Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

THU HOẠCH dân tộc và giải quyết mối quan hệ dân tộc sắc tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.87 KB, 63 trang )

THU HOẠCH-Dân tộc và giải quyết mối quan hệ dân tộc
sắc tộc

MỞ ĐẦU
Dân tộc và giải quyết mối quan hệ dân tộc, sắc tộc là
một trong những vấn đề chiến lược vừa mang tính cấp bách
trước mắt, vừa mang vấn đề cơ bản lâu dài và được đặt ra
trong chương trình nghị sự của nhiều quốc gia ở tất cả các
châu lục với quy mơ, tính chất và mức độ, hình thức khác
nhau. Trong đó, lợi ích dân tộc trở thành tiêu chí quan trọng
nhất trong quan hệ dân tộc và là nguồn gốc nảy sinh những
mâu thuẫn, xung đột dân tộc, sắc tộc, giữa các quốc gia, dân
tộc. Cho nên, Đảng ta đã chỉ rõ một trong những đặc điểm
nổi bật của thế giới hiện nay là: “Đấu tranh dân tộc và đấu
tranh giai cấp tiếp tục diễn ra gay gắt”1. Và dự báo “trong một
vài thập kỷ tới, ít có khả năng xảy ra chiến tranh thế giới.
Nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân
1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. CTQG, H. 2001, tr. 5.


2

tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp lật đổ,
khủng bố còn xảy ra ở nhiều nơi với tính chất phức tạp ngày
càng tăng”2. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X tiếp tục khẳng
định “Vấn đề dân tộc và đồn kết các dân tộc có vị trí chiến
lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta”3. Điều đó
phản ánh mối quan hệ giữa các dân tộc, sắc tộc trên thế giới
nói chung và ở Việt Nam nói riêng hiện nay đang diễn ra hết


sức phức tạp, nhanh chóng và khó lường. Do vậy, việc
nghiên cứu, hiểu rõ tình hình, thực trạng, nguyên nhân, hậu
quả của những mâu thuẫn và xung đột dân tộc, sắc tộc trên
thế giới và ở nước ta hiện nay có ý nghĩa vô cùng quan trọng
trong việc nhận thức đặc điểm xu thế thời đại, xác định quan
điểm chính sách dân tộc, đối ngoại nhằm thực hiện mục tiêu
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
NỘI DUNG

2
3

Sđd, tr. 66.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, H. 2006, tr. 121.


3

1. “Bức tranh mầu xám” của tình hình xung đột dân
tộc, sắc tộc trên thế giới hiện nay
Hiện nay, quan hệ dân tộc, sắc tộc trên thế giới là vấn
đề nóng bỏng, là đặc điểm lớn của thời đại, là vấn đề mang
tính tồn cầu đe doạ nghiêm trọng nền độc lập dân tộc, hồ
bình, ổn định và an ninh thế giới. Điều đó xuất phát từ những
cơ sở khách quan của tình hình thế giới. Thế giới hiện nay có
khoảng 210 quốc gia và vùng lãnh thổ thì có đến trên 190
quốc gia và vùng lãnh thổ là đa dân tộc, sắc tộc, với khoảng
10.000 tộc người, với hơn 3.000 ngơn ngữ khác nhau, chỉ có
khoảng 10 quốc gia, vùng lãnh thổ là đơn tộc. Có những quốc

gia - dân tộc có số lượng tộc người lớn như: Liên Xô (cũ): 130
tộc người, Trung Quốc: 64 tộc người, Việt Nam: 54 tộc người,
Lào: 40 tộc người… Do vậy, quan hệ dân tộc, sắc tộc mang
tính phổ quát, phong phú, phức tạp do chính đặc điểm tộc
người trên thế giới quy định. Thế giới đang chuẩn bị bước
sang thập kỷ thứ hai trong thế kỷ XXI, nhưng chưa có ngày
nào im tiếng súng. Sau khi trật tự hai cực I-an-ta đổ vỡ, thế


