Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Thu hoạch diễn án dân sự hồ sơ 07 hoàng thị hảo, nguyễn văn nguyệt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.45 KB, 8 trang )

BỘ TƯ PHÁP

HỌC VIỆN TƯ PHÁP
KHOA ĐÀO TẠO LUẬT SƯ

---o0o---

BẢN THU HOẠCH
HỒ SƠ TÌNH HUỐNG LS.DS – 07
MƠN KỸ NĂNG CƠ BẢN CỦA LUẬT SƯ KHI THAM GIA GIẢI QUYẾT CÁC VỤ
VIỆC DÂN SỰ
(Vai diễn Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan)

Hà Nội, ngày 16 tháng 08 năm 2021
1


PHẦN 1. TÓM TẮT NỘI DUNG VỤ ÁN VÀ CÁC VẤN ĐỀ TỐ TỤNG
1.Tóm tắt nội dung vụ án
Chị Nguyễn Thị Hảo và anh Nguyệt đăng ký kết hôn trên cơ sở tự nguyện vào ngày
26/03/1999 tại UBND xã Thượng Đạt, TP.Hải Dương, tỉnh Hải Dương. Sau khi kết hôn, anh
chị chung sống hạnh phúc được khoảng hơn 02 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Vợ chồng anh
chị đã sống ly thân hơn 01 năm. Giữa 2 anh chị có 2 con chung là cháu Nguyễn Thị Nhi,
sinh ngày 04/01/2000 và cháu Nguyễn Đức Anh, sinh ngày 13/06/2007. Chị Nguyễn Thị
Hảo đề nghị chia tài sản chung là 01 thửa đất số 496, tờ bản đồ số 01, diện tích 216m2 tại
xã Thượng Đạt, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương. Tài sản trên đất bao gồm 01 nhà
cấp bốn có diện tích 18m2, 01 gian bếp và 01 nhà vệ sinh có diện tích 10m2, 01 giếng, 01
bể nước 1,6m3 theo phương thức chia đôi bằng hiện vật, không yêu cầu chia tài sản trên đất.
2. Các vấn đề tố tụng
2.1 Xác định tư cách đương sự
- Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Hảo


- Bị đơn anh Nguyễn Văn Nguyệt
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Thoa
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ơng Nguyễn Văn Cang
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan UBND TP Hải Dương – Đại diện theo PL ông
Vũ Tiến Phụng
- Người làm chứng ông Nguyễn Văn Bích
2.2. Yêu cầu khởi kiện
1. Nguyên đơn yêu cầu ly hôn với anh Nguyễn Văn Nguyệt;
2. Yêu cầu được nuôi hai con chung là cháu Nguyễn Thị Nhi và cháu Nguyễn Đức Anh,
không yêu cầu anh Nguyệt cấp dưỡng.
3. Chia đôi tài sản bằng hiện vật là thửa đất số 496, tờ bản đồ số 1, có diện tích là 216 m2
tại xã Thượng Đạt, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương.
2.3. Thẩm quyền
Theo quy định tại Điều 35 Bộ Luật tố tụng dân sự 2015, Tòa án nhân dân cấp huyện/thành
phố có thẩm quyền giải quyết vụ án hơn nhân và gia đình quy định tại Điều 26 và Điều 28.
2


Do đó, Tịa án nhân dân thành phố Hải Dương là cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ
án này.
PHẦN 2. KẾ HOẠCH HỎI TẠI PHIÊN TÒA
1. Hỏi người khởi kiện
1.Vì sao chị Hảo lại quyết định ly hơn?
2.Chị cho biết hiện tại chị đang làm việc ở đâu, Mức thu nhập hàng tháng của chị là bao
nhiêu?
3.Trong trường hợp ly hơn nếu chị bận cơng việc ai có thể hỗ trợ chị chăm sóc các con?
4.Cháu Đức Anh có nói gì về thời gian cháu sống với bố khơng? Mỗi lần gặp chị, cháu Đức
Anh bị bố đánh, vì sao chị có được thơng tin này?
5.Khi biết vợ chồng chị được cấp GCNQSDD, gia đình bên nhà anh Nguyệt có ai có ý kiến
gì khơng?

