Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Bài thơ tiếng gà trưa loi binh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (389.64 KB, 6 trang )

Bài thơ “Tiếng gà trưa” được nhà thơ Xuân Quỳnh viết năm 1968 giữa cuộc kháng chiến
chống đế quốc Mỹ, khi lớp lớp thanh niên Việt Nam phải từ biệt gia đình, q hương và gác lại những
kí ức tuổi thơ thân thuộc để lên đường ra trận. Những năm tháng ấy có ý nghĩa vơ cùng lớn lao, tác
động trực tiếp đến sự ra đời cũng như mạch nguồn xúc cảm của bài thơ. Qua những câu thơ sáng
trong, đằm lắng, nữ sĩ Xuân Quỳnh đã mang cả kỉ niệm tuổi thơ mộc mạc, tình cảm bà cháu hịa vào
cuộc chiến tranh, vào cảm hứng chung cho cả một thời đại. Đã có nhiều nhà phê bình bàn về bài thơ
Tiếng gà trưa của Xuân Quỳnh. Để đem đến những cách nhìn nhận, cảm thụ phong phú hơn, TCNV
đăng hai bài viết của nhà phê bình trẻ Đồn Ánh Dương (Viện Văn học) và nhà giáo Nguyễn Thanh
Truyền về bài thơ này…
Tiếng gọi tuổi thơ
(về bài thơ Tiếng gà trưa của Xuân Quỳnh, Ngữ văn 7, tập I)
Đoàn Ánh Dương
Nhắc đến Xuân Quỳnh, người ta thường nghĩ tới những vần thơ nhẹ nhàng, sâu lắng của một trái tim phụ nữ
đa cảm. Không da diết, khắc khoải như những sáng tác về tình yêu, trong giây phút hướng về tình cảm gia
đình gần gũi, như tình mẹ con, tình bà cháu,… tiếng thơ Xuân Quỳnh thường cất lên với giọng trong trẻo
nhưng vẫn thể hiện nét đẹp tâm hồn của một phụ nữ giàu yêu thương. Tiếng gà trưa là một bài thơ như vậy.
Trên đường hành quân xa
Dừng chân bên xóm nhỏ
Tiếng gà ai nhảy ổ:
“Cục… cục tác cục ta”
Nghe xao động nắng trưa
Nghe bàn chân đỡ mỏi
Nghe gọi về tuổi thơ
Bài thơ là phút lắng lòng của người chiến sĩ trên chặng đường hành quân mệt mỏi. Lúc dừng chân
bên thơn xóm n bình, vẳng nghe tiếng gà nhảy ổ quen thuộc của làng quê, người chiến sĩ để lịng mình
cuốn vào âm thanh ấy và trải ra mênh mơng theo sức lan tỏa của nó. Mỗi lần động từ nghe được lặp lại,
trường lan tỏa của âm thanh tiếng gà mỗi lúc một rõ nét nhưng đó khơng phải là sự mở ra theo chiều rộng
khơng gian mà là sự chuyển động theo chiều sâu của cảm xúc. Đầu tiên là sự thay đổi của ngoại cảnh: Nghe
xao động nắng trưa, sau đó là sự xâm lấn vào cảm giác: Nghe bàn chân đỡ mỏi và cuối cùng là sự thấm sâu
trong tâm hồn: Nghe gọi về tuổi thơ. Điệp từ nghe cùng biện pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác đã diễn tả tinh
tế diễn biến cảm xúc ấy trong tâm hồn người chiến sĩ. Tiếng gà mở đầu bài thơ là một âm thanh của thực tại,


vẳng đến từ nơi nào đó trong xóm nhỏ. Nhưng đến cuối khổ, nó đã trở thành âm thanh vọng về từ kí ức, khi
người chiến sĩ chìm trong giây phút trầm lắng để thả hồn miên man theo tiếng gọi tuổi thơ.
Theo dòng hồi tưởng ấy, những kỉ niệm ùa về, sống động như đang hiện ra trước mắt. Điệp ngữ
tiếng gà trưa mở đầu các đoạn thơ sau, lặp đi lặp lại bốn lần như một điệp khúc, điểm nhịp cho dòng cảm
xúc của nhân vật trữ tình. Mỗi lần lặp lại, nó mở ra một ô cửa lung linh làm sáng bừng lên cả khung trời kỉ
niệm:
Tiếng gà trưa
Ổ rơm hồng những trứng
Này con gà mái mơ


