Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

(SKKN CHẤT 2020) một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy kỹ năng nghe nói tiếng anh cho học sinh tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 40 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO QUẬN BẮC TỪ LIÊM HÀ NỘI
TRƯỜNG TIỂU HỌC MINH KHAI B
=====***=====

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỀ TÀI:

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
DẠY KỸ NĂNG NGHE - NÓI TIẾNG ANH CHO

HỌC SINH TIỂU HỌC

Lĩnh vực: Môn Tiếng Anh
Tên tác giả: Nguyễn Thị Hoa Liên
Giáo viên môn Tiếng Anh

Năm học: 2015 -2016
0

download by :


MỤC LỤC
Nội dung
PHẦN I - ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lý do chọn đề tài.
II. Mục đích nghiên cứu.
III. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
IV. Phương pháp nghiên cứu.
V. Phạm vi nghiên cứu.


PHẦN II - NỘI DUNG
I. Cở sở khoa học của vấn đề nghiên cứu.
II. Thực trang của việc dạy kĩ năng nghe – nói trong nhà trường hiện
nay.
III. Một số biện pháp thực hiện.
Biện pháp 1: Giáo viên thường xuyên sử dụng Tiếng Anh trong tiết dạy.
Biện pháp 2: Rèn luyện cho học sinh phát âm chuẩn từ vựng và ngữ điệu
câu.
Biện pháp 3: Hướng dẫn học sinh sử dụng cử chỉ, điệu bộ khi đối thoại bằng
Tiếng Anh.
Biện pháp 4: Tạo hứng thú cho học sinh trong các giờ học.
Biện pháp 5: Khuyến khích học sinh tự làm từ điển cá nhân, góc học tiếng
Anh
Biện pháp 6: Rèn luyện kỹ năng nghe - nói giao tiếp thơng qua hoạt động
nhóm.
Biện pháp 7: Khuyến khích học sinh tập hát nhiều bài hát Tiếng Anh, xem
các bộ phim hoạt hình có lồng Tiếng Anh.
V. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC.
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
I. KẾT LUẬN
II. KHUYẾN NGHỊ


PHẦN IV- TÀI LIỆU THAM KHẢO

1

download by :



PHẦN I - ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lý do chän ®Ị tµi
Ngày nay xu hướng hội nhập quốc tế trong nhiều lĩnh vực kể cả lĩnh vực
giáo dục đã đưa tiếng Anh lên một vị trí hết sức quan trọng. Tiếng Anh là cơng
cụ giao tiếp là chìa khố dẫn đến kho tàng tri thức nhân loại. Mặt khác việc ứng
dụng rộng rãi công nghệ thông tin đã làm cho việc học tiếng Anh trở thành cấp
bách và khơng thể thiếu.
Vì vậy việc học tiếng Anh của học sinh Tiểu học được học sinh, phụ
huynh học sinh, giáo viên ngành giáo dục và cả nước đặc biệt quan tâm. Tiếng
Anh trở thành một trong các mơn chính yếu trong chương trình học của học sinh
phổ thông.
Việc học và sử dụng tiếng Anh địi hỏi cả một q trình luyện tập cần cù
sáng tạo của cả người học lẫn người dạy. Đặc biệt trong tình hình cải cách giáo
dục như hiện nay, dạy tiếng Anh theo quan điểm giao tiếp được nhiều người ủng
hộ. Theo phương pháp này học sinh có nhiều cơ hội để giao tiếp với bạn bè, với
giáo viên để rèn luyện ngơn ngữ, chủ động tích cực tham gia vào các tình huống
thực tế: “Học đi đơi với thực hành”.
Chương trình Tiếng Anh mới ở bậc Tiểu học đã được triển khai thực hiện
trên toàn quốc đến nay đã được hơn 6 năm. Nét đổi mới nổi bật của nội dung
chương trình này là tạo cơ hội tối đa cho học sinh luyện tập 4 kỹ năng nghe, nói,
đọc, viết và kỹ năng sử dụng ngơn ngữ trên những chủ đề và tình huống hay nội
dung giao tiếp có liên quan đến mơi trường sống trong và ngồi nước. Sự thay
đổi trên tạo điều kiện cho việc dạy và học tiếng Anh trong nhà trường Tiểu học
trở thành việc dạy sinh ngữ thay vì là dạy từ ngữ như nhiều năm trước đây. Tuy
nhiên trong thực tiễn rèn các kỹ năng tiếng Anh cho học sinh, giáo viên phải
đương đầu với khơng ít khó khăn, đặc biệt là dạy kỹ năng nghe - nói.
Qua thực tế giảng dạy, kĩ năng nghe - nói tiêng Anh đơi vơi hoc sinh la
môt hoat đông khá hâp dân. Mơi lam quen vơi viêc hoc tiêng Anh, hoc sinh nao
cũng thich noi tiêng Anh, tuy nhiên qua thưc trang, tôi danh môt khoang thơi
gian đê tim hiêu vê kha năng sử dụng kĩ năng nghe - nói tiếng Anh ơ mơt sơ lơp,

tôi thây cac em con phat âm chưa đung, môt sô câu con dung sai câu truc ngư
phap, và đặc biệt phần nghe của các em cịn chưa có phản xạ. Trên thưc tê, đôi
luc ngươi giao viên con chưa nắm bắt kip thơi nhưng sai sot nho cua tưng hoc
sinh. Co nhưng tiêt do chương trinh qua nhiêu, lơp đông nên không đu thơi gian
đê tưng hoc sinh luyên nghe và nói trươc lơp. Tuy nhiên lam thê nao đê trong
mỗi tiêt hoc em nao cũng đươc nghe, noi, manh dan giao tiêp. Qua những năm
giảng dạy Tiếng Anh ở bậc tiểu học tôi nhận thấy kỹ năng nghe - nói tiếng Anh
của học sinh cịn nhiều hạn chế. Là giáo viên tiếng Anh tôi nhận thấy đây là việc
làm cấp thiết góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Do vậy trong q trình dạy
học, tơi tự tìm kiếm một số phương pháp tích cực, đơn giản, dễ hiểu thiết thực
đảm bảo tính khoa học, nhằm phát triển khả năng tư duy; sự suy đốn và tính
sáng tạo của học sinh. Với phạm vi kinh nghiệm nhỏ này tôi mạnh dạn đi
2

download by :


sâu vào một vấn đề "Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy kỹ năng nghe
- nói Tiếng Anh cho học sinh Tiểu học”.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy của bản thân về việc dạy Tiếng
Anh
Nhằm kích thích hứng thú học Tiếng Anh, củng cố khắắ́c sâu kiến thức,
phát triển trí thơng minh, tư duy linh hoạt sáng tạo cho học sinh.

