạng, không chỉ là trung gian truyền thống như trước, mà còn
quản lý các phương tiện thanh toán bằng cách trích số dư tiền gửi trên tài

khoản của người mua chuyển sang tài khoản của người bán theo lệnh của chủ
tài khoản. Đây là vai trò ngày càng chiếm vị trí rất quan trọng, phù hợp với
sự phát triển và tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Với phương pháp công nghệ
hiện đại hơn, các NHTM từng bước trang bị đầy đủ các máy vi tính và các
phương tiện kỹ thuật khác tạo điều kiện, thanh toán bù trừ được nhanh chóng
giảm bớt chi phí và có độ chính xác cao. Như vậy Ngân hàng đã tiết kiệm cho xã
hội rất nhiều về chi phí lưu thông, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, thúc đẩy quá
trình lưu thông hàng hoá.
 Chức năng tạo ra tiền Ngân hàng trong hệ thống Ngân hàng hai cấp
Vào thế kỷ 19, hệ thống Ngân hàng hai cấp đã được hình thành, các
Ngân hàng không còn hoạt động riêng lẻ mà đã tạo nên một hệ thống,
trong đó Ngân hàng Trung ương là cơ quan quản lý về tiền tệ tín dụng, là
Ngân hàng của các Ngân hàng, còn các Ngân hàng Thương mại chuyên
kinh doanh tiền tệ.
Nhờ hoạt động trong hệ thống mà các Ngân hàng Thương mại đã tạo ra
bút tệ. Việc tạo ra bút tệ là sáng kiến quan trọng trong lịch sử hoạt động
Ngân hàng. Chức năng tạo ra bút tệ được thực hiện thông qua hoạt động tín
dụng và đầu tư của NHTM trong mối quan hệ tuỳ thuộc vào Ngân hàng trung
ương (NHTW). Nhờ nhận tiền ký thác của khách hàng, Ngân hàng Thương
mại có khả năng đầu tư. Nhưng khi đầu tư, Ngân hàng tạo ra tiền ký thác
Lê Thị Ngọc Mai- CQ47/15.03 Trang 6
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
mới, còn gọi là tiền bút tệ, tiền chuyển khoản, từ đó Ngân hàng Thương mại
trở thành người cung ứng tiền bút tệ quan trọng trong nền kinh tế.
Từ những chức năng cơ bản trên ta cũng có thể thấy được vai trò to lớn
của Ngân hàng Thương mại trong nền kinh tế. Hoạt động của Ngân hàng
Thương mại đẩy nhanh quá trình thanh toán, giảm chi phí giao dịch và tạo
môi trường thuận lợi cho quá trình lưu chuyển vốn của nền kinh tế, nâng cao
chất lượng của quá trình tập trung và phân phối nguồn vốn. NHTM còn là bộ
máy tạo tiền, nó có vai trò quan trọng trong việc thực thi chính sách tiền tệ

và góp phần vào hoạt động điều tiết vĩ mô dưới sự tác động của Ngân hàng
Trung ương và các chính sách của Nhà nước.
1.1.3 Vai trò của NHTM
Cùng với sự phát triển của nhiều ngành nghề khác nhau, từ khi ra đời và
phát triển Ngân hàng thương mại đã đóng góp vai trò rất quan trọng trong
việc xây dựng và phát triển kinh tế thế giới. Ở tất cả các nước, hệ thống
NHTM đã không ngừng phát triển, đóng vai trò tập trung những khoản tiền
nhàn rỗi trong nền kinh tế để cung ứng vốn cho các nhà đầu tư cần vốn. Đó là
quá trình huy động vốn và sử dụng vốn của các NHTM. Bằng hoạt động của
mình NHTM đã đóng góp một lượng vốn đáng kể và hàng loạt các dịch vụ
Ngân hàng khác cho nền kinh tế.
Một là: NHTM là nơi cung cấp tín dụng cho nền kinh tế, là cầu nối giữa
tiết kiệm và đầu tư.
Là một trung gian tín dụng NHTM đã tích tụ và tập trung được một khối
lượng lớn tiền tạm thời nhàn rỗi thông qua nghiệp vụ huy động vốn và thực
hiện các dịch vụ Ngân hàng cho khách hàng. Từ nguồn tiền đó tiến hành cấp
phát tín dụng cho các thành phần kinh tế, những tổ chức và cá nhân cần vốn
để phục vụ cho nhu cầu chi tiêu của mình. Tức là Ngân hàng đóng vai trò là
người môi giới giữa một bên là những người có tiền nhàn rỗi có thể cho vay
và một bên là những người cần vay vốn. Thực hiện chức năng này tức là
Lê Thị Ngọc Mai- CQ47/15.03 Trang 7
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
Ngân hàng đã trở thành người khơi thông và kích hoạt các nguồn vốn, làm
cho nguồn tiền tệ luôn hoạt động và sinh lãi. Những hoạt động đó của
NHTM đã thực sự tác động điều hòa cung cầu tiền tệ, biến những đồng
tiền nhàn rỗi thành những đồng tiền hoạt động có ích, tập trung vốn vào
việc tài trợ cho các ngành kinh tế khác phát triển, tạo thêm việc làm cho
người lao động và bằng những khoản tín dụng nhỏ thích hợp giúp người
lao động có thêm điều kiện ổn định và cải thiện đời sống.
Hai là: Ngân hàng giúp cho các kinh doanh trong việc nâng cao hiệu