4

giới diễn ra những quá trình hợp tác - đấu tranh - xâm nhập
vào nhau và chuyển hóa lẫn nhau vô cùng phức tạp để dần
dần thiết lập một trật tự thế giới mới - trật tự theo hướng đa
cực.
Trong khi đó, thế giới cịn bị chấn động thêm bởi hàng
loạt cuộc xung đột khu vực, xung đội nội bộ. Từ năm 1945
đến nay mặc dù khơng có cuộc chiến tranh thế giới nào xảy
ra, nhưng lại có hơn 60 cuộc chiến tranh vừa và nhỏ bằng vũ
khí thơng thường và cả “vũ khí tinh khơn” - vũ khí cơng nghệ
cao đã làm hàng triệu người bị thiệt mạng. Dường như chiến
tranh lạnh vẫn lấp ló đâu đó chưa chịu rời hẳn thế giới này.
Các cuộc chiến tranh vừa và nhỏ có nhiều hình dạng
khác nhau mỗi nơi một vẻ, nhưng tựu lại, có thể chia thành 7
loại: Chiến tranh khu vực, các cuộc nổi dậy, các hoạt động
khủng bố, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chiến tranh từ những
mâu thuẫn quyền lợi kinh tế giữa các quốc gia dân tộc có chủ
quyền, chiến tranh do những tham vọng chính trị và các cuộc
nội chiến. Các cuộc chiến tranh này đã thay nhau ngự trị



5

khắp nơi. Hầu hết các cuộc chiến tranh nói trên đều bắt đầu
từ vấn đề dân tộc hoặc có liên quan đến vấn đề dân tộc.
Nhiều cuộc chiến tranh có nguy cơ bị kéo dài trong khi nhiều
nguy cơ xung đột mới đang đe dọa hàng triệu dân lành. Có
thể nêu một số điểm nóng tại các khu vực của thế giới trong
giai đoạn gần đây.
Trong quá trình tộc người trong lịch sử luôn diễn ra
theo hai xu hướng: hợp nhất và phân ly, phân tách - là hai xu
hướng khách quan. Tùy từng giai đoạn lịch sử, với những
điều kiện lịch sử, xã hội và tự nhiên nhất định mà xu hướng
nào nổi trội. Theo đó, trong hai thập kỷ trở lại đây, xu hướng
phân tách đang trở thành một trào lưu khá rộng khắp. Nhiều
quốc gia bị xé lẻ, chia nhỏ, nhiều quốc mới được hình thành:
Liên Xơ (cũ) bị chia tách ra làm 15 quốc gia độc lập có chủ
quyền; Nam Tư từ 6 nước cộng hịa, qua chiến tranh “huynh
đệ tương tàn” gần một thập kỷ, nay chỉ cịn 2 nước cộng hịa
Xecbia và Mơngtênêgrơ; trong đó Mơngtênêgrơ và tỉnh
Cơsơvơ của Xecbia đang tiếp tục địi tách ra; Tiệp Khắc chia


6

tách làm 2 nước là Séc và Slôvakia; Đông Timo tách ra khỏi
Inđơnêxia và chính thức trở thành thành viên thứ 189 của
Liên Hợp Quốc tháng 5/2002… đã chứng tỏ xu hướng hợp
nhất, hay tách ra của các quốc gia dân tộc là trào lưu khá
mạnh mẽ.

Cùng với đó, thế giới cũng đang chứng kiến hiện tượng
“phục hưng” tộc người mạnh mẽ. Ý thức tộc người, dân tộc
được thức tỉnh và đi đến đấu tranh đòi các quyền dân tộc, đề
cao độc lập tự chủ, tự quyết, tự cường, chống lại sự can
thiệp áp đặt từ bên ngoài. Đây là một xu thế trong quan hệ
quốc tế giữa các quốc gia dân tộc hiện nay. Như Đảng ta
nhận định: “Các quốc gia độc lập ngày càng tăng cường cuộc
đấu tranh để tự lựa chọn và quyết định con đường phát triển
của mình”4. Tuy nhiên, phong trào ly khai, địi tự trị, “chủ
quyền”, “độc lập” diễn ra ở khắp các châu lục đã gây ra các
cuộc xung đột đẫm máu rất thảm khốc, kéo dài dai dẳng. Đây
là biểu hiện của mâu thuẫn và xung đột dân tộc, sắc tộc trên
4

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. CTQG, H. 2001, tr. 65.