6.Trong q trình ở trên diện tích đất, anh chị đã tơn tạo và xây dựng những gì? Ai là người
bỏ tiền ra tơn tạo và xây dựng?
2.Hỏi người bị kiện
1.Theo như thông tin Chị Hảo cung cấp anh có hành vi đánh chị Hảo, lý do vì sao?
2.Vậy anh có thường xun chơi bài, uống rượu khơng? Anh chỉ cần trả lời có hoặc khơng?
3. Anh có cho cháu Đức Anh gặp mẹ khơng?
4. Từ khi cháu Nhi về sống với chị Hảo, anh đã về gặp con lần nào chưa?
5. Ai là người kê khai cấp GCNQSDD đối với thửa 496?
6. Việc anh chị được cấp GCNQSDD những thành viên khác trong gia đình anh có ai biết
khơng? Họ có ý kiến phản đối gì hay tranh chấp gì hay khơng?
7.Tóm lại, đã kê khai cấp GCNQSDD đối với thửa 496 và được UBND xã cấp GCNQSĐ,
sau đó mọi người trong gia đình anh đều biết và khơng ai có tranh chấp, ý kiến gì. Anh cịn
ý kiến nào khác khơng?

3


PHẦN 3: BẢN LUẬN CỨ BẢO VỆ QUYỀN, LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA BÊN KHỞI
KIỆN
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
BẢN LUẬN CỨ
(V/v bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện)
Kính thưa Hội đồng xét xử!
Thưa vị đại diện Viện Kiểm sát!
Thưa các vị Luật sư đồng nghiệp!
Thưa tồn thể q vị tham dự phiên tịa!
Tơi là Luật sư …….thuộc Cơng ty Luật XLegal, đồn Luật sư Thành phố Hà Nội.
Tơi tham gia phiên tịa hơm nay với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
người khởi kiện là bà Nguyễn Thị Hảo

Kính thưa Hội đồng xét xử,
Qua quá trình thu thập hồ sơ và nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ của các bên cùng
các lời khai của các đương sự tại phiên tịa trong vụ án này, tơi xin đưa ra các quan điểm và
luận cứ như sau:
Nguyên đơn khởi kiện với 03 yêu cầu:
*Về khởi kiện yêu cầu ly hôn
Xét thấy, chị Hoàng Thị Hảo và anh Nguyễn Văn Nguyệt kết hơn trên cơ sở tự
nguyện, có đăng ký tại Ủy ban nhân dân xã Thượng Đạt, TP Hải Dương, tỉnh Hải Dương
ngày 26/03/1999. Hiện nay cả nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu ly hôn và bị đơn chấp thuận
yêu cầu này của nguyên đơn, nguyên đơn và bị đơn xác nhận quan hệ hơn nhân lâm vào
tình trạng trầm trọng, đời sống chung khơng thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt
được, Cụ thể: sau khi cưới, hai bên chung sống được khoảng thời gian là 02 năm thì phát
sinh mâu thuẫn, anh Nguyệt có hành vi đánh đập, chửi bới vợ con. Mặc dù đã được sự động
viên từ phía gia đình, hịa giải từ địa phương nhưng đều không thành. Hiện nay, hai bên đã
sống ly thân, khơng cịn quan tâm, chăm sóc cho nhau. Do đó, dựa trên yêu cầu và sự tự
nguyện của hai bên, kính mong HĐXX xem xét và cho anh Nguyệt, chị Hảo được ly hôn.
4


Thứ hai, về yêu cầu nuôi con chung và cấp dưỡng
Anh Nguyệt, chị Hảo có 02 con chung là Nguyễn Thị Nhi, sinh ngày 04/01/2001 và
cháu Nguyễn Đức Anh sinh ngày 13/06/2007. Ngun đơn có mong muốn được ni cả 02
con và không yêu cầu bị đơn cấp dưỡng. Tôi đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu này của
nguyên đơn với các lý do sau đây:
Thứ nhất, cả 2 cháu hiện nay đều trên 7 tuổi, cháu Nguyễn Trúc Nhi đang sống với
mẹ, cháu Nguyễn Đức Anh đang sống với bố. Trong đơn đề nghị đề ngày 20/01/2016 của
cháu Nguyễn Thị Nhi có viết “Hiện cháu đang ở với mẹ là Nguyễn Thị Hảo, Nếu bố mẹ
cháu không ở được với nhau nữa cháu xin được ở với mẹ là Nguyễn Thị Hảo”. Đối với cháu
Nguyễn Đức Anh, theo đơn đề nghị ngày 22/01/2016, cháu thể hiện mong muốn “xin được
ở với mẹ là Nguyễn Thị Hảo”, đơn đề nghị ngày 25/01/2016, cháu thay đổi yêu cầu xin

