Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Bình giảng bài thơ tiếng gà trưa.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.84 KB, 7 trang )

TRƯỜNG PTDT NỘI TRÚ NGOẠI KHÓA VĂN HỌC
KHỐI 7 CHỦ ĐỀ: CHÚNG EM VỚI VĂN HỌC
Kính thưa ban giám khảo
Kính thưa các thầy cô giáo
Thưa toàn thể các bạn!
Trước hết cho phép em thay mặt cho các bạn học sinh khối lớp 7 xin được gửi
đến Ban giám khảo, các thầy cô giáo và các bạn học sinh lời kính chúc sức khỏe và
lời chào trân trọng nhất. Chúc buổi ngoại khóa thành công rực rỡ.
Kính thưa ban giám khảo
Kính thưa các thầy cô giáo
Thưa toàn thể các bạn!
Văn học là món ăn tinh thần không thể thiếu của con người trong xã hội. Vì
nguồn gốc của văn là tình cảm, là lòng vị tha, văn học sáng tạo ra sự sống, góp phần
bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm cho chúng ta. Học văn, chúng ta biết cách yêu thương,
chia sẻ, biết cách làm người. Khi đọc một tác phẩm văn học nó sẽ giúp ta có thêm
cảm xúc và tình cảm. Có người khi đọc một tác phẩm vì quá hay và xúc động mà rơi
cả nước mắt vì người ấy đã biết thả cả tâm hồn của mình vào văn học. Văn học
không những giúp ta quên hết nỗi buồn mà còn giúp ta biết yêu cuộc sống hơn qua
những nhân vật và sự việc trong tác phẩm.
Trong chương trình ngữ văn lớp 7, có rất nhiều tác phẩm văn học hay, song
với phạm vi buổi ngoại khóa hôm nay, em xin phép được nói lên đôi điều suy nghĩ
về bài thơ Tiếng gà trưa của nhà thơ Xuân Quỳnh.
Kính thưa quý vị
Xuân Quỳnh, nhà thơ nữ xuất sắc nhất của nền thơ hiện đại Việt Nam. Thơ
Xuân Quỳnh sôi nổi, trẻ trung, sâu sắc và giàu nữ tính. Bên cạnh những bài thơ tình
tha thiết cháy bỏng, Xuân Quỳnh còn một mảng thơ viết về những chuyện bình dị,
gần gũi trong đời sống thường nhật trong gia đình với tình cảm gia đình, mẹ con, bà
cháu Bài thơ Tiếng gà trưa là một bài thơ như thế.
Bài thơ ra đời trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
Như nhiều tác phẩm đương thời, bài thơ hướng vào chủ đề chung của cả nền văn học
lúc bấy giờ là lòng yêu quê hương, đất nước. Do đó, tuy bài thơ có nhiều kỉ niệm


riêng của bản thân nhà thơ, nhưng ta thấy trong cái tôi rất riêng của người nghệ sĩ là
cái ta chung của cả một thế hệ, một dân tộc. Tất cả được hòa hợp tự nhiên, tỏa ra
nguồn cảm hứng vừa thân thương, gần gũi, vừa cao cả thiêng liêng, lay động lòng
người. Nhà văn Lê Minh Khuê đã nói lên cảm xúc của mình về bài thơ như sau: “ Từ
những ngày còn tuổi mười tám đôi mươi, tôi đã đọc và yêu thơ Xuân Quỳnh. Không
thể không trào nước mắt khi đọc những câu: Trên đường hành quân xa/ Dừng chân
bên xóm nhỏ/ Tiếng gà ai nhảy ổ/ Cục cục tác cục ta/ Nghe xao động nắng trưa/
Nghe bàn chân đỡ mỏi/ Nghe gọi về tuổi thơ Những câu thơ giản dị như những bài
hát đồng dao, nhưng nó làm tim ta thắt lại vì nó trong trắng, sinh động và thân thiết”.