7

thế giới đang có chiều hướng gia tăng, trở nên hết sức nóng
bỏng. Mâu thuẫn xung đột dân tộc, sắc tộc diễn ra khắp thế
giới không phụ thuộc vào khu vực địa lý, thể chế chính trị,
hay trình độ phát triển kinh tế, xã hội. Nó diễn ra ở cả những
nước phát triển hàng đầu thế giới như nhóm G8 đến những
nước nghèo nàn, lạc hậu nhất ở Châu Phi như: Ru-an-đa,
Ru-đa-ni, Cơng gơ, Xu đăng, Ê-ti-ơ-pi-a, Mơ dăm bích.
Hình thức của mâu thuẫn và xung đột dân tộc, sắc tộc
diễn ra dưới nhiều màu sắc khác nhau. Đó là sự xung đột về
văn hóa ngơn ngữ giữa cộng đồng nói tiếng Pháp và cộng
đồng nói tiếng Anh ở bang Quê bếch (Canada) liên tục xảy ra

đấu tranh đòi tách bang này ra khỏi Canada mặc dù đã được
trao quy chế tự trị. Có khi mâu thuẫn, xung đột dân tộc, sắc
tộc diễn ra dai dẳng, âm ỉ, lúc lại gay gắt mang tính chủng tộc
như cuộc xung đột lâu dài đẫm máu do chủ nghĩa phân biệt
chủng tộc A-pac-thai ở Nam Phi gây ra mà tàn dư của nó vẫn
còn ảnh hưởng đến ngày nay giữa những người da trắng với
người da đen ở bản xứ. Có những xung đột về đất đai, lãnh


8

thổ như cuộc tranh chấp đất đai giữa các chủ trại da trắng và
đông đảo nông dân da đen ở Bôtsana hiện nay. Ngay ở nước
Mỹ - nước thường xuyên đi rao giảng “nhân quyền”, “bình
đẳng”, “tự do” thì tình trạng mâu thuẫn và xung đột chủng tộc
vẫn còn khá phổ biến. Vào những năm 60 của thế kỷ XX, ở
các cơng viên và những nơi vui chơi giải trí người ta bắt gặp
những khẩu hiệu “cấm chó và người da đen”; thì nay Chính
phủ Mỹ vẫn đang dung túng cho Đảng 3K - Đảng cực đoan
phân biệt chủng tộc của người da trắng, có những hành vi
ngược đãi, miệt thị đối với người da đen, da đỏ và người
Châu Á nhập cư. Ngồi ra, cịn có nhiều cuộc xung đột giữa
các dân tộc, sắc tộc mang màu sắc tôn giáo như xung đột
giữa tộc người theo đạo Thiên chúa và nhóm tộc người theo
đạo Hồi ở Philipin; giữa người Ấn Độ giáo và người Hồi giáo
ở Ấn Độ và Pakixtan; giữa những người theo đạo Xích và
người theo Phật giáo ở Srilanka… Có nơi, xung đột, mâu
thuẫn dân tộc, sắc tộc trở thành những cuộc nội chiến “nồi da
nấu thịt” như ở Nam Tư; Trecsnha (Nga), ở Apganixtan. Có



9

nơi lan rộng thành chiến tranh có tính chất khu vực như ở
Trung Đông giữa các nước Ả rập với người Ixaren; giữa hàng
chục nước ở vùng Hồ Lớn (Châu Phi). Nhiều cuộc xung đột
dân tộc, sắc tộc đã và đang bị các thế lực bên ngoài lợi dụng,
can thiệp làm tăng thêm mâu thuẫn, xung đột…
Những đặc điểm trên là những cơ sở cho chúng ta thấy
quan hệ dân tộc, sắc tộc trên thế giới là vấn đề rất nóng
bỏng, phức tạp, nhức nhối của nhiều quốc gia, khu vực. Mối
quan hệ dân tộc, sắc tộc đã và đang bùng nổ thành các cuộc
xung đột, chiến tranh cục bộ, khu vực ở những quy mơ, phạm
vi, cường độ, tính chất, mức độ khác nhau, tạo ra rất nhiều
điểm nóng trên thế giới, làm cho tình hình an ninh, hịa bình
thế giới bất ổn định có tác động ảnh hưởng tới tất cả các
quốc gia, dân tộc trên thế giới.
Chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định, muốn xóa bỏ một sự
vật, hiện tượng thì phải xóa bỏ ngun nhân sinh ra nó. Theo
đó, muốn giải quyết triệt để tình trạng xung đột dân tộc trên