được ở với bố. Tuy nhiên, đến Biên bản lấy lời khai ngày 05/07/2016, dưới sự chứng kiến
của TAND, UBND xã và và bà Thoa-bà nội, cháu đã xác nhận “Nếu bố mẹ ly hôn, cháu xin
được ở với mẹ cháu”. Trên tinh thần tôn trọng ý kiến, mong muốn, nguyện vọng của các
cháu, kính mong HĐXX xem xét và phán quyết theo đề nghị của các cháu.
Hơn nữa, tình mẫu tử là tình cảm thiêng liêng, khơng có thứ tình cảm nào có thể so
sánh được. Chị Hảo là người đã trực tiếp ni dạy, bảo ban, chăm sóc các cháu từ khi lọt
lịng, khơn lớn và trưởng thành như ngày hơm nay. Tình cảm của mẹ dành cho con ln là
thứ tình cảm chắc chắn, bền vững và cao cả.
Trong quá trình chung sống, chị ln ln cố gắng lao động, tạo nguồn thu nhập, vun
đắp cuộc sống gia đình hịa thuận và êm ấm, vợ chồng yêu thương nhau cùng ni dạy con
cái lớn khơn. Chưa có điều tiếng gì từ họ hàng, hàng xóm về đạo đức cũng như trách nhiệm
của chị tại nơi sinh sống. Anh Nguyệt hoàn tồn ngược lại, anh có hành vi ngăn cấm cháu
Đức Anh gặp chị Hảo, cụ thể mỗi lần gặp mẹ, anh Nguyệt lại đánh cháu Đức Anh, hành vi
này những người hàng xóm láng giềng đã xác nhận, theo tơi đây là hành vi sai trái vi phạm
quy tắc đạo đức xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền trẻ em, đây là khoảng thời gian vẫn
đang tồn tại quan hệ hôn nhân, nếu khi hôn nhân đã chấm dứt, liệu anh Nguyệt có cho cháu
Đức Anh được gặp mẹ hay không? Việc để cháu Đức Anh sống trong môi trường như vậy
sẽ làm ảnh hưởng đến suy nghĩ, hành vi và sự phát triển của cháu. Xét thấy lối sống, xu
hướng bạo lực của anh Nguyệt sẽ không cho các cháu có được mơi trường giáo dục tốt để
phát triển.
* Về điều kiện nuôi dưỡng :
5


Hiện nay, chị Hảo có cơng việc ổn định tại Công ty Trấn An, mức thu nhập hàng
tháng từ 4-6 triệu đồng và chị đang sống chung tại nhà của mẹ đẻ, việc chăm sóc các cháu
vừa có thể tự mình làm, vừa có thể nhờ mẹ đỡ đần chăm sóc. Bên cạnh đó, các cháu cũng
đã lớn, có thể phụ giúp mẹ và bà và đều ngoan ngoãn, vâng lời. Với mức thu nhập nói trên
nguyên đơn xác định có đủ điều kiện về thời gian, về chỗ ở và về kinh tế để nuôi 02 con lớn
khôn, nên người.

Nguyên đơn không yêu cầu anh Nguyệt cấp dưỡng, nuôi con vì nguyên đơn đảm bảo
lo liệu được.
* Về yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
Nguyên đơn và bị đơn kết hôn và đã tạo lập được một số tài sản chung, trong đó có
thửa đất thửa số 496, tờ bản đồ số 01, diện tích 216 m2 có địa chỉ tại xã Thượng Đạt, huyện
Nam Sách, tỉnh Hải Dương mà hiện nay các bên đang tranh chấp. Căn cứ để xác định đây là
tài sản chung của vợ chồng gồm:
Tài sản đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 31/12/2005, đứng tên
hai vợ chồng chị Hoàng Thị Hảo và anh Nguyễn Văn Nguyệt.
Trong quá trình được cấp Giấy chứng nhận, mặc dù Ủy ban nhân dân xã, cụ thể là
cán bộ địa chính xuống các hộ dân đo đạc, lập biên bản đo đạc xác minh hiện trạng và có
chữ ký của anh Nguyệt, chị Hảo, có chữ ký của các hộ giáp danh xung quanh, sau đó hồn
chỉnh hồ sơ phê duyệt, đã tiến hành niêm yết công khai tại UBND xã(Bút lục 163) nhưng
gia đình bà Thoa, ơng Cang và các thành viên khác trong gia đình có thể được biết về việc
niêm yết này nhưng khơng có ý kiến phản đối việc cấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất
cho riêng anh Hảo, chị Nguyệt. Đây được coi là sự đồng ý gián tiếp, biết mà không phản
đối, thừa nhận thửa đất này là tài sản riêng của vợ chồng anh Nguyệt, chị Hảo.
Về quy trình để được cấp Giấy chứng nhận, mặc dù sau quá trình điều chỉnh địa giới
hành chính các hồ sơ gốc bị thất lạc, nhưng căn cứ Biên bản xét duyệt nguồn gốc sử dụng
đất của hộ ông Nguyễn Văn Nguyệt và bà Nguyễn Thị Hảo của Ủy ban nhân dân xã
Thượng Đạt ngày 08/06/2016 (Bút lục số 147) đã mơ tả q trình để được cấp GCNQSDĐ
trong thời điểm này “Đến ngày 25/10/2001 các hộ đã có đơn đề nghị cấp GCNQSDĐ.
Trong đó có đơn của hộ ơng Nguyễn Văn Nguyệt và bà Nguyễn Thị Hảo đến nay đã bị thất
lạc.” Việc cấp GCNQSDĐ của cơ quan nhà nước là dựa trên yêu cầu của từng hộ gia đình
và anh Nguyệt đã “lên Ủy ban nhân dân xã Thượng Đạt” để nhận Giấy chứng nhận QSDĐ
6


này là chứng thực cho việc anh không phản đối việc được cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho riêng anh và chị Hảo tại thời điểm đó.