Quả đúng như vậy, đoạn một của bài là hình ảnh Người chiến sĩ chống Mĩ cứu
nước- đoàn quân ra tiền tuyến, trong đó có nhà thơ - kể về một sự việc bình thường
mà rất thú vị: Trên đường hành quân, lúc tạm nghỉ ở một xóm nhỏ bên đường, người
chiến sĩ bống nghe tiếng gà nhảy ổ vang lên”Cục cục tác cục ta”. Tiếng gà rất đỗi
gần gũi, thân thương, làm xao động, làm dịu bớt cái nắng trưa gay gắt, xua tan những
mệt mỏi nơi người chiến sĩ và đánh thức những kỉ niệm xa xưa, gọi về tuổi thơ, đưa
các anh các chị sống lại những năm tháng hồn nhiên, tươi đẹp.
Trong những ngày cả nước chống mĩ sôi sục và ác liệt, âm thanh tiếng gà trưa
dường như góp phần làm dịu đi không khí nóng bức của chiến tranh, mở ra một
không gian thanh bình sâu lắng, giúp những người chiến sĩ tìm lại được chút thời
gian yên tĩnh trong cõi lòng để lắng sâu suy cảm.
Sau tiếng gà nhảy ổ ở hiện tại, sang đoạn hai, tiếng gà gọi về những kỉ niệm
tuổi thơ. Ba khổ, hai mươi sáu câu nối nhau cùng với tiếng gà trưa điệp lại, chúng ta
được cùng người chiến sĩ ấy sống lại những ngày tháng thật dịu êm trong tình yêu
thương của bà, và những câu chuyện về những con gà mái cũng rất đáng yêu. Nào
là hình hài và màu sắc của những chị “ gà mái mơ, khắp mình hoa đốm trăng”, “gà
mái vàng, lông óng như màu nắng”. Nào là chuyện nhìn gà đẻ, bị bà mắng yêu. Nào
là hình ảnh bà soi trứng, theo dõi quá trình gà ấp với bàn tay khum khum, với tấm
lòng chắt chiu, nâng đỡ từng sự sống nhỏ nhoi trong từng quả trứng. Rồi chuyện bà:
Mong trời đừng sương muối
Để cuối năm bán gà

Cháu được quần áo mới
Ôi cái quần chéo go
Ống rộng dài quét đất
Cái áo cánh trúc bâu
Đi qua nghe sột soạt
Qua những dòng thơ êm nhẹ, hình ảnh người bà Việt Nam hiện lên đẹp như
một bà tiên vậy. Bà tần tảo, chắt chiu, dành dụm từng quả trứng, từng chú gà con,
như chắt chiu, nâng đỡ những ước mơ hạnh phúc nhỏ bé, đơn sơ của đứa cháu yêu.
Hình ảnh đứa cháu được mặc bộ quần áo mới do công lao nuôi gà của bà ban tặng,
hồn nhiên, ngây thơ làm sao. Chỉ là bộ quần áo được may bằng những loại vải rẻ tiền
nhưng đứa cháu đã vô cùng cảm động, sung sướng, bởi vì đó là bộ quần áo được
may bằng cả tấm lòng của bà dành cho cháu. Đứa cháu năm xưa giờ đã là chiến sĩ,
người con ấy đã được lớn lên trong tình yêu thương, nâng đỡ của quê hương, của
những người ruột thịt. Riêng nữ sĩ Xuân Quỳnh, có lẽ mối tình sâu nặng và ân nghĩa
nhất là tình bà cháu. Nếu không nhớ thương và biết ơn bà, làm sao mà viết được
những dòng thơ ghi lại những kỉ niệm đẹp như thế.
Từ tiếng gà trưa gọi về những kỉ niệm tuổi thơ ở đoạn hai, đến những câu thơ
cuối, người chiến sĩ - tác giả Xuân Quỳnh- trở lại với cuộc sống của con người hiện
tại. Tiếng gà trưa trở thành tiếng nói của quê hương, của những người ruột thịt, của
cả dân tộc và đất nước lúc bấy giờ nhắc nhở giục cĩa người cầm súng. Họ tự nhủ và
nhắn với bà:
Cháu chiến đấu hôm nay
Vì lòng yêu Tổ quốc
Vì xóm làng thân thuộc
Bà ơi, cũng vì bà
Vì tiếng gà cục tác
Ổ trứng hồng tuổi thơ
Từ kỉ niệm về tình bà cháu, cảm hứng thơ mở rộng hướng tới tình yêu đất
nước, nhắc nhở, giục giã những chiến sĩ - trong đó có nhà thơ- hãy chắc tay súng tiến
lên chống kẻ thù xâm lược, bảo vệ gia đình, làng xóm, quê hương và nền độc lập, tự

do của Tổ quốc.