10

thế giới hiện nay phải tìm hiểu và triệt tiêu nguyên nhân sinh
ra nó.
2. Một số quan điểm về nguyên nhân xung đột dân
tộc hiện nay
Hiện nay, có rất nhiều quan điểm khác nhau về nguyên
nhân của xung đột dân tộc, trong đó có một số quan điểm

khơng chính thống của các nhà tâm lý học đáng chú ý là:
Mac Duyal thì cho rằng: sự xâm kích khơng phải là
phản ứng có kích thích mà là do ở trong cơ thể con người
ln có xung động có tính bản năng. Do vậy, nó tạo nên đặc
tính xâm kích của con người dẫn đến các cuộc xung đột giữa
các dân tộc là bản năng của con người.
Freud lại cho rằng: nguyên nhân chiến tranh trong lịch
sử nhân loại là do sự thù địch giữa các nhóm là tất yếu và
ln ln tồn tại xung đột lợi ích giữa các dân tộc. Xung đột
này chỉ được giải quyết bằng con đường bạo lực. Quan điểm
của Freud mang tính cực đoan.


11

Lorens thì cho rằng: hành vi của con người trong chiến
tranh hay trong phạm tội là hậu quả của tính bạo lực bẩm
sinh của con người. Nếu như ở động vật, sự hung bạo nhằm
bảo tồn nịi giống thì đối với con người, xâm kích nhằm bảo
vệ nhóm. Đây là quan điểm gần với quan điểm của Freud.
Adorno lại cho rằng: khơng phải ở một dân tộc nào đó có
nhiều nhân cách độc đoán hơn mà những cuộc khủng hoảng
kinh tế, xã hội, những cuộc đảo chính có thể làm cho nhân
cách độc đoán trở nên phổ biến hơn trong một khoảng thời
gian nào đó, ở một đất nước nhất định nào đó. Khi nói đến
xung đột thì khơng phải của cá nhân riêng lẻ nào cả mà của
toàn thể dân tộc, cộng đồng.
Còn Serif lại cho rằng: Từ các quan điểm cho rằng xung
đột dân tộc là sản phẩm của những lợi ích đối lập nhau khi mà
chỉ một trong các nhóm ấy trở thành người chiến thắng và nó

xâm hại đến lợi ích của nhóm cịn lại, ơng đưa ra giả thiết: Sự
phụ thuộc lẫn nhau về chức năng của 2 nhóm ở dạng cạnh tranh
sẽ là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới sự thù địch, thể hiện ở các


12

định khuôn tiêu cực và cao hơn là sự xung đột dân tộc. Bởi thế
cần phải biến quan hệ thù địch giữa các dân tộc thành quan hệ
hợp tác, ngăn ngừa một cuộc chiến tranh thế giới thứ 3.
Theo GS. TS Nguyễn Văn Hiền, Ủy viên Trung ương
Đảng, Tổng giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam cũng đã tiếp cận
một cách khái quát và tương đối toàn diện những nguyên nhân
các cuộc xung đột dân tộc trên các nội dung sau:
Một là, những nguyên nhân lịch sử. Đó là những mâu
thuẫn tích tụ rất lâu hàng thập kỷ trước đây, cũng có thể là
những hận thù sâu xa từ xưa để lại. Bản thân những mâu
thuẫn này cũng có nhiều dạng; mâu thuẫn sắc tộc, tơn giáo,
tư tưởng, lợi ích kinh tế, và cũng có thể là mâu thuẫn nảy
sinh từ nguồn gốc của chủ nghĩa dân tộc sôvanh…
Hai là, khi xu thế độc lập dân tộc được khẳng định, các
dân tộc vừa tự khẳng định, vừa hòa nhập với thế giới tồn
cầu hóa, làm ý chí mỗi dân tộc được củng cố mạnh mẽ hơn.
Từ đó, những vấn đề dân tộc không được thực hiện và không
được chấp thuận thỏa đáng, dễ gây ra bùng nổ.


