Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

(SKKN mới NHẤT) SKKN một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong giờ dạy ngữ văn 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (748.35 KB, 30 trang )

Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
MỤC LỤC
Trang
PHẦN I. MỞ ĐẦU................................................................................................2
I. Đặt vấn đề...........................................................................................................2
II. Mục đích nghiên cứu.........................................................................................3
PHẦN II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ......................................................................4
I. Cơ sở lí luận của vấn đề......................................................................................4
II. Thực trạng của vấn đề........................................................................................7
III. Các giải pháp đã tiến hành................................................................................8
IV. Tính mới của giải pháp....................................................................................23
V. Hiệu quả SKKN................................................................................................24
PHẦN THỨ III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ......................................................26
I. Kết luận..............................................................................................................26
II. Kiến nghị...........................................................................................................26

1

Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk

download by :


Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
PHẦN I. MỞ ĐẦU
I. Đặt vấn đề
Luận ngữ có câu: “Biết mà học khơng bằng thích mà học, thích mà học
khơng bằng say mà học”. Yếu tố cảm xúc, say mê chính là động lực để con
người hướng đến tình u đích thực của mình, nó cũng là một trong những động


lực thúc đẩy và nuôi dưỡng sự cố gắng, nỗ lực học tập khơng ngừng của mỗi
chúng ta.
Với vai trị là người tổ chức hướng dẫn và điều khiển quá trình học tập của
học sinh, hơn ai hết người giáo viên cần phải nghiên cứu, phải tìm và phải biết
tiếp cận với cái mới trên cơ sở kế thừa cái hay, cái đẹp của cái cũ để phát huy
tính tích cực, sáng tạo của người học, tạo hứng thú, hưng phấn, khơi gợi niềm
đam mê học tập của học sinh. Đặc biệt, đối với môn Ngữ văn cấp THCS, để làm
được điều đó là cả một q trình.
Hiện nay, một trong những vấn đề nhiều giáo viên băn khoăn, trăn trở là
tình trạng học sinh chán học Văn, quay lưng lại với môn Văn cũng như các bộ
môn khoa học xã hội khác. Với nhiều học sinh, giờ học Văn chỉ quanh quẩn
trong vài hoạt động nhàm chán: đọc - nghe, chép bài, học thuộc, trả bài. Cách
dạy Văn, học Văn như thế khiến học sinh cảm thấy giờ Văn nặng nề, nhàm chán
và dễ gây buồn ngủ. Trên thực tế khi đi dự giờ đồng nghiệp tơi đã thấy khơng ít
trường hợp học sinh ngáp ngắn ngáp dài thậm chí ngủ gật trong giờ Văn. Vậy
nguyên nhân nằm ở đâu? Lỗi ở trò, ở thầy hay chương trình và sách giáo khoa
chưa đủ sức hấp dẫn?
Trên thực tế ta có thể thấy rằng: dạy Văn nhọc nhằn vất vả nhưng khơng
phải vì thế mà thiếu vắng những thầy cô tâm huyết với nghề, ln có ý thức trau
dồi, tích lũy kinh nghiệm cho bản thân và truyền lại những kinh nghiệm ấy cho
bạn bè, đồng nghiệp. Một người thầy tâm huyết là người luôn luôn không ngừng
học hỏi và trau dồi kiến thức cho bản thân, để mang lại những giờ lên lớp hiệu
quả. Một trong những điều mà thầy, cô không ngừng học hỏi đó là làm thế nào
để phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh trong mỗi giờ dạy nói
chung và giờ dạy văn nói riêng? Thật vậy, đó khơng chỉ là điều mà các thầy cơ
giáo mong muốn mà còn là mục tiêu chung của bộ giáo dục đang đề ra và được
triển khai rộng khắp cả nước. Vấn đề được đặt ra trên đây mặc dù khơng mới
nhưng nó chưa bao giờ là cũ, vì giáo dục luôn phát triển theo sự phát triển của xã
hội địi hỏi các phương pháp giáo dục cũng ln ln phải có sự thay đổi sao
cho phù hợp với nhu cầu phát triển chung của xã hội. Vì vậy, hằng giờ các thầy

cô trên khắp cả nước vẫn không ngừng tìm tịi, đổi mới và đưa ra những ý tưởng,
kinh nghiệm giảng dạy mà mình đã đúc rút và góp nhặt được sau những giờ lên
2

Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krơng Ana – Đắk Lắk

download by :


Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
lớp để hoàn thiện hơn tiết dạy của bản thân cũng như để đóng góp vào hệ thống
giáo dục chung của nước ta.
Bên cạnh xu thế ngày một đi lên của xã hội hiện nay, kinh tế - xã hội ngày
càng phát triển, hội nhập kinh tế ngày càng mở rộng đòi hỏi nền giáo dục Việt
Nam không ngừng cải tiến, đổi mới phù hợp với thế giới và các quốc gia trong
khu vực. Mặt khác, trong bối cảnh đó, nền giáo dục cịn có những bất cập về
chất lượng giáo dục, nhiều giáo viên sử dụng phương pháp dạy học lạc hậu đã
gây nên tình trạng thụ động trong học tập của học sinh dẫn đến hiệu quả dạy học
chưa cao. Học sinh ít được lơi cuốn động viên khích lệ để hứng thú, tự giác học
tập, gây nên tình trạng chán học, bỏ học ở một số bộ phận học lực yếu kém. Đó
là cũng là thực trạng đáng buồn của trường Trung học cơ sở Lê Đình Chinh
trong nhiều năm qua.
Là một giáo viên đã đứng trên bục giảng hơn 4 năm, thời gian tuy chưa
lâu nhưng cũng ít nhiều rút ra được vài kinh nghiệm quý báu trong q trình
giảng dạy. Tuy nhiên bản thân tơi tự nhận thấy giáo dục là vô biên với nhiều
ngành nghề và môn học đa dạng, bản thân không thể nắm bắt hết được đặc thù
của từng mơn, mà chỉ có thể đi chuyên sâu về bộ môn Ngữ văn – bộ mơn mà
mình đang trực tiếp giảng dạy. Sau nhiều năm nghiên cứu, thực hiện tơi đã tích
lũy được một số giải pháp giúp học sinh lớp 9 phát huy tính tích cực, chủ động

trong giờ học Văn và đạt được những kết quả khả quan, muốn được chia sẻ với
bạn bè, đồng nghiệp. Bởi vậy tôi xin đưa ra: “Một số kinh nghiệm phát huy
tính tích cực, chủ động của học sinh trong giờ dạy Ngữ văn 9”.
II. Mục đích nghiên cứu
Việc đổi mới phương pháp giảng dạy Ngữ văn hiện nay đã và đang thực
sự là yếu tố quyết định hiệu quả giờ dạy. Phương pháp dạy học đổi mới chú
trọng đến việc phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh
làm cho học sinh ham thích mơn học. Điều 24, luật giáo dục (do Quốc hội khố
X thơng qua) cũng đã chỉ rõ “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với từng lớp học, môn học, bồi dưỡng
phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác
động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Đây là
định hướng cơ bản thiết thực đối với mỗi giáo viên trong đó có giáo viên dạy bộ
môn Ngữ văn.
Từ nhiều năm nay, phương pháp dạy văn đổi mới đã chú trọng phát triển
hứng thú học Văn của học sinh. Một trong những mục đích của giờ Văn là làm
sao gây được rung động thẩm mĩ, giáo dục nhân cách cho học sinh. Vấn đề học
tập của học sinh cũng vậy. Dù có bắt buộc các em ngồi ngay ngắn học tập nhưng
nếu không thích thú, các em khơng thể học tốt được. Từ thực tế giảng dạy bộ
3

Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krơng Ana – Đắk Lắk

download by :


Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
môn Ngữ văn ở THCS trên địa bàn xã nhà trong nhiều năm, tôi nhận thấy muốn
giờ dạy đạt hiệu quả cao, ngồi việc truyền đạt kiến thức, tơi nghĩ rằng mình cần