quả sử dụng vốn.
Ngân hàng tài trợ vốn cho các Doanh nghiệp trên cơ sở phải tuân thủ các
điều kiện do Ngân hàng đặt ra. Trong đó các khoản tín dụng mà Doanh
nghiệp nhận được đều phải trả lãi và khi hết thời gian sử dụng phải hoàn trả
gốc. Vì vậy để đảm bảo an toàn tài sản cho Ngân hàng và nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn cho các doanh nghiệp thì trước khi cho vay, Ngân hàng cần phải
thẩm định phương án sử dụng vốn vay của Doanh nghiệp, thẩm định tính khả
thi của dự án, thẩm định các yếu tố liên quan đến Doanh nghiệp (Uy tín, trình
độ nhân viên, tài sản đảm bảo…) một cách chính xác rõ ràng, chi tiết, qua đó
cán bộ tín dụng giúp Doanh nghiệp xây dựng phương án sản xuất kinh doanh
có hiệu quả. Sau khi cho Doanh nghiệp vay vốn, Ngân hàng vẫn tiếp tục
tiến hành giám sát quá trình sử dụng vốn vay của doanh nghiệp và thông
qua hoạt động thanh toán hộ thì Ngân hàng có thể giúp doanh nghiệp
quản lý tốt hơn về vốn và sử dụng vốn.
Ba là: Ngân hàng khuyến khích tiết kiệm trong nền kinh tế.
Bất kỳ đối tượng nào trong nền kinh tế gửi tiền vào Ngân hàng đều được
hưởng lãi, điểu đó có nghĩa là khi nào thu nhập của người gửi tiền sẽ tăng
lên. Người gửi tiền có thể gửi theo bất kỳ phương thức nào, bất kỳ thời hạn
nào. Các cá nhân có số tiền nhàn rỗi chưa sử dụng đến thì có thể gửi vào
Ngân hàng khi cần thì có thể rút ra bất cứ lúc nào. Thông qua chính sách lãi
Lê Thị Ngọc Mai- CQ47/15.03 Trang 8
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
suất Ngân hàng đã khuyến khích khách hàng tiết kiệm tiêu dùng hiện tại để
có tăng tiêu dùng trong tương lai.
Bốn là: Hoạt động Ngân hàng có tác dụng điều tiết sự dịch chuyển của
vốn đầu tư dẫn đến bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận, góp phần chuyển dịch cơ
cấu kinh tế và phát triển vùng.
Trong hoạt động tài trợ của mình, Ngân hàng có thể tài trợ đối với tất cả
các đơn vị cá nhân trong nền kinh tế dưới các hình thức khác nhau. Với hệ
thống các Ngân hàng chuyên doanh cùng với mạng lưới chân rết của mình,

NHTM có mặt ở hầu hết các địa bàn trong phạm vi cả nước. Thông qua đó
Ngân hàng sẽ tiến hành cho vay đối với những ai cần vốn mà đáp ứng được
các điều kiện của Ngân hàng thì Ngân hàng sẽ tiến hành cho vay. Ngoài ra
khi có sự ưu tiên của nhà nước về phát triển ngành nghề hoặc vùng kinh tế
nào đó thì Chính phủ đưa ra những chính sách riêng cho từng vùng và thông
qua hệ thống NHTM sẽ tiến hành cung ứng vốn cho những vùng đó. Hoạt
động tín dụng Ngân hàng ngày càng phát triển đã làm cho việc di chuyển vốn
diễn ra một cách dễ dàng, tập trung duy trì lực lượng bình quân từ tất cả các
ngành. Đồng thời với sự tác động của Ngân hàng vốn được dịch chuyển từ
vùng thừa vốn sang vùng thiếu vốn đảm bảo cho sự phát triển đồng đều giữa
các ngành, xóa dần sự khác biệt, thúc đẩy nền kinh tế phát triển ổn định.
Năm là: Hoạt động của Ngân hàng góp phần chống lạm phát.
Với đặc điểm của NHTM là một tổ chức trung gian tài chính với các hoạt
động chủ yếu là huy động vốn, cho vay và thực hiện chức năng trung gian
thanh toán. Lượng tiền lưu thông được Ngân hàng kiểm soát. Thông qua các
khoản mục của NHTM, NHTW sẽ xác định được lượng tiền mặt đang lưu
thông trong nền kinh tế, từ đó có thể có các biện pháp kiểm soát nhằm đề
phòng và hạn chế những ảnh hưởng xấu có thể xảy ra. Trường hợp nếu xảy ra
lạm phát thì bằng các nghiệp vụ của mình, NHTW sẽ tiến hành điều chỉnh
tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tăng lãi suất chiết khấu hoặc tái chiết khấu, tham
Lê Thị Ngọc Mai- CQ47/15.03 Trang 9
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
gia vào thị trường mở để tác động tới NHTM để qua nó làm thay đổi lượng
tiền trong lưu thông.
Sáu là: Ngân hàng tài trợ cho các hoạt động xuất nhập khẩu, thúc đẩy phát
triển thương mại quốc tế.
Thương mại quốc tê ngày càng phát triển, cùng với xu thế khu vực hóa và
toàn cầu hóa thì các mối quan hệ kinh tế quốc tế giữa các quốc gia đóng vai
trò ngày càng quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế của mỗi
quốc gia.

Cùng hòa chung với xu thế đó NHTM cũng đóng vai trò rất quan trọng
trong việc đưa nền kinh tế của quốc gia mình hội nhập với nền kinh tế thế
giới. Bằng các hoạt động của mình như tài trợ xuất nhập khẩu, thực hiện các
hình thức thanh toán, bảo lãnh…đã góp phần thúc đẩy việc chu chuyển
hàng hóa dịch vụ giữa các quốc gia với nhau một cách thuận lợi và nhanh
chóng.
1.2 Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng Thương mại
1.2.1 Khái niệm về huy động vốn
Ngân hàng thương mại hoạt động và phát triển được chủ yếu nhờ vào lượng
tiền mà nó huy động được từ nền kinh tế. Trong bối cảnh cạnh tranh quyết liệt
trong lĩnh vực tài chính tiền tệ như hiện nay, để có được nguồn vốn lớn đòi hỏi các
ngân hàng thương mại phải có biện pháp huy động vốn hợp lý, từ đó thu hút được
lượng vốn cần thiết trong nền kinh tế, để phục vụ cho hoạt động của ngân hàng
thương mại.
Công tác huy động vốn của ngân hàng có thể hiểu là những công cụ, cách thức,
phương pháp và chương trình cụ thể nhằm thu hút sự chú ý của các cá nhân, các tổ chức
và từ đó gửi tiền vào ngân hàng trên cơ sở hai bên đều có lợi. Như vậy có thể dễ dàng
nhận thấy công tác huy động vốn của ngân hàng thương mại cũng là một phần trong
Lê Thị Ngọc Mai- CQ47/15.03 Trang 10
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
chính sách marketing mà ngân hàng đang sử dụng, tuy nhiên nó luôn được sự quan tâm
chỉ đạo sát sao từ phía lãnh đạo ngân hàng.
1.2.2 Vai trò của nguồn vốn huy động
 Đối với nền kinh tế:
Nước ta đang trong tiến trình xây dựng một nền kinh tế vững mạnh vận
động theo cơ chế thị trường, việc này đồng thời với vấn đề phải phát triển một thị
trường tài chính xứng tầm. Trong nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động sản xuất
kinh doanh của các đơn vị, tổ chức kinh tế và cá nhân đều chịu sự tác động của thị
trường, của các quy luật kinh tế: quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy luật
giá trị…Chính vì vậy, các doanh nghiệp để tồn tại được trên thương trường phải