-

Nhằm phát triển về kỹ năng nghe - nói của học sinh Tiểu học. Qua đó
tìm ra điểm mạnh, điểm yếu của môn học để đề ra những giải pháp khắắ́c phục để
nâng cao chất lượng dạy và học Tiếng Anh.

III. KHÁCH THỂ, ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
1, Khách thể nghiên cứu: Nâng cao chất lượng dạy kĩ năng nghe – nói tiếng
anh cho học sinh tiểu học.
2, Đối tượng nghiên cứu

- Biện pháp nâng cao chất lượng dạy kĩ năng nghe – nói tiếng anh cho học sinh
tiểu học.
IV. Đối tượng khảo sát thực nghiệm:
1, đối tượng nghiên cứu khảo sát: Giáo viên, học sinh lớp 3,4,5.
2, Đối tượng thực nghiệm: Giáo viên, học sinh lớp 3,4,5.
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết
Đọc một số sách giáo khoa, sách tham khảo và một số chuyên đề về phát
triển kỹ năng nghe - nói Tiếng Anh cho học sinh cấp Tiểu học.
- Phương pháp quan sát điều tra
Điều tra thực trạng ở trường Tiểu học về kỹ năng nghe - nói Tiếng Anh
Phỏng vấn và dự giờ giáo viên (kết hợp tổ nhóm chun mơn và ban giám hiệu
nhà trường)
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm của hoạt động
Thông qua các tiết dự giờ, thao giảng có thể quan sát trực tiếp tình hình
học sinh. Qua đó biết được khả năng sử dụng kĩ năng nghe - nói tiếng Anh
trong các giờ học của học sinh. Bên cạnh đó có thể học hỏi đồng nghiệp và phát
hiện ra những hạn chế trong giảng dạy
- Phương pháp dạy học thực nghiệm
Dạy những câu giao tiếp và những đàm thoại ngắắ́n, các trò chơi, các bài
hát ngắắ́n và các bài nghe theo chủ đề gần gũũ̃i với học sinh.
- Phương pháp nghiên cứu kinh nghiệm dạy học
- Phương pháp tổng kết, đúc rút kinh nghiệm.

3


download by :


VI. Phạm vi nghiên cứu:
- Chương trình, nội dung mơn Tiếng Anh ở bậc Tiểu học
- Các kỹ năng nghe - nói cơ bản cần rèn cho học sinh Tiểu học.
- Phương pháp, kĩ thuật giáo dục kĩ năng nghe - nói cho học sinh thơng qua mơn
Tiếng Anh.
- Thời gian nghiên cứu tháng 9 năm 2015 đến tháng 3 năm 2016.

4

download by :


PHẦN II - NỘI DUNG
I.
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Cơ sở lý luận
Luật Giáo dục – 2005 (điều 5) quy định “ Phương pháp giáo dục phải phát
huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng
cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý
chí vươn lên.”
Với mục tiêu giáo dục phổ thông là :“ Giúp học sinh phát triển tồn diện
về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực
cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam
Xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học
sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc”. Chương trình giáo dục phổ thơng ban hành kèm theo quyết định số

16/2006/QĐ – BGDĐT ngày 05/05/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
cũũ̃ng đã nêu: “Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học
sinh, phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện
từng lớp học, bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác, rèn
luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tế, tác động đến tình cảm, đem lại
niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh.
Trong bất kỳ một ngơn ngữ nào, vai trị của nghe và nói cũũ̃ng hết sức quan
trọng. Có thể thấy một ngôn ngữ là một tập hợp của các từ vựng nhưng khơng
thể thiếu nghe và nói chúng thơng qua các đơn vị từ vựng. Nhưng điều đó
khơng đồng nghĩa với việc chỉ hiểu các đơn vị từ vựng riêng lẻ, độc lập với
nhau mà có thể nắắ́m vững được ngơn ngữ. Như vậy việc việc sử dụng phương
pháp nghe –nói là yếu tố hàng đầu trong việc truyền thụ và tiếp thu một ngơn
ngữ nói chung và tiếng Anh nói riêng.
2. Cơ sở thực tiễn:
Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu và phương tiện học tập của người
học ngày càng cao, địi hỏi người giáo viên phải khơng ngừng tìm tịi, cải tiến
phương pháp dạy học cho phù hợp với từng đối tượng học sinh. Bởi lẽ, sức học
và sức tiếp thu của từng đối tượng học sinh có khác nhau, sự khác nhau đó được
thể hiện rõ rệt tùy vào điều kiện học tập của từng người. Ví dụ: vùng thành thị,
vùng nông thôn, … dẫn đến mặt bằng kiến thức không đồng đều. Như vậy,
người giáo viên càng phải chứng tỏ khả năng "Kỹ sư tâm hồn” của mình. Thêm
vào đó, Tiếng Anh là một trong những tiếng nước ngoài đã, đang và sẽ được rất
nhiều người Việt Nam học do nhu cầu giao tiếp, học tập và nghiên cứu. Hiện
nay, việc học và dạy ngoại ngữ theo phương pháp mới học sinh có nhiều điều
kiện thuận lợi tiếp xúc với ngôn ngữ tiếng Anh. Học sinh có dịp giao tiếp với
mọi người bằng tiếng Anh. Học sinh dễ vận dụng chúng vào trong cuộc sống.
Nét đổi mới nổi bật của nội dung chương trình sách giáo khoa mới là tạo cơ hội
tối đa cho học sinh luyện tập 4 kỹ năng nghe, nói, đọc viết. Kỹ năng nghe - nói
5


download by :