13

Ba là, vai trò của cộng đồng quốc tế trong việc dập tắt

các lị lửa xung đột cũng có giới hạn; rất nhiều nước, nhiều tổ
chức, nhiều chính khách của thế giới, đặc biệt là Liên hợp
quốc tích cực hoạt động nhưng hiệu quả không cao.
Bốn là, hầu như tất cả các xung đột sắc tộc đó đều
chứa đựng các lợi ích của cả nước trực tiếp tham gia và cả
những nước đứng ngồi. Trong các cuộc xũng đột, khơng ít
những phần tử bên ngồi muốn “đục nước béo cị” để kiếm
chác. Nhiều khi các lực lượng đế quốc núp danh “việc thiện”
để làm “điều ác”.
Năm là, chính chủ nghĩa đế quốc, những kẻ lái súng,
trong khơng ít trường hợp đã “đổ thêm dầu vào lửa”. Để bán
được nhiều vũ khí, nhưng tên lái súng của thế giới hiện đại
khơng bao giờ muốn một thế giới thanh bình. Ngồi miệng thì
chúng rêu rao “hịa bình”, nhưng thực chất bên trong lại xúi
bẩy, tiếp tay hoặc tìm mọi cách gây mất ổn định để có cớ
kiếm chác.


14

Sáu là, sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên
Xơ và Đơng Âu đã có tác động rất lớn đến vấn đề dân tộc.
Gần hai thập kỷ sau khi Liên Xô tan rã, vấn đề dân tộc ở các
nước thuộc Liên Xô trước đây bùng lên tại nhiều nơi. Điều
này chứng tỏ rằng, chính phủ chủ nghĩa xã hội đã giải quyết
rất thành công vấn đề dân tộc. Rằng dưới thể chế xã hội chủ
nghĩa, nếu thực hiện đúng nguyên lý của chủ nghĩa Mác Lênin về vấn đề dân tộc thì các dân tộc, các bộ tộc, các tơn
giáo, các màu da đều có thể sống chung hòa thuận bên nhau
trong tòa nhà xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, sau khi “chiến tranh lạnh” kết thúc, ảnh hưởng

của nhân tố dân tộc, nhân tố tôn giáo trong môi trường quốc
tế ngày càng tăng lên với trào lưu tư tưởng và hoạt động của
chủ nghĩa dân tộc sôi động ở một số khu vực. Các thế lực ly
khai, cực đoan tôn giáo và khủng bố cấu kết, lợi dụng nhau,
càng làm cho vấn đề dân tộc, mâu thuẫn dân tộc có cục diện
ngày càng phức tạp. Trong những năm gần đây, trên thế giới


15

đã xảy ra nhiều cuộc xung đột sắc tộc cướp đi sinh mạng
hàng triệu người ở các quốc gia trên thế giới.
Những quan điểm trên chưa phản ánh đúng đắn, toàn
diện nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến các cuộc
xung đột dân tộc đã xảy ra trong lịch sử, nhất là trong lịch sử
đương đại. Đứng vững trên lập trường, quan điểm của chủ
nghĩa Mác-Lênin và của Đảng ta, đồng thời kế thừa có phê
phán những quan điểm trên, chúng ta có thể nêu một số
nguyên nhân chủ yếu của những cuộc xung đột sắc tộc, đụng
độ giữa các dân tộc, quốc gia như sau:
Một là, do sự bất bình đẳng giữa các dân tộc, chủ nghĩa
phân biệt chủng tộc
Trong chế độ có áp bức bóc lột, giai cấp thống trị (chủ
nô, phong kiến, tư bản) áp bức, bóc lột nhân dân lao động
của các dân tộc trong nước và đi xâm lược, thống trị các
nước, các dân tộc khác, thực hiện chủ nghĩa phân biệt chủng
tộc. Các dân tộc đi nơ dịch tự cho mình thuộc dân tộc thượng
đẳng, xem các dân tộc bị nô dịch là hạ đẳng. Dân tộc thượng



