Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

THU HOẠCH đoàn kết thống nhất trong đảng trong di chúc của chủ tịch hồ chí minh ý nghĩa đối với công tác xây dựng chỉnh đốn đảng cộng sản việt nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.43 KB, 39 trang )

1

THU HOẠCH- Đoàn kết thống nhất trong Đảng trong Di
chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh- ý nghĩa đối với công tác
xây dựng chỉnh đốn đảng Cộng sản Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay

MỞ ĐẦU
Tháng 5/1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu khởi thảo viết
Di chúc. Lúc bấy giờ, đất nước ta đang trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ đầy cam go, khốc liệt và sức khỏe của Người đã yếu.
Năm 1968, Bác viết thêm 6 trang. Tháng 5/1969, Bác viết lại
đoạn mở đầu Di chúc.
Di chúc được công bố một phần trong lễ tang Bác. Thông
báo số 151-TB/TƯ ngày 19/8/1989 của Bộ Chính trị về một số
vấn đề liên quan đến Di chúc và ngày qua đời của Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã khẳng định bản Di chúc cơng bố tháng 9/1969 là
“Bảo đảm trung thành với bản gốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh”.


2

Một số vấn đề như những việc cần làm sau khi cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi, miễn giảm thuế nông
nghiệp một năm cho các hợp tác xã nông nghiệp, cho bà con
nông dân cũng như đề nghị của Người về hỏa táng thi hài chưa
được công bố. Thơng báo của Trung ương đã giải thích rõ lý do
việc này. Vào dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI)
đã quyết định cơng bố tồn bộ các bản Di chúc của Người viết.
Chủ tịch Hồ Chí Minh – Lãnh tụ thiên tài của Đảng ta, dân


tộc ta, trọn đời hy sinh cho sự nghiệp cách mạng vì độc lập dân
tộc, hạnh phúc của nhân dân, vì nhân loại cần lao. Di chúc của
Chủ tịch Hồ Chí Minh là văn kiện lịch sử vơ giá kết tinh những
tinh hoa đạo đức và tâm hồn cao đẹp, những nội dung cơ bản,
những quan điểm cốt yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh, vạch ra
phương hướng phát triển cho cách mạng Việt Nam cả hôm nay
và trong tương lai. Tuy đã đi xa nhưng tình cảm, đạo đức và trí


3

tuệ của Người vẫn mãi dõi theo cùng dân tộc. Di chúc của
Người đã trở thành Cương lĩnh hành động của toàn Đảng, toàn
dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng như
trong công cuộc đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội cơng bằng, dân chủ, văn minh.
Đặc biệt, trong công cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn
Đảng và cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh” hiện nay, chúng ta càng phải nghiên cứu để
quán triệt sâu sắc hơn nữa những tư tưởng về xây dựng Đảng
mà Người đã căn dặn trước lúc đi xa. Với ý nghĩa đó, trong
khuân khổ bài thu hoạch này, tác giả đi vào làm rõ vấn đề
“Đoàn kế,t thống nhất trong Đảng trong “Di chúc của Chủ tịch
Hồ Chí Minh”; ý nghĩa đối với công tác xây dựng., chỉnh đốn
Đảng trong giai đoạn hiện nay”.


4

NỘI DUNG

1. Đoàn kết, thống nhất trong Đảng – vấn đề quan tâm
hàng đầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình xây
dựng Đảng.