là một trong những kỹ năng được chú trọng phát triển trong các phương pháp
dạy ngoại ngữ mới. Kỹ năng nghe - nói có tầm quan trọng vì học sinh khơng thể
giao tiếp bằng lời nói nếu khơng hiểu được những gì nghe được và khơng th ể
vận dụng thơng tin để có thể nói được. Vậy, làm thế nào để học sinh có thể rèn
kỹ năng nghe - nói một cách nhanh chóng, có hiệu quả và dễ học? Đặc biệt là
khi vận dụng chúng vào các hoạt động giao tiếp thực tế khi tiếp xúc với người
nước ngoài. Tích cực tìm tịi khám phá, đây chính là thủ thuật của người giáo
viên mà mỗi chúng ta cần có.
II. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC DẠY KĨ NĂNG NGHE - NÓI TRONG
NHÀ TRƯỜNG HIỆN NAY.
Việc dạy theo phương pháp đổi mới như hiện nay chú trọng nhiều đến
tính chủ động sáng tạo của học sinh. Phần lớn thời gian giao tiếp là lúc các em tư
duy chủ động thực hành tiếng Anh. Để có một tiết học tốt thì các em phải chuẩn bị
bài ở nhà kỹ. Hơn nữa để học tốt một giờ nghe - nói các em cần được nghe nhiều,
nói nhiều. Tuy nhiên phần lớn các em ở đây chưa có điều kiện tốt để học nghe tiếng
Anh và mơi trường để nói tiếng Anh, thời gian học hạn hẹp, tài liệu để tham khảo
thêm còn phụ thuộc vào kinh tế gia đình, từ đó việc đầu tư học kĩ năng nghe - nói
cịn hạn chế.
Vấn đề đặt ra là làm thế nào chúng ta khắắ́c phục được những điểm yếu trên
để góp phần nâng cao chất lượng học kĩ năng nghe - nói, giúp học sinh tự tin hơn trong
giao tiếp, sử dụng tiếng Anh như một ngôn ngữ thứ hai, thành thạo trong từng từ, câu.
Làm thế nào để khắắ́c phục tình trạng trên và xây dựng được một nền văn hoá giáo dục
học đường cơ bản nhất thật khơng dễ. Đó là những "trăn trở" được nhiều ý kiến tại Hội
thảo khoa học "Giáo dục văn hóa giao tiếp trong nhà trường" . Sự nghiệp "trồng
người" không thể chỉ dạy một chiều. Dạy kĩ năng nghe - nói giao tiếp trong nhà trường
hiện nay đang đi xuống do nhiều nguyên nhân. Nhưng một trong những nguyên nhân
chính vẫn là nhà trường chỉ mới chú trọng dạy chữ mà chưa chú trọng đến dạy người.

Việc giáo dục nhân cách mới là quan trọng vì con người lớn lên khơng chỉ tiếp thu tri
thức, mà cịn có những kỹ năng khác như giao tiếp, có tình cảm, sự tha thứ và tơn
trọng mọi người, ngồi những kỹ năng sống tối thiểu như biết cầm đũũ̃a đúng cách, "Ăn
trơng nồi, ngồi trơng hướng", sau đó nâng lên những bước có kỹ năng cao hơn và cịn
nhiều kỹ năng sống khác mà một đứa trẻ trong quá trình lớn lên cần biết, cần có.
Nhưng hiện nhiều nhà trường dường như bỏ quên. Nhà trường đã bỏ qua hoặc coi nhẹ
một trong những hoạt động tối thiểu, cơ bản của giáo dục là việc hình thành con người.
Quá tập trung vào giảng dạy truyền thụ kiến thức là chính mà quên đi việc giáo dục
nhân cách.
Về phía giáo viên, học sinh
- Giáo viên: Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao về chun mơn của Phịng giáo
dục cũũ̃ng như của Ban giám hiệu trường nơi tôi giảng dạy đã tạo điều kiện cho
chúng tôi được học tập hoặc tham dự các chuyên đề của sở Giáo dục, phòng
giáo dục cũũ̃ng như của một số tổ chức đào tạo Tiếng Anh khác nhằm nâng cao
năng lực chuyên môn và trau dồi nghiệp vụ sư phạm.
6

download by :


Hiện nay một số bộ sách biên soạn cho học sinh cấp Tiểu học nội dung khá
dài giáo viên truyền tải kiến thức trong một tiết chỉ 35 phút không đủ. Do đó
thời gian phát triển kỹ năng nghe - nói cho học sinh chưa nhiều.
Một số giáo viên dạy ngoại ngữ chưa thực sự sử dụng Tiếng Anh trong lớp
học, bản thân chưa nói được lưu lốt Tiếng Anh. Vẫn còn giáo viên phát âm từ
và ngữ điệu câu sai.
Phần lớn giáo viên dạy Tiếng Anh ở Tiểu học khơng biết hát nên khi
hướng dẫn gặp phải khó khăn và hát chưa đúng giai điệu, tiết tấu nhạc.
Giáo viên phải tự lo phần lớn kinh phí làm đồ dùng dạy học và phần
thưởng cho học sinh.

- Học sinh: Do đời sống của người dân còn hạn chế nên phần lớn phụ huynh
chưa đầu tư và quan tâm đúng mức cho việc học tiếng Anh của con em mình.
Thêm nữa, vì ở xa trung tâm thành phố nên các em hiếm có cơ hội tiếp xúc với
người nước ngồi cũũ̃ng như với nền văn hóa của những nước sử dụng thứ ngôn
ngữ mà các em đang học nên nhiều khi có những từ mà thậm chí cả nghĩa Tiếng
Việt của nó các em cịn chưa biết. Điều đó có nghĩa là các em có rất ít cơ hội
thực hành những kiến thức mà các em lĩnh hội được từ sách vở vào thực tế.
Tuy nhiên, đối với học sinh vùng như trường tơi gặp rất nhiều khó khăn trong
hoạt động nghe - nói giao tiếp ngơn ngữ, hơn nữa lại là tiếng nước ngồi. Việc
khuyến khích các em đóng vai là nhân vật trong hội thoại giúp tiếp cận với kiến
thức tốt hơn, phát triển kĩ năng nghe - nói. Đóng vai và sử dụng hội thoại
thường xuyên tạo cho các em có tính bạo dạn, bộc lộ được cảm xúc như cử chỉ,
nét mặt, điệu bộ, trọng âm, ngữ điệu.
Mặc dù có nhiều em học sinh u thích mơn học này nhưng sự tiếp thu
cái mới hầu như còn hạn chế. Các em còn rất tự ti chưa mạnh dạn trong việc chủ
động tiếp thu kiến thức mới.
Mỗi tuần chỉ được học hai tiết không đủ thời gian để học sinh phát triển tốt
kỹ năng nghe - nói Tiếng Anh.
Vì là mơn học tự chọn nên một số học sinh chưa chú trọng nhiều đến mơn
Anh Văn.
- Về phía nhà trường và phụ huynh học sinh
Môn Anh Văn là mơn học tự chọn chưa đưa vào mơn học chính ở cấp
Tiểu học nên Ban giám hiệu một số trường còn thiếu sự quan tâm, giúp đỡ cho
giáo viên bộ mơn.
Phụ huynh học sinh một số em chưa có nhận thức tốt mơn học này
do quan niệm “Tiếng Việt nói chưa xong mà học Tiếng Anh”. Vì vậy, thiếu sự
quan tâm sâu sát đến con em trong việc học ngoại ngữ.