16

đẳng “có khả năng về trí tuệ, tinh thần, sự thơng minh, sáng
tạo”,…, có quyền áp bức và thống trị các dân tộc khác; còn
những dân tộc hạ đẳng do trí tuệ kém phát triển, hèn yếu, dốt
nát, phải phụ thuộc, chịu sự thống trị và phải có sự “khai hóa
văn minh” của những người thượng đẳng mới có thể phát
triển. Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc đặc biệt phát triển trong
chủ nghĩa đế quốc. Nó đã trở thành học thuyết phản khoa
học, biện hộ cho sự thống trị và bóc lột các nước thuộc địa và
phụ thuộc. Chủ nghĩa xã hội khoa học vạch trần tính chất
phản động của chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và đồng thời
đã chỉ rõ sự khác biệt về chủng tộc khơng đóng một vai trò
quan trọng nào trong sự phát triển của các dân tộc. Những
nhà khoa học tiến bộ và chân chính, qua những tài liệu khoa
học không thể chối cãi, đặc biệt là đọc bản đồ gen người, đã
chứng minh sự hoang đường và khơng có căn cứ khoa học
của chủ nghĩa phân biệt chủng tộc.
Phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản đã thức tỉnh ý
thức dân tộc của nhiều dân tộc trên thế giới. Cuộc đấu tranh


17

xóa bỏ hồn tồn chế độ phân biệt chủng tộc phi lý trên thế
giới là cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc chân chính. Một loạt
các dân tộc khơng chịu khuất phục đã đứng lên giành độc
lập. Sự trỗi dậy của các dân tộc thuộc địa, chậm phát triển
trong thế kỷ thứ XX đã dáng một đòn mạnh vào chủ nghĩa
phân biệt chủng tộc. Những thành lũy của chủ nghĩa phân

biệt chủng tộc kiên cố nhất, như chủ nghĩa Apacthai ở Nam
Phi, đã sụp đổ. Nhưng những hình thức khác nhau của hình
thức này cịn tồn tại ở nhiều nơi và cuộc đấu tranh chống lại
sự can thiệp thô bạo của các nước lớn vào công việc nội bộ
đang nổi lên như một yêu cầu bảo vệ độc lập dân tộc của
nhiều quốc gia trên thế giới.
Hai là, nguyên nhân từ chủ nghĩa dân tộc
Chủ nghĩa dân tộc là dự trên sự khẳng định, tuyệt đối
hóa tính biệt lập, đặc thù của mỗi dân tộc,đề cao dân tộc
mình, phủ nhận hoặc xem thường dân tộc khác. Chủ nghĩa
dân tộc biểu hiện dưới hai hình thức: chủ nghĩa sơvanh nước
lớn của dân tộc thống trị mà đặc điểm của nó là miệt thị các


18

dân tộc khác và chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, bế quan tỏa cảng,
ngờ vực dân tộc khác.
Chủ nghĩa dân tộc lớn, chủ nghĩa sôvanh không chỉ
xuất hiện ở các dân tộc đi thống trị, áp bức dân tộc khác, mà
ngay ở một quốc gia, tư tưởng dân tộc lớn có thể xuất hiện ở
dân tộc (tộc người) đa số, có trình độ phát triển cao hơn,
thường là dân tộc nịng cốt, đại diện trong nước đó. Biểu hiện
của nó là sự thiếu tơn trọng hoặc đối xử thiếu bình đẳng với
các dân tộc thiểu số có trình độ phát triển thấp hơn.
Tư tưởng dân tộc lớn trong một quốc gia đa dân tộc
làm tổn thương đến tình đồn kết trong cộng đồng dân tộc, vi
phạm quyền bình đẳng dân tộc, làm nảy sinh những mâu
thuẫn, những xích mích giữa các dân tộc này với các dân tộc
khác, nhất là giữa dân tộc đa số với dân tộc thiểu số, là nguy

cơ dẫn đến xung đột dân tộc. Ở một thái cực khác, chủ nghĩa
dân tộc hẹp hịi có xu hướng khép kín, đóng cửa, biệt lập,
dẫn đến sự bài xích một cách mù qng, khơng muốn tiếp
thu những tinh hoa văn hóa, những mặt tích của dân tộc


19

khác. Chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi cũng làm cản trở bước tiến
của các dân tộc. Có nhiều dân tộc nhỏ yếu, dùng tư tưởng
hẹp hòi như một lá chắn, ngăn chặn ảnh hưởng từ dân tộc
khác…
Ba là, vấn đề dân tộc chưa được giải quyết chưa đúng
đắn
Trong một quốc gia đa dân tộc, nếu như mối quan hệ
giữa các dân tộc, lợi ích dân tộc khơng được giải quyết đúng
đắn thì dễ phát sinh mâu thuẫn và có thể dẫn đến xung đột
kéo dài.
Trong xã hội có gia cấp đối kháng thì tất yếu có sự áp
bức, bóc lột giữ các dân tộc. Ph. Ăngghen viết, một dân tộc đi
áp bức, bóc lột dân tộc khác thì dân tộc đó khơng có tụ do,
bởi vì một thiểu số bóc lột của dân tộc đó đang áp bức, bóc
lột đại đa số nhân dân lao động cùng thuộc dân tộc mình.
Vấn đề dân tộc trong một quốc gia chỉ có thể được giải quyết
khi áp bức, bóc lột giai cấp bị xóa bỏ, xây dựng một xã hội
khơng có chế độ người bóc lột người.


