Tải bản đầy đủ (.pdf) (227 trang)

(LUẬN văn THẠC sĩ) phản biện chính sách công ở việt nam từ thực tiễn các tỉnh miền trung, tây nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.91 MB, 227 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

CAO TIẾN SỸ

PHẢN BIỆN CHÍNH SÁCH CƠNG
Ở VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN CÁC TỈNH
MIỀN TRUNG, TÂY NGUYÊN

LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH CƠNG

HÀ NỘI - 2019

download by :


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

CAO TIẾN SỸ

PHẢN BIỆN CHÍNH SÁCH CƠNG
Ở VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN CÁC TỈNH
MIỀN TRUNG, TÂY NGUYÊN
Chuyên ngành : Quản lý hành chính cơng


Mã số

: 62 34 82 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH CƠNG

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS Nguyễn Hữu Hải
2. TS. Trần Trọng Đức

HÀ NỘI - 2019

download by :


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên
cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận
án là trung thực. Những kết luận khoa học của
luận án chưa từng được ai cơng bố trong bất
kỳ cơng trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Cao Tiến Sỹ

download by :


MỤC LỤC
Trang

MỞ ĐẦU

1

Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ PHẢN BIỆN
CHÍNH SÁCH CƠNG

7

1.1.

Các cơng trình nghiên cứu về phản biện xã hội

7

1.2.

Các cơng trình nghiên cứu về phản biện chính sách cơng

19

1.3.

Những kết quả nghiên cứu đã đạt đƣợc

32

1.4.

Những vấn đề đặt ra cần đƣợc nghiên cứu làm sáng tỏ trong luận án


36

Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHẢN BIỆN CHÍNH SÁCH CƠNG

38

2.1.

Khái niệm phản biện xã hội và phản biện chính sách cơng

38

2.2.

Tính tất yếu khách quan của phản biện chính sách cơng

49

2.3.

Vai trị của phản biện chính sách cơng

62

2.4.

Quy trình, hình thức, cơng cụ và ngun tắc phản biện chính sách cơng

65


2.5.

Các yếu tố ảnh hƣởng và điều kiện đảm bảo chất lƣợng, hiệu quả
phản biện chính sách cơng

72

Chƣơng 3: THỰC TRẠNG PHẢN BIỆN CHÍNH SÁCH CÔNG TẠI CÁC
TỈNH THUỘC KHU VỰC MIỀN TRUNG, TÂY NGUYÊN

3.1.

80

Khái quát chung về kinh tế - xã hội các tỉnh thuộc khu vực miền
Trung, Tây Nguyên

80

3.2.

Thực trạng khung pháp lý về phản biện chính sách cơng

82

3.3.

Hoạt động phản biện chính sách cơng tại các tỉnh thuộc khu vực
miền Trung, Tây Ngun


3.4.

91

Thực trạng về quy mơ, phạm vi, hình thức, cơng cụ và quy trình vận
hành hoạt động phản biện chính sách cơng tại khu vực miền Trung,
Tây Ngun

3.5.

103

Những vấn đề đặt ra đối với phản biện chính sách cơng ở Việt
Nam hiện nay từ thực tiễn khu vực miền Trung, Tây Nguyên

download by :

123


Chƣơng 4: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG PHẢN BIỆN CHÍNH
SÁCH CƠNG Ở VIỆT NAM

128

4.1.

Quan điểm định hƣớng nâng cao chất lƣợng phản biện chính sách cơng


128

4.2.

Giải pháp nâng cao chất lƣợng phản biện chính sách cơng

131

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

161

DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CƠNG BỐ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

166

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

167

PHỤ LỤC

174

download by :


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


HĐND

: Hội đồng nhân dân

KH&CN

: Khoa học và công nghệ

KH&KT

: Khoa học và kỹ thuật

MTTQ

: Mặt trận Tổ quốc

MTTQVN : Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
PBCSC

: Phản biện chính sách cơng

PBXH

: Phản biện xã hội

UBND

: Ủy ban nhân dân

UBTVQH


: Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội

VBQPPL

: Văn bản quy phạm pháp luật

TCXH

: Tổ chức xã hội

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

download by :


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Trang

bảng
1.1

Đặc trƣng của tham gia công dân


26

2.1

Thang bậc tham gia công dân

55

2.2

Sự tham gia của cơng dân, NGOs trong chu trình chính sách ở

61

châu Âu
2.3

Khung khổ lựa chọn hình thức tham vấn, phản biện chính sách

67

2.4

Tham vấn cơng của NGOs trong tiến trình chính sách

68

2.5


Các cấp độ, hình thức và cơng cụ trong phản biện chính sách

71

download by :


DANH MỤC CÁC HÌNH
Số hiệu

Tên hình

Trang

hình
1.1

Tam giác sắt (Iron Triangle)

21

1.2

Cụm quyền lực (Power Clusters)

22

2.1

Thang bậc tham gia công dân (Ladder of Citizen Participation)


54

2.2

Cấp độ tham gia

56

2.3

Chu trình chính sách cơng

57

2.4

Quy trình phản biện chính sách cơng

66

2.5

Quan hệ giữa tổ chức xã hội và nhà nƣớc

76

3.1

Mơ hình hoạch định chính sách công theo đa số


108

3.2

Các bƣớc xây dựng và thực hiện chính sách

111

3.3

Mơ hình chi tiết quy trình phản biện gián tiếp

114

3.4

Phản biện trực tiếp của nhân dân trong quy trình chính sách

118

3.5

Mơ hình chi tiết quy trình phản biện trực tiếp

121

4.1

Mơ hình đổi mới chi tiết quy trình phản biện gián tiếp


138

4.2

Mơ hình đổi mới chi tiết quy trình phản biện trực tiếp

142

4.3

Quy trình chung

147

4.4

Yêu cầu phản biện trong các bƣớc chính sách

148

download by :


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận án
Chính sách cơng là cơng cụ định hƣớng q trình phát triển kinh tế, xã hội
của nhà nƣớc; hệ thống chính sách của một quốc gia có hợp lý hay khơng sẽ quyết

định đến sự phát triển hay suy thoái của cả nền kinh tế hoặc của từng vùng, từng địa
phƣơng. Để có đƣợc những chính sách tốt, bên cạnh chủ trƣơng, đƣờng lối đúng thì
việc huy động sự tham gia, đóng góp của cộng đồng vào q trình chính sách đƣợc
xem là giải pháp tích cực giúp hạn chế ý chí chủ quan, lợi ích nhóm trong hoạch
định chính sách. Đồng thời, tạo nên sự đồng thuận xã hội về mục tiêu, biện pháp
thực thi và chuẩn bị về tƣ tƣởng, dƣ luận xã hội ủng hộ cho việc triển khai chính
sách. Giúp phát hiện những điểm mù chính sách và là căn cứ thực tiễn để đo lƣờng,
đánh giá chính sách; phát huy dân chủ, tạo điều kiện để nhân dân tham gia tích cực
hơn vào hoạt động quản lý nhà nƣớc.
Trên thực tế, công tác xây dựng và thực thi chính sách cơng ở nƣớc ta
những năm qua cịn những hạn chế nhƣ: xác định mục tiêu, biện pháp chính sách
chƣa sâu sát với tình hình thực tiễn; việc huy động trí tuệ, nguồn lực xã hội vào q
trình xây dựng và thực thi chính sách chƣa cao, nhất là việc thu hút trí tuệ, nguồn
lực của nhân dân vào hoạch định, thực thi chính sách cịn chƣa đƣợc coi trọng.
Những bất cập này đã làm ảnh hƣởng không nhỏ đến chất lƣợng và hiệu quả của
các chính sách cơng cũng nhƣ các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội.
Một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến hạn chế trên trên là hoạt động
tham vấn, phản biện xã hội (PBXH) đối với quá trình xây dựng và thực thi chính
sách của các cấp chính quyền chƣa đƣợc đặt đúng tầm mức; thiếu cơ chế, biện pháp
thích hợp để tạo nên sự thống nhất cao trong xã hội. Hoạt động phản biện chính
sách cịn bó hẹp trong các tổ chức thuộc hệ thống chính trị, thiếu sự tham gia tích
cực của ngƣời dân. Thực tế cho thấy những chính sách nào có sự tham vấn, PBXH
rộng rãi, cơng khai, dân chủ đều tạo đƣợc sự đồng thuận và mang tính khả thi cao.
Phản biện chính sách cơng (PBCSC) là hoạt động PBXH của công dân và
tổ chức xã hội (TCXH) đối với tồn bộ q trình hoạch định và thực thi chính sách
cơng của nhà nƣớc, từ bƣớc khởi sự đến quy phạm hóa chính sách thành văn bản