7


download by :


III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY KĨ NĂNG
NGHE - NÓI TIẾNG ANH CHO HỌC SINH TIỂU HỌC.
Để giáo dục kĩ năng nghe - nói Tiếng anh cho học sinh Tiểu học, tôi đã
nghiên cứu rất kĩ mọi tài liệu có liên quan đến nội dung và phương pháp môn
Tiếng Anh và kĩ thuật dạy học về giáo dục kĩ năng nghe- nói cho học sinh sao
cho phù hợp, áp dụng các biện pháp cụ thể để nâng cao chất lượng dạy kĩ năng
nghe - nói tiếng Anh cho học sinh. Cụ thể là:
Biện pháp1: Giáo viên thường xuyên sử dụng Tiếng Anh trong tiết dạy
Đối với đối tượng học sinh cấp Trung học cơ sở và Trung học phổ thông
việc sử dụng tiếng Anh trong giờ ngoại ngữ là điều hiển nhiên, vì khi đó vốn từ
các em khá đủ để hiểu những điều giáo viên truyền đạt. Nhưng đối với học sinh
Tiểu học vốn từ các em chưa nhiều để hiểu tốt yêu cầu của giáo viên, chính điều
này làm cho đa phần giáo viên dạy Tiếng Anh ở bậc Tiểu học “lười” nói tiếng
Anh trong giờ dạy. Tôi nghĩ đây là một trong những lý do làm cho học sinh chưa
tự tin đàm thoại bằng tiếng Anh. Thầy cô là tấm gương để học sinh noi theo, nếu
giáo viên thường xuyên giao tiếp bằng tiếng Anh trong các giờ học hay các giờ
ngoại khoá thì những câu nói đó dần dần thấm sâu. Khi cần nói tự nhiên các em
sẽ phát ra được.
Vì vậy vào đầu mỗi tiết dạy tôi thường đối thoại với học sinh bằng những
câu Tiếng Anh đơn giản để làm “nóng” khơng khí lớp học, tạo sự hưng phấn
trong học tập, ứng xử nhanh nhẹn trong giao tiếp.
Ví dụ1 :
T: Good morning,
class! How are you all
today?

Ss: Good morning, Mrs. Liên!

We’re fine, thank you.
How are you?
T: I’m fine. Thanks.
Ví dụ 2:
T:

Good morning boys and girls !

Ss: Good morning teachers!
T:

How are you?

Ss: Very well, thank you.
T:

OK, Do you want to play a

game? or Do you want to sing a
song?

…………..


8

download by :


Theo cách dạy truyền thống vào đầu tiết dạy giáo viên thường gọi học sinh

kiểm tra bài cũũ̃, nhưng đối với tơi thì khơng làm như thế. Trước khi là giáo viên
tôi cũũ̃ng là một học sinh như các bạn nhỏ bây giờ nên tôi hiểu rõ tâm trạng các
em lúc này. Trước khi tôi dạy bài mới, tôi sử dụng phương pháp chơi hoặc hát
một bài hát của tiết học trước để khơng khí lớp học khơng nặng nề mà ngược lại
là sự thoải mái và sinh động. Khi đưa ra u cầu trị chơi tơi cũũ̃ng nói bằng tiếng
Anh, khơng cần câu nói dài chỉ sử dụng một số cụm từ, câu đơn giản nhưng
thường xuyên lặp đi lặp lại, như thế học sinh sẽ hiểu.
Ví dụ:
T: Do you like to play
game? Ss: Yes.
T:

Let’s play game “Slap the board” –

Ok! Ss: Ok!
T:

Two groups

Group one: Bird. Where are you?
Group two: Fish, Where are you?
Now, raise your hand!
………………
Sau khi chọn được hai đội tôi sử dụng một số câu ra lệnh đơn giản khác.
Ví dụ:
T: Are you
ready? Ss: Yes.
T:

Now, let’s begin “one, two, three”


………………
Trong suốt quá trình dạy và học tôi thường sử dụng các câu mệnh lệnh hoặc
các câu hỏi kiểm tra lại thông tin trong bài học bằng tiếng Anh.
Ví dụ: - Work in pairs/ group/
-

Say it aloud

-

Close your book/ Open your book

- Put your book
away -Try again
-Here you are/ it is
-

Look at / the board/ pictures/ photos/ puppets.

-

Write a question
9

download by :


-


What’s ........ in English

-

What’s numbers one/ two/ three/ four?