5

Lúc sinh thời, trên cương vị Chủ tịch – người đứng đầu
Đảng ta, vấn đề quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh là củng
cố và giữ gìn đồn kết, thống nhất trong Đảng. Ngay từ những
ngày đầu lãnh đạo toàn dân làm cách mạng, trong tác phẩm
“Đường cách mệnh”, Người chỉ rõ: nhiệm vụ hàng đầu của
Đảng cách mệnh là đoàn kết lãnh đạo nhân dân đứng lên làm
cách mệnh; Đảng có đồn kết thống nhất mới có thể lãnh đạo
được nhân dân. Tại Hội nghị thống nhất các tổ chức cộng sản
trong nước thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh
kêu gọi những người cộng sản “Bỏ mọi thành kiến, xung đột
cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm cộng sản”
thành Đảng Cộng sản tập trung thống nhất”[1]. Trong Cương
lĩnh đầu tiên của Đảng do Hồ Chí Minh trực tiếp soạn thảo
cũng thể hiện rõ sự quan tâm hàng đầu của Người đối với vấn
đề đồn kết nhất trí và xây dựng sự đồn kết, nhất trí cao
trong Đảng. Trước lúc đi xa, trong Di chúc, lời Người căn dặn


6

đầu tiên là về Đảng, về sự đoàn kết thống nhất trong Đảng,
Bác viết: “Trước hết nói về Đảng (…) Đoàn kết là một truyền
thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí

từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đồn kết
nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình” [2].
Nhìn ở góc độ số lần đề cập đến vấn đề đoàn kết trong
các bài viết của Người phần nào càng khẳng định rõ hơn sự
quan tâm đặc biệt của Người đối với sự đoàn kết trong Đảng.
Theo số liệu thống kê, trong 1.921 bài viết của Bác có tới 839
bài Bác đề cập đến vấn đề đồn kết thống nhất và có tới 1.809
lần Bác dung từ “đoàn kết”, “đại đoàn kết”. Trong tác phẩm
“Sửa đổi lối làm việc”, vấn đề đoàn kết trong Đảng được Bác
nhắc đi, nhắc lại 16 lần. Trong “Di chúc”,thuật ngữ “đoàn kết”
được Bác nhấn mạnh 7 lần.
Có thể nói rằng đồn kết và giữ gìn sự đồn kết thống nhất
trong Đảng là tư tưởng nhất quán và xuyên thấm từ thời dựng


7

Đảng đến tận phút cuối cùng trọn vẹn của Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Dành sự quan tâm đặc biệt đối với vấn đề đoàn kết thống
nhất trong Đảng, Người đã phân tích, chỉ rõ: Theo quan điểm
của Chủ nghĩa Mác – Lênin: cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng; sự thành công của phong trào công nhân trong mỗi
nước chỉ có thể được bảo đảm bằng sức mạnh của sự thống
nhất và sự tổ chức. V.I.Lênin nhấn mạnh: “Muốn đưa cách
mạng đến thắng lợi, Đảng phải có sự thống nhất ý chí hết sức
chặt chẽ, tuyệt đối; đồn kết là nguồn gốc, sức mạnh chủ yếu,
vô tận và vô địch của Đảng”[3], như vậy, đoàn kết thống nhất
trong Đảng là yêu cầu chung đối với mọi Đảng Cộng sản. Đối
với Đảng ta, đó cịn phải xuất phát từ đặc điểm riêng của Việt
Nam. Đảng ta ra đời ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến, tư

tưởng tiểu nông manh mún, gia trưởng, bè phái, bản vị, địa
phương cục bộ được khoét sâu bởi chính sách chia rẽ của kẻ
thù, Hồ Chí Minh nhận xét: “Lợi dụng một cách xảo trá sự chia


8

cắt ấy, người ta hy vọng làm nguội được tình đoàn kết, nghĩa
đồng bào…, tạo ra những mối xung khắc giữa anh em ruột thịt
với nhau”[4]. Hơn nữa, vào thời điểm ra đời của Đảng, giai cấp
cơng nhân mới có khoảng trên 22 vạn người gồm tất cả các
ngành nghề, trong đó, những người có tay nghề thực thụ (mà
chúng ta quan niệm là cơng nhân hiện đại) chỉ có 893 người. Số
đảng viên là cơng nhân cịn rất ít. Đấy chính là thực tế khách
quan, là đặc điểm đặt ra yêu cầu bức thiết số 1 trong tiến trình
thành lập Đảng cũng như xây dựng Đảng là phải đề cao sự
đoàn kết, thống nhất trong Đảng.
Từ thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Đảng, Chủ
tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đoàn kết là sức mạnh của chúng
ta. Đồn kết chặt chẽ thì chúng ta nhất định có thể khắc phục
mọi khó khăn, phát triển mọi thuận lợi và làm trịn nhiệm vụ
nhân dân giao phó cho chúng ta”. “Nhờ đồn kết chặt chẽ, một
lịng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ


9

quốc, cho nên ngay từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã
đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh
tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”[5].