Cả bài thơ là dòng hồi ức tuôn chảy không ngừng của một người chiến sĩ trên
đường hành quân ra mặt trận. Kỉ niệm tuổi thơ luôn là những tình cảm thân thương,
ngọt ngào nhất trong cuộc đời mỗi chúng ta. Đó cũng là nguồn động viên tinh thần
chiến đấu của người lính. Nhà thơ Chế Lan Viên đã viết:
Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ, như cha, như vợ, như chồng
Ôi Tổ quốc nếu cần, ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông.
Cũng trong nguồn cảm hứng dạt dào và thiêng liêng ấy, Xuân Quỳnh đã chọn
một cách thể hiện giản dị hơn, gần giũ hơn mà cũng không kém phần sâu sắc.
Bài thơ Tiếng gà trưa bắt nguồn từ hoàn cảnh riêng của nhà thơ Xuân Quỳnh:
mẹ mất sớm, cha sinh sống nơi xa, Xuân Quỳnh trải qua một tuổi thơ lam lũ trong sự
đùm bọc, yêu thương của bà nội. Đến đây, ta chợt nhớ nhà thơ Bằng Việt cũng có
một tuổi thơ như thế, cũng được sống trong tình yêu thương, chăm lo, dạy bảo của
bà: Cháu ở với bà, bà bảo cháu nghe/ Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học. Có lẽ
cũng giống như nhà thơ Bằng Việt, kỉ niệm về những năm tháng tuổi thơ luôn là
bóng mát đi theo suốt cuộc đời nhà thơ Xuân Quỳnh, và những kỉ niệm ấy chính là
sức mạnh, là nguồn động viên to lớn đối với nhà thơ trong cuộc sống cũng như trong
chiến đấu.
Bài thơ khép lại, nhà thơ Xuân Quỳnh đã cho chúng ta hiểu được một điều:
Tình yêu quê hương đất nước có gì xa lạ đâu, nhiều khi nó được bắt đầu từ tình cảm
gia đình, từ tình bà cháu, giống như nhà văn Ê ren bua từng nói: Lòng yêu nhà, yêu
làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc.
1. Tìm hiểu đề, tìm ý.
* Tìm hiểu đề
- Thể loại: nghị luận về một SV,HT đời sống
- Nội dung: thảo luận, bày tỏ ý kiến về SV, hiện tượng được nêu ra: Phạm Văn Nghĩa
ham học, chăm làm, có đầu óc sáng tạo và biết vận dụng những KT đã học vào thực
tế c/s một cách có hiệu quả hơn.

- Yêu cầu: trình bày suy nghĩ về hiện tượng đó
* Tìm ý
- Nghĩa giúp mẹ
+ Ra đồng trồng trọt
+ Ở nhà: nuôi gò, nuôi heo
- Ý nghĩa việc làm
+ Nghĩa là người thương mẹ, giúp mẹ trong việc đồng áng.
+ Là người kết hợp học với hành
+ Là người sáng tạo
- Học tập Nghĩa là:
+ Học yêu cha mẹ
+ Học lao động
+ Học biết kết hợp học với hành, học sáng tạo (làm những việc nhỏ mà có ý nghĩa)
2- lập dàn bài.
a. Mở bài.
- giới thiệu hiện tượng Phạm Văn Nghĩa
- Nêu tóm tắt ý nghĩa của tấm gương PV Nghĩa
b. Thân bài.
- Phân tích ý nghĩa về những việc làm của Phạm Văn Nghĩa.
- Đánh giá việc làm của Phạm Văn Nghĩa
- Nêu ý nghĩa của việc phát động phong trào học tập Phạm Văn Nghĩa.
c. Kết bài.
- Nêu ý nghĩa giáo dục của tấm gương PVN
- Rút ra bài học cho bản thân
Vai trò của tình cảm trong văn chương
Người ta đã nói nhiều và sẽ còn nói nữa, nói mãi về vai trò của văn chương đối với con
người và cuộc sống. Nhà thơ Chế Lan Viên từng viết:
Trái đất rộng thêm ra một phần bởi các trang thơ
Vì diện tích tâm hồn các nhà thi si
(Sổ tay thơ)

Văn chương quả là món ăn tinh thần thiết yếu, thường xuyên của con người trong xã hội.