...................................
Như vậy để làm tốt biện pháp trên giáo viên phải tự rèn luyện, học hỏi trao
dồi phương pháp dạy với các bạn đồng nghiệp, trên internet, báo đài, phải tự tin
và thường xuyên nói tiếng Anh trong lớp để học sinh nói theo. Nếu giáo viên
thường xuyên giao tiếp bằng tiếng Anh trong các giờ học sẽ góp phần tạo cho
học sinh sự tự tin khi đàm thoại tiếng Anh.
Biện pháp 2: Rèn luyện cho học sinh kĩ năng nghe; phát âm chuẩn từ vựng
và ngữ điệu câu.
a) Rèn cho học sinh kĩ năng phát âm chuẩn từ vựng và ngữ điệu câu:
Hiện nay, có quan điểm cho rằng học sinh tiểu học cịn nhỏ khơng cần phát
âm chuẩn như người bản xứ nhưng đối với tơi thì ngược lại. Phải tập cho các em
nói đúng và chuẩn ngay từ khi mới học ngoại ngữ. Bởi vì người xưa thường nói
“Tre non dễ uốn” và một phần do kinh nghiệm bản thân dạy học sinh Tiểu học
nên tôi thấy rõ mặt hạn chế của học trò. Nếu giáo viên lơ là trong việc sửa lỗi
phát âm, không hướng dẫn chú ý trọng âm từ, ngữ điệu trong câu thì khi nghe
người khác phát âm đúng các em không nhận ra và hiểu được người đối diện nói
gì. Mặc khác các em sẽ lúng túng khơng biết thầy mình dạy đúng hay người này
đúng làm cho học sinh e dè, không tự tin trong giao tiếp. Phát âm đúng nghĩa là
đúng trọng âm và ngữ điệu dù chỉ dạy cho học sinh hai ngữ điệu cơ bản là lên
(
rising tune) và xuống ( falling tune)
Trước tiên dạy học sinh cách đọc từ cho chuẩn: Word >, = 1 sylable (s). Từ
có một âm tiết thì khơng có trọng âm (no stress) nhưng vẫn phải chú ý đến âm
vực, âm điệu của nó. Từ có 2 âm tiết có 1 trọng âm. Từ có nhiều âm tiết có thể

có 2 trọng âm (1 trọng âm mạnh, 1 trọng âm yếu).
Ví dụ: 1 âm tiết: book không được đọc là búc mà phải đọc là /buk/
2 âm tiết: dortor /'dɔktə/, correct /kə'rekt/
Nhiều âm tiết: exhibition /,eksi'biʃn/, elephant /'elifənt/.
Trong câu: trong câu kể ( statement ) chủ ngữ thường được đọc cao và động
từ đọc thấp.
Ngữ điệu là “ âm nhạc” của ngơn ngữ chính là âm lên và xuống khi
chúng ta nói. Ngữ điệu rất quan trọng trong việc diễn tả ngữ nghĩa đặc biệt trong
việc tả thái độ của chúng ta (ngạc nhiên, vui buồn ...)
Hướng dẫn học sinh nhận thức được hai ngữ điệu cơ bản:
+ Đọc lên giọng: Được dùng trong câu hỏi: Yes / No questions:
- Is your book big?
- Do you have pets?

10

download by :


+
Đọc xuống giọng: Được dùng trong câu nói thơng thường, mệnh lệnh và
câu hỏi: H /WH - question:
- What's your name?
- How do you go to school ?
Nhìn chung các từ quan trọng ở trong câu như Subject, noun, verb, adj,
pronoun thường được nhấn mạnh nhưng nhấn mạnh nhất vào từ nào, từ loại nào
còn tùy thuộc vào ý đồ, mục đích của người nói.
Ví dụ: I have a new expensive book. Nếu ý đồ của người nói muốn khoe
quyển sách đắắ́t tiền thì nhấn mạnh nhất vào expensive, nếu muốn khoe quyển
sách mới thì nhấn mạnh nhất vào new.

- Một số từ loại như mạo từ ( article ), giới từ ( preposition ), quan hệ
từ
( conjuntonsh ) hay ( connective word ) là những từ không quá quan trọng sẽ
không được nhấn mạnh trong câu ( đọc lướt ).
Ví dụ: The, a, an……..to, from, under, on………, and, but……
Do you often go to the swimming pool in the summer?
Việc phát âm của phụ âm cuối cũũ̃ng vô cùng quan trọng ví dụ như student /t/;
books /s/, pens /z/, glasses /iz/……. Nhưng chúng ta không được phát âm quá to
hoặc quá lộ
* Cách đọc khi thêm "s" và "es"
Cách đọc / iz / : Nếu danh từ số ít tận cùng bằng chữ s, x, sh, ch, z thì số
nhiều thêm es đọc / iz /. Nếu danh từ số ít tận cùng bằng chữ ce, se, ge thì số
nhiều thêm s cũũ̃ng đọc /iz /.
Ví dụ: finish / 'finiſ /; finishes / 'finiſiz / Sentence
/ sentens /; sentences / sentensiz /
Cách đọc / s /: Những từ có chữ tận cùng bằng p, t, k thì đọc s
Ví dụ: A book / buk /; books/ buks /
Cách đọc / z /: Những từ có chữ tận cùng bằng a, e, i, o, u, b, v thì đọc / z /
Ví dụ: please / pli:z
Bên cạnh đó ln khuyến khích mỗi học sinh có một cuộn băng nghe để tự
rèn luyện ở nhà. Nhằm giúp các em nhập tâm và nói tốt một cách tự nhiên.
Ví dụ:
Cuộn băng Tiếng Anh 3 (học sinh lớp 3)
Tiếng Anh 4 (học sinh lớp 4)
Tiếng Anh 5 (học sinh lớp 5)

11


download by :



Chúng ta phải cho học sinh nghe băng thường xuyên với giọng đọc
chuẩn của người bản xứ và cho lặp lại nhiều lần, chú ý ngữ điệu của câu và nhất
là phần kết thúc của từ. Hướng dẫn học sinh tập trung trong khi nghe và khuyến
khích các em bắắ́t chước giọng đọc trong băng càng giống càng tốt.
b)
Rèn kĩ năng nghe cho học sinh:
- Kỹ năng nghe chịu ảnh hưởng bởi kỹ năng nói, chính vì thế giáo
viên khơng ngừng rèn luyện kĩ năng phát âm chuẩn càng giống
người bản xứ càng tốt. Bởi vì khi luyện nói, học sinh sẽ nhớ được
các từ vựng, các câu mà các em thường xun tiếp xúc, chính vì thế
học sinh sẽ phát triển được kỹ năng nghe. Hơn thế nữa, trong khi
nghe, nếu gặp những câu dài, khó nghe thì u cầu mình chỉ cần
dừng lại
ở mức độ nghe hiểu và cảm nhận ý nghĩa chính của câu nói, khơng cần phải
nghe rõ toàn bộ các từ trong câu.
- Cần tập trung nghe rõ cách phát âm và ngữ điệu, hiểu trực tiếp bằng tiếng Anh
thì càng tốt, nếu khó thì có thể liên hệ sang tiếng Việt. Nên nhớ khi nghe cần
nhìn vào hình ảnh và liên tưởng ra hình ảnh của sự vật hay sự kiện trong đầu
mình.
- Trong quá trình nghe nếu gặp phải những từ hay câu nghe khơng rõ thì sau
khi nghe xong có thể Pause lại để ngẫm nghĩ lại câu nói. Nếu nghe mãi
khơng được thì có thể dừng lại để nghe hoặc đốn từ trong ngữ cảnh. Nếu
không được nữa giáo viên cần ngắắ́t một câu thành nhiều phần nhỏ. Giáo
viên dìu dắắ́t học sinh từng bước từng bước một để cho học sinh khơng bị
nản chí khi nghe.
Ví dụ: Tiếng Anh lớp 3 - Unit 12 : “This is my house” giáo viên cho học
sinh quan sát tranh trong sách giáo khoa trang 13. Cho học sinh nhìn và nói theo
tranh ( hoặc làm theo giáo viên ) bằng cách phát âm từ rồi đến mẫu câu, thay từ