Như vậy, đoàn kết thống nhất trong Đảng là cội nguồn tạo
nên sức mạnh lãnh đạo cách mạng của Đảng, là nhân tố để
phát huy cao độ trí tuệ và khả năng sáng tạo của những chiến
sĩ tiền phong.
Đoàn kết trong Đảng là cơ sở, nền tảng vững chắc để xây
dựng khối đoàn kết trong nhân dân. Đảng đồn kết, dân tộc
đồn kết và sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân tạo nên
sức mạnh vĩ đại để dân tộc ta vượt qua muôn vàn thử thách,
chiến thắng mọi kẻ thù để đi tới thắng lợi.
Đoàn kết thống nhất là một yêu cầu tất yếu, một thuộc tính
có tầm quan trọng đặc biệt của Đảng, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt
đường lối cách mạng Việt Nam. Từ ý nghĩa quan trọng của vấn
đề nên suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, trên cương vị lãnh


10

đạo Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln quan tâm đến vấn đề
đoàn kết thống nhất trong Đảng. Trước khi đi xa, Người căn
dặn: “các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ
gìn sự đồn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của
mắt mình”.
Theo Hồ Chí Minh, đồn kết trong Đảng phải biểu hiện ở
cả tư tưởng và hành động. Tư tưởng phải thống nhất, hành
động cũng phải thống nhất. Đảng tuy nhiều người, song khi tiến
hành thì chỉ như một người; đồn kết khơng phải là ngồi miệng
mà phải đồn kết trong cơng tác, trong tự phê bình và phê bình
giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, đoàn kết trên nền tảng chủ nghĩa
Mác- Lênin, có lý, có tình, bằng tình cảm cách mạng trong sáng,
tình thương u đồng chí, đồng bào.

Vậy làm thế nào để giữ gìn được sự đồn kết, thống nhất
trong

Đảng?

Ngay từ khi mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rõ


11

mục tiêu, nhiệm vụ là lãnh đạo nhân dân giành độc lập dân tộc,
xây dựng nước Việt Nam hịa bình, thống nhất, dân chủ, giàu
mạnh, xây dựng xã hội công bằng, văn minh, thực hiện thành
công CNXH và cuối cùng là CNCS, hết lòng phục vụ giai cấp,
phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, nên Đảng mới quy tụ được
sức mạnh của toàn Đảng, toàn dân đoàn kết để làm cách mạng
và giành thắng lợi vẻ vang. Điều đó có nghĩa là sự đồn kết
nhất trí trong Đảng chỉ có thể được xây dựng và củng cố khi
Đảng xây dựng được đường lối chiến lược, sách lược đúng
đắn.
Xây dựng đồn kết thống nhất trong Đảng, theo Hồ Chí
Minh cịn cần phải dựa trên nguyên tắc dân chủ tập trung, phải
biết gắn bó dân chủ với tập trung, dân chủ với kỷ luật. Tập trung
không đối lập với dân chủ mà chỉ đối lập với tình trạng tự do tùy
tiện, vơ tổ chức. Cịn dân chủ là để đi đến tập trung. Người chỉ
rõ: “Tập trung trên nền tảng dân chủ … Dân chủ dưới sự chỉ