20


Mặt khác, những sai lầm trong chính sách dân tộc, như
không quán triệt đầy đủ những nguyên tắc cơ bản về quyền
dân tộc tự quyết, quyền bình đẳng; trong thực hiện chính
sách kinh tế, xã hội khơng qn triệt đầy đủ đến vấn đề dân
tộc, đến đặc điểm của mỗi dân tộc, dẫn đến những sai lầm,
khuyết điểm, cũng có thể dẫn đến những xung đột dân tộc.
Chẳng hạn dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, ở Liên
Xô trước đây đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong việc giải
quyết các vấn đề dân tộc, thúc đẩy sự xích lại gần nhau của
các dân tộc sống trên đất nước Liên bang Xôviết, mặc dù trong
nhũng giai đoạn và trong những chính sách cụ thể, cũng có
nhưng sai lầm, khuyết điểm nhất định. Nhưng từ khi Liên Xô
tan rã, chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô sụp đổ, các chính
sách phiêu lưu, mạo hiểm của các thế lực đen tối bên trong và
bên ngồi đã kích động, khuyến khích xu hướng ly tâm, ly khai,
thổi bùng lên ngọn lửa thù hằn dân tộc…đang là nguy cơ gây
sự tan rã mới của các nước thuộc Liên Xô cũ. Đó là kéo lùi sự


21

tiến hóa của lịch sử, đi ngược lại chính sách đoàn kết dân tộc
đúng đắn của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Bốn là, do sự can thiệp của các nước đế quốc vì lợi ích
của chúng
Từ bản chất của chủ nghĩa đế quốc, các nước tư bản
ln ln tìm cách can thiệp vào các vấn đề dân tộc và các
cuộc xung đột dân tộc trên thế giới. Điều đó có thể giải thích
được tại sao Mỹ và phương Tây can thiệp thô bạo trong quan
hệ với Irắc, trong việc giải quyết cái gọi là “thanh lọc sắc tộc ở

Côxôvô” thuộc Liên bang Nam Tư cũ, nhưng lại làm ngơ
trước thảm họa diệt chủng ở Campuchia, Ruanda, hoặc tình
trạng đàn áp, ngược đãi các dân tộc thiểu số ở nơi nay, nơi
khác trên thế giới. Thủ đoạn can thiệp quen thuộc của chủ
nghĩa đế quốc vào các nước trong vấn đề dân tộc hiện nay là
kích động xu hướng ly tâm, ly khai, làm suy yếu các quốc gia
đa dân tộc có chủ quyền và tạo cớ để dễ bề can thiệp.
Như vậy, sự bất bình đẳng giữa các dân tộc, chủ nghĩa
dân tộc hẹp hòi, sự giải quyết chưa thỏa đáng vấn đề dân tộc


22

trong một quốc gia, sự can thiệp của các nước đế quốc vào
công việc nội bộ của các nước khác là nguyên nhân dẫn đến
mâu thuẫn, xung đột giữa các dân tộc trên thế giới đang tăng
lên. Sự thức tỉnh của ý thức dân tộc và đấu tranh giành
quyền bình đẳng, xây dựng quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa
các dân tộc là nhằm thủ tiêu vĩnh viễn sự áp bức dân tộc trên
thế giới. Xét đến cùng, mâu thuẫn và xung đột dân tộc, sắc
tộc bao giờ cũng xuất phát và mang nội dung lợi ích giai cấp
và dân tộc, bị kích động bởi chủ nghĩa dân tộc cực đoan, dân
tộc sô vanh, dân tộc ly khai, dân tộc hẹp hịi, phân biệt chủng
tộc… Do vậy, chỉ có đứng trên quan điểm lập trường của giai
cấp công nhân mới nhận thức và giải quyết một cách đúng
đắn vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc, sắc tộc, mới xóa bỏ
tận gốc những mâu thuẫn, xung đột dân tộc, sắc tộc.
Như vậy, các cuộc xung đột dân tộc trên thế giới xảy ra
cố nhiên có nhiều nguyên nhân, song những nguyên nhân
được chỉ ra ở trên là những nguyên nhân cơ bản nhất, chúng