Khắp mình hoa đốm trắng
Này con gà mái vàng
Lơng óng như màu nắng
Nhân vật trữ tình đã ngược dịng thời gian để trải nghiệm lại những cảm xúc trẻ thơ trong sáng. Đó
là niềm thích thú khi nâng niu ổ trứng hồng ấm áp, là niềm vui say khi ngắm nhìn khơng chán mắt màu hoa,
màu nắng trên mình mỗi chú gà. Từ hình ảnh đàn gà và ổ trứng, người bà xuất hiện trong sự kết nối tự nhiên
của mạch cảm xúc. Đây chính là tâm điểm hội tụ mọi kí ức về những năm tháng tuổi thơ của người cháu.
Có giọng bà vang vọng:
Tiếng gà trưa
Có tiếng bà vẫn mắng
- Gà đẻ mà mày nhìn
Rồi sau này lang mặt!
Cháu về lấy gương soi
Lịng dại thơ lo lắng
Có bóng dáng thân thuộc của bà:
Tiếng gà trưa
Tay bà khum soi trứng
Dành từng quả chắt chiu
Cho con gà mái ấp

Tất cả đều hiện lên trong niềm xúc động của người cháu khi được sống lại trong tình yêu thương và
sự chăm chút của bà. Tiếng bà mắng, bàn tay bà khum khum soi trứng, những mảnh kí ức ấy đã thức dậy
trong lòng người cháu cả một tuổi thơ sống trong sự tần tảo, chắt chiu, hi sinh quên mình của bà:
Cứ hàng năm hàng năm
Khi gió mùa đơng đến
Bà lo đàn gà toi
Mong trời đừng sương muối
Để cuối năm bán gà
Cháu được quần áo mới
Sự kéo dài của chuỗi thời gian “cứ hàng năm hàng năm” cũng là sự lặp lại của bao nỗi lo âu, mong
mỏi đã dệt nên đời bà. Bà đổi những lo âu, mong mỏi và chắt chiu ấy chỉ để lấy nụ cười được bộ quần áo
mới của đứa cháu thơ. Đó là món quà gói trọn tình cảm u thương và hi sinh của bà nên ấm áp và thiêng
liêng vơ cùng.
Ơi cái quần chéo go
Ống rộng dài quét đất
Cái áo cánh trúc bâu
Đi qua nghe sột soạt


Những câu thơ giản dị mà dồn nén bao cảm xúc. Đó khơng chỉ là niềm vui trong q khứ của đứa
cháu nhỏ được quà mà còn là niềm xúc động rưng rưng trong hiện tại của người chiến sĩ khi thấm thía tình
cảm của người bà thân thương.
Tiếng gà, ổ trứng và niềm hạnh phúc mà bà mang lại đã trở thành suối nguồn yêu thương nuôi
dưỡng và ghi dấu trong tâm hồn người cháu:
Tiếng gà trưa
Mang bao nhiêu hạnh phúc
Đêm cháu về nằm mơ
Giấc ngủ hồng sắc trứng
Từ những giấc ngủ bình yên và ấm áp niềm hạnh phúc trẻ thơ như thế, hình ảnh bà và những kỉ niệm
tuổi thơ gắn với tiếng gà đã đi sâu vào tâm thức và trở thành một phần thiêng liêng trong lịng người cháu.