12


đạo tập trung …Nói tóm lại: Để làm cho Đảng mạnh thì phải mở
rộng dân chủ…, thực hành lãnh đạo tập trung, nâng cao tính tổ
chức, tính kỷ luật”. Chỉ có như vậy, mới tạo cho Đảng sự thống
nhất cao về tư tưởng, ý chí, hành động, vững vàng trong mọi
khó khăn, thử thách.
Để giữ gìn đồn kết thống nhất trong Đảng, Chủ tịch Hồ
Chí Minh rất coi trọng tự phê bình và phê bình. Theo Người,
“thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách
tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của
Đảng”[6]. “Muốn đoàn kết càng chặt chẽ, tiến bộ càng mau
chóng thì mọi người phải sửa chữa khuyết điểm, phát triển ưu
điểm. Mà muốn được như thế thì khơng có cách gì hơn là thật
thà tự phê bình và phê bình”. Trong tác phẩm “Tự phê bình và
phê bình”, Bác viết “Tự phê bình và phê bình là thứ vũ khí sắc
bén nhất giúp cho Đảng ta mạnh và ngày càng mạnh”. Người
còn yêu cầu mọi cán bộ, đảng viên phải có thái độ phê bình và


13

tự phê bình đúng đắn, thẳng thắn, chân thành, khơng nể nang,
thêm bớt, biết tơn trọng nhau và “phải có tình đồng chí thương
u lẫn nhau” để bản thân mình và đồng chí mình cùng tiến bộ,
làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa
xuân, phần xấu mất dần đi.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng chỉ kêu gọi, vận động toàn
Đảng phải đoàn kết thống nhất, tồn dân phải đồn kết, mà
chính Người là hiện thân của tinh thần đại đoàn kết toàn dân
tộc, linh hồn của sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Người đã
thu hút, tập hợp, cảm hóa mọi người bằng chính tấm gương tận

trung với nước, tận hiếu với dân; bằng chính cuộc đời cần,
kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư; bằng tình thương u vơ hạn
đối với con người, trước hết là những người lao động. Sự hài
hòa giữa tư tưởng và hành động, nói ln đi đơi với làm và đạo
đức, nhân cách của Người đã thật sự quy tụ mọi lực lượng


14

trong xã hội, trở thành động lực, sức mạnh đoàn kết, thống nhất
trong Đảng.
2. “Giữ gìn đồn kết thống nhất trong đảng như giữ
gìn con ngươi của mắt mình” - Thực hiện di chúc của
người để xây dựng, chỉnh đốn đảng hiện nay
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ
Chí Minh ln quan tâm, chăm lo, xây dựng và củng cố khối đại
đồn kết, coi đó là vấn đề chiến lược, là cội nguồn sức mạnh, là
gốc rễ của mọi thành công. Trước khi đi vào cõi vĩnh hằng,
Người để lại bản Di chúc thiêng liêng với lời căn dặn phải giữ
gìn đồn kết như giữ gìn “con ngươi của mắt mình”
Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, hơn 40
năm qua, Đảng ta ln coi trọng, chăm lo củng cố, giữ vững
sự đoàn kết nhất trí trong Đảng. Từ thực tiễn gần 25 năm đổi
mới, Đảng ta càng ý thức sâu sắc ý nghĩa to lớn của tư tưởng
đoàn kết, đại đoàn kết Hồ Chí Minh. Kinh nghiệm cho thấy, lúc


15

nào, nơi nào tư tưởng đoàn kết dân tộc và sự đoàn kết, thống

nhất trong Đảng được quán triệt thực hiện nghiêm túc, thì khi
đó, nơi đó cách mạng đạt thành tựu và phát triển. Ngược lại,
ở đâu mất đoàn kết thống nhất thì ở đó nội lực thường bị
phân tán và mất đi mọi tiềm năng, thế mạnh, mất môi trường
thuận lợi để phát triển tài năng của mọi thành viên, đồng thời
mất luôn anh em, bạn bè, đồng chí. Mất đồn kết thống nhất
nội bộ cịn là mất cán bộ, mất của cải, danh dự và niềm tin.
Mất đồn kết thì mất ổn định và phát triển. Vì thế, đoàn kết
thống nhất trong Đảng vừa là điều kiện vừa là mục tiêu để xây
dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh.
Thấm nhuần những lời dạy của Người về công tác xây
dựng Đảng, trong sự nghiệp đổi mới Đảng ta luôn chú trọng đẩy
mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng ta về cả chính trị, tư
tưởng, tổ chức. Đảng ta đã đề ra những quan điểm chỉ đạo hết
sức thiết thực và triển khai thực hiện gắn với những cuộc vận