Thưởng thức văn chương là hoạt động hàng ngày của hàng triệu, hàng triệu con người thuộc
các lứa tuổi, các dân tộc, các tầng lớp khác nhau trên hành tinh chúng ta. Có thể kể ra muôn vàn
minh chứng cho điều này. Chẳng hạn ảnh hưởng của Đíchken đối với dân tộc Anh cuối thế kỉ
XIX. “Trong khi ấy- Xtephan Vaixơ kể lại - họ (những người sùng bái Đíchken) không thể bắt mình
chờ ở nhà trong ngày bưu phẩm tới, cho đến khi lại có cuốn sách nhỏ màu xanh, mới xuất bản.
Suốt cả tháng họ thèm thuồng ước mơ về cuốn sách đó, kiên trì, hi vọng, tranh cãi Và thế là cuối
cùng đành chờ đợi người đưa thư đi xe ngựa tới và sẽ giải tất cả những câu đố thú vị ấy. Năm
này qua năm khác trong cái ngày long trọng đó những người già và người trẻ đi bộ hàng dặm để
đón người đưa thư chỉ cốt nhận được cuốn sách sớm hơn. Ngay trên đường về họ bắt đầu đọc,
liếc nhìn nhau qua vai, họ đọc to lên, và chỉ có những người tử tế nhất mới chạy ba chân bốn
cẳng về nhà để chia sẻ với vợ con những điều mình vừa tìm được Khi Đíchken quyết định phát
biểu công khai với tư cách là người đọc và lần đầu tiên mặt đối mặt với độc giả của mình, nước
Anh tựa như say rượu. Các phòng đều bị đột kích chật ních; những người hâm mộ thú vị leo trèo
lên các cột, chui cả dưới bục của sân khấu cốt chỉ được nghe nhà văn yêu mến”
(1)
. Đây là chuyện
xảy ra với người lớn, Còn đối với trẻ em? Nhà văn Liên xô trước đây Coocnây Trucôpxki có kể
một câu chuyện thật xảy ra với ông ở Alupca vào năm 1929: “Bọn trẻ đang mệt nhoài vì nóng
bức. Chúng la hét inh ỏi. Một bà phụ nữ vụng về cứ quang quác mắng chúng, nhưng chẳng làm
sao chúng im tiếng cho. Tôi vừa ở xa đến. Muốn các em vui lên, tôi bèn đem truyện
“Muynhaoden” ra đọc cho các em nghe. Chỉ sau hai phút đồng hồ bọn trẻ kêu lên vì sung sướng.
Nghe tiếng reo mừng rỡ của chúng, lần đầu tiên tôi thật sự hiểu rằng cuốn truyện vui này đối với
các em chín tuổi là món quà ngon miệng như thế nào và cuộc sống của trẻ thơ sẽ mờ đục biết
bao nếu như không có cuốn sách nói trên. Với lòng biết ơn vô cùng trìu mến đối với tác giả cuốn
sách, giữa tiếng cười vang của bọn trẻ, tôi đọc cho chúng nghe nào là cái rìu bay vút lên cung
trăng, nào là những cuộc phiêu lưu lên chín tầng mây, nào là chân ngựa cắt rời ra mà người ta
chăn nuôi trên cung trăng. Và khi tôi ngừng đọc một phút bọn trẻ lại nhao nhao “đọc tiếp đi,
chú!” (2).
Có thể xem đó là những dẫn chứng tiêu biểu xác nhận vị trí của văn chương trong đời sống

con người. Chính tính truyền cảm, và gắn bó với nó là tính hình tượng làm nên ưu thế đặc biệt
của văn chương nhất là khi nhân loại đang bị đe doạ bởi xu hướng kĩ trị như hiện nay.