download by :



2
pháp lý, tổ chức thực hiện, đánh giá và kết thúc chu trình chính sách. Năng lực phản
biện của xã hội và hiệu quả PBCSC tỷ lệ thuận với chất lƣợng chính sách. Khơng
thể có chính sách tốt nếu thiếu sự tham gia phản biện tích cực và hiệu quả của ngƣời
dân trong tồn bộ q trình chính sách. Tiến trình cải cách nền hành chính nhà nƣớc
theo hƣớng trong sạch, vững mạnh, hiệu lực và hiệu quả tất yếu dẫn đến việc mở
rộng sự tham gia của ngƣời dân vào cơng việc của chính quyền. Thực hiện phản
biện đối với q trình hoạch định và thực thi chính sách cơng sẽ nâng cao tính minh
bạch và trách nhiệm giải trình của nền hành chính, xây dựng nền hành chính cơng
thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Nghiên cứu về PBCSC đã tồn tại và phát triển từ lâu trên thế giới. Có nhiều
hƣớng tiếp cận vấn đề này: từ phía khoa học chính trị, khoa học pháp lý, khoa học
chính sách, khoa học hành chính, xã hội học... Với nhiều kinh nghiệm, thành tựu có
thể vận dụng vào thực tiễn nƣớc ta. Song do tính đặc thù của chính sách cơng ở mỗi
quốc gia nên khơng thể máy móc, áp đặt mơ hình, phƣơng thức tổ chức hoạt động
phản biện chính sách một cách khiên cƣỡng, mà phải xuất phát từ những giá trị
chung, phổ quát nhất của hoạt động phản biện chính sách và tổng kết thực tiễn để
xây dựng mơ hình, cơ chế phù hợp với điều kiện của đất nƣớc.
Hoạt động nghiên cứu về PBCSC ở nƣớc ta cũng còn khá mới mẻ, kết quả
nghiên cứu còn hết sức khiêm tốn và cũng chỉ tập trung trên một vài khía cạnh,
phƣơng diện nhất định. Thực tiễn xây dựng, thực thi chính sách cơng ở nƣớc ta hiện
nay địi hỏi phải có những nghiên cứu chuyên sâu về PBCSC nhằm cung cấp cơ sở
khoa học cho yêu cầu nâng cao chất lƣợng xây dựng, thực thi và quản lý, đổi mới
chính sách. Từ những lý do trên, nghiên cứu sinh chọn đề tài nghiên cứu "Phản
biện chính sách cơng từ thực tiễn các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên" cho luận án
khoa học của mình với mong muốn đóng góp thêm về lý luận và thực tiễn cho hoạt
động PBCSC ở Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Mục đích của đề tài luận án là luận giải một cách khoa học về PBCSC;

đánh giá thực trạng PBCSC ở nƣớc ta; đề xuất hệ thống giải pháp đổi mới phƣơng
thức PBCSC hiện nay nhằm nâng cao chất lƣợng PBCSC ở Việt Nam. Qua đó nâng

download by :


3
cao chất lƣợng, hiệu quả xây dựng và thực thi chính sách trong hoạt động quản lý
hành chính cơng ở nƣớc ta.
2.2. Nhiệm vụ
Khái quát tình hình nghiên cứu về PBCSC trong và ngồi nƣớc, từ đó chỉ ra
những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu trong đề tài luận án.
Hệ thống hóa lý luận về PBCSC, bổ sung lý luận cho hoạt động PBCSC ở
nƣớc ta.
Phân tích, đánh giá tình hình thực tiễn về hoạt động PBCSC ở Việt Nam nói
chung, các tỉnh thuộc miền Trung, Tây Nguyên nói riêng để tìm kiếm những
nguyên nhân ảnh hƣởng đến chất lƣợng phản biện chính sách ở nƣớc ta.
Đề xuất đổi mới quy trình PBCSC và giải pháp nhằm nâng cao chất lƣợng,
hiệu quả hoạt động phản biện chính sách ở nƣớc ta trong thời gian tới.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài luận án đƣợc xác định là hoạt động
PBCSC của các chủ thể: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (MTTQVN), Liên hiệp các hội
khoa học và kỹ thuật (KH&KT) Việt Nam tại một số tỉnh, thành phố thuộc khu vực
miền Trung, Tây Nguyên; hoạt động PBCSC của ngƣời dân trong khu vực.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu về nội dung, hình thức, phƣơng pháp và các điều kiện đảm bảo
cho hoạt động PBCSC, cụ thể:
Nghiên cứu các lý thuyết, tƣ tƣởng, mơ hình PBCSC trên thế giới, hoạt

động PBCSC tại một số quốc gia tiêu biểu.
Nghiên cứu nội dung hoạt động PBCSC ở Việt Nam, bao gồm: Hệ thống
quan điểm, chủ trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc về chính sách cơng và PBCSC. Quy
định pháp luật Việt Nam về PBXH, PBCSC. Nghiên cứu về chủ thể, quy trình,
phƣơng thức tổ chức PBCSC hiện nay.
- Phạm vi khơng gian
Ngồi nƣớc: Nghiên cứu hoạt động PBCSC của các quốc gia Hoa Kỳ, Canada,
Vƣơng quốc Anh, Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore.

download by :