Đó chính là một động lực mạnh mẽ để người chiến sĩ hôm nay quyết tâm chắc tay súng. Khổ cuối, mạch
cảm xúc quay trở lại hiện tại một cách tự nhiên bởi chính mối liên hệ sâu sắc ấy:
Cháu chiến đấu hơm nay
Vì lịng u Tổ quốc
Vì xóm làng thân thuộc
Bà ơi, cũng vì bà
Vì tiếng gà cục tác
Ổ trứng hồng tuổi thơ.
Giọng thơ vẫn nhẹ nhàng nhưng mỗi lần điệp từ vì được lặp lại, dường như cảm xúc lại lắng sâu
thêm để tìm về với ngọn nguồn gần gũi và thiêng liêng nhất. Những yếu tố tạo nên động lực của lòng quyết
tâm chiến đấu ở người cháu qua từng dòng thơ mỗi lúc một thu hẹp lại về phạm vi: Tổ quốc - xóm làng người bà - tiếng gà, ổ trứng đã nói lên một quy luật tình cảm vơ cùng giản dị: tình cảm gia đình làm sâu sắc
thêm tình yêu quê hương, đất nước và sự thống nhất giữa hai tình cảm cao đẹp này là cội nguồn sức mạnh
tinh thần của mỗi người lính. Lịng u nước cũng khơng phải là cái gì xa xơi, lớn lao hay trừu tượng. Đó có
thể chỉ là yêu một bếp lửa ấp iu như Bằng Việt; yêu một tiếng gà cục tác, một ổ rơm trứng hồng như Xuân
Quỳnh hay yêu cái cây trồng trước nhà, yêu cái phố nhỏ đổ ra bờ sơng như I-li-a Ê-ren-bua chẳng hạn. Nên
ở một góc độ nào đó, sự thu hẹp phạm vi ở khổ thơ cuối là cách thức cụ thể hóa lịng u nước, làm nổi bật
chân lí giản dị: Lịng u nhà, u làng xóm, u miền q trở nên lịng u Tổ quốc. Bài thơ được mở đầu
bằng tiếng gà trưa và kết thúc lại trở về với tiếng gà. Nhưng đó khơng đơn thuần là tiếng gà gọi về tuổi thơ
nữa, mà là tiếng gà gọi dậy trong lòng người chiến sĩ bản chất của lịng u nước, cái lí do cao cả mà rất đỗi
cụ thể, hối thúc bàn chân băng rừng lội suối đấu tranh vì độc lập, thống nhất nước nhà.
Bằng một hình thức nghệ thuật độc đáo: thể thơ năm tiếng kết hợp biểu cảm với tự sự, miêu tả; thỉnh
thoảng, trong mỗi tiết đoạn liên tưởng được gợi ra từ tiếng gà, lại được ngưng nghỉ, phân định bởi một lời
thơ ba tiếng (lời thơ: Tiếng gà trưa) như đánh dấu một nấc cảm xúc, bài thơ đã diễn đạt một cách tự nhiên
những tình cảm bình dị mà thiêng liêng, sâu sắc của người chiến sĩ trẻ trên bước đường hành quân. Chất liệu
dân gian thô mộc, cách lựa chọn tứ thơ thông minh, chất trữ tình vừa bồng bột, nhí nhảnh vừa sâu lắng, đằm
thắm là đặc trưng của thơ Xuân Quỳnh trong giai đoạn này, cũng là một điểm chung của thế hệ các nhà thơ
trẻ thời chống Mỹ.