16

động có hiệu quả. Năm 1999, sau khi có nghị quyết TW 6 lần 2,
khoá VIII về xây dựng và chỉnh đốn Đảng, Bộ Chính trị khố VIII
đã ra quyết định thành lập Tiểu ban Trung ương 6(2) với nhiệm
vụ tham mưu cho Bộ Chính trị và Ban chấp hành Trung ương
chỉ đạo, theo dõi cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Đến ngày 4/1/2002, Bộ chính trị khố IX ra quyết định thành lập
Ban chỉ đạo thực hiện nghị quyết Trung ương 6(2) với nhiệm vụ
giúp Bộ chính trị, Ban Bí thư Trung ương đơn đốc, theo dõi việc
thực hiện kết luận tại Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung
ương khoá IX về tiếp tục thực hiện Nghị quyết trung ương 6(2)
khoá VIII, mà trọng tâm là đẩy mạnh cuộc đấu tranh phịng

chống tham nhũng, lãng phí, chống suy thối về tư tưởng,
chính trị, đạo đức trong Đảng và trong xã hội. Qua 7 năm hoạt
động, Ban chỉ đạo thực hiện nghị quyết Trung ương 6(2) đã
hoàn thành nhiệm vụ được giao, góp phần đáng kể vào những


17

thành tựu đạt được trong cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
Kết quả là Đảng ta ngày càng vững vàng về chính trị, tư
tưởng, trong sạch, vững mạnh tổ chức. Năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng ngày càng được nâng cao, đáp ứng
với yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng. Nội bộ Đảng ngày
càng đoàn kết, dân chủ, trong sạch. Tình trạng tham ơ, tham
nhũng, quan liêu, lãng phí của một bộ phận cán bộ, đảng viên
ngày càng được đẩy lùi. Cán bộ, đảng viên ngày càng thuấm
nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thấm
nhuần đạo đức cách mạng và có ý thức tự giác trong việc học
tập tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Tại Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ X, Đảng khẳng định:
khơng ngừng chăm lo củng cố sự đồn kết thống nhất và tình
đồng chí trong Đảng; thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên
tự phê bình và phê bình. Trong diễn văn kỷ niệm 77 năm ngày


18

thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3-2-1930 – 3-2-2007) và
phát động cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo

đức Hồ Chí Minh”, Tổng Bí thư Nơng Đức Mạnh khẳng định:
Đảng ta cần tiếp tục đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng, xây dựng
Đảng thực sự trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng và
tổ chức, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức cách mạng
trong sáng. Trong đó, nhiệm vụ chủ yếu của cơng tác đổi mới,
chỉnh đốn Đảng là: giữ gìn sự đồn kết nhất trí trong
Đảng….Đảng và Nhà nước Việt Nam đang quyết tâm đẩy mạnh
công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phòng, chống tham
nhũng. Đây là một trong những điều kiện tiên quyết để thực
hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, để
đưa nước ta sớm thốt khỏi tình trạng nước nghèo trước năm
2010 như nghị quyết Đại hội đã vạch ra.
Để xây dựng sự đoàn kết, thống nhất của Đảng theo Di
chúc của Người, chúng ta phải thực hiện tốt một số yêu cầu cơ