4
Trong nƣớc: Nghiên cứu hoạt động PBCSC của MTTQVN, Liên hiệp các
hội KH&KT Việt Nam và ngƣời dân tại 06 tỉnh thuộc khu vực miền Trung, Tây
Nguyên (trong đó: 2 tỉnh Tây Nguyên là Kon Tum và Gia Lai; 4 tỉnh, thành phố
miền trung là Quảng trị, Đà Nẵng, Phú Yên và Bình Định). Nghiên cứu xã hội học
hoạt động tham vấn, phản biện chính sách của ngƣời dân tại 6 địa phƣơng trên.
- Phạm vi thời gian
Các hoạt động PBCSC trong nƣớc từ năm 2010 đến nay.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Đề tài dựa trên phƣơng phƣơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử; căn cứ vào nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh; quan điểm, đƣờng lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng nhà
nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân để tiếp cận vấn đề nghiên cứu. Theo đó, mơi trƣờng kinh tế, văn hóa, xã hội;
dân trí, nguồn nhân lực, đội ngũ trí thức; thể chế chính trị, pháp lý, hành chính;
cơng nghệ và phƣơng thức giao tiếp xã hội; quy mô, chất lƣợng, năng lực tham gia
của công dân, các TCXH; phƣơng thức xây dựng và thực thi chính sách cơng sẽ

quyết định nội dung, quy mơ, hình thức, phƣơng pháp, chất lƣợng và mức độ tham
gia PBCSC của công dân và TCXH. Việc nghiên cứu, làm rõ các yếu tố này trên
bình diện lý luận sẽ định hình cơ sở khoa học, khung lý thuyết cho việc triển khai
nghiên cứu thực tiễn của đề tài. Nghiên cứu thực tiễn sẽ chỉ ra khoảng trống lý luận,
những tồn tại, bất cập của hệ thống tổ chức thực hiện PBCSC, những rào cản, hạn
chế đối với hoạt động này. Trên cơ sở đó, đề xuất bổ sung lý luận, các giải pháp đổi
mới về thể chế quản lý; nội dung, mơ hình, hình thức, phƣơng pháp PBCSC, đáp
ứng địi hỏi của thực tiễn.
4.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
Nghiên cứu lý thuyết, sử dụng phƣơng pháp thống kê để tập hợp, phân
loại thông tin, tƣ liệu về hoạt động PBCSC ở nƣớc ngồi và trong nƣớc để hình
thành các tài liệu sơ cấp của luận án. Sử dụng phƣơng pháp so sánh, phân tích
định tính và định lƣợng để nghiên cứu bản chất vấn đề, hình thành các tài liệu thứ
cấp. Sử dụng cơng cụ phân tích SWOT để đánh giá thực trạng, mặt mạnh, mặt yếu

download by :


5
trong hoạt động PBCSC ở Việt Nam, tổng hợp hóa và rút ra các kết luận, kiểm
định lý thuyết.
Nghiên cứu thực địa, sử dụng 600 phiếu điều tra xã hội học để thu thập
thông tin tại 06 địa bàn nghiên cứu, bao gồm các nhóm đối tƣợng: cán bộ, cơng
chức, viên chức và ngƣời lao động; độ tuổi từ 30-60, trình độ học vấn từ cấp III trở
lên. Sau đó sử dụng: Lƣợc đồ thông tin thu thập để phân loại, hệ thống hóa thơng
tin, sử dụng phần mềm SPSS để thống kê, xử lý số liệu thu thập đƣợc.
Dựa trên các kết quả này, sử dụng phƣơng pháp trừu tƣợng hóa, mơ hình
hóa để nhận diện, xác lập chủ thể, mơ hình, cơ chế PBCSC tại Việt Nam và phát
hiện lý luận.
5. Giả thuyết khoa học của luận án

Phản biện chính sách cơng là hình thức kiểm sốt quyền lực nhà nƣớc bằng
trí tuệ xã hội và là thành tố của q trình xây dựng, thực thi chính sách cơng. Đồng
thời là một hình thức tham gia cơng phổ biến trong mọi nền hành chính cơng trên
thế giới. Thực hiện tốt phản biện chính sách sẽ giúp minh bạch hóa, nâng cao chất
lƣợng, hiệu quả chính sách và thúc đẩy sự tham gia tích cực của nhân dân vào hoạt
động quản lý nhà nƣớc, quản trị xã hội. Đảm bảo sự cân bằng giữa xã hội, nền kinh
tế thị trƣờng và nhà nƣớc, cũng nhƣ sự cân bằng nội tại của hệ thống chính sách
cơng. PBCSC ở Việt Nam hiện nay còn nhiều hạn chế nhƣ: Khung pháp lý chƣa
đầy đủ và kém hiệu quả. Năng lực phản biện của các chủ thể, cơ chế hoạt động còn
nhiều bất cập; cơ chế tiếp nhận và xử lý thông tin phản biện chính sách chƣa đƣợc
pháp lý hóa một cách rõ ràng, đồng bộ. Thiếu quy trình PBCSC hợp lý, rõ ràng, có
tính xã hội cao làm cơ sở huy động có hiệu quả sự tham gia của ngƣời dân vào hoạt
động chính sách. Các điều kiện đảm bảo chất lƣợng, hiệu quả cho PBCSC chƣa đáp
ứng đƣợc yêu cầu.
Từ thực tiễn trên, câu hỏi đặt ra đối với nghiên cứu PBCSC trong luận án là:
Tiền đề lý luận và thực tiễn của PBCSC ở Việt Nam là gì? Vai trị của nó trong xây
dựng, thực thi chính sách cơng; trong việc xây dựng nền hành chính nhà nƣớc phục
vụ, trong sạch và hiện đại? Phản biện chính sách ở nƣớc ta nên tổ chức nhƣ thế nào?
Mơ hình, quy trình, hình thức và phƣơng pháp phản biện chính sách nào phù hợp
với thực tiễn Việt Nam? Các yếu tố ảnh hƣởng và điều kiện đảm bảo?

download by :


6
Làm rõ các vấn đề trên sẽ cung cấp cơ sở lý luận và căn cứ thực tiễn cho
việc xây dựng quy trình PBCSC phù hợp, đổi mới cơ chế hoạt động phản biện chính
sách, hồn thiện khung pháp lý, nâng cao năng lực phản biện của các chủ thể. Nhằm
nâng cao chất lƣợng, hiệu quả của hoạt động chính sách nói riêng và quản lý hành
chính cơng nói chung.

6. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
Là cơng trình nghiên cứu chun sâu về PBCSC, luận án có những điểm
mới sau:
Hồn thiện cơ sở lý luận về PBCSC: Luận chứng vai trò, ý nghĩa, tác dụng
của PBCSC trong kiểm soát quyền lực nhà nƣớc; thực hành quyền dân chủ của nhân
dân trong xây dựng và thực thi chính sách cơng với tƣ cách là một hình thức tham
gia PBCSC.
Làm rõ đặc điểm, nội dung, hình thức, mơ hình quy trình PBCSC ở Việt Nam.
Đề xuất đổi mới quy trình phản biện chính sách, các giải pháp nâng cao
chất lƣợng, hiệu quả hoạt động PBCSC trong điều kiện hiện nay.
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn: Kết quả nghiên cứu sẽ bổ sung cơ sở lý luận
cho hệ thống lý thuyết về PBCSC ở nƣớc ta. Cung cấp những luận cứ thiết thực cho
công tác tổ chức, quản lý hoạt động phản biện chính sách; cơng tác xây dựng và
thực thi chính sách. Đây cũng là tài liệu tham khảo đối với các nhà nghiên cứu,
giảng dạy, sinh viên của các cơ sở đào tạo về khoa học chính sách cơng và các chủ
thể PBCSC trong xã hội.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận án gồm 4 chƣơng:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu về phản biện chính sách cơng.
Chương 2: Cơ sở lý luận về phản biện chính sách cơng.
Chương 3: Thực trạng phản biện chính sách cơng tại các tỉnh thuộc khu vực
miền Trung, Tây Nguyên.
Chương 4: Giải pháp nâng cao chất lƣợng phản biện chính sách cơng ở Việt Nam.

download by :