phải biết gây hứng thú học tập cho học sinh để tiết học thực sự nhẹ nhàng, sinh
động; học sinh tiếp thu kiến thức một cách tự nhiên, không gượng ép. 
Hơn nữa, môn Ngữ văn xét về bản chất là một môn học rất thú vị, mỗi bài
học là một thế giới thu nhỏ về những điều kì diệu xảy ra xung quanh cuộc sống
của chúng ta. Vậy tại sao một mơn học mang lại nhiều lợi ích, nhiều điều thú vị
như vậy, nhưng trong các tiết học vẫn còn tình trạng học sinh khơng hứng thú,
thiếu sự chủ động, tích cực?... Làm thế nào để khắc phục tình trạng đó? Đây là
điều mà bản thân tơi ln băn khoăn, trăn trở sau mỗi giờ lên lớp. Thiết nghĩ
rằng việc để xảy ra tình trạng như đã nói trên phần nhiều là do bản thân người
giáo viên đứng lớp. Chính vì thế tơi đã nghiên cứu và thực hành áp dụng kinh
nghiệm này vào các lớp mình dạy nhằm mục đích giúp học sinh học bài, hiểu bài
dễ dàng và biến môn Ngữ văn trở thành một “niềm vui” với các em, giúp các em
u thích mơn học hơn và hơn hết là để các em không bao giờ phải trải qua
những tiết học nhàm chán, buồn tẻ mà trong đó các em hồn tồn bị thụ động
trong việc tiếp thu và lĩnh hội tri thức, còn giáo viên cũng tránh được việc lên
lớp nhưng nhiều khi chỉ có mình độc thoại với chính mình.
PHẦN HAI. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lí luận
Với mục tiêu giáo dục phổ thơng là “Giúp học sinh phát triển toàn diện về
đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá
nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã
hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh
tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ tổ
quốc”. Chương trình giáo dục phổ thông ban hành kèm theo quyết định số
16/2006/QĐ – BGDĐT ngày 05/05/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
cũng đã nêu: “Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học
sinh, phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện
từng lớp học, bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác,
rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tế, tác động đến tình cảm, đem
lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh”.

Tính tích cực, chủ động là một phẩm chất vốn có của con người, bởi vì để
tồn tại và phát triển con người ln phải chủ động, tích cực cải biến mơi trường
tự nhiên, cải tạo xã hội. Vì vậy, hình thành và phát triển tính tích cực, chủ động
là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của giáo dục.
Tính tích cực, chủ động học tập về thực chất là sự tích cực, chủ động
trong nhận thức, đặc trưng ở khát vọng hiểu biết, cố gắng trí lực và có nghị lực
4

Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krơng Ana – Đắk Lắk

download by :


Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
cao trong q trình chiếm lĩnh tri thức. Điều đó liên quan trước hết với động
cơ học tập. Động cơ đúng tạo ra hứng thú. Hứng thú là tiền đề của tự giác. Hứng
thú và tự giác là hai yếu tố tạo nên tính tích cực. Tính tích cực sản sinh nếp tư
duy độc lập. Suy nghĩ độc lập là mầm mống của sáng tạo. Ngược lại, phong cách
học tập tích cực độc lập sáng tạo sẽ phát triển tự giác, hứng thú, bồi dưỡng động
cơ học tập. Tính tích cực, chủ động trong học tập biểu hiện ở những dấu hiệu
như: hăng hái trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ sung các câu trả lời của bạn,
thích phát biểu ý kiến của mình trước vấn đề nêu ra; hay nêu thắc mắc, địi hỏi
giải thích cặn kẽ những vấn đề chưa đủ rõ; chủ động vận dụng kiến thức, kĩ năng
đã học để nhận thức vấn đề mới; tập trung chú ý vào vấn đề đang học; kiên trì
hồn thành các bài tập, khơng nản trước những tình huống khó khăn…
Theo nhiều tài liệu nghiên cứu thì mơn Ngữ văn là một mơn quan trọng
hàng đầu trong các môn học ở nhà trường hiện nay. Nó mang lại nhiều lợi ích to
lớn trong việc giáo dục và hình thành nhân cách tương lai con người như:
- Trang bị kiến thức cơ bản, hiện đại có tính hệ thống về ngơn ngữ và văn