Vài suy nghĩ về bài thơ Tiếng gà trưa của Xuân Quỳnh

Nguyễn Thanh Truyền
Xuân Quỳnh không phải là tác giả xa lạ với cảm quan văn chương của nhiều thế hệ bạn đọc nói
chung và bạn đọc trong nhà trường nói riêng. Tuy nhiên, Tiếng gà trưa lại khơng phải là tác phẩm được
nhắc đến nhiều, ít nhất là cho đến trước khi nó được tuyển vào sách giáo khoa Ngữ văn tích hợp. Đơn giản
bởi vì tác giả của nó có khơng ít bài thơ hay. Nhưng, với tư cách là đứa con tinh thần của một chủ thể sáng
tạo giàu cá tính, Tiếng gà trưa vẫn mang chứa những nét riêng đáng yêu. Và, dĩ nhiên là… đáng nói.
1. Điều đáng nói đầu tiên là tên gọi bài thơ: Tiếng gà trưa. Phải nói ngay rằng đấy khơng phải là một
nhan đề ấn tượng, gây chú ý. Kể từ khi Thơ mới xác lập được vị thế, tạo nên một thời đại huy hoàng trong
thơ ca Việt Nam, tiếng gà buổi trưa khơng cịn là âm thanh mới lạ nữa. Người ta có thể quên câu nói này
của Lưu Trọng Lư… Các cụ ta ưa những màu đỏ choét; ta lại ưa những màu xanh nhạt… Các cụ bâng
khuâng vì tiếng trùng đêm khuya; ta nao nao vì tiếng gà lúc đúng ngọ… nhưng ai cũng nhớ những câu thơ
của ông trong bài Nắng mới: Mỗi lần nắng mới hắt bên song/ Xao xác gà trưa gáy não nùng/ Lòng rượi
buồn theo thời dĩ vãng/ Chập chờn sống lại những ngày không… Tất nhiên là tiếng gà trưa trong thơ Xuân
Quỳnh và thơ Lưu Trọng Lư có sự khác nhau rất cơ bản: tiếng gà mái cục tác và tiếng gà trống gáy, một âm
thanh rất bình thường (gà đẻ, gà cục tác) và một âm thanh bất thường (gà thường gáy sáng). Thơ chuộng lạ.
Cái câu nói của tác giả Nắng mới và bài thơ ấy của thi sĩ mơ màng đã ám ảnh ta quá lâu nên cái nhan đề bài
thơ của Xuân Quỳnh không khiến ta chú ý là phải. Mặc dù vậy, chính cái âm thanh quá đỗi bình dị ấy lại là
dấu hiệu nghệ thuật của bài thơ. Tứ thơ khởi phát lên từ đó. Và cũng từ đó, Tiếng gà trưa của Xn Quỳnh
có lí do để bạn đọc phải nhớ, phải yêu. Tiếng gà trong thơ Lưu Trọng Lư xuất hiện sau tín hiệu nắng mới
hắt bên song, tiếng gà trong thơ Xuân Quỳnh xuất hiện trước, khiến nắng trưa xao động; tiếng gà trong thơ
họ Lưu là thanh âm thứ yếu, bổ trợ còn tiếng gà trong thơ Xuân Quỳnh lại là chủ âm, là huyết mạch nối kết
dòng cảm xúc, liên tưởng.
Ngoài nhan đề bài thơ, chi tiết tiếng gà xuất hiện trong bài thơ đến 6 lần, từ khổ đầu đến khổ cuối.
Nhìn chung thơ Xuân Quỳnh thường khơng q dụng cơng, dịng cảm xúc sẽ lựa chọn hình thức thể hiện
khi nó được thức dậy. Ở đây cũng thế, cảnh huống trữ tình rất phổ biến: Trên đường hành quân xa/ Dừng
chân bên xóm nhỏ/ Tiếng gà ai nhảy ổ/ Cục… cục tác cục ta. Từ cảnh huống ấy, tư duy nghệ thuật loé sáng,
tiếng gà trở thành tín hiệu vừa điểm nhịp vừa giữ nhịp cho dịng cảm xúc tn chảy tự nhiên. Tiếng gà
khơng chỉ là âm thanh sống động trong buổi trưa nắng, không chỉ gợi khơng khí làng q thanh bình n ả
để người chiến sĩ được thư thái nghỉ ngơi, tiếng gà còn gọi về bao nhiêu kỉ niệm thân thương máu thịt thời
thơ ấu đã xa và tiếng gà còn đồng hiện trong hiện tại nhắc nhủ con người hướng đến ngày mai, vì ngày mai