7


Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VỀ PHẢN BIỆN CHÍNH SÁCH CƠNG
1.1. Các cơng trình nghiên cứu về phản biện xã hội
1.1.1. Các cơng trình nghiên cứu ở nước ngồi
Thể chế quản lý trong các nền hành chính cơng hiện đại ln hƣớng đến
đảm bảo sự hài hịa giữa vai trò của nhà nƣớc và xã hội. Sự tham gia của ngƣời dân
vào hoạt động của nhà nƣớc đƣợc khuyến khích nhằm gia tăng sự kiểm sốt quyền
lực nhà nƣớc từ bên ngoài và tranh thủ tối đa sự hỗ trợ của xã hội đối với hoạt động
của chính quyền. Cơng dân đƣợc xem là một chủ thể bình đẳng trong hoạt động
tham gia cơng, có quyền bày tỏ quan điểm, lợi ích, chính kiến và tham gia quyết
định các vấn đề quản lý nhà nƣớc theo nguyên tắc đa số và hợp hiến. Trên quan
điểm cho rằng ngƣời bị ảnh hƣởng bởi quyết định có quyền đƣợc tham gia vào quá
trình ra quyết định. Sự tham gia của ngƣời dân đƣợc coi nhƣ một cách để trao quyền
và là một phần quan trọng của quản trị dân chủ, dựa trên nguyên tắc xem con ngƣời
là trung tâm của quá trình phát triển. Trƣớc bối cảnh của sự bùng nổ xã hội tri thức
trong hơn nửa thế kỷ qua, việc mở rộng hoạt động tham gia, phản biện của nhân dân
đối với nhà nƣớc cũng chính là phƣơng pháp để quản lý các dòng tri thức xã hội, sự
dụng hiệu quả trí tuệ tập thể của cộng đồng vào phát triển kinh tế - xã hội. PBXH thuộc tính của xã hội dân chủ, đƣợc xem là một nguyên tắc chính trị thực hành và
đƣợc thực hiện rộng rãi trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Bản chất của nó là
việc áp dụng tƣ duy phê phán đƣợc tổ chức khoa học vào việc đánh giá các hoạt
động của nhà nƣớc. Đồng thời cũng là một trong những quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân và là một nội dung quan trọng của hoạt động tham gia cơng dân
(public citizens participation). Trên thế giới, các cơng trình nghiên cứu về bản chất,
vai trò, giá trị và thực hành PBXH đã có từ rất sớm.
Một trong những cơng trình nghiên cứu đặt nền móng cho việc nhận thức
giá trị của phản biện và vận dụng nó vào thực tiễn xã hội là tác phẩm "Chúng ta suy
nghĩ như thế nào" (How We Think) của John Dewey (xem Phụ lục 36), xuất bản
năm 1910 tại Boston, Hoa Kỳ. Nghiên cứu này trình bày về quan hệ giữa tƣ duy
phản biện với quá trình giáo dục con ngƣời và phát triển xã hội, về việc áp dụng tƣ


download by :


8
duy phản biện vào giáo dục và hoạt động thực tiễn xã hội nhằm xây dựng một xã hội
dân chủ, công bằng, phát triển và vận động hợp quy luật. Tại cuốn sách này, John
Dewey đã lần đầu tiên đƣa ra khái niệm "tƣ duy phản biện " (Reflective thought) là:
"là sự suy xét chủ động, kiên trì và cẩn thận về một niềm tin hay một giả định khoa
học dƣới ánh sáng của những căn cứ bảo vệ nó và những kết luận xa hơn mà nó
hƣớng tới, tạo thành tƣ duy phản biện…là một nỗ lực có ý thức và tự nguyện để
thiết lập niềm tin vào một cơ sở có lý do vững chắc" (…Active, persistent, and
careful consideration of any belief or supposed form of knowledge in the light of the
grounds that support it, and the further conclusions to which it tends, constitutes
reflective thought…it is a conscious and voluntary effort to establish belief upon a
firm basis of reasons) [89, tr. 6]. Theo tác giả, tƣ duy phản biện chính là khởi đầu
của nhận thức chân chính, đó chính là q trình suy xét cẩn trọng, bằng sự đối chiếu, so
sánh, có bằng chứng xác thực để khẳng định một vấn đề là đúng hay sai. Sự dội lại
(Reflection) của tƣ duy khơng phải là q trình phản ánh hiện thực đơn thuần vào
nhận thức mà là quá trình tự nghi vấn, phê phán, đánh giá một cách khoa học từ nhiều
góc độ khác nhau đối với hiện thực nhằm thẩm định và chứng minh niềm tin, chân lý là
đúng đắn. Mục đích của phản biện khơng phải là kiến thức mà là niềm tin vào thực tế
hoặc sự thật (…do not aim at knowledge, at belief about facts or in truths) [89, tr. 4].
Quá trình này sẽ diễn ra theo hai hƣớng, chấp nhận hay từ chối vấn đề nào đó vì
những lý do để nó có thể hoặc không thể xảy ra (It is marked by acceptance or rejection
of something as reasonably probable or improbable) [89, tr. 4]. Việc phản biện để
xây dựng niềm tin không phải dựa trên những thứ mà chủ thể có, nó phải dựa trên nền
tảng là những bằng chứng xác thực nhƣ: chứng cớ, vật chứng, sự xác nhận và chứng
minh (Reflection thus implies that something is believed in (or disbelieved in), not on
its own direct account, but through something else which stands as witness, evidence,

proof, voucher, warrant; that is, as ground of belief) [89, tr. 9]. Mục tiêu mà sự phản
biện hƣớng đến là khám phá thực trạng để phục vụ cho mục đích của chủ thể (reflection
is aimed at the discovery of facts that will serve this purpose) [89, tr. 11]. Tƣ duy
phản biện vì thế, là phƣơng pháp nhận thức tự nguyện, có giá trị dân chủ cao nhất
trong việc tìm kiếm sự thật, khẳng định chân lý và xây dựng niềm tin. Quan điểm về tƣ
duy phản biện của John Dewey từ khi ra đời đã đƣợc ủng hộ mạnh mẽ và áp dụng rộng
rãi trong toàn bộ nền giáo dục quốc dân Hoa Kỳ, đóng góp lớn vào việc xây dựng

download by :


9
nền dân trị của đất nƣớc này, rồi nhanh chóng đƣợc truyền bá trên tồn thế giới. Có thể
nói tƣ tƣởng của John Dewey về tƣ duy phản biện nhằm xây dựng một nền giáo dục
nhân bản, dân chủ và khoa học đã vƣợt ra ngoài lãnh địa của triết học giáo dục và trở
thành nền tảng phƣơng pháp của nhận thức đối với các vấn đề trong xã hội hiện đại.
Tƣ tƣởng về tƣ duy phản biện (Reflective thinking) của John Dewey đƣợc
nghiên cứu, phát triển và áp dụng rộng rãi không chỉ trong lĩnh vực giáo dục và
khoa học và công nghệ (KH&CN) mà cả trong lĩnh vực quản trị xã hội, quản lý nhà
nƣớc và xây dựng, thực thi chính sách cơng trong suốt hơn một thế kỷ qua ở nhiều
nƣớc trên thế giới. Nó thƣờng đƣợc định danh bằng khái niệm tƣ duy phê phán
(Critical thinking), có thể kể ra một số cơng trình nghiên cứu tiêu biểu nhƣ: "Lý
thuyết phê phán và đời sống công cộng" (Critical theory and Public Life), John
Forester (1987). Publichsed by MIT Press, USA; "Tư duy phê phán: Định nghĩa và
đánh giá" (Critical Thinking: Its Definition and Assessment), Fisher, Alec and
Scriven, Michael. (1997), Center for Research in Critical Thinking (UK) /
Edgepress (USA); "Phê bình lý luận: Hiểu và phê phán lập luận và lý thuyết"
(Critical Reasoning: Understanding and criticizing arguments and theories),
Cederblom, J & Paulsen, D.W. (2006), 6th edn. (Belmont, CA, Thomson
Wadsworth); "Tư duy phê phán: Giới thiệu về lý luận" (Critical Thinking: An