học – trọng tâm là tiếng Việt và văn học Việt Nam – phù hợp với trình độ phát
triển của lứa tuổi và u cầu đào tạo nhân lực trong thời kì cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
- Hình thành và phát triển ở học sinh các năng lực sử dụng tiếng Việt, tiếp
nhận văn bản, cảm thụ thẩm mỹ, phương pháp học tập tư duy, đặc biệt là
phương pháp tự học, năng lực ứng dụng những điều đã học vào thực tiễn cuộc
sống.
- Bồi dưỡng cho học sinh tình yêu tiếng Việt, văn học, văn hóa, tình u
gia đình, thiên nhiên, đất nước, lịng tự hào dân tộc, ý chí tự lập, tự cường, lý
tưởng xã hội chủ nghĩa, tinh thần nhân văn cao cả, giáo dục cho học sinh trách
nhiệm công dân, tinh thần hữu nghị hợp tác quốc tế, ý thức tôn trọng và phát huy
các giá trị văn hóa của dân tộc và nhân loại.
Nhưng với phương pháp dạy học truyền thống trước đây là phương pháp
dạy học lấy hoạt động của người thầy là trung tâm. Theo Frire - nhà xã hội học,
nhà giáo dục học nổi tiếng người Braxin đã gọi PPDH này là “Hệ thống ban
phát kiến thức”, là q trình chuyển tải thơng tin từ đầu thầy sang đầu trò. Thực
hiện lối dạy này, giáo viên là người thuyết trình, diễn giảng, là “kho tri thức”
sống, học sinh là người nghe, nhớ, ghi chép và suy nghĩ theo. Với PPDH truyền
thống, giáo viên là chủ thể, là tâm điểm, học sinh là khách thể, là quỹ đạo. Giáo
án dạy theo phương pháp này được thiết kế kiểu đường thẳng theo hướng từ trên
xuống. Do đặc điểm hàn lâm của kiến thức nên nội dung bài dạy theo phương
pháp truyền thống có tính hệ thống, tính logic cao. Song do quá đề cao người
dạy nên nhược điểm của PPDH truyền thống là học sinh thụ động tiếp thu kiến
5

Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krơng Ana – Đắk Lắk

download by :



Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
thức, giờ dạy dễ đơn điệu, buồn tẻ, kiến thức thiên về lý luận, ít chú ý đến kỹ
năng thực hành của người học; do đó kỹ năng vận dụng vào đời sống thực tế bị
hạn chế.
Chính vì thế để thực hiện một giờ học có hiệu quả thì giáo viên là người
giữ vai trò hướng dẫn, gợi ý, tổ chức, giúp cho người học tự tìm kiếm, khám phá
những tri thức mới theo kiểu tranh luận, hội thảo theo nhóm. Người thầy có vai
trị là trọng tài, cố vấn điều khiển tiến trình giờ dạy. Phương pháp này rất đáng
chú ý đến đối tượng học sinh, coi trọng việc nâng cao quyền năng cho người
học. Giáo viên là người nêu tình huống, kích thích hứng thú, suy nghĩ và phân
xử các ý kiến đối lập của học sinh; từ đó hệ thống hoá các vấn đề, tổng kết bài
giảng, khắc sâu những tri thức cần nắm vững. Ưu điểm của phương pháp tích
cực rất chú trọng kỹ năng thực hành, vận dụng giải quyết các vấn đề thực tiễn,
coi trọng rèn luyện và tự học. Đặc điểm của dạy học theo phương pháp này là
giảm bớt thuyết trình, diễn giải; tăng cường dẫn dắt, điều khiển, tổ chức, xử lý
tình huống song nếu không tập trung cao, học sinh sẽ không hệ thống và logic.
u cầu của PPDH tích cực cần có các phương tiện dạy học, học sinh chuẩn bị
bài kỹ ở nhà trước khi đến lớp và phải mạnh dạn, tự tin bộc lộ ý kiến, quan điểm.
Giáo viên phải chuẩn bị kỹ bài giảng, thiết kế giờ dạy, lường trước các tình
huống để chủ động tổ chức giờ dạy có sự phối hợp nhịp nhàng giữa hoạt động
của thầy và hoạt động của trị. Qua đó tạo cho các em sự say mê, hứng thú và để
lại một vốn văn học đáng kể hỗ trợ cho các em học tốt các mơn học khác. Bồi
dưỡng tư tưởng, tình cảm và tâm hồn lành mạnh, trong sáng, tình yêu cái thiện
và thái độ ứng xử đúng mực trong cuộc sống. Hình thành lịng u văn học, khả
năng cảm thụ văn bản văn học, cảm thụ vẻ đẹp của Tiếng Việt và tình u Tiếng
Việt. Giờ học Ngữ văn ngồi việc dẫn dắt học sinh và cho học sinh tìm nội dung
để phát triển óc tổng hợp, biết chia đoạn để phát triển óc phân tích, các em cịn
được rèn luyện tư duy và phong cách sống. Để có kết quả cao mỗi giáo viên phải
nhận thức rõ trong phương pháp giảng dạy.