không ngừng đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao chất lượng
sản phẩm…Vấn đề này thực hiện được khi và chỉ khi doanh nghiệp huy động được
đủ lượng vốn cần thiết và sử dụng có hiệu quả chúng vào đúng mục đích. Nguồn
vốn tự có của doanh nghiệp thường không đáp ứng được nhu cầu vốn của doanh
nghiêp, do đó doanh nghiệp phải đi vay vốn nhằm bù đắp cho nhu cầu đầu tư của
mình. Với sự xuất hiện của thị trường tài chính và hệ thống ngân hàng thương mại
thì việc vay vốn của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, các cá nhân trở nên dễ
dàng hơn. Doanh nghiệp có thể chủ động tìm kiếm vốn từ nhiều nguồn khác nhau
với chi phí tiết kiệm và thủ tục đơn giản hơn rất nhiều.
Chính phủ trong nhiều trường hợp cũng cần phải huy động lượng vốn nhất
định để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của mình. Ngân sách nhà nước là nguồn cung cấp
chủ yếu cho kế hoạch chi tiêu của Chính phủ, song không phải lúc nào nó cũng ở
trong trạng thái lành mạnh, đủ khả năng đáp ứng. Giải pháp đặt ra là có thể in
thêm tiền hoặc tăng thuế, vay nợ nước ngoài nhưng việc này sẽ gây ảnh hưởng tiêu
cực lên toàn bộ nền kinh tế, qua đó nảy sinh các vấn đề xã hội. Đây là điều mà các
nhà hoạch định chính sách vĩ mô không muốn xảy ra. Vì vậy, Nhà nước có thể sử
dụng biện pháp tích cực hơn đó là tìm kiếm nguồn vốn huy động trong và ngoài
Lê Thị Ngọc Mai- CQ47/15.03 Trang 11
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
nước thông qua việc phát hành các công cụ nợ như trái phiếu chính phủ, tín phiếu
kho bạc…
Qua những dẫn chứng trên có thể thấy được tầm quan trọng của nguồn vốn
huy động đối với nền kinh tế, tác động trực tiếp đến mối quan hệ giữa tích lũy và
tiêu dùng. Để khai thông nguồn vốn đầu tư phát triển cho nền kinh tế chúng ta phải
tận dụng tốt lượng vốn nhàn rỗi từ dân cư, các tổ chức kinh tế thông qua kênh huy
động của NHTM, các tổ chức tín dụng, và có thể từ ngân sách nhà nước cho đẩu tư
phát triển. Trong đó công tác huy động vốn trong NHTM đóng vai trò quyết định
và được chú trọng hơn cả.
Công tác huy động vốn trong nền kinh tế thị trường có ảnh hưởng trực tiếp
đến các hoạt động tài chính, tình hình lạm phát và ổn định tiền tệ. Vì nguồn vốn có

vai trò to lớn đối với nền kinh tế như vậy, nên chúng ta cần phải khơi thông các
nguồn vốn cho đầu tư phát triển kinh tế, thông qua các kênh: vốn từ ngân sách
nhà nước, vốn huy động của các tổ chức tín dụng… Trong các kênh trên, vốn từ
ngân sách nhà nước chỉ đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp nhà nước. Nhưng
hiện nay số lượng doanh nghiệp nhà nước đã giảm do việc cổ phần hóa các doanh
nghiệp nhà nước. Vì vậy, việc huy động vốn từ kênh này thường không cao. Bên
cạnh đó, việc huy động vốn còn được thực hiện thông qua kênh tín dụng. Các
doanh nghiệp có thể huy động vốn qua kênh trực tiếp hoặc gián tiếp. Nhưng ở
nước ta phần lớn các doanh nghiệp là doanh nghiệp vừa và nhỏ nên chưa đủ điều
kiện để huy động vốn trực tiếp trên thị trường chứng khoán. Do đó, việc huy động
vốn gián tiếp qua kênh ngân hàng vẫn đóng vai trò quan trọng.
Vậy, việc chú trọng đến các nguồn vốn của nền kinh tế là điều kiện cần thiết
của các ngân hàng khi quan tâm đến sự phát triển chung của nền kinh tế mà ngân
hàng là một trong những thành viên chính góp phần tạo nên sự phát triển đó. Việc
đẩy mạnh công tác huy động vốn cho đầu tư phát triển đang giữ một vị trí đặc biệt
quan trọng.
 Đối với NHTM:
Lê Thị Ngọc Mai- CQ47/15.03 Trang 12
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, vai trò của NHTM ngày càng quan
trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. NHTM cũng là doanh nghiệp nhưng
là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng, nên trong
quá trình chuyền mình cùng nền kinh tế, các NHTM đã chuyển dần sang hạch toán
kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của mình chứ không bao cấp
như trước nữa. Do đó, tinh năng động sáng tạo được khơi dậy, các NHTM có xu
hướng phát triển đa năng. Vì đóng vai trò là trung gian tín dụng, trung gian thanh
toán, là thủ quỹ của nền kinh tế nên NHTM là tác nhân quan trọng trong việc cung
ứng vốn cho nền kinh tế. Các nguồn vốn huy động được sẽ quyết đinh quy mô
cũng như định hướng hoạt động của ngân hàng. Nếu nguồn vốn được coi là yếu tố
đầu vào trong quá trình kinh doanh của một NHTM thì nguồn vốn huy động được