chiến đấu. Tên gọi có vẻ khiêm nhường nhưng Tiếng gà trưa đồng thời thực hiện được vai trị vừa cụ thể
hố cảm xúc vừa thâu tóm được thi tứ. Một nhan đề như thế, chắc chắn khơng cịn lựa chọn nào hay và hợp
lý hơn!
2. Tiếng gà trưa là bài thơ lôi cuốn từ khổ đầu, đọc tiếp thấy thú vị và đến đoạn kết thì nhuần thấm
vào tâm trí người đọc - nhất là người đọc tuổi hồn nhiên. Phần chủ yếu của bài thơ là dịng hồi niệm. Trong
dịng cảm xúc ấy hiện lên hình ảnh người bà và qua những kỉ niệm êm đẹp người đọc cảm nhận được tình
bà cháu gần gũi, u thương, ấm áp. Đã có khơng ít người đọc thể hiện cảm nhận, ấn tượng sâu sắc về
những tình cảm thiêng liêng từ dịng hồi niệm đó. Nhưng, Tiếng gà trưa khơng chỉ là hồi niệm. Trong vẻ
hồi niệm hết sức hồn nhiên, Tiếng gà trưa có mạch ngầm suy tưởng.
Tiếng gà trưa được viết ngày 2/ 7/ 1965, nằm trong phạm trù thơ trẻ chống Mỹ thời kỳ đầu. Nhìn
chung, thơ chống Mỹ thời kỳ này chứa chan cảm xúc, thể hiện khát vọng ra trận sôi nổi như: Ôi ta thèm
được cầm khẩu súng/ Đi giữa đoàn quân cùng với bạn bè/ Nằm chờ giặc trên quê hương anh dũng/ Ta cay
nồng mùi lá rụng bờ tre (Lê Anh Xuân)… Về đại thể, chất suy tưởng trong thơ chưa phải là đặc điểm nổi
bật. Đặt trong bối cảnh này, ta vừa thấy nét chung vừa thấy nét riêng của thơ Xuân Quỳnh. Không phủ nhận
Tiếng gà trưa vẫn là một dịng hồi niệm miên man, sâu sắc và chính dịng hồi niệm ấy làm dạt dào thêm


cho khát vọng chiến đấu. Tuy nhiên, nhìn vào cách bố cục, cách phân đoạn văn bản của chính tác giả ta thấy
bài thơ được chia làm hai phần rõ rệt (bằng dấu hoa thị). Sáu khổ thơ đầu là dòng hồi tưởng tự nhiên từ hiện
tại nhớ về quá khứ. Hai khổ thơ cuối là chiêm nghiệm, suy ngẫm rút ra từ quá khứ sâu sắc thức dậy rất
mãnh liệt ở trên. Mối quan hệ tất yếu theo quy luật tâm lý giữa hai phần là điều ta dễ thấy. Tiếng gà rộn lên
trong nắng trưa được cảm nhận bằng thính giác, bằng thị giác, xúc giác và đến cả linh giác. Chạm vào linh
giác, tiếng gà làm sống dậy kỷ niệm. Kỷ niệm sống dậy, lịng trí lại tưởng nhớ, suy tư. Như vậy, mặc dù
cảm xúc bao trùm lên tất cả nhưng suy tưởng vẫn chảy một mạch ngầm, và nếu khơng có mạch suy tưởng
ấy thì dịng hồi niệm kia thật khó có thể hồn nhiên xanh đến thế!
Xin nói về hai khổ thơ cuối. Sau rất nhiều kỷ niệm của tuổi thơ được gọi về, nhân vật trữ tình chiêm
nghiệm: Tiếng gà trưa/ Mang bao nhiêu hạnh phúc/ Đêm cháu về nằm mơ/ Giấc ngủ hồng sắc trứng. Hạnh
phúc tuổi ấu thơ trong tình thương yêu bao la của người bà gắn với hình ảnh ổ trứng hồng không thể nào kể
hết. Tất cả khắc in đậm nét trong lòng ngay từ tuổi dại thơ hồn nhiên. Hạnh phúc ngập tràn đến mức Giấc
ngủ hồng sắc trứng. Khơng có những niềm hạnh phúc ngập tràn ấy chắc chắn cái âm thanh Cục… cục tác