Trong kho tàng ca dao Việt Nam có nhiều viên ngọc lung linh ánh sáng . Một trong những
viên ngọc ấy là bài ca dao bình dị viết về bông sen bình dị:
Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh, bông trắng, lại chen nhị vàng
Nhị vàng, bông trắng, lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn
Câu đầu là một lời khẳng định dứt khoát, không một chút đắn đo: “Trong đầm gì gì đẹp
bằng sen”. Người đời vốn thông minh và khó tính lắm, không dễ tìm được sự thừa nhận rộng rãi
nếu không có sức thuyết phục. Bằng lí lẽ sắc bén và thực tế hùng hồn, cố nhiên. Và dân gian đã
đưa ra những bằng cớ. Trước hết là bằng cớ bên ngoài. Này nhé:
Lá xanh, bông trắng, lại chen nhị vàng
Có màu sắc,lại có cả hương thơm. Riêng màu sắc mới hài hòa làm sao! Chúng nằm cạnh
nhau, tôn nhau lên để cho mọi yếu tố đều có sức cuốn hút đến ngỡ ngàng!Đủ chưa? Vẫn chưa
đủ! Nếu câu thứ hai đi từ ngoài vào trong, từ “lá xanh”, “bông trắng”, tới “nhị vàng” thì câu thơ thứ
ba lại đi từ trong ra ngoài:
Nhị vàng, bông trắng, lá xanh
Ôi, kĩ càng và thận trọng làm sao! Khó tính đến thế làm sao những người khó tính ở đời
không tin cho được. Khi vẻ đẹp hình thức đã hoàn toàn thuyết phục thì vẻ đẹp phẩm chất đột
nhiên phát lộ ra bên ngoài ngời ngợi:
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn
Bông sen đẹp cả sắc hương lẫn sự tinh khiết, cả vẻ đẹp bên ngoài lẫn phẩm chất bên trong.
Đó chính là vẻ đẹp bình dị của người nông dân chân lấm tay bùn đã làm nên bao giá trị trên đời
trong đó có cả những câu ca dao sáng ngời kia đó. Chỉ cần đọc một lần trong đời những tác
phẩm như vậy ta rung động và nhớ mãi. Nói về sức sống bất diệt của những tác phẩm văn
chương đã chinh phục trái tim và khối óc của hàng triệu người đọc, thi hào Anh Bairơn đã viết:
“Lạ lùng thay!Vài câu nói không to lên thành tiếng mà viết ra lại có thể trở thành một mắt xích bền
lâu trong chuỗi dài năm tháng. Thời gian sẽ thu nhỏ con người mảnh khảnh lại trong một phân tấc
mỏng manh, ấy vậy mà một mẩu giấy con, một tí xíu thôi, như mẩu giấy này chẳng hạn, lại sống

dai hơn con người, lâu hơn cả nấm mồ con người, lâu hơn bất cứ cái gì thuộc về con người”.
Những tác phẩm lớn như thế góp phần làm cho con người phát triển toàn diện mà trước hết
là có sự hài hòa giữa lí trí và tình cảm, nhận thức và cảm xúc.Không phải vô cớ câu nói của văn
hào Đôxtôiepxki “Cái đẹp cứu rỗi thế giới” đặc biệt vang lên trong thời đại chúng ta, khi nhân loại
đang bước vào ngưỡng cửa của thiên niên kỉ mới. Quả thật, khi con người không biết rung động
trước cái đẹp yếu ớt, cái đẹp mong manh liệu thế giới của chúng ta rồi sẽ ra sao đây! Có lần, tại
diễn đàn hội nghị chuyên đề về thơ Á - Phi tổ chức tại Êrêvan (Liên xô trước đây) vào năm 1973,
nhà thơ Chế Lan Viên đã vẽ lên một thế giới không có thi ca: “Các bạn hãy tưởng tượng một thế
giới không có lộc non cây xanh; tiếng cười của trẻ con và của suối, không có tiếng hót của loài
chim và mùi hương của các loài hoa, ở xứ sở ấy, những dãy núi khi người ta cất lên lời không có
tiếng vang đáp lại Không, không ai vì thế mà chết cả, trong xứ sở ấy. Người ta vẫn tiếp tục sống
- đúng hơn - tiếp tục tồn tại như thường. Chỉ có điều trong xứ sở ấy, những đôi trai gái chẳng hôn
nhau mà cũng chẳng hôn hoa. Và không bao giờ người ta nhỏ lệ trước máu đổ ra của đồng loại.
Người di chuyển như đồ vật. Và con số, và tín hiệu và mật mã là tất cả ngôn ngữ ở xứ ấy.”