19

bản sau: Phải thực hành dân chủ rộng rãi. Nhờ dân chủ mà
Đảng ta đã khơi dậy, phát huy cao nhất trí tuệ, nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình. Nhờ dân chủ mà trong
Đảng đã khắc phục được tình trạng bè cánh, cục bộ, địa
phương chủ nghĩa, quan liêu, hách dịch cửa quyền, xa rời quần
chúng. Thực hành dân chủ rộng rãi nghĩa là phải dân chủ thực
sự, dân chủ thường xuyên, dân chủ từ trung ương đến cơ sở.
Nhưng, dân chủ phải gắn với tập trung. Tập trung dân chủ là
nguyên tắc sống còn và cũng là biện pháp tốt nhất để xây dựng
Đảng ta. Kiên quyết đấu tranh chống lại những biểu hiện trong
thực hành dân chủ hình thức. Lợi dụng dân chủ để truyền bá
những quan điểm, tư tưởng cá nhân, xâm hại đến lợi ích chung,

gây mất đồn kết trong Đảng, trong xã hội.
Thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình.
Tự phê bình và phê bình là nguyên tắc, là quy luật phát triển
của Đảng. Trong Di chúc, Hồ Chí Minh coi đây là biện pháp tốt


20

nhất để củng cố, phát triển sự đoàn kết, thống nhất của Đảng.
Người yêu cầu tự phê bình và phê bình phải thường xun,
nghiêm túc, khơng nể nang, qua loa đại khái, hình thức. Mục
đích của tự phê bình và phê bình là giúp cho bản thân và đồng
đội ngày càng tiến bộ hơn; tuyệt đối khơng vì mâu thuẫn cá
nhân, động cơ cá nhân mà phê bình theo kiểu “vạch lá tìm sâu”,
“bới lơng tìm vết” nhằm trù dập, đấu đá, hạ bệ lẫn nhau. Theo
Hồ Chí Minh, tự phê bình và phê bình là cơng việc thường
xun; ngừng tự phê bình và phê bình tức là ngừng tiến bộ, là
thối bộ.
Phải có tình đồng chí thương u lẫn nhau. Trên cơ sở
tình đồng chí thương u lẫn nhau thì mới thực hành được “dân
chủ rộng rãi”, mới “thường xun và nghiêm chỉnh tự phê bình
và phê bình”. Khơng có tình đồng chí thương u lẫn nhau sẽ
dẫn đến dân chủ hình thức, tự phê bình và phê bình không


21

nghiêm túc hoặc lợi dụng dân chủ, lợi dụng phê bình để trả thù
cá nhân.
Để khơng ngừng củng cố, tăng cường đồn kết nhất trí

trong Đảng, nhất là ở các tổ chức cơ sở đảng hiện nay, chúng
ta cần chú ý làm tốt một số biện pháp chủ yếu đồng bộ với các
yêu cầu như sau:
Một là, Đảng đề ra đường lối chính trị đúng đắn làm cơ sở
để xây dựng đồn kết thống nhất trong Đảng.
Theo Hồ Chí Minh đường lối chính trị và đồn kết thống
nhất trong Đảng có quan hệ mật thiết với nhau. Đường lối chính
trị đúng đắn là cơ sở tạo nên sự đoàn kết, thống nhất trong
Đảng. Thực tiễn phong trào cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chứng minh điều đó.
Đường lối đúng đắn là sự kiên định lí tưởng cách mạng “độc lâp
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”, vì mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.


22

Hai là, tăng cường cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng.
Sự đoàn kết thống nhất trong Đảng trước hết bắt nguồn từ
sự hiểu biết và giác ngộ chính trị của mỗi đảng viên. Vì vậy,
cơng tác tun truyền trong Đảng có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng để nâng cao trình độ nhận thức cho mỗi đảng viên, có
như vậy mới tạo sự đồn kết thống nhất cao. Thơng qua tuyên
truyền của Đảng làm cho làm cho toàn Đảng, cũng như mỗi cán
bộ, đảng viên thấm nhuần sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về
đồn kết nhất trí trong Đảng và tầm quan trọng của việc giữ gìn
đồn kết nhất trí trong Đảng; làm cho đảng viên hiểu đầy đủ,
đúng đắn đường lối để từ đó biết lãnh đạo, tổ chức quần chúng
tiến hành thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng.
Ba là, Thực hiện tốt chế độ tự phê bình và phê bình, kiên

quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân.
Tự phê bình và phê bình khơng những là vũ khí sắc bén
mà cịn là động lực bên trong giúp cho mỗi cán bộ, đảng viên