Mặc dù vậy nhưng mỗi phương pháp dạy học dù truyền thống hay hiện
đại cũng đều có những đặc điểm, ưu thế và nhược điểm riêng. Khơng có phương
thuốc nào có thể chữa được bách bệnh, khơng có PPDH nào là chìa khố vạn
năng. Việc nghiên cứu kỹ từng bài dạy, từng đặc điểm bộ môn và đối tượng
người học để có sự phối kết hợp đa dạng các PPDH là việc cần làm ngay của
mỗi giáo viên để nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo. Chính vì lẽ đó, đáp ứng
u cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong giai đoạn
hiện nay; đồng thời để thay làm mới hình thức cũng như phương pháp dạy học
của chính mình. Qua nhiều năm cơng tác, đi sâu vào nghiên cứu và tìm hiểu về
phương pháp dạy học mới tôi đã đúc rút một vài kinh nghiệm cho bản thân trong
chuyên môn muốn đươc chia sẻ với bạn bè và đồng nghiệp với “Một số kinh
6

Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk

download by :


Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong giờ dạy Ngữ văn
9”.
2. Thực trạng
Trường THCS Lê Đình Chinh là trường có nhiều giáo viên trẻ nhiệt tình
trong cơng tác giảng dạy, ham học hỏi ln ln tìm tịi để nâng cao kiến thức
chuyên môn. Không những vậy nhà trường cũng thường xuyên tổ chức các buổi
thao giảng dự giờ đóng góp ý kiến cho nhau, để tiết dạy được hồn thiện hơn.
Mặt khác, Phịng Giáo dục của huyện nhà cũng tổ chức định kì các cuộc trao đổi
chuyên môn theo các cụm. Đây cũng là dịp để các thầy cô giáo trao đổi kinh
nghiệm giảng dạy giữa các trường với nhau để ngày càng nâng cao chất lượng

giảng dạy. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất của nhà trường cũng ngày càng được cải
thiện theo hướng tích cực, để phục vụ nhu cầu dạy và học của thầy trò trong
trường.
Về mặt học sinh, các em học sinh của trường đa phần là con em nơng dân
nên tính tình hiền lành, ngoan ngoãn, chăm chỉ mặc dù điều kiện gia đình cịn
khó khăn nhưng các em ln nỗ lực, cố gắng phấn đấu khắc phục khó khăn để
vươn lên trong học tập.
Ngồi những thuận lợi kể trên thì hiện tại trường vẫn gặp nhiều khó khăn
trong cơng tác giảng dạy. Cơ sở vật chất của trường tuy đã được đầu tư hơn
trước, nhưng so với nhu cầu sử dụng thì vẫn cịn nghèo nàn và thiếu thốn khá
nhiều. Các thầy cơ giáo vì cịn trẻ nên ít nhiều cũng còn thiếu kinh nghiệm trong
việc giảng dạy. Về học sinh các em tuy rất chăm ngoan nhưng do là học sinh
nông thôn nên điều kiện học tập của các em cịn thua thiệt nhiều so với các bạn,
khơng những thế nhiều gia đình học sinh có hồn cảnh hết sức khó khăn nên các
em cũng khơng được gia đình quan tâm đến việc học nhiều. Ngoài ra nhiều bậc
phụ huynh và chính các em học sinh cịn mang suy nghĩ, mơn Văn khơng phải là
mơn học lý tưởng để có thể lựa chọn ngành nghề trong tương lai cho nên cịn có
thái độ xem nhẹ mơn học này.
Từ tình hình thực tế trên địa bàn xã, người ta thường đổ xô vào các ngành
học mà sau này làm ra tiền. Mà muốn vậy thì phải đầu tư vào các mơn học khác
chứ không phải là văn học. Thờ ơ, vô cảm coi thường môn Văn đẫn đến các em
học sinh khơng có được say mê, hứng thú học văn, đọc văn, như một nhu cầu tự
thân. Đã qua rồi thần tượng của thế hệ trẻ là các nhà văn, nhà thơ, nhà khoa học,
thay vào đó là các ngơi sao ca nhạc, người mẫu thời trang, minh tinh màn bạc,
cầu thủ bóng đá.... Khơng cịn nữa những giờ giảng văn mà cả thầy và trò đều
xúc động trước một câu thơ hay, một áng văn đẹp, một số phận nhân vật. Khơng
phủ nhận vẫn cịn những em say mê văn học, u thích mơn văn, rất am hiểu về
7

Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krơng Ana – Đắk Lắk


download by :


Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
các tác giả, tác phẩm văn học trong và ngoài nhà trường, biết làm thơ, viết
truyện... nhưng con số ấy đáng là bao?
Một nguyên nhân quan trọng nữa là trường đóng tại địa bàn xã nên tỉ lệ
học sinh gốc Quảng Nam trong trường khá nhiều, các em phát âm mang đậm đặc
thù của tiếng địa phương là điều không thể tránh khỏi. Điều này cũng ảnh hưởng
không nhỏ tới việc cảm thụ một tác phẩm văn chương, đặc biệt là những tác
phẩm văn học cổ.
Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy, tôi nhận thấy rằng trong nhiều năm
qua chất lượng học tập của một số môn học tương đối thấp, trong đó có mơn
Ngữ văn. Năm học 2 2017-2018 được phân công giảng dạy môn Ngữ văn 9, sau
khi nhận nhiệm vụ tôi đã tiến hành điều tra, sát hạch về hứng thú học tập và kết
quả học tập môn Ngữ văn của học sinh hai lớp 9A3 và 9A4 bằng phiếu điều tra
với bài kiểm tra 90 phút cùng hình thức trắc nghiệm, tự luận ngay từ đầu năm
học với kết quả thu được như sau:
- Về hứng thú học tập:
Tổng số HS

u thích

63

Khơng u thích

Số lượng


Tỉ lệ

Số lượng

Tỉ lệ

15

23,8%

48

76,2%

- Về kết quả học tập:
Tổng
số HS

63

Giỏi

Khá

Trung bình

Yếu

Số

lượng

Tỉ lệ

Số
lượng

Tỉ lệ

Số
lượng

Tỉ lệ

Số
lượng

Tỉ lệ

4

6,3%

10

15,9%

47

74,6%


2

3,2%

Đây quả là một kết quả thật đáng buồn nhưng càng buồn hơn là mỗi khi
đến tiết dạy Văn hầu như các em không tập trung chú ý, không khí lớp chùng
xuống khi cả lớp mà số lượng học sinh giơ tay phát biểu chỉ đếm trên đầu ngón
tay và thậm chí có một số em cịn ngủ gật trong khi giáo viên thì say sưa giảng
bài. Trước thực trạng đó tơi ln băn khoăn và tự đặt câu hỏi: Làm thế nào để
các em yêu Văn? Làm thế nào để các em hứng thú với giờ học Ngữ văn? Với
những trăn trở đó, tơi nghĩ rằng cần phải tìm ra các biện pháp và giải pháp để
khắc phục thực trạng trên càng sớm càng tốt.
8

Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krơng Ana – Đắk Lắk

download by :


Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
III. Các giải pháp đã tiến hành
Là giáo viên chúng ta đều biết rằng trí thơng minh, khả năng tiếp thu kiến
thức, tình trạng sức khỏe cũng như hồn cảnh gia đình của mỗi học sinh là
không giống nhau. Tuy nhiên trong thực tế hầu như chúng ta có xu hướng yêu
cầu, đòi hỏi tất cả học sinh mà chúng ta dạy đều phải kết quả cao, đều phải học
giỏi bộ môn của mình. Đó là điều vơ lý vì theo thuyết thơng minh của Howard
Gardner thì Trí thơng minh của con người được chia làm 8 loại đó là:
Thơng minh ngơn ngữ; 