coi là yếu tố đầu vào thường xuyên, chủ yếu nhất của ngân hàng. Ngân hàng thực
hiện các nghiệp vụ tín dụng, đầu tư chủ yếu dựa vào nguồn này.
Nguồn vốn huy động có ảnh hưởng lớn tới kết quả hoạt động kinh doanh
của NHTM. Cụ thể, nếu ngân hàng huy động được nguồn vốn dồi dào với chi phí
thấp nó có thể mở rộng được tín dụng đầu tư và thu được lợi nhuận cao. Ngược lại,
với quy mô hạn chế và chi phí cao thì ngân hàng có thể gặp khó khăn trong hoạt
động kinh doanh của mình. Chi phí hoạt động vốn của ngân hàng liên quan chặt
chẽ với lãi suất tiền gửi các loại, lãi suất tiền gửi tiết kiệm các loại và lãi suất các
công cụ nợ do ngân hàng phát hành.
Nguồn vốn huy động không những giúp cho ngân hàng bù đắp được thiếu hụt
trong thanh toán, tăng nguồn vốn trong kinh doanh mà thông qua huy động vốn,
ngân hàng nắm bắt được năng lực tài chính của khách hàng có quan hệ tín dụng
với ngân hàng. Qua đó, ngân hàng có căn cứ để xác định mức vốn đầu tư cho vay
đối với những khách hàng đó hoặc có thể phát hiện kịp thời tệ tham ô, trốn thuế,
lừa đảo của các doanh nghiệp làm ăn không chính đáng. Từ đó có biện pháp ngăn
chặn và xử lý kịp thời.
Lê Thị Ngọc Mai- CQ47/15.03 Trang 13
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
Cơ cấu nguồn vốn cũng ảnh hưởng trực tiếp tới cơ cấu cho vay của NHTM.
Vốn tự có của ngân hàng chỉ phát sinh khi nhu cầu thanh toán tín dụng cấp bách
còn ngân hàng cho vay chủ yếu bằng vốn huy động được. Nếu một ngân hàng huy
động được vốn trung và dài hạn thì có thể mở rộng nghiệp vụ tín dụng đầu tư dài
hạn. Nhưng hiện nay việc huy động vốn trung và dài hạn chưa đáp ứng được nhu
cầu đầu tư phát triển kinh tế nên một ngân hàng có thể dùng vốn hoạt động ngắn
hạn để cho vay trung và dài hạn nhưng không vượt quá một tỷ lệ nhất định vì điều
đó sẽ dẫn đến nguy cơ mất khả năng thanh toán của ngân hàng.
Bản chất của ngân hàng là đi vay để cho vay hay nguồn vốn ngân hàng huy
động được là nguồn để các doanh nghiệp khác đi vay nên công tác huy động vốn
càng có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Do vậy,
công tác huy động vốn là một mảng hoạt động lớn của các NHTM và nó quyết định rất

lớn đến thành công hay thất bại trong kinh doanh của ngân hàng.
1.2.3 Các phương thức huy động vốn
1.2.3.1 Phân loại theo thời gian huy động
Phân loại theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì
nó liên quan mật thiết đến tính an toàn và khả năng sinh lợi của nguồn
vốn huy động cũng như thời gian phải hoàn trả khách hàng. Theo thời
gian, hình thức huy động được chia thành:
 Huy động ngắn hạn:
Đây là hình thức huy động chủ yếu trong các ngân hàng thương mại thông
qua việc phát hành các công cụ nợ ngắn hạn trên thị trường tiền tệ và các nghiệp
vụ nhận tiền gửi ngắn hạn, tiền gửi thanh toán… Phần lớn số này được dùng để
cho vay ngắn hạn (dưới 1 năm) hoặc được chuyển hoán kỳ hạn để thực hiện cho
vay trung hạn. Do thời gian ngắn nên lãi suất huy động ngắn hạn thường thấp, tuy
nhiên tính ổn định lại kém.
 Huy động trung hạn:
Lê Thị Ngọc Mai- CQ47/15.03 Trang 14
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
Đây là nguồn vốn ngân hàng qua phát hành các công cụ nợ trung hạn trên thị
trường vốn hoặc nhận tiền gửi trung hạn (từ 1 đến 5 năm). Vốn huy động này ngân
hàng có thể sử dụng tương đối dài và thuận tiện. Tuy nhiên lãi suất huy động
nguồn này thường cao hơn nguồn ngắn hạn. Nguồn huy động trung hạn rất quan
trọng và cần thiết để ngân hàng thực hiện các hoạt động đầu tư, thay đổi công nghệ
và cho vay trung, dài hạn với lãi suất cao.
 Huy động dài hạn:
Đây là hoạt động vốn dài hạn của ngân hàng trên thị trường vốn, với nguồn
huy động này ngân hàng có thể sử dụng dễ dàng, có tính ổn định cao (từ 5 năm trở
lên). Do vậy lãi suất mà ngân hàng phải trả cũng rất cao.
1.3.2 Phân loại theo đối tượng huy động
 Huy động từ dân cư:
Đây là một khu vực huy động đầy tiềm năng cho các ngân hàng. Ngân hàng