bằng mẫu câu sau đó thực hành nhuần nhuyễn. Cứ như thế nhiều lần học sinh sẽ
phát âm tốt, lĩnh hội nghĩa của từ và câu một cách tự nhiên. Điều này giúp cho học
sinh sẽ sử dụng được ngôn ngữ một cách hiệu quả.
rồi thiết lập ra tình huống của bài nghe : ”Look at the pictures in number 1; Tell me
about picture a.”. Lúc này giáo viên yêu cầu học sinh luyện nói bằng cách nhìn
tranh giới thiệu về ngơi nhà và phòng tắắ́m trong nhà “ This is my house/ There’s a
bathroom...” Sau khi thực hành miêu tả vể ngôi nhà và phịng tắắ́m xong, thì giáo
viên u cầu học sinh nói tiếp về các bức tranh cịn lại trong số 2 và số 3 về phòng
ngủ, phòng bếp và vườn của ngôi nhà, giáo viên gọi một số học sinh đoán kết quả
trước khi nghe và viết lên bảng các dự đốn đó để học sinh sau khi nghe có thể so
sánh kết quả mình đã đốn, từ đó khắắ́c sâu được kết quả của bài nghe. Giáo viên
yêu cầu học sinh nghe đoạn văn hai lần và gọi học sinh trả lời một số câu hỏi. Giáo
viên đưa ra đáp án và sữa lỗi sai của học sinh . Bởi vì các em luyện tập miêu tả về
màu sắắ́c, hình ảnh của đồ vật một cách cụ thể, thì các em sẽ nhớ về các từ vựng mà
các em sắắ́p nghe trong đoạn hội thoại một cách dễ dàng.


Có thể nói rằng, kỹ năng nói đóng một vai trị quan trọng trong suốt q
trình luyện nghe. Càng luyện nói nhiều, thì càng phát triển kỹ năng nghe có hiệu
quả.
12

download by :


Rèn kĩ năng nghe theo 3 giai đoạn
Sử dụng tốt linh hoạt các kỹ thuật trong một tiết dạy kĩ năng nghe là rất cần
thiết. Việc rèn luyện kỹ năng nghe trong một tiết học nghe được thực hiện qua 3
giai đoạn.
1. Pre - listening:

* Mục đích của các hoạt động trong giai đoạn này là:
- Nhằm giúp học sinh tập trung sự chú ý vào chủ đề, đặc biệt là đốn trước
những thơng tin của chủ đề được nghe. Để khắắ́c phục những khó khăn khi
nghe trong tiết học, giáo viên cần giới thiệu chủ đề, ngữ cảnh, tình huống nội
dung có liên quan đến bài nghe, khai thác xem học sinh đã biết và chưa biết
gì về nội dung sẽ nghe, gợi trí tị mị, tạo hứng thú cho các hoạt động của bài.
Cho học sinh nghĩ, đoán trước những điều sắắ́p nghe trong một ngữ cảnh nhất
định
- Dạy từ vựng, tuy nhiên lưu ý là không giới thiệu hết từ mới, nên để học sinh
đoán nghĩa của từ trong ngữ cảnh.
- Khi tiến hành các hoạt động nghe, việc dùng trực quan tranh ảnh minh hoạ
kèm theo sẽ hổ trợ rất tốt cho việc làm rõ ngữ cảnh gợi ý nội dung sắắ́p nghe.
Tranh ảnh còn là phương tiện để kiểm tra mức độ nghe hiểu của học sinh.
Nghe xác định tranh có liên quan sắắ́p xếp theo thứ tự.
- Cho học sinh xem tranh hay câu hỏi trong bài tập để đốn ra chủ để, thơng
tin cần thiết nghe.
+ Một số thủ thuật dạy trong giai đoạn này:
- True / False statements prediction - Open - prediction - Ordering - Prequestion. Việc lựa chọn hoạt động nào để thực hiện trong giai đoạn này còn
tuỳ thuộc vào một số yếu tố như thời gian tiến hành bài tập nghe, tài liệu có
sẵn hay khơng có sẵn, trình độ và sở thích của học sinh.
- Điều kiện giảng dạy của lớp cũũ̃ng là một trong những yếu tố đưa đến quyết
định chọn lựa kĩ thuật nào. Ngoài ra mục đích giảng dạy của bài nghe và mục
tiêu thực hiện cũũ̃ng là những yếu tố cơ bản để giáo viên đưa ra các quyết định
chọn lựa.
2. While- listening:
* Mục đích của các hoạt động trong giai đoạn này là:
- Nhằm giúp cho học sinh thực hành kỹ năng nghe tức là qua lời nói rút ra
được thơng tin cần truyền đạt.
- Cho học sinh nghe và làm bài tập, nếu phần trước cho học sinh đoán nội dung
nghe thì ở phần này cho học sinh đối chiếu điều đã nghe với điều đã đoán.


13


download by :


- Đối với bài nghe khó giáo viên có thể chia quá trình nghe thành bài tập nghe từ
dễ đến khó.
- Đối với bài nghe dài có thể dễ hố bài nghe thành các dạng bài tập phù hợp trình
độ học sinh.
+ Một số hình thức thể hiện trong giai đoạn này + Defining True- False + Check the
correct answer + Matching + Filling in the grip / chart / gap + Answering
comprehension questions + Selecting + Deliberate mistakes + Listen and draw.
3.