Introduction to Reasoning), Dauer, Francis Watanabe (1989); "Tư duy phê phán
như phép biện chứng: Cách tiếp cận của Hegelian-Marxist" (Critical Thinking as
Dialectics: A Hegelian-Marxist Approach), Pavlidis, Periklis (2010), Journal for
Critical Education Policy Studies.Vol.8(2); "Tư duy phê phán" (Critical Thinking),
Moore, Brooke Noel and Parker, Richard. (2012), 10th ed. Published by Mc GrawHill… Hầu hết các cơng trình nghiên cứu đều đánh giá rất cao giá trị thực tiễn của
tƣ duy phản biện trong các lĩnh vực đời sống xã hội, nhƣ là con đƣờng phát triển
biện chứng để phát huy năng lực bản chất ngƣời; thúc đẩy xã hội phát triển ngày
càng bình đẳng, cởi mở, năng động, dân chủ và tự do.
Tại châu Âu, hai nhà tƣ tƣởng đƣợc cho là có ảnh hƣởng lớn nhất đến sự
phát triển của trào lƣu phản biện và đối thoại xã hội là Michel Foucault (xem Phụ
lục 37) và Jacques Derrida (xem Phụ lục 38). Nguyên là những ngƣời cộng sản, chịu
ảnh hƣởng sâu sắc của chủ nghĩa Marx, hai ông đã phát triển nguyên lý biện chứng
của chủ nghĩa Marx trong lý thuyết phê phán các thể chế xã hội. Lý thuyết của

download by :


10
Michel Foucault giải quyết các mối quan hệ giữa quyền lực và kiến thức và cách
chúng đƣợc sử dụng nhƣ một hình thức kiểm sốt xã hội thơng qua các TCXH. Tƣ
tƣởng, các bài viết của ông về quyền lực, tri thức và diễn ngơn có ảnh hƣởng rộng
lớn trong xã hội hiện đại. Nội dung chủ đạo, xuyên suốt trong các tác phẩm của
Foucault là sự hình thành, phát triển, tha hóa của quyền lực và con đƣờng sử dụng
tri thức để chống lại sự tha hóa của quyền lực, giải cấu trúc quyền lực nhằm đạt đến
bình đẳng và tự do chân chính cho con ngƣời. Tƣ tƣởng này thể hiện chủ yếu trong
những cơng trình tiêu biểu của ông nhƣ: "Chủ thể và quyền lực" (The Subjct and
Power), "Kỷ luật và trừng phạt" (Discipline and Punish).
Trong tác phẩm "Chủ thể và quyền lực", Foucault khẳng định quyền lực
không phải là một thực thể cố định mà là mối quan hệ tƣơng tác giữa quyền lực
thống trị (dominant power) và quyền lực phản kháng (resistant power). "Quyền

lực không phải là một thể chế, hay một cấu trúc; cũng khơng phải là sức mạnh
thiên bẩm; nó là cái tên đƣợc gắn cho một hoàn cảnh chiến lƣợc phức tạp trong
một xã hội cụ thể" (Power is not an institution, and not a structure; neither is it a
certain strength we are endowed with; it is the name that one attributes to a
complex strategical situation in a particular society) [84, tr. 208]. Trong đó,
quyền lực phản kháng nhƣ là một bản năng sinh tồn nguyên thủy, nó phái sinh ra
quyền lực thống trị với tƣ cách là một sản phẩm xã hội, quyền lực thống trị sinh ra
để kìm nén mọi sự phản kháng. Trên thực tế, con ngƣời luôn chống lại những hạn
chế để đƣợc tự do, nhƣng khi đoạt đƣợc tự do, nó lại tạo ra các luật lệ mang tính
chuyên chế để hạn chế tự do của kẻ khác. Tức là tự nó kiến tạo nên quyền lực
thống trị, đây là nghịch lí đƣợc tạo ra bởi sự tha hóa của quyền lực trong sự vận
động của lịch sử.
Khi đã giữ vai trò trung tâm, quyền lực thống trị sẽ tìm cách triệt tiêu mọi
sự phản pháng để giữ vị trí độc tơn của mình. Nó áp đặt một trật tự chặt chẽ đƣợc
mệnh danh là tri thức. Công cụ để vận hành guồng máy tri thức - trật tự ấy khơng gì
hơn là hệ thống nhà tù, các loại kỷ luật và hình phạt nghiêm khắc. Con ngƣời bị coi
là các sinh vật trừu tƣợng hơn là con ngƣời đúng nghĩa ở thể xác lẫn tinh thần và
đƣợc định hƣớng trở thành bầy đàn răm rắp tuân theo trật tự đã đƣợc kiến tạo.
Trật tự ấy đƣợc xây dựng thành đạo đức, văn hóa, pháp luật và thể hiện
bằng ngơn ngữ. Do đó, trị chơi quyền lực gắn liền với trị chơi ngơn ngữ và con

download by :


11
ngƣời khi đã rơi vào cái bẫy ngôn ngữ, những chuẩn mực xã hội của nó sẽ trở thành
nơi giam hãm nhân tính, khát vọng tự do, bình đẳng của chính con ngƣời. Đạo đức,
văn hóa và luật lệ trở thành cái thay thế, cái đại diện (present) của quyền lực mà các
thể chế độc quyền đã kiến tạo nên để thống trị con ngƣời.
Khi đạt đƣợc trạng thái chuẩn mực của thứ trật tự nhƣ thế, quyền lực thống

trị không cần hiện hữu bằng bạo lực nhƣ roi vọt, dùi cui hay súng đạn mà nó hồn
tồn vắng mặt (absent). Vì nó đã hiện hữu ở mỗi cá thể ngƣời thông qua sự sợ hãi
để tuân theo trật tự nhƣ một thói quen, một phản xạ vơ điều kiện. M.Foucault ví sự
tuân phục ấy giống nhƣ một sự cài đặt, một lập trình đƣợc cài đặt sẵn vào trong não
bộ của từng cá nhân, nhƣ một thứ máy truyền tin đƣợc điều khiển bằng một hệ điều
hành siêu quyền lực. Ở cấp độ này, con ngƣời tự kiểm duyệt hành động và ngơn
ngữ của mình mà khơng cần bị kiểm duyệt. Từ đó, con ngƣời với tƣ cách là chủ thể
của hành động và ngơn ngữ của mình nhƣng lại trở thành công cụ của ngôn ngữ và
trật tự đƣợc áp đặt. Những thứ ấy biến con ngƣời thành đối tƣợng của chúng, sai
khiến chúng ta hành động mà chúng ta lại nhầm tƣởng rằng đang điều khiển nó.
Con ngƣời trở thành con ngƣời nô dịch, con ngƣời không tiếng nói, hồn tồn bị
cầm tù và bị điều khiển trong luật lệ, nhƣng cái quán tính tự động tuân phục làm
cho chúng ta cảm thấy tự do. Tƣ duy của chúng ta thay vì chứa đựng sự năng động,
những giá trị tự do, bình đẳng đích thực của bản chất ngƣời lại chứa đầy những hình
ảnh của roi vọt, xiềng xích và các loại hình phạt đại điện cho quyền lực nói chung
và mọi hoạt động của chúng ta đều bị chúng điều khiển cho đến chết. Cái chết của
con ngƣời bắt đầu bằng cái chết của chủ thể, nó mất tiếng nói để trở thành cái loa
phát ngơn và chiếc máy hành động cho kẻ nắm quyền thống trị.
Trong tác phẩm: "Tội ác và trừng phạt" (Discipline and Punish), M.Foucault
lý giải rằng những hành động trấn áp bằng bạo lực, nhà tù, bệnh viện tâm thần... là
những điển hình của điều khiển học ứng dụng trên con ngƣời thơng qua kỉ luật và
hình phạt, là mơ hình thu nhỏ của xã hội mạo danh văn hóa, văn minh. Trong xã
hội ấy, một trung tâm của quyền lực đƣợc hình thành nhƣ một kiến tạo, điều hành
mọi thứ tuân thủ theo trật tự đã đƣợc hợp thức và thừa nhận, còn những cái khác
biệt, trái chiều bị xem là sự nổi loạn và trở thành "Cái Khác" (The Other), bị cho
là bên lề, vô phép tắc, hạ đẳng và bị loại trừ. Lịch sử nhƣ một cỗ máy đƣợc tự
động hình thành nhƣ vậy và nó chỉ thay thế trung tâm quyền lực này bằng trung