huy động từ các khoản tiền nhàn rỗi của dân chúng và sau đó chuyển đến cho
những người cần vốn để mở rộng đầu tư, kinh doanh. Nguồn huy động từ dân cư
thường khá ổn định.
 Huy dộng vốn từ các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội:
Đây là nguồn vốn huy động được đánh giá là rất lớn, chiếm tỷ trọng cao trong tổng
nguồn vốn. Để tiết kiệm thời gian và chi phí trong thanh toán, các doanh nghiệp dù lớn hay
nhỏ hầu hết đểu có tài khoản trong ngân hàng. Các doanh nghiệp khi bán được hàng hóa đều
gửi tiền vào ngân hàng và rút ta khi cần. Chu kỳ rút tiền gửi của các doanh nghiệp và các tổ
chức xã hội không giống nhau. Vì vậy ngân hàng luôn có trong tay một khoản tiền lớn mà
mình có thể sử dụng một cách tương đối thuận lợi. Tuy nhiên độ lớn của khoản tiền này phụ
thuộc nhiều vào các dịch vụ, các tiện ích mà ngân hàng mang lại khi khách hàng sử dụng các
dịch vụ. Điều này khiến cho việc huy động vốn từ các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội gắn
liền với việc mở rộng, cải tiến các dịch vụ ngân hàng.
 Huy động vốn từ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác
Lê Thị Ngọc Mai- CQ47/15.03 Trang 15
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
Trong quá trìn hoạt động các ngân hàng thường có các khoản tiền gửi ở lẫn
nhau để thuận tiện trong giao dịch, thanh toán…Ngoài ra việc vay lẫn nhau giữa
các ngân hàng cũng làm tăng nguồn vốn huy động. Điều này tuy không thường
xuyên song là cần thiết trong hoạt động kinh doanh của mỗi ngân hàng thương
mại. Khi xuất hiện việc thiếu hụt dự trữ khả năng thanh toán bị đe dọa… các ngân
hàng thương mại có thể vay lẫn nhau. Quá trình vay này là một thỏa thuận tín
dụng giữa hai bên. Quá trình tăng vốn huy động này có thể được thực hiện ở trên
thị trường nội tệ hay thị trường ngoại tệ. Trong số những người cho ngân hàng vay
có một người đặc biệt. Đó là ngân hàng trung ương. NHTW đóng vai trò là người
cho vay cuối cùng để cứu cho các ngân hàng thương mại khỏi các trục trặc xảy ra.
Huy động vốn từ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác tuy cũng khá dễ dàng
nhưng số lượng thường không nhiều và chi phí huy động thường cao hơn. Do vậy,
hình thức các ngân hàng sử dụng không nhiều.
1.2.3.3 Phân loại theo bản chất các nghiệp vụ huy động vốn

Hình thức phân loại này là hình thức chủ yếu được các ngân hàng thương mại sử
dụng hiện nay. Phân loại theo nghiệp vụ huy động vốn rõ ràng tạo sự thuận tiện cho ngân
hàng khi tiến hành huy động. Các hình thức huy động bao gồm:
 Huy động vốn qua nghiệp vụ nhận tiền gửi:
 Huy động tiền gửi không kỳ hạn
Đây là phần tiền huy động tương đối quan trọng ở những nước phát triển có
tỷ lệ thanh toán không dùng tiền mặt cao. Mục đích của các khoản tiền gửi này
không phải là lấy lãi mà chủ yếu dùng để thanh toán. Khách hàng gửi tiền phần
lớn là những tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp, các cá nhân làm ăn buôn bán phải
thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ liên tục. Người gửi tiền có thể rút tiền ra bất cứ
lúc nào hoặc để chi trả cho người thứ ba. Hình thức rút có thể là tiền mặt hay lấy
qua hình thức thanh toán bằng Séc. Đặc biệt người gửi tiền có thể không cần trực
tiếp đến ngân hàng lấy mà có thể rút qua các máy rút tiền tự động (máy ATM).
Lê Thị Ngọc Mai- CQ47/15.03 Trang 16
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
Ngân hàng thường bảo quản loại tiền gửi này trên hai tài khoản: tài khoản thanh
toán và tài khoản vãng lai. Trong đó:
• Tài khoản thanh toán là loại tài khoản tiền gửi mà chủ tài khoản có
toàn quyền sử dụng số tiền trên tài khoản nhưng chỉ trong phạm vi số
dư tiền gửi. Loại tài khoản này luôn luôn có số dư có.
• Tài khoản vãng lai là tài khoản có thể dư có hoặc dư nợ, thường được
sử dụng cho các tổ chức kinh tế. Số dư có thể hiện tiền gửi của khách
hàng còn số dư nợ thể hiện khoản tín dụng ngân hàng cấp cho khách
hàng vay.
Với mục đích chủ yếu khi gửi tiền là đế sử dụng các dịch vụ ngân hàng nên
mức lãi suất mà ngân hàng trả cho người gửi tiền là rất thấp, thậm chí không phải
trả lãi. Tuy nhiên ở nhiều nước có tỷ lệ thanh toán không dùng tiền mặt thấp (trong
đó có Việt Nam) và để tăng mức động viên tiền gửi, ngân hàng vẫn trả lãi cho tiền
gửi này (có những thời điểm được trả ngang bằng với lãi suất tiền gửi tiết kiệm
không kỳ hạn). Tỷ lệ huy động từ nguồn này sẽ là khá cao nếu ngân hàng có các dịch

vụ đa dạng, sản phẩm ngân hàng chất lượng cao, hệ thống mạng lưới rộng rãi đáp ứng
tốt các nhu cầu của người gửi tiền.
 Huy động tiền gửi có kỳ hạn
Là các tiền gửi của các tổ chức kinh tế, cá nhân gửi vào ngân hàng và rút ra
sau một thời hạn nhất định. Khoản này thường gắn liền với các tổ chức kinh tế có
chu kỳ kinh doanh gần như xác định, thời gian thanh toán tiền ổn định, ít có sự
biến động. Phần tiền gửi này ngân hàng sử dụng dễ dàng nên mức lãi suất mà ngân
hàng phải trả cũng cao hơn. Người gửi tiền ngoài mục đích sử dụng các dịch vụ ngân
hàng còn có mục đích kiếm lời. Do đó, sự thay đổi lãi suất sẽ có tác động rất nhanh và rõ
nét đối với nguồn vốn huy động của ngân hàng.
Ở Việt Nam, hình thức tiền gửi có kỳ hạn bằng các chứng chỉ tiền gửi (mà
chúng ta vẫn gọi là kỳ phiếu ngân hàng có mục đích) với các thời hạn 3 tháng, 6
Lê Thị Ngọc Mai- CQ47/15.03 Trang 17
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
tháng, 1 năm, 2 năm… ngày càng phổ biến, đã và đang phát huy vai trò hay việc
tạo vốn cho các ngân hàng.
Huy động tiền gửi tiết kiệm
Đây là hình thức phổ biến nhất, lâu đời nhất của các ngân hàng thương mại.
Bao gồm các loại sau:
Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Hình thức này gần giống như huy động tiền
gửi không kỳ hạn. Tuy nhiên so với tiền gửi không kỳ hạn thì số dư của phần này
ổn định hơn, ít biến động hơn nên ngân hàng phải trả lãi suất cao hơn.
Tiền gửi tiêt kiệm có kỳ hạn: Đây là loại hình tiết kiệm phổ biến nhất, quen
thuộc nhất ở nước ta. Người gửi tiền gửi vào ngân hàng và rút ra sau những thời
hạn xác định: 1tuần, 2 tuần, 3 tuần, 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng, 4 tháng, 5 tháng, 6
tháng, 7 tháng,…36 tháng. Người gửi không được rút trước, nếu rút trước hạn thì
sẽ bị phạt. Đây là những khoản tiền có tính ổn định rất cao nên ngân hàng phải trả
khách hàng với lãi suất cao nhất. Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay, để tăng sức cạnh
tranh, thu hút được vốn các ngân hàng đã rất linh hoạt trong việc khách hàng rút ra
trước thời hạn. Có ngân hàng thì tính lãi cho khách hàng với lãi suất không kỳ hạn,