Thơng minh logic-tốn học;
Thơng minh về âm nhạc; 
Thơng minh về thể chất;
Thông minh về không gian;   
Thông minh về giao tiếp xã hội;
Thông minh nội tâm;
Thông minh về tự nhiên.
Vậy nhiệm vụ của chúng ta cần phải nắm bắt được học sinh của chúng ta
cơ bản có dạng trí thơng minh nào để từ đó làm tốt nhiệm vụ giáo dục tri thức
của mình. Là một giáo viên có thời gian giảng bộ môn chưa nhiều - hơn 4 năm,
nhưng với kinh nghiệm của bản thân tơi khi cịn là học sinh phổ thông cho đến
bây giờ - là một giáo viên dạy mơn Ngữ văn tại trường THCS Lê Đình Chinh,
tơi cho rằng dạy văn là một cơng việc khó khăn, đó chính là dạy làm người. Đó
là một cơng việc vơ cùng có ý nghĩa nhưng thực tế cho thấy, ngày nay nhiều em
học sinh khơng có hứng thú và khơng u thích học mơn Ngữ văn. Nhiều tiết
học, thầy cơ dạy cịn hời hợt, học trị thì học theo kiểu đối phó nên những tiết
học tẻ nhạt cứ diễn ra một cách máy móc, khiên cưỡng. Vậy nên, tơi thiết nghĩ
muốn cho học sinh u thích học mơn Văn, trong từng tiết dạy chúng ta luôn
phải biết tự làm mới mình bằng nhiều phương pháp khác nhau. Đặc biệt giáo
viên phải biết cách khơi gợi, tạo được hứng thú, niềm say mê, u thích bộ mơn
cho học sinh.
Nhận thức được điều này cho nên trong các tiết dạy của mình tơi ln trăn
trở một điều là: Làm thế nào để một tiết học trôi qua mà các em không cảm thấy
bị áp lực, không cảm thấy mệt mỏi, chán chường? Làm thế nào để trước mỗi giờ
học các em có được cảm giác chờ đợi và háo hức đến tiết học Ngữ văn? Làm thế
nào để các em cảm nhận được mình là một thành viên quan trọng của lớp và làm
thế nào để các em có được những kiến thức cơ bản nhất của tiết học đó? Vì vậy
với nội dung này, tơi mong muốn chia sẻ, trao đổi một vài kinh nghiệm nhỏ bé
9


Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krơng Ana – Đắk Lắk

download by :


Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
của mình để có thể giải quyết được một phần nào đó những câu hỏi mà bản thân
đã nêu ra ở trên, từ đó góp phần nâng cao chất lượng dạy học mơn Ngữ văn 9.
Ngồi ra tơi cũng mong rằng cha mẹ học sinh cần quan tâm đầu tư cho con
em mình khi học các mơn mang tính xã hội. Trong khi đó mơn Ngữ văn khơng
phải là mơn học dễ, nó kết hợp kiến thức của nhiều mơn học khoa học xã hội,
như Địa lý, Sinh học, Lịch sử, GDCD, Âm nhạc và thậm chí có cả Tốn… Học
tốt mơn Ngữ văn sẽ trang bị cho các em nhiều kiến thức về đời sống, về giao
tiếp ứng xử và các kĩ năng cần có đối với cuộc sống.
Mặt khác học tốt mơn Ngữ văn cịn giúp cho các em được tự mình khám
phá, được thấy các mối quan hệ về các phân môn trong môn Ngữ văn (văn bản,
tiếng Việt, Tập làm văn) một cách rất tường minh, các kiến thức cơ bản sẽ trở
nên dễ hiểu, đơn giản hơn, lúc đó các em khơng cịn tâm lý ngại học nữa. Ngồi
ra cịn rèn cho các em thói quen quan sát, suy luận tư duy logic, rèn khả năng
nhanh nhạy của đơi tay, trí óc. Việc ghi chép sẽ đơn giản, dễ hiểu, tránh được
cách học vẹt, học thuộc lòng một cách máy móc, tạo tâm lý thoải mái khi học
tập, kích thích được lịng ham học hỏi, khả năng tư duy sáng tạo, khả năng cảm
thụ văn chương của mỗi cá nhân học sinh cũng vì thế mà tốt hơn.
Từ những nguyên nhân trên cùng với kết quả không như mong đợi của học
sinh, tơi đã tìm ra cho mình một hướng đi mới, một phương pháp mới, khả thi
hơn, hiệu quả hơn. Đó là vừa đổi mới phương pháp vừa tạo hứng thú cho học
sinh bằng những tiết học sinh động.
Trước hết tôi khẳng định rằng: Dù áp dụng phương pháp mới, phương
pháp tích cực đến mấy thì cũng phải và luôn kế thừa những phương pháp truyền