download by :



12
tâm quyền lực khác mà thơi. Trong đó, kỷ luật và hình phạt là hình thức để duy trì
quyền lực.
Tuy nhiên, khơng có quyền lực nào là tuyệt đối đến mức buộc tất cả đều hội
tụ quanh nó. Có những lực lƣợng đơng đảo khác, hoặc có thể bị hút vào trung tâm
thành một thứ cố định, phục tùng; hoặc sẽ li tâm, di chuyển ra ngoại biên để phục
sinh quyền lực nguyên thủy - quyền lực của sự phản kháng. Trong bối cảnh xã hội
chƣa thoát khỏi sự cám dỗ của quyền lực, thì phản kháng là tất yếu của tồn - tại ngƣời, một cách thức tồn tại của chủ thể sáng tạo, phát minh. Sự phản kháng là một
phần tất yếu của sự quân bình. "Bạn thấy đấy, nếu khơng có sự phản kháng, sẽ
khơng có những quan hệ quyền lực, bởi vì nó đơn giản chỉ là vấn đề của sự tuân
phục. Vì thế, sự phản kháng có trƣớc, và sự phản kháng duy trì thế thƣợng phong
đối với những lực lƣợng của một tiến trình: những mối quan hệ quyền lực bị bắt
buộc phải thay đổi theo sự phản kháng" [83, tr. 234]. Quyền lực đẻ ra quyền lực nhƣ
một tất yếu, quyền lực duy nhất hay tuyệt đối chỉ là ảo tƣởng, giống nhƣ ngƣời ta
từng tự tạo ra Thƣợng đế cho mình để đe dọa kẻ khác. Khơng có quyền lực vĩnh viễn,
nó là nhất thời bởi nguyên lí biện chứng của quá trình hủy - tạo và cũng khơng có
thiết chế cấm kị nào đặc hiệu cho mọi thời đại. Sự nô dịch chỉ tồn tại nhất thời, dù
có kéo dài hàng ngàn năm, cho đến khi các cấm kị bị mang ra chất vấn, phản biện nhƣ
một nhu cầu tự do, giải phóng thì thói quen cơng cụ của con ngƣời sẽ dần biến mất và
từ đó mỗi cá nhân tự đứng lên làm chủ đời mình. Vì thế, "giải thiêng", "giải huyền",
"giải cấu trúc quyền lực" trong nghĩa tích cực của nó, chính là sự phản tỉnh để thốt
khỏi trạng thái cam chịu, tuân phục mù quáng, đột phá vào hệ thống quyền lực thống
trị đã đƣợc tuyệt đối hóa thành tri thức, ngôn ngữ, luật pháp, đạo đức, văn hóa, kỷ
luật, hình phạt, bạo lực trấn áp… nhƣ bóng ma đè nặng lên thân phận con ngƣời.
Một thể chế đƣợc cho là khơn ngoan trong việc duy trì quyền lực thống trị
khi nó biết sử dụng thứ quyền lực vừa làm cho ngƣời dân sợ hãi vừa biết vuốt ve, ru
ngủ để họ bớt sợ hãi mà lo an thân. Đó là một cách triệt tiêu và phát huy hữu hiệu
sự phản pháng, nó dập tắt sự phản kháng đồng thời chuyển quyền lực phản kháng
thành sức mạnh của chính quyền lực thống trị để phục vụ cho kẻ thống trị. Ngƣợc

lại, một thể chế chỉ biết dùng dùng quyền lực cai trị đẩy ngƣời dân vào sự sợ hãi sẽ
làm gia tăng sức mạnh cho thứ quyền lực thứ hai: quyền lực của sự phản kháng. Bởi
vì, một khi vƣợt quá ngƣỡng của sự sợ hãi, khi không cịn gì để mất, ngƣời ta sẽ

download by :


13
đứng lên phản kháng một cách mạnh mẽ, một mất một cịn bằng chính thứ bạo lực
đã chà đạp họ và đấy là lúc lịch sử lại bắt đầu.
Theo M.Foucault, một trung tâm quyền lực chỉ biết cố thủ là một lơ cốt bị
mù lịa bởi hào quang của quyền lực bao phủ, nó khơng biết tạo ra thế qn bình bằng
cách vƣơn ra ngoại biên, đón nhận sự tác động của những nhân tố khác để tự điều
chỉnh và dung hịa những phản kháng nhằm duy trì sự vận động và phát triển, cho dù
đó là một hệ thống tồn trị. Phát triển quan điểm của Marx: Có áp bức có đấu tranh!
Mâu thuẫn là động lực của phát triển! M. Foucault cho rằng nếu trong một điều kiện
nào đó, tất cả bị hút vào trung tâm, thì tồn bộ thể chế xã hội sẽ bị đông cứng lại
thành điểm chết (death point). Tức là mẫu thuẫn đã lên đến đỉnh điểm thì quyền lực
của trung tâm cũng khơng cịn lí do tồn tại nữa, nó phải tự hủy để chuẩn bị cho một
cuộc tái sinh đầy đau đớn. Nhƣng khác với quan điểm của K.Marx giải quyết điểm
chết xã hội ấy (giải quyền lực) bằng một cuộc cách mạng xã hội để xây dựng xã hội
cộng sản - một xã hội phi nhà nƣớc, ở đó mọi ngƣời đều đƣợc tự do, bình đẳng.
Foucault cho rằng xã hội cộng sản vẫn còn là một viễn cảnh mà nhân loại tiến bộ
không thể không đấu tranh để vƣơn đến nhƣng chƣa thể hiện thực hóa nó trong điều
kiện hiện tại. Trong bối cảnh thế giới tƣ bản đang có những điều chỉnh mạnh mẽ để
duy trì sự tồn tại của nó thì những ngƣời cộng sản cũng khơng thể không thay đổi nhƣ
một sự tƣơng tác biện chứng để duy trì sức mạnh của mình. Vì quyền lực tƣ bản chỉ
có thể duy trì sức mạnh của nó trong sự bảo hộ của hệ thống tồn trị chứ khơng thể
trong sự tƣơng tác cạnh tranh lành mạnh. Nên giải quyền lực bằng biện pháp hịa bình
thơng qua đối thoại và phản biện mạnh mẽ toàn bộ thể chế xã hội đƣơng thời chính

là con đƣờng hiện thực nhất đi đến xã hội công bằng, nhân văn và tự do hơn.
Cũng trên quan điểm giải cấu trúc, J.Derrida cho rằng, trung tâm thực chất
chỉ là một ƣớc lệ giả tạo của quy trình kiến tạo, cái gọi là trung tâm chỉ là cái nhất
thời trong một hệ thống tự trị, khép kín. Trong một hệ thống mở, cái trung tâm lại là
cái bên lề và ngƣợc lại, nó liên tục bị thay thế bởi sự dịch chuyển nên nó khơng ổn
định mà bất định. Lịch sử luôn diễn ra sự thay thế liên tục vai trò thống trị của các
nhân tố tự cho là trung tâm. Do đó, "trung tâm" "không phải là trung tâm" (The
center", therefore, "is not the center) [85, tr. 351-370]. Bạo lực, khủng bố luôn là
mối hiểm họa thƣờng trực khi quyền lực thống trị và quyền lực phản kháng bị tha
hóa cùng cực. Điều đó phải trả giá bằng chính bạo lực, khủng bố và con ngƣời sẽ tự

download by :