có ngân hàng vẫn tính với lãi suất đó với số ngày gửi thực tế…
 Huy động vốn qua nghiệp vụ đi vay
Hình thức này ngày càng chiếm vai trò quan trọng trong môi trường kinh
doanh đầy biến động như hiện nay. Các ngân hàng thương mại có thể vay từ nhiều
nguồn:
 Vay từ các tổ chức tín dụng:
Đó là các khoản vay thông thường mà các ngân hàng vay lẫn nhau trên thị
trường liên ngân hàng hay thị trường tiền tệ. Các ngân hàng xây dựng mối quan
hệ tốt để khi thiếu hụt vốn có thể vay lẫn nhau chứ không vay ngân hàng trung
ương.
 Vay từ ngân hàng trung ương:
Lê Thị Ngọc Mai- CQ47/15.03 Trang 18
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
Khi ngân hàng thương mại xảy ra tình trạng thiếu hụt dự trữ bắt buộc hay mất khả
năng thanh toán thì người cuối cùng mà các ngân hàng có thể cầu cứu là ngân hàng trung
ương. Ngân hàng trung ương cho vay dưới hình thức tái chiết khấu thương phiếu. Các
ngân hàng thương mại có thể mang các thương phiếu lên ngân hàng trung ương để vay.
Tuy nhiên việc vay này cũng có một số khó khăn do ngân hàng trung ương chỉ cho ngân
hàng thương mại một hạn mức tái chiết khấu và việc cho vay này lại nằm trong định
hướng của chính sách tài chính quốc gia. Dẫu sao đây cũng là một hình thức bổ sung vốn
cho ngân hàng thương mại cực kỳ quan trọng trong những thời điểm nhất định.
 Huy động qua phát hành các công cụ nợ:
Đây là hình thức huy động vốn có hiệu quả khá cao của các ngân hàng
thương mại. Trong quá trình hoạt động, ở những thời điểm nhất định, ngân hàng
thấy cần phải huy động thêm vốn trước những cơ hội kinh doanh đầy hấp dẫn.
Điều đó có nghĩa là ngân hàng huy động vốn ở thế chủ động, có nghĩa là có đầu ra
mới tính đầu vào. Ngân hàng xác định rõ quy mô vốn huy động, loại tiền huy động
và đưa ra các mức chi phí hợp lý làm cho việc tạo vốn của ngân hàng thành công
nhanh chóng. Để vay trên thị trường, ngân hàng có thể phát hành kỳ phiếu và trái
phiếu.

Trái phiếu ngân hàng là một giấy tờ có giá, xác nhận khoản nợ của khách
hàng đối với người chủ ngân hàng với những cam kết như thanh toán một số tiền
xác định vào một ngày xác định trong tương lai với thời hạn xác định cho trước.
Trái phiếu được phát hành trong toàn bộ hệ thống ngân hàng, chủ yếu là để huy
động vốn trung và dài hạn.
Kỳ phiếu ngân hàng là một loại giấy tờ nhận nợ ngắn hạn do ngân hàng phát hành
nhằm huy động vốn trong dân, chủ yếu là để phục vụ cho những kế hoạch kinh doanh
xác định của ngân hàng như một dự án, một chương trình kinh tế…
 Huy động vốn qua các hình thức khác:
Để tăng cường huy động vốn nhàn rỗi từ dân cư, các tổ chức kinh tế, các
doanh nghiệp, các ngân hàng thương mại còn sử dụng các hình thức khác về dịch
Lê Thị Ngọc Mai- CQ47/15.03 Trang 19
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
vụ xã hội: làm dịch vụ bảo lãnh, đại lý phát hành chứng khoán, trung gian thanh
toán, đầu mối trong hợp đồng tài trợ… Nền kinh tế càng phát triển, các dịch vụ
trên càng mang lại cho ngân hàng những nguồn huy động lớn giúp cho ngân hàng
có thể kinh doanh một cách an toàn và hiệu quả.
Lê Thị Ngọc Mai- CQ47/15.03 Trang 20
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
1.2 Các nhân tố ảnh hưởng tới tình hình huy động vốn của NHTM
Huy động vốn là một trong những nội dung hoạt động quan trọng của ngân
hàng thương mại. Tuy nhiên thì hoạt động này không phải là hoạt động độc lập mà
có mối quan hệ biện chứng với các hoạt động khác của ngân hàng thương mại.
Hơn nữa với chức năng là một trung gian tài chính, vừa là nơi tập trung vốn, vừa
là nơi phân phối lại tín dụng, do đó mà hoạt động huy động vốn của ngân hàng
thương mại chịu sự ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố khác nhau, cả nhân tố chủ
quan lẫn nhân tố khách quan, các nhân tố này trực tiếp hoặc gián tiệp tác động tới
hoạt động của ngân hàng thương mại
1.2.1 Các nhân tố khách quan
Đây là nhân tố không nằm trong sự kiểm soát của ngân hàng thương