có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động và thâm nhập vào


23

nhau làm cho các cuộc xung đột dân tộc trở nên gay go, phức
tạp, diễn biến khó lường. Xét trên một bình diện chung, những
xung đột dân tộc nảy sinh là do mâu thuẫn về lợi ích. Trong một
quốc gia đa dân tộc, nhất là các quốc gia phát triển theo con
đường tư bản chủ nghĩa, các dân tộc lớn thơng qua đại biểu
của mình, giữ vị trí thống trị trong cơ cấu quyền lực, dẫn đến
chi phối nhất định về phân phối của cải vật chất, ban hành các
quy chế pháp lý có lợi cho mình, làm các dân tộc thiểu số bị
thiệt thòi buộc họ phải đứng lên đấu tranh địi lại những quyền
lợi. Bên cạnh đó, ở nhiều quốc gia, xung đột giữa các dân tộc
là do những vấn đề về lịch sử và âm mưu của chủ nghĩa đế
quốc mới. Với học thuyết “một quốc gia, một dân tộc”, chúng
gây ra chia rẽ, xung đột, kích động chủ nghĩa ly khai, mục đích
tạo ra các cuộc chiến tranh giúp chúng được hưởng lợi ích từ
những xung đột, mâu thuẫn đó.
3. Một số biện pháp nhằm giải quyết có hiệu quả
xung đột dân tộc trên thế giới hiện nay


24

Dân tộc và quan hệ giữa các dân tộc trong mỗi quốc
gia và trên thế giới là những vấn đề rất quan trọng và rất
nhạy cảm. Chủ nghĩa tư bản với bản chất áp bức, bóc lột và
bất cơng khơng thể giải quyết triệt để vấn đề dân tộc và

không thể đưa các dân tộc đến một xã hội bình đẳng, hữu
nghị và hợp tác. Dựa trên cơ sở tư tưởng của C. Mác và Ph.
Ăngghen về vấn đề dân tộc; dựa vào sự tổng kết kinh nghiệm
đấu tranh của phong trào cách mạng thế giới và cách mạng
Nga; phân tích sâu sắc hai xu hướng khách quan của phong
trào dân tộc gắn liền với quá trình phát triển của chủ nghĩa tư
bản, nhất là khi đã bước vào giai đoạn đế quốc chủ nghĩa,
V.I. Lênin đã khái quát lại thành “Cương lĩnh dân tộc” của
Đảng cộng sản. Trong tác phẩm Về quyền dân tộc tự quyết,
Người nêu rõ: Các dân tộc hồn tồn bình đẳng, các dân tộc
được quyền tự quyết, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc
lại.
Một là, các dân tộc hồn tồn bình đẳng


25

Đây là quyền thiêng liêng của các dân tộc trong mối
quan hệ giữa các dân tộc. Các dân tộc hoàn tồn bình đẳng
có nghĩa là: các dân tộc lớn hay nhỏ (kể cả bộ tộc và chủng
tộc) không phân biệt trình độ phát triển cao hay thấp đều có
nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau; không một dân tộc nào
được giữ đặc quyền đặc lợi và có quyền đi áp bức bóc lột
dân tộc khác, thể hiện trong luật pháp của mỗi nước và luật
pháp quốc tế.
Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng
giữa các dân tộc phải được pháp luật bảo vệ và được thể
hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó việc
phấn đấu khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh
tế, văn hoá do lịch sử để lại có ý nghĩa cơ bản.

Trên phạm vi giữa các quốc gia - dân tộc, đấu tranh cho
sự bình đẳng giữa các dân tộc trong giai đoạn hiện nay gắn
liền với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc,
chủ nghĩa sôvanh; gắn liền với cuộc đấu tranh xây dựng một
trật tự kinh tế thế giới mới; chống sự áp bức bóc lột của các


×