14
hủy hoại chính mình hơn là tạo dựng nên một nền văn minh đúng nghĩa. Cách duy
nhất chống bạo lực, khủng bố là chuyển đối đầu thành đối thoại. Ví nhƣ ngƣời cha
hay ngƣời thầy hiện đại, thay vì dùng roi vọt hay kỷ luật hà khắc là sử dụng phƣơng
pháp giáo dục cởi mở, thay vì trói buộc vào sự tuân phục là định hƣớng cho sự tự
do sáng tạo. Đây chính là sự khác biệt tất yếu khi con ngƣời thoát khỏi bầy đàn để
trƣởng thành bằng cách khẳng định tƣ cách cá nhân của mình.
Theo M. Foucault và J.Derrida, để duy trì một thế giới trong trạng thái cân
bằng, chỉ có thể giải quyền lực của trung tâm tồn trị để hình thành một thế giới đa
phƣơng. Nhằm chia sẻ và kiểm soát quyền lực lẫn nhau, xây dựng sự tơn trọng để đi
đến hịa hợp những khác biệt, chứ khơng thể duy trì mãi thứ trật tự giả tạo trong một
trung tâm thống trị đơn nhất.
Giải cấu trúc quyền lực không phải là sự chống phá mà là quá trình hủy tạo (deconstruction), là sự thay thế các hệ thống già cỗi bằng những cái mới, năng
động, phù hợp hơn với bối cảnh thế giới đang thay đổi nhanh chóng. Nó địi hỏi tự
do, dân chủ nhƣng không phải bằng con đƣờng bạo lực mà muốn vƣơn đến đa
phƣơng hóa và tồn cầu hóa, tơn trọng mọi khác biệt trong tính đa dạng của thế

giới. Trong đời sống xã hội, khơng có tơn trọng thì sẽ khơng có đối thoại, mọi sự áp
bức, thù địch hay xuyên tạc, chống phá đều chỉ có thể dẫn đến bạo lực. Việc giải
cấu trúc bắt đầu bằng việc phá bỏ tính chất nhị ngun bất bình đẳng giữa trung tâm
và ngoại biên, để hƣớng tới kiến tạo một hệ thống mới với sự tƣơng tác bình đẳng
đa chiều giữa những khác biệt. Vì trong một thế giới tự do, dân chủ, hiểu biết và
văn minh khơng cịn có thể duy trì một tiếng nói thay cho mọi tiếng nói, trật tự thế
giới phải luôn đƣợc xem xét và kiến tạo lại.
Bên cạnh đó, M. Foucault và J. Derrida cũng lƣu ý rằng, giải cấu trúc rất dễ
bị lợi dụng bởi những mƣu toan phá hoại, sự đòi hỏi đảo lộn trật tự cần thiết để đi
đến sự hỗn loạn vơ chính phủ. Bằng việc chỉ tiếp thu phần hủy mà phớt lờ phần tạo,
trong điều kiện đó, nó khơng dập tắt bạo lực mà lại sinh ra bạo lực bằng sự khuếch
trƣơng chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa bè phái, địa phƣơng lẫn chủ nghĩa dân tộc cực
đoan. Ngay cả nguyên lý đa trung tâm đôi khi cũng chỉ là sự ngụy tạo cho mƣu đồ
tranh chấp hay chia sẻ quyền lực chứ không phải là giải quyền lực đúng nghĩa. Sự
tự do hỗn loạn đó sẽ khơng mang lại lợi ích cho mọi ngƣời mà chỉ có lợi cho các
phe nhóm lợi ích chính trị mà thơi.

download by :


15
Có thể nói, tƣ tƣởng về giải cấu trúc quyền lực bằng phƣơng pháp chuyển
đối đầu bạo lực sang đối thoại và PBXH của M. Foucautl và J. Derrida chính là sự
phát triển quan điểm tiến lên xã hội cộng sản bằng phƣơng pháp hịa bình trong điều
kiện của thế giới đƣơng đại. Cùng với tác động của phong trào cộng sản thế giới, tƣ
tƣởng của hai ơng đã có tác động to lớn đến xu thế dân chủ hóa xã hội trên phạm vi
toàn cầu. Bắt buộc các nhà nƣớc phải điều chỉnh thể chế, chính sách, mở rộng các
quyền tự do dân chủ, phạm vi tham gia công cho nhân dân. Từ đó, đối thoại dân chủ
và PBXH từng bƣớc trở thành nhân tố chủ chốt thúc đẩy tiến bộ xã hội trong thế
giới đa cực ngày nay. PBXH đƣợc xem là phƣơng pháp chủ yếu để chuyển hóa hịa

bình các mâu thuẫn, kiến tạo đồng thuận xã hội; trở thành yếu tố cấu thành quan
trọng của xây dựng chính sách cơng và vận hành thể chế quản lý nhà nƣớc.
1.1.2. Các cơng trình nghiên cứu trong nước
Phản biện xã hội là vấn đề mới đƣợc đề cập đến từ Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X của Đảng (2006), tuy nhiên đã tạo đƣợc sự quan tâm rộng rãi của xã
hội, giới trí thức, báo chí, các nhà khoa học và đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý. Vì
vậy, đã có nhiều bài báo, chƣơng trình truyền hình, bài nghiên cứu khoa học về
PBXH đƣợc cơng bố.
Các bài viết, cơng trình nghiên cứu về nội dung, vai trò, giá trị và ý nghĩa
của PBXH chiếm số lƣợng lớn nhất. Một trong những cơng trình đầu tiên viết về
PBXH ở Việt Nam là cuốn sách "Phản biện xã hội" của tác giả Trần Đăng Tuấn do
Nhà xuất bản Đà Nẵng ấn hành năm 2006, PBXH chỉ là một bài trong tập sách mà tác
giả lấy làm tên cuốn sách. Trong bài viết, tác giả đã trình bày một cách có hệ thống về
nguồn gốc, bản chất, vai trò, giá trị và ý nghĩa của PBXH. Theo tác giả, PBXH đƣợc
xem nhƣ là thuộc tính tự nhiên, là cơ chế tự cân bằng của xã hội. Thực hành PBXH
một cách dân chủ sẽ làm giảm căng thẳng, xung đột xã hội, chuyển hóa mâu thuẫn,
phát huy dân chủ và hạn chế sự chủ quan của các cơ quan nhà nƣớc. PBXH có tổ chức
sẽ giúp ích lớn cho ổn định và phát triển; ngƣợc lại, tránh né PBXH sẽ dẫn đến kết quả
là PBXH tự phát, đây là mảnh đất thuận lợi để hình thành tâm thế phản kháng xã hội.
Nguyễn Trần Bạt cho rằng: "phản biện xã hội trong một xã hội dân chủ là một phản hành
động (chứ không phải phản động) xuất hiện một cách tự nhiên trong một xã hội mà ở
đó mỗi con ngƣời đều đƣợc tự do bày tỏ nguyện vọng của mình. Phản biện góp phần
điều chỉnh các khuynh hƣớng kinh tế, văn hóa, chính trị, làm cho các khuynh hƣớng

download by :