mại, song nó lại tác động lớn tới hoạt động và kết quả kinh doanh của
ngân hàng thương mại nói chung cũng như công tác huy động vốn nói
riêng. Và như vậy, sẽ ảnh hưởng tới chính sách huy động vốn mà ngân
hàng đang thực hiện.
1.2.1.1 Tình hình kinh tế xã hội
Nền kinh tế ổn định, phát triển bền vững, thu nhập bình quân đầu người có
cao, trình độ học vấn của dân cư có cao, xã hội ổn định thì sẽ tạo điều kiện thuận
lợi cho hoạt động và phát triển của ngân hàng thương mại. Bởi khi đó tiết kiệm
trong xã hội sẽ cao, khả năng tin tưởng vào hoạt động của ngành ngân hàng sẽ
ngày càng được nâng lên. Một hệ quả tất yếu là làm cho các thành phần kinh tế sẽ
gửi tiền vào ngân hàng theo từng mục tiêu cụ thể. Và ngược lại nếu trong vùng
kinh tế có tình hình xã hội bất ổn định, tốc độ phát triển của kinh tế còn hạn chế…
Điều này làm cho tiết kiệm trong xã hội đạt mức thấp, thêm vào đó là tâm lý ưa
dùng tiền mặt, chưa có thái độ quan tâm thực sự tới các loại hình dịch vụ mà ngân
hàng cung cấp, và do đó việc thực hiện chính sách huy động vốn của ngân hàng
thương mại gặp nhiều khó khăn.
Lê Thị Ngọc Mai- CQ47/15.03 Trang 21
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
Ngoài ra, chính sách huy động vốn của ngân hàng thương mại còn chịu
những tác động của các nhân tố như tỷ lệ lạm phát của đồng tiền. Sự suy thoái của
nền kinh tế, thậm chí là cả sự phát triển “bong bóng” quá nóng của nền kinh tế.
Các nhân tố này ít nhiều đều có ảnh hưởng tới hoạt động của ngân hàng thương
mại, có nhân tố ảnh hưởng rất mạnh, ảnh hưởng tới sự tồn tại và phát triển của
ngân hàng.
1.2.1.2 Hành lang Pháp lý và chính sách vĩ mô của Nhà nước
Tại mỗi một quốc gia trên thế giới, mọi hoạt động của ngân hàng thương
mại trong đó có hoạt động huy động đều phải chịu sự điều tiết của các chế tài của
luật pháp, và sự điều hành giám sát và quản lý từ phía Ngân hàng Nhà nước, để
phục vụ những mục đích mà Chính phủ ban hành hay Ngân hàng Nhà nước đề ra.
Các ngân hàng thương mại trong trường hợp cần thiết phải tiến hành mua trái

phiếu Chính phủ do Chính phủ phát hành, theo những quy định cụ thể của ngân
hàng Nhà nước. Với mục tiêu an toàn và an ninh tiền tệ của mỗi quốc gia mà Ngân
hàng nhà nước có quy định mức vốn tối đa được phép huy động theo một tỷ lệ
nhất định nào đó so với vốn chủ sở hữu của ngân hàng thương mại. Ngoài ra hoạt
động của hệ thống ngân hàng thương mại còn chịu sự tác động nhiều cơ quan,
nhiều chế tài pháp luật khác, tùy theo mức độ của mối quan hệ trong hoạt động
kinh doanh.
1.2.2 Các nhân tố chủ quan:
Là nhân tố nội tại bên trong ngân hàng, thuộc khả năng kiểm soát của ngân
hàng, so với các nhân tố khách quan, nhân tố chủ quan ảnh hưởng tới tất cả mọi
hoạt động kinh doanh của ngân hàng, trong các hoạt động đó có hoạt động huy
động vốn và chính sách huy động vốn của ngân hàng. Mặt khác, các nhân tố này
mang tính phù hợp với tình hình thực tế hoạt động của ngân hàng, nhất là chính sách huy
động vốn hơn nhân tố khách quan các yếu tố cấu thành bao gồm:
1.2.2.1 Chiến lược kinh doanh của ngân hàng
Lê Thị Ngọc Mai- CQ47/15.03 Trang 22
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
Mỗi ngân hàng phải tự hoạch định cho mình một chiến lược kinh doanh
riêng biệt, phù hợp với các điều kiện bên trong và bên ngoài Ngân hàng. Chiến
lược kinh doanh có tính quyết định tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Ngân
hàng cần phải xác định vị trí hiện tại của mình trong hệ thống, thấy được điểm
mạnh, điểm yếu, thấy được những cơ hội và thách thức. Trên cơ sở đó dự đoán sự
thay đổi của môi trường để xây dựng được chiến lược kinh doanh phù hợp mà
trong đó chiến lược phát triển quy mô và chất lượng nguồn vốn là một bộ phận
quan trọng trong chiến lược tổng thể của ngân hàng. Trong từng thời kỳ, dựa trên
chỉ tiêu được giao về hoạt động huy động vốn, sử dụng vốn và các hoạt động khác
của NHTW cùng với tình hình thực tế của từng ngân hàng, ngân hàng phải lập kế
hoạch và lên cân đối giữa huy động vốn với khối lượng lớn, thời hạn dài thì ngân
hàng sẽ có kế hoạch huy động vốn với lãi suất hấp dẫn, kỳ hạn đa dạng. Còn nếu
nhận thấy trong năm tới ngân hàng cần phải thu hẹp khối lượng tín dụng thì ngân hàng sẽ có