23

phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm. Tự phê bình và phê
bình phải khách quan, cơng khai, trung thực, chân thành. Hồ
Chí Minh chỉ rõ: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình
là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của
mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét
rõ hồn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm mọi cách để sửa
chữa khuyết điểm. Như thế là một Đảng tiến bộ,…, chân
chính”[7].
Do đó, tự phê bình và phê bình cần tiến hành thường
xuyên như “rửa mặt hàng ngày” và cần tiến hành từ trên xuống,
từ dưới lên. “Mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa,
giúp nhau tiến bộ. Cốt để…đồn kết và thống nhất nội bộ”.[8].
Hồ Chí Minh coi tự phê bình và phê bình là “cách tốt nhất”, hữu
hiệu nhất để phát huy ưu điển, sữa chữa sai lầm, khuyết điểm,
nâng cao đạo đức cách mạng. Người cũng đặc biệt lưu ý rằng
nâng cao đạo đức cách mạng phải đồng thời với kiên quyết


24

chống chủ nghĩa cá nhân, coi như hai mặt của một quá trình tu
dưỡng, phấn đấu của người đảng viên cộng sản.
Bốn là, Tăng cường mở rộng dân chủ trong Đảng, đề cao

tính tổ chức, tính kỷ luật, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân
phụ trách.
Đồn kết nhất trí trong Đảng khơng phải sự đồn kết si
chiều, trái lại đoàn kết được xây dựng trên cơ sở đấu tranh để
đi đến thống nhất về tư tưởng, hành động. Vì vậy nhất thiết
phải mở rộng dân chủ. Mở rộng dân chủ đi đôi với đề cao kỷ
luật, kỷ cương của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Để
làm cho Đảng mạnh, thì phải mở rộng dân chủ, thực hành lãnh
đạo tập trung, nâng cao tính tổ chức kỷ luật”[9]. Dân chủ trong
Đảng là phải làm cho tất cả đảng viên tự do biểu đạt tư tưởng,
nhu cầu, đóng góp ý kiến của mình cho Đảng với ý thức trách
nhiệm cao. Các cấp ủy Đảng phải bảo đảm thực hành dân chủ
từ cơ sở. Mặt khác, cần thực hiện tốt nguyên tắc tập thể lãnh


25

đạo, cá nhân phụ trách nhằm tạo cơ sở đảm bảo sự đoàn kết
thống nhất trong Đảng.
Năm là, Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của
Đảng, phát hiện sớm và kiên quyết giải quyết dứt điểm mọi
hiện tượng gây mất đồn kết trong nội bộ Đảng.
Cơng tác kiểm tra có vai trị đặc biệt quan trọng trong việc
tăng cường khối đồn kết thống nhất trong Đảng. Cơng tác
kiểm tra giúp cho các cấp ủy kịp thời phát hiện và ngăn chặn
nguyên nhân, hiện tượng mất đoàn kết. Đồng thời biểu dương
kịp thời và có biện pháp cụ thể, thiết thực giúp cho các tổ chức
đảng, cán bộ, đảng viên chấp hành nghiêm kỷ luật của Đảng,
giáo dục cán bộ, đảng viên khơng ngừng chăm lo vun đắp cho
khối đồn kết thống nhất trong Đảng. Hồ Chí Minh viết : “Muốn

biết ai ra sức làm, ai làm qua chuyện, chỉ có một cách là khéo
kiểm sốt. Kiểm sốt khéo bao nhiêu khuyết điểm lịi ra hết,
hơn nữa, kiểm sốt khéo về sau khuyết điểm nhất định bớt”[10].


×