cục ta hết sức bình thường chẳng thể làm xao động tâm hồn người chiến sĩ. Chiêm nghiệm đó thúc đẩy chủ
thể trữ tình bộc bạch suy tưởng về mục đích chiến đấu: Cháu chiến đấu hơm nay/ Vì lịng u Tổ quốc/ Vì
xóm làng thân thuộc/ Bà ơi, cũng vì bà/ Vì tiếng gà cục tác/ Ổ trứng hồng tuổi thơ. Người chiến sĩ xao động
vì tiếng gà, nhận ra ý nghĩa lớn lao của âm thanh ấy đối với cuộc đời mình, chợt liên tưởng đến lý tưởng cao
cả mà mình đang theo đuổi và nhận ra giữa những điều đó là một mối keo sơn gắn bó. Mục đích chiến đấu
được nhấn mạnh nhờ điệp từ vì. Phép liệt kê từ khái quát đến cụ thể giúp tác giả đưa ra một loạt hình ảnh
gợi cảm và có hệ thống: Tổ quốc, xóm làng, bà, tiếng gà, ổ trứng. Những thủ pháp nghệ thuật đó khơng chỉ
nhấn mạnh được mục đích chiến đấu mà cịn lí giải một cách cảm động ngọn nguồn của lòng yêu nước. Khổ
thơ này khiến ta nhớ ngay đến mấy câu văn của Ê-ren-bua: Dịng suối đổ vào sơng, sơng đổ vào dải trường
giang Vơn-ga, con sơng Vơn-ga đi ra bể. Lịng u nhà, u làng xóm, u miền q trở nên lịng u Tổ
quốc. Nếu thử minh họa bằng một hình xốy trơn ốc dựa trên sự vận động của hệ thống hình ảnh mà hai tác
giả sử dụng ta sẽ dễ dàng thấy được trình tự diễn tả của Ê-ren-bua và Xuân Quỳnh ngược nhau. Ê-ren-bua
diễn tả từ cụ thể đến khái quát, Xuân Quỳnh bộc lộ từ khái quát đến cụ thể.
Nhưng cả hai đều có một điểm xuất phát chung, thể hiện sự gặp gỡ ý tưởng như một quy luật tất yếu
mn đời của lịng u nước. Tình u ấy là thiêng liêng, cao đẹp nhưng lại xuất phát từ những gì bình dị,
nhỏ bé, đời thường. Rõ ràng lý tưởng chiến đấu vì lịng u Tổ quốc khơng phải là một khẩu hiệu chung
chung, mòn sáo. Ai cũng có kỷ niệm, có người thân, có quê hương…- những điều tưởng rất riêng tư, bé nhỏ
nhưng lại vô cùng gắn bó với đất nước rộng lớn. Rất cụ thể, cảm động!
Thể hiện lòng yêu nước, Xuân Quỳnh viết thật tự nhiên. Nhấn mạnh cái bình thường của cuộc sống
trong hồn cảnh chiến đấu, Tiếng gà trưa là hình ảnh của sự sống, một sự sống sâu sắc, bền chắc. Khơng có
đoạn suy tưởng này, mạch cảm xúc của bài thơ khơng hồn thiện, cảm hứng u nước của bài thơ khơng
được cất cánh. Và nếu thế, nó đã bị lãng quên!
3. Trong dàn đồng ca đầu mùa đánh Mỹ, thơ Xuân Quỳnh nghiêng về khai thác những cảm xúc
riêng tư, từ cảm xúc riêng ấy lại cất lên những giai điệu hòa cùng thời đại. Đọc thơ Xuân Quỳnh, không
riêng bài Tiếng gà trưa, không nên bỏ qua những hiểu biết về tiểu sử của tác giả. Mồ côi mẹ, sống với bà
suốt những năm thơ ấu, chính từ hồn cảnh riêng tư ấy mà tình bà cháu ở đây chân thực, cảm động đến vậy.
Sách Ngữ văn 7 nói Tình cảm gia đình đã làm sâu sắc thêm tình q hương đất nước (Tập một, trang 151).
Rất chính xác. Điều đó được thể hiện trong thơ và cả trong đời.
Sự thống nhất đời và thơ ấy (dĩ nhiên là không đồng nhất) là một cơ sở giúp ta xác định và gọi tên
chủ thể trữ tình. Nên chăng ở bài thơ này ta không xác định cụ thể nhân vật trữ tình là nam hay nữ chiến sĩ?