Post- listening: Mục đích của các hoạt động sau khi nghe nhằm:

- Kiểm tra xem học sinh có hiểu những thông tin được nghe theo yêu cầu hay
không và có hồn thành được các hoạt động trong giai đoạn "While- listening” hay
khơng.
- Tìm ra ngun nhân làm cho học sinh không nghe được hoặc không hiểu được
một số phần nào đó trong bài tập nghe.
- Giúp học sinh có cơ hội đánh giá thái độ biểu cảm người thể hiện hội thoại qua
ngữ điệu giao tiếp.
- Dùng bài tập mở rộng theo chủ đề bài nghe dùng kỉ năng bổ trợ thêm để luyện
nghe.
+ Một số thủ thuật trong giai đoạn này. Cho đáp án và thông tin phản hồi.

- Cho học sinh nhắắ́c hay nói lại một số điều /câu đã nghe. Feed back (While

listening).
- Tổ chức cho học sinh nói về mình hay về bạn bằng cách dựa vào một vài thông tin
trong bài nghe.
-

Cho học sinh nêu vài nhận xét về kết quả nghe của nhóm.

-

Cho học sinh đóng vai thể hiện lại cuộc hội thoại đã nghe.

- Dùng bài tập mở rộng để học sinh có thêm thơng tin của bài nghe. Tuỳ theo từng
tiết cụ thể mà giáo viên có thể sử dụng một trong những hoạt động trên. Tuỳ theo
đặc điểm của từng bài giáo viên có thể tiến hành thực hiện quy trình 3 bước luyện
nghe hiểu cho học sinh, đặc biệt là bước thứ nhất sao cho có thể giúp các em hình
thành và phát triển hứng thú khả năng tập trung, biết sử dụng thơng tin suy đốn
điều sẽ nghe. Nhờ vậy học sinh sẽ chủ động và tự tin hơn khi nghe.
14

download by :


*

Kết hợp luyện nghe vào các nhóm kĩ thuật khác:
- Nhóm kỹ thuật luyện tập cơ sở: Đây là những thủ thuật có ý nghĩa
tiền đề trong việc hình thành cho học sinh khả năng nghe tiếng
Anh.
- Luyện nề nếp tập trung chú ý khi nghe. Cho học sinh nghe từ câu hay
đoạn, bài và giáo viên gọi cá nhân học sinh lặp lại. Tập cho học sinh

có ý thức và thói quen lắắ́ng nghe bạn. Một cách giúp học sinh tập trung
chú ý nghe bạn nói đó là giáo viên thường xuyên đặt ra những câu hỏi
yêu cầu học sinh phải sử dụng lại những thông tin từ điều bạn mình đã
nói để trả lời.
-

Mỗi tuần một lần cho học sinh chơi một trò chơi tập trung nghe.

+ Trò chơi thứ nhất: “Truyền tin”.
Lớp có 12 dãy bàn, giáo viên làm 12 phiếu trên mỗi phiếu ghi một câu. Sau
đó trao phiếu cho 1 học sinh đầu dãy. Học sinh này có nhiệm vụ nói thầm rồi nói
vào tai người kế bên điều mình đọc được. Cứ thế, người này nối tiếp người kia nói
vào tai nhau cho đến người cuối dãy. Người cuối dãy có nhiệm vụ nói lớn câu hay
đoạn mình nghe được, và học sinh đầu dãy sẽ xác định đúng hay khơng.
Ví dụ: Tại lớp 4A, tôi chia lớp thành 4 đội. Sau khi thông qua qui định của luật chơi
“ Truyền tin”. Mỗi một đội tôi đưa cho bạn thứ nhất đầu bàn 1 một câu về động vật
trong bài “ Zoo animals” – “ It’s a monkey”; “It’s an elephant”; “ It’s a lion” và “
It’s a tiger” rồi gấp lại giấu đi. Người thứ nhất sẽ nói thầm cho người thứ 2 rồi
người thứ 2 nói thầm với người thứ 3. Lần lượt đến người ngồi cuối dãy sẽ đứng
lên nói to câu mình nghe được. Người đầu xác định đáp án đúng hay sai. Tôi quan
sát kết quả rồi ghi điểm sao cho đội có đáp án đúng.
+ Trị chơi thứ hai: “Tìm bạn giao tiếp” Giáo viên chuẩn bị một số câu hỏi
và câu trả lời trên giấy, ghép câu trả lời với câu hỏi bằng cách cho chúng
những con số: thí dụ câu hỏi 1 tương ứng với câu trả lời 5. Học sinh tự
tìm câu trả lời bằng cách tìm ra bạn của mình tương ứng với câu trả phù
hợp, cặp nào nhận ra nhau đầu tiên sẽ thắắ́ng.


15


download by :


Ví dụ: Trong tiết Tiếng Anh lớp 3A, tơi làm 10 phiếu trong đó có 5 phiếu câu hỏi và
5 phiếu câu trả lời. Các câu hỏi và câu trả lời lần lượt là:

1. Do you like toy?
2. What toys do you like?
3. Do you have any parrots?
4. How many parrots do you have?
5. What pets do you like ?

Các phiếu được đánh số xáo chộn. Tôi cho 10 học sinh lên chơi và tôi phát mỗi bạn
một phiếu. Các bạn có câu hỏi sẽ đi hỏi lần lượt các bạn của mình. Khơng khí cuộc
chơi diễn ra rất vui nhơn. Các cặp sẽ lần lượt tìm ra nhau. Cặp đầu tiên nhận ra
nhau sẽ thắắ́ng cuộc.
+ Trò chơi thứ ba: “Giúp bạn học tốt” Mỗi học sinh trong lớp sưu tầm
hoặc tự đặt ra một câu (có thể có thông tin bị sai) mỗi thành viên của
lớp sẽ lắắ́ng nghe bạn đọc câu của mình rồi tìm cách xác định câu đúng
hay sai và sửa câu. Giáo viên nên bóc thăm học sinh có nhiệm vụ để
mọi thành viên của trong lớp phải lắắ́ng nghe bạn đọc.
Luyện nghe trọng âm của từ và trọng âm của câu. Người Anh khi nghe một
từ có nhiều âm tiết họ chỉ nghe trọng âm của từ đó. Ví dụ: với từ fourteen ; four –
teen thì họ nghe chủ yếu trọng âm "teen” chứ không nghe cả 2 âm tiết. Khi nghe
một từ nhiều âm tiết, ta nên luyện tập nghe trọng âm của từ đó.
Luyện nghe và nhận diện các cặp âm dễ lẫn, các âm khó phát âm chuẩn và
cách nối âm trong lúc nói của người bản xứ. Trên thực tế, nhiều học sinh tiếp nhận
một giọng nói tiếng Anh thường không chuẩn hoặc chứa nhiều âm không thực
giống với cách phát âm của người bản xứ. Đây cũũ̃ng là một trở ngại đối với học
sinh khi nghe người bản xứ nói.