Về trình tự, thủ tục cấp GCNQSDĐ được tiến hành theo đúng quy định của của pháp
Luật về đất đai.
Từ thời điểm được cấp Giấy chứng nhận đến nay, anh Nguyệt và chị Hảo đã tạo
dựng nhà và các cơng trình phụ trợ, sinh sống ổn định, lâu dài trên diện tích này, bà Thoa,
ông Cang cùng các anh em trong gia đình đã biết nhưng khơng ai có ý kiến phản đối, khiếu
nại, khơng có bất kỳ tranh chấp nào đối với diện tích đất nói trên.
Trong q trình chung sống, do cần tiền để làm ăn cũng như cho anh Chuyển vay
làm nhà, Anh Nguyệt và chị Hảo đã đứng ra thế chấp nhà đất nói trên để vay hộ tiền và
cũng không gặp ý kiến phản đối nào.
*Về nợ chung :
Về nợ chung, chị Hảo và anh Nguyệt có một khoản nợ chung vay của ngân hàng
Nông nghiệp và phát triển nông thôn là 30tr đồng. Anh Nguyệt nhận trả hết, nếu anh Nguyệt
khơng trả thì đề nghị tịa chia đơi mỗi bên trả một nửa.
Căn cứ tình hình thực tế, qua các luận cứ trên, với tư cách là người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp cho ngun đơn Hồng Thị Hảo, chúng tơi kính đề xuất HĐXX xem xét áp
dụng các điều khoản sau đây:
+) Về yêu cầu ly hôn: Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật HNGĐ năm 2014
và các văn bản hướng dẫn, kính đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn
Thị Hảo và anh Nguyễn Văn Nguyệt.
+) Về con chung: Hiện nay, cháu Nguyễn Thị Nhi 16 tuổi, cháu Nguyễn Đức Anh 12
tuổi, kính đề nghị HĐXX căn cứ vào khoản 2 Điều 81, căn cứ nguyện vọng cuối cùng của
các con để quyết định cho nguyên đơn được nuôi dưỡng các cháu, không yêu cầu bị đơn
cấp dưỡng.
+) Về tài sản chung:
Thứ nhất, đối với diện tích đất do nguyên đơn, bị đơn sử dung chung trong q trình
hơn nhân: Căn cứ Điều 135 Nghị định 108/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính Phủ về
thi hành Luật Đất đai 2003,Căn cứ án lệ số 03/2016/AL, xác định QSDĐ đối với 216m2 đất

7



thửa số 496, tờ bản đồ số 01 tại xã Thượng Đạt, TP Hải Dương là tài sản chung của vợ
chồng hình thành trong thời kỳ hơn nhân.
Thứ hai, đối với các tài sản trên đất: Các bên đã xác định đây là tài sản chung của vợ
chồng chị Hảo và anh Nguyệt.
Do đó, kính đề nghị HĐXX chia tài sản chung của vợ chồng chị Hảo và anh Nguyệt
theo nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn theo quy định tại điều 59 Luật
Hôn nhân và gia đình 2014 và án lệ số 03/2016/AL.
+) Về nợ chung : Anh Nguyệt và chị Hảo đều xác nhận có khoản nợ chung đối với
Ngân hàng Nơng nghiệp và Phát triển nông thôn là 30 triệu đồng. A Nguyệt nhận trả hết,
nếu anh Nguyệt không trả, đề nghị Tòa phân chia mỗi người chịu trách nhiệm trả một nửa.
Xin cám ơn Hội đồng xét xử! Trân trọng cảm ơn HĐXX đã chú ý lắng nghe!
Trên đây là bản luận cứ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà Nguyễn Thị Hảo
Kính thưa HĐXX, trên đây là tồn bộ quan điểm bào chữa của tơi với tư cách là Luật
sư bảo vệ cho bên bị kiện trong phiên tịa hơm nay. Tơi xin cảm ơn sự quan tâm lắng nghe
của Hội đồng xét xử và những người tham dự phiên tịa hơm nay.
Xin chân thành cảm ơn!

LUẬT SƯ

8



×