Trái tim sắt đá, trí tuệ lạnh lùng đó chính là tai họa khủng khiếp cho nhân loại. Tình cảm,
trong đó có tình cảm thẩm mĩ, tình cảm văn chương có ý nghĩa vô cùng đặc biệt và lâu dài. V.L.
Lênin từng khẳng định: “Đã, đang và sẽ không bao giờ có thể có sự tìm tòi chân lí của nhân loại
nếu không có cảm xúc của con người" (3) I.M Xêtrênốp cũng chỉ rõ sức mạnh của cảm xúc khi
cho rằng: “Chúng ta không hề biết một thứ ý chí lạnh lùng bất định nào”
(4)
. Ở một góc độ khác có
thể nhấn mạnh đến tính tích cực xã hội của tình cảm. Động lực của cảm xúc trong việc thúc đẩy
hành động được biểu hiện sinh động và đầy sức thuyết phục qua ý tưởng của bài thơ” Con hỏi
cha” của Chế Lan Viên. Bài thơ được cấu tứ bằng hệ thống những câu hỏi hồn nhiên của đứa
con với người cha theo sự tăng tiến của mức độ vấn đề và cường độ cảm xúc.
Con hỏi cha: “Bom có giết chết mèo”.
Mèo, chó những con vật vốn thân thuộc với cuộc sống hàng ngày của trẻ thơ nên lòng
người cha sao có thể dửng dưng! Tuy trái tim người cha mới khẽ rung lên. Người cha còn đủ
điềm tĩnh để nhắc nhở đứa con:
"Có!" Khi xuống hầm con hãy nhớ mang theo

Câu thứ hai của người con:
Bom có giết thỏ cao su và ngựa gỗ?
Mèo chó đã gần gũi với con trẻ nhưng đồ chơi, những thỏ cao su và ngựa gỗ gần gũi với
con trẻ hơn. Phản ứng tình cảm của người cha ra sao? Im lặng. Một sự im lặng chất chứa yêu
thương và căm thù. Người cha không trả lời. Nhà thơ buông ra một lời cảm thán:
Ôi đồ chơi trẻ bao lần hoen máu đỏ!
Đó là câu hỏi thứ hai. Câu hỏi thứ ba là gì đây?
Con lại hỏi cha: "Bom có giết mẹ không?"
Hiển nhiên là câu hỏi ở tầm mức mới, cao hơn hẳn hai câu hỏi đầu tiên, vì có đứa trẻ nào
trong đời lại không thương mẹ - người đã dứt ruột đẻ ra mình, ấp iu, chăm sóc mình ngay từ tấm
bé. Và hẳn nhiên sự bộc lộ cảm xúc ở người cha cũng phải ở một cường độ mới:
"Không" và cha ôm con nước mắt lưng tròng
Không thể im lặng thêm một lần nữa (người con sao chịu nổi!) nhưng câu trả lời lại không
đúng sự thật. Không, bom không thể giết mẹ - người trần mắt thịt - đâu! Sao đứa con có thể chấp
nhận, vì lẽ đứa con sẽ không chịu nổi. Ôi, trái tim trẻ thơ, non dại dường kia! Tuy, hành động sau đó
của người cha lại nói một điều ngược lại. Không, bằng cảm tính, đứa con sẽ cảm được, đúng hơn
là sẽ cảm hiểu được cái điều mà người cha đang bị nỗi đau giằng xé kia hành hạ - người cha ấy
không thể nói ra bằng lời. Đứa con chắc không chịu nổi! Từ đây, nhà thơ chủ động đẩy đến đỉnh
điểm:
Con lại hỏi: Bom có thể giết con không đấy?
Câu hỏi như kéo dài ra, nhức nhối, thật đột ngột mà cũng rất hợp qui luật. Câu kết như là sự
phát triển tự nhiên của mạch thơ:
Đừng có hỏi, con ơi đừng có hỏi
Để ngày mai cha ra trận cho con
Câu thơ đóng lại, nhưng suy tưởng của người đọc được mở ra. Rồi chân lí giản đơn hiện
lên rõ mồn một: Phải có tình cảm, tình cảm ở mức cao, mức sâu, con người mới có thể hành
động để cải tạo thế giới này.

×