Như vậy cần rèn luyện cho học sinh có ý thức nhận diện ra các âm khó phát âm
chuẩn, hay các âm dễ lẫn cũũ̃ng như cách nối âm trong lúc nói của người bản xứ. Việc
luyện nghe này cần được thực hiện lồng ghép và thường xuyên trong lúc luyện đọc từ
mới, giới thiệu các cấu trúc ngữ pháp mới, hoặc thực hiện hoạt động Listen and read or
read ở mỗi đơn vị bài học. Ngoài ra giáo viên có thể thực hiện một số
16

download by :


trò chơi để giúp các em vừa thư giãn, vừa củng cố kĩ năng nhận diện âm và cách
nối âm cụ thể gần gủi hơn với âm bản xứ.
Nhóm kỹ thuật luyện tập mở rộng Trong quá trình giảng dạy tôi luôn
tạo cơ hội để giúp các em luyện nghe và yêu cầu các em cần tăng cường nghe
tiếng Anh.
Sau bước nghe và lặp lại giáo viên yêu cầu học sinh đọc đồng thanh, theo
cặp, rồi cá nhân. Tuyên dương những học sinh đọc tốt và chỉnh sửa ngay nếu
học sinh đọc sai và không chuẩn bằng các phương pháp phù hợp.
Kết hợp với việc hướng dẫn học sinh cách đọc, việc thực hành đọc rất quan
trọng. Luôn luôn cho học sinh đọc nhiều lần, rèn luyện ở trên lớp.
Biện pháp 3: Hướng dẫn học sinh sử dụng cử chỉ, điệu bộ và tốc độ khi đối
thoại bằng tiếng Anh
Các bạn thấy đó người nước ngồi khi nói chuyện với chúng ta thường sử
dụng nét mặt, cử chỉ, điệu bộ diễn đạt điều muốn nói để người đối diện dễ hiểu
và có cảm giác gần gũũ̃i hơn trong giao tiếp. Tại sao chúng ta học ngôn ngữ của
họ mà không học cách thể hiện như thế để hoàn thiện hơn trong giao tiếp. Đây là
lý do tôi chọn biện pháp này để góp phần tạo sự tự tin khi đàm thoại Tiếng Anh.
Nói trơn tru, khơng nói nhát gừng từng từ, nghĩ đến đâu nói đến đấy, hoặc
dừng ở chỗ khơng được dừng.
Ví dụ: I’m going to drawing/ school ( khơng chuẩn)

Tơi hướng dẫn học sinh hít một hơi thở và nói cả câu. Điều này rất quan
trọng vì mỗi câu tiếng Anh đều có nhịp điệu của nó (rhythm). Học sinh luyện
được nét đặc thù này trong câu nói, người nói đã tiến gần đến người bản ngữ
một bước.
Ví dụ: We have no classes on Saturday
Tôi yêu cầu học sinh trong khi đối thoại thì nói và diễn phải kết hợp với
nhau. Nếu hỏi về tên, sức khoẻ, tuổi,… của người mình muốn hỏi thì chìa tay về
người đối diện và tự chỉ vào mình khi nói câu trả lời. Khi hỏi và miêu tả về đồ
vật thì đến chọn hay chạm tay vào đồ vật đó. Chính việc làm này góp phần phát
triển tốt kỹ năng giao tiếp, giúp học sinh thuộc từ và mẫu câu nhanh hơn.

17

download by :


Ví dụ1:
Giáo viên yêu cầu học sinh xây dựng một đoạn hội thoại và trình bày lại.
Hoa: Hello, Lan. How are you today?
(Hoa đưa tay vẫy và chìa tay về phía Lan)
Lan: Hi, Hoa. I’m fine, thank you.
(Lan vẫy tay và chỉ vào mình trả lời)
Hoa: Lan, do you have any pets?
Lan: Yes, I do.
(Đưa hai tay lên tỏ ý mình có )
Hoa: What pets do you have?
Lan: I have two cats
( Giơ 2 ngón tay ra hiệu mình có 2 con mèo)
Ví dụ2:
Mai: What’s the matter with you?

(Hoa đưa tay vẫy và chìa tay về phía Nam)
Nam: I have a headache.
(Nam đưa tay lên đầu và trả lời)
Mai: Can you go to school?
(Mai nhìn vào Nam và hỏi)
Nam: No, I can’t
(Nam lắắ́c đầu và trả lời)
Mai: Get better soon.
Biện pháp 4: Tạo hứng thú cho học sinh trong các giờ học.
Phần lớn giáo viên khi đứng lớp thường có thái độ nghiêm khắắ́c trong
giảng dạy để học sinh tập trung hơn nhưng theo tôi không nên tạo căng thẳng
trong giờ học ngoại ngữ. Bởi vì, những tiết học Tốn, Tiếng Việt, … học sinh đã
tập trung nhiều cho nên đến tiết Anh Văn giáo viên cần tạo khơng khí lớp học
sinh động và vui vẻ. Đây là cách cuốn hút học sinh vào tiết dạy của mình để các
em thấy rằng Tiếng Anh khơng khó học và khơ khan như mình nghĩ.
Giáo viên cần vui vẻ hồ nhập vào thế giới trẻ thơ của học sinh, chính thái
độ của người hướng dẫn sẽ giúp các em tự tin và mạnh dạn tập nói tiếng Anh trong
lớp học mà khơng sợ thầy cô trách phạt hay bạn bè chế giễu khi bị sai.

Khi bước vào lớp điều đầu tiên giáo viên làm là mỉm cười với cả lớp tạo
sự gần gũũ̃i, thân thiện với học trị của mình để bắắ́t đầu một tiết học mới. Khuấy
động học sinh. Hãy để học sinh di chuyển trong lớp càng nhiều càng tốt. Trong
18

download by :


×