Nhiều giáo viên vẫn hướng dẫn học sinh tìm hiểu tình cảm, kỷ niệm của anh chiến sĩ trong bài thơ… Như
thế có thoả đáng? Tơi nghĩ là khơng. Xác định nhân vật trữ tình phải căn cứ vào nội dung cảm xúc của bài
thơ. Nhân vật trữ tình là Hình tượng nhà thơ trong thơ trữ tình, phương thức bộc lộ ý thức của tác giả. (…)
là con người đồng dạng của tác giả (Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb GD, 2004). Nếu xác định, gọi tên hình


tượng nhân vật trữ tình ở bài thơ này là anh chiến sĩ, chúng ta sẽ lí giải thế nào về những chi tiết rất nữ tính
này:
Cháu về lấy gương soi
Lịng dại thơ lo lắng
Ơi cái quần chéo go
Ống rộng dài quét đất
Cái áo cánh trúc bâu
Đi qua nghe sột soạt…?!
Cịn gọi là nữ chiến sĩ? Có lẽ khơng cần thiết phải cụ thể quá như thế. Mặc dù, trong thời chiến, ai
cũng có thể là chiến sĩ, khơng phân biệt già hay trẻ, đàn ông hay đàn bà, các lĩnh vực hoạt động… Cảm xúc
trong thơ là cảm xúc điển hình. Dù là nỗi lịng riêng tư của ai, nếu tâm trạng ấy gợi được đồng cảm thì đều
có giá trị phổ quát. Người chiến sĩ trong bài thơ là hình ảnh điển hình của thế hệ trẻ Việt Nam thời chống
Mỹ cứu nước. Và, những ai biết trân trọng quá khứ tuổi thơ, mang nặng nghĩa tình với gia đình xóm mạc,
mỗi lần hồi nhớ q khứ lại như được tiếp thêm sức mạnh phấn đấu vì lý tưởng cao đẹp thì đều có thể gặp
hình bóng của mình trong thi phẩm Tiếng gà trưa. Vì thế, tơi nghĩ khơng nên gọi nhân vật trữ tình ở đây là
nữ chiến sĩ hay anh chiến sĩ mà hãy gọi bằng một từ có ý nghĩa khái quát hơn: người chiến sĩ. Kỷ niệm
riêng tư của Xuân Quỳnh đã hòa điệu cùng kí ức của cả thế hệ, cái tơi cá nhân nghệ sĩ đã thống nhất cùng
cái ta dân tộc, cái bình dị cộng hưởng với cái cao đẹp, lớn lao. Khơng nên vì việc xác định, gọi tên nhân vật
trữ tình thiếu chính xác mà vơ hình trung thu hẹp ý nghĩa của tác phẩm.
Được dạy, được học bài thơ như Tiếng gà trưa kể ra cũng là một may mắn. Nói về một bài thơ hay,
cả người nói và người nghe đều như được giàu có thêm lên. Đó là niềm vui khơng dễ có. Vài điều tâm đắc
và một ít trăn trở băn khoăn của cá nhân về việc tiếp cận bài thơ Tiếng gà trưa của Xuân Quỳnh xin được
chia sẻ và trao đổi cùng bạn đọc.




×