16
đó trở nên khoa học hơn, đúng đắn hơn và gần với đời sống con ngƣời hơn" [4].
Theo tác giả, PBXH là sự cơng nhận địa vị bình đẳng giữa công dân với nhà nƣớc,

là giải pháp để đạt đƣợc sự đồng thuận xã hội có chất lƣợng khoa học. Phản biện là
phƣơng thức để hóa giải mâu thuẫn xã hội bằng phƣơng pháp hịa bình. Bài nghiên
cứu cũng nêu ra các điều kiện để có hoạt động phản biện là: tự do ngơn luận, đội
ngũ trí thức và báo giới, thái độ chân thành, đúng mực của cả xã hội. Thiết chế phản
biện cũng đƣợc tác giả phác thảo khái quát trong bài viết này, bao gồm hai thiết chế
là xã hội và nhà nƣớc. Trong đó xã hội đóng vai trị phản biện và trọng tài, nhà nƣớc
là ngƣời quản lý phản biện. Để đảm bảo sự hoạt động của thiết chế này thì điều kiện
tiên quyết là phải đảm bảo các quyền tự do của con ngƣời. Đây là một nghiên cứu
về PBXH có chất lƣợng và tâm huyết của tác giả. Tuy nhiên, cũng mới dừng lại ở
mức độ nêu ra các quan điểm, kiến giải ban đầu về bản chất, giá trị, vai trò của
PBXH chứ chƣa phải là kết quả nghiên cứu có tính ứng dụng thực tiễn.
Đáng chú ý là đề tài khoa học: "Các hình thức và giải pháp thực hiện giám
sát xã hội và phản biện xã hội đối với tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị",
thuộc chƣơng trình khoa học cấp nhà nƣớc (KX 10-06/06-10) năm 2009, của tác giả
Trần Hậu (chủ nhiệm đề tài). Nghiên cứu này đã đề cập đến nhiều nội dung về PBXH
nhƣ: quan niệm về PBXH, bản chất và vai trò của PBXH, các đặc trƣng, nội dung
và phƣơng thức PBXH, xây dựng các phƣơng án tổ chức PBXH đối với hoạt động của
hệ thống chính trị nƣớc ta. Đề tài cũng dành một phần của chƣơng 6 để trình bày về
các giải pháp thực hiện PBXH đối với hệ thống chính trị. Đóng góp của đề tài trong
lĩnh vực này là đã trình bày một cách có hệ thống các quan điểm về PBXH (tại thời
điểm 2009), về bản chất, nội dung, giá trị của PBXH theo quan điểm của Đảng. Tuy
nhiên, đề tài chƣa chỉ ra các xu hƣớng quan niệm về PBXH đang hình thành và phát
triển ở Việt Nam, nhiệm vụ của đề tài lại không gắn trực tiếp với hoạt động xây
dựng và thực thi chính sách. Đối tƣợng PBXH trong đề tài là hệ thống chính trị chứ
khơng phải hệ thống chính sách cơng, nên các kết quả nghiên cứu của đề tài về bản
chất, giá trị, đặc trƣng, nội dung, phƣơng thức PBXH là những nội dung có giá trị
tham khảo nhất. Các cơng trình khác chủ yếu là các ấn phẩm đăng trên các tạp chí,
bị giới hạn trong khn khổ bài báo nên chủ yếu chỉ dừng lại ở mức độ nêu vấn đề
ở từng khía cạnh, phƣơng diện nhất định của hoạt động PBXH nhƣ trình bày quan
niệm, vị trí, vai trị của PBXH hoặc phản ánh trách nhiệm, những điều kiện cần thiết để


download by :


17
tiến hành hoạt động phản biện... Một nghiên cứu khá sâu sắc là bài viết của tác giả
Hoàng Thị Ngân "Một số vấn đề về giám sát xã hội và phản biện xã hội" đăng trên
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 9(269)/2010, cũng trình bày khái qt và có hệ thống
về khái niệm, vai trò, ý nghĩa, nội dung, đặc trƣng và hậu quả của PBXH. Triển
khai theo một hƣóng khác nghiên cứu của tác giả Hà Thị Thuỳ Dƣơng "Tư tưởng
Hồ Chí Minh về phản biện xã hội", Tạp chí Phát triển nhân lực, số 29 (3/2012) lại
dẫn chứng và phân tích khá cơng phu quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tác
dụng, vai trị của PBXH trong việc xây dựng nền dân chủ nhân dân, phát huy quyền
làm chủ, sự sáng tạo và sức mạnh của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng.
Các cơng trình nghiên cứu về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Đảng, Nhà nƣớc,
các tổ chức chính trị - xã hội; của truyền thông đại chúng và công dân trong hoạt động
PBXH cũng chiếm số lƣợng lớn trong các bài viết về PBXH cho đến hiện nay. Trong
số đó, ngồi đề tài thuộc chƣơng trình khoa học cấp nhà nƣớc (KX 10-06/06-10),
của tác giả Trần Hậu nhƣ đã nêu trên, nổi bật nhất là cơng trình nghiên cứu của tác
giả Nguyễn Thọ Ánh "Thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội của Mặt
trận tổ quốc Việt Nam hiện nay", Luận án tiến sĩ Chính trị học, Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh. Cơng trình này đã bƣớc đầu hệ thống hố một
số vấn đề lý luận cơ bản về PBXH ở Việt Nam nhƣ trình bày các quan niệm về
PBXH, luận giải bản chất, vai trò của PBXH, mối quan hệ giữa PBXH với phát huy
dân chủ, xây dựng và hoàn thiện nhà nƣớc pháp quyền XHCN. Cơng trình này cũng
đề cập đến hệ thống PBXH chủ các chủ thể ngoài nhà nƣớc nhƣ: cử tri, các đảng
chính trị, các nhóm lợi ích, báo chí. Theo tác giả các quốc gia theo thể chế chính trị
đa đảng có tính cạnh tranh chính trị cao hơn, nên có khơng gian rộng hơn cho
PBXH so với các nƣớc theo thể chế chính trị một đảng cầm quyền. Để hạn chế sự
tha hóa quyền lực ở các quốc gia này thì cần phải có thiết chế giám sát, PBXH mà
nịng cốt là các tổ chức chính trị, xã hội để tạo ra cơ chế cân bằng quyền lực. Cơng

trình cũng lý giải về chức năng, nhiệm vụ PBXH của MTTQVN và đánh giá các
yếu tố ảnh hƣởng đến năng lực, hiệu quả hoạt động PBXH của Mặt trận hiện nay.
Qua đó tác giả đề xuất các giải pháp để nâng cao chất lƣợng PBXH của MTTQVN.
Tuy nhiên, cơng trình này chƣa làm rõ PBXH là chức năng tự nhiên, gắn liền với
quá trình hình thành và phát triển của MTTQVN hay chỉ là nhiệm vụ chính trị quan
trọng trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Mặt khác, cơng trình cũng chƣa đề cập

download by :


×