kế hoạch huy động vốn một lượng vốn vừa đủ để tối đa hóa hiệu quả sử dụng vốn.
Mặt khác, trong chiến lược kinh doanh của mình ngân hàng cần đặc biệt
chú trọng vào chi phí vốn mà ngân hàng phải chịu trong khâu huy động. Phải tìm
kiếm nguồn vốn rẻ, thời hạn dài thông qua việc lựa chọn các hình thức huy động
khác nhau, có như vậy ngân hàng mới chủ động trong việc tìm kiếm và sử dụng
vốn.
1.2.2.2 Các hình thức huy động vốn, chất lượng các dịch vụ do ngân hàng cung
ứng, hệ thống các mạng lưới và đổi mới công nghệ Ngân hàng
Một yếu tố ảnh hưởng đến quy mô và chất lượng nguồn vốn huy động là
hình thức, kỳ hạn, các dịch vụ cung cấp, cùng với hệ thống mạng lưới rộng khắp,
sự đổi mới công nghệ tiên tiến… Do nhu cầu của khách hàng khi đến ngân hàng là
khác nhau nên việc thỏa mãn được những nhu cầu đa dạng của khách hàng sẽ góp
phần nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn. Trong nền kinh tế thị trường thì
hiện tượng cạnh tranh là tất yếu, việc đáp ứng nhu cầu khách hàng là điều kiện tiên
quyết để đạt được thắng lợi trong kinh doanh. Một ngân hàng có các hình thức huy
Lê Thị Ngọc Mai- CQ47/15.03 Trang 23
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
động và kỳ hạn huy động vốn phong phú, linh hoạt, thuận tiện hơn sẽ có sức thu
hút khách hàng mới và duy trì những khách hàng hiện có hơn những ngân hàng
khác. Các ngân hàng hiện nay không chỉ huy động tiền gửi tiết kiệm mà còn
khuyến khích người dân gửi tiền dưới nhiều hình thức khác nhau như mở tài
khoản tiền gửi, huy động qua kỳ phiếu, trái phiếu phong phú cả về mệnh giá, kỳ
hạn và chủng loại…
Khi hình thức huy động vốn đa dạng và hấp dẫn thì sẽ làm cho số lượng
người gửi tiền tăng lên và khi đó chi phí huy động sẽ giảm xuống. Hơn nữa, hình
thức huy động vốn phong phú cũng là điều kiện để thu hút những khoản vốn đa
dạng từ nhiều nguồn khác nhau với những tính chất khác nhau về số lượng, chất
lượng và kỳ hạn… Từ đó sẽ giúp ngân hàng sử dụng vốn linh hoạt, an toàn và hiệu
quả hơn.
Một ngân hàng có dịch vụ tốt hiển nhiên sẽ có nhiều lợi thế hơn các ngân

hàng khác. Trong điều kiện kinh tế thị trường các ngân hàng phải phấn đấu nâng
cao chất lượng dịch vụ và đa dạng hóa các dịch vụ để đáp ứng nhu cầu của khách
hàng và tăng thu nhập của ngân hàng. Khác với cạnh tranh về lãi suất, cạnh tranh
về dịch vụ ngân hàng không có giới hạn. Do vậy, đây chính là điểm mạnh để các
ngân hàng vươn lên trong cạnh tranh.
Đổi mới công nghệ ngân hàng nhất là khâu thanh toán. Cùng với việc đổi
mới hoạt động ngân hàng, các ngân hàng thương mại ngày càng chú trọng tới việc
áp dụng khoa học công nghệ hiện đại vào hoạt động ngân hàng, đặc biệt là khâu
thanh toán. Nhờ đó làm cho vốn luân chuyển nhanh, thuận tiện, đảm bảo an toàn
cho khách hàng trong việc gửi tiền, rút tiền và vay vốn. Nếu thực hiện tốt khâu này
thì sẽ hạn chế được việc lưu thông bằng tiền mặt vừa không hiệu quả vừa không
an toàn. Ngoài ra nếu tỷ lệ thanh toán không dùng tiền mặt tăng lên thì ngân hàng
sẽ thu hút được càng nhiều các khoản tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế vào hệ thống
ngân hàng và góp phần làm giảm chi phí in ấn, bảo quản, kiểm đếm…
Lê Thị Ngọc Mai- CQ47/15.03 Trang 24
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
Hiện nay, các ngân hàng đang vận động dân cư mở tài khoản tiền gửi thanh
toán, thực hiện quá trình thanh toán tiền hàng hóa dịch vụ qua tài khoàn tiền gửi
trong đó ngân hàng đóng vai trò là người làm trung gian thanh toán, ngoài ra ngân
hàng còn đưa ra các hình thức huy động vốn thông qua các hình thức hấp dẫn như
tiền gửi tiết kiệm ở một nơi có thể rút ở nhiều nơi, thực hiện thanh toán qua thẻ tín
dụng, thẻ tiền gửi…
Để thực hiện tốt vấn đề này, ngành ngân hàng phải tiếp tục trang bị những
công nghệ hiện đại. Mặt khác, ngân hàng cần nghiên cứu để đưa ra các hình thức
huy động vốn phù hợp. Từ đó tạo cho khâu thanh toán luân chuyển vốn nhanh và
thuận tiện cho công tác kiểm soát.
1.2.2.3 Chính sách lãi suất
Điều đầu tiên mà bất kỳ một cá nhân hay tổ chức kinh tế nào cũng muốn
tham khảo khi gửi tiền vào ngân hàng chính là lãi suất. Vì vậy, chính sách lãi suất
là một trong những chính sách quan trọng nhất trong số các chính sách bổ trợ cho

công tác huy động vốn của ngân hàng. Ngân hàng sử dụng hệ thống lãi suất như là
một công cụ quan trọng trong việc huy động và thay đổi quy mô nguồn vốn thu
hút vào ngân hàng, đặc biệt là quy mô tiền gửi. Để duy trì và thu hút thêm nguồn
vốn, ngân hàng cần phải ấn định mức lãi suất cạnh tranh, thực hiện ưu đãi về lãi
suất cho khách hàng lớn, gửi tiền thường xuyên. Tuy nhiên không phải ngân hàng
cứ đưa ra mức lãi suất cao là thu hút được nhiều nguồn vốn nhàn rỗi của dân cư
mà vấn đề là ở chỗ với mức lãi suất cụ thể mà ngân hàng đưa ra sẽ đem lại cho
người gửi tiền mức lợi tức thực tế là bao nhiêu. Điều đó có nghĩa là mức lãi suất
mà ngân hàng đưa ra phải luôn đảm bảo lớn hơn tỷ lệ lạm phát, do đó ngân hàng
phải dự đoán chính xác tỷ lệ lạm phát trong từng thời kỳ để đưa ra mức lãi suất
hợp lý. Ngoài ra quyết định đưa ra mức lãi suất nào đó còn phụ thuộc vào
một yếu tố khác như thời gian đáo hạn của tiền gửi, khả năng chuyển hoán
giữa các kỳ hạn, mức độ rủi ro và lợi nhuận mang lại từ các khoản đầu tư
Lê Thị Ngọc Mai- CQ47/15.03 Trang 25

×