thống. Phải biết xen kẽ bổ sung cho nhau để phù hợp với tình hình thực tế và
từng đối tượng học sinh.
Dưới đây là một số giải pháp mà bản thân tôi đã thực hiện:
Giải pháp 1. Chủ động ngay từ khâu thiết kế bài giảng
Một giáo viên giàu kinh nghiệm ắt sẽ biết việc thâm nhập kỹ bài dạy trước
khi lên lớp chiếm tỷ lệ thành công tới 50% của tiết học. Điều này lý giải vì sao
có những giáo viên bộ môn dạy lâu năm và chuyên dạy một khối lớp không
thông thạo lắm về công nghệ thông tin nhưng vẫn được học sinh ngưỡng mộ vì
giảng dạy thuần thục và dễ hiểu. 
Việc chủ động trong thiết kế bài giảng của giáo viên có thể tiến hành như
sau: Căn cứ theo phân phối chương trình đã được xây dựng và thống nhất từ đầu
năm học, giáo viên chủ động xem xét dung lượng kiến thức vừa đủ trong một
tiết dạy (tránh sự quá tải); Chuẩn bị hệ thống câu hỏi đảm bảo tính tối ưu (có
tính chất phân hóa đối tượng); Những kỹ năng học sinh cần đạt được. Cuối cùng
10

Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk

download by :


Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
là sự chuẩn bị những tình huống gọi là “gia vị” nhằm tránh sự  căng thẳng, nhàm
chán, để “giữ lửa” trong suốt tiết học. 
Có làm tốt được khâu soạn bài thì khi lên lớp chúng ta sẽ luôn tự tin và chủ
động trong tiết dạy của mình. Điều này sẽ giúp cho các em hào hứng, tích cực vì
mình là một thành viên của tập thể, được giáo viên và bạn bè ghi nhận, tơn
trọng.
Ví dụ: Trong một lần, do thời khóa biểu của nhà trường thay đổi vào cuối

tuần, mà hôm đó tơi lại khơng có tiết nên khơng kịp cập nhật thời khóa biểu mới.
Vì vậy hơm sau khi lên lớp dạy vào bài “Đấu tranh cho một thế giới hịa bình”,
ở chương trình Ngữ văn 9, tơi chưa kịp chuẩn bị kĩ bài dạy hơm đó. Vì vậy khi
lên lớp mặc dù kiến thức của bài hơm đó tơi nắm khá chắc, nhưng mọi lời tơi nói
và truyền đạt với học sinh lúc đó cịn mang tính trừu tượng, các em khó có thể
hình dung hết được sự hủy diệt to lớn của vũ khí hạt nhân. Nếu tơi có sự chuẩn
bị trước máy chiếu, các đoạn video, hình ảnh… về chiến tranh hạt nhân, thì tiết
học sẽ thành công hơn, ấn tượng hơn và giá trị giáo dục cũng như kĩ năng sống
sẽ đạt hiệu quả cao hơn.
Đây là bước vô cùng quan trọng của một giáo viên trước khi đến lớp. Bởi
hoạt động xây dựng kế hoạch dạy học cho một bài học cụ thể, thể hiện mối quan
hệ tương tác giữa GV với HS, giữa HS với HS nhằm đạt được những mục tiêu
của bài học. Căn cứ trên giáo án, có thể vừa đánh giá được trình độ chun mơn
và tay nghề sư phạm của GV vừa thấy rõ quan niệm, nhận thức của họ về các
vấn đề giáo dục như: mục tiêu giáo dục, nội dung giáo dục, cách sử dụng PPDH,
thiết bị DH, hình thức tổ chức dạy học và cách đánh giá kết quả học tập của HS
trong mối quan hệ với các yếu tố có tính chất tương đối ổn định như: kế hoạch,
thời gian, cơ sở vật chất và đối tượng HS. Chính vì thế, hoạt động chuẩn bị cho
một giờ học có vai trị và ý nghĩa rất quan trọng, quyết định nhiều tới chất lượng
và hiệu quả giờ dạy học.
Giải pháp 2. Chuẩn bị tốt tâm thế cho tiết dạy
Tâm thế của người dạy Văn rất quan trọng, nó là yếu tố quan trọng hàng
đầu để tạo sự thu hút, chú ý của các em học sinh trong tiết học. Tâm thế của
người dạy Văn có nhiều yếu tố nhưng theo tơi có ba yếu tố cơ bản quan trọng
nhất đó là: Kiến thức của người dạy, tâm trạng của người dạy và thái độ của
người học.
Nếu kiến thức bài dạy đã được giáo viên chuẩn bị một cách kĩ lưỡng đầy
đủ, giáo viên đã làm việc cùng với tác phẩm một cách thấu đáo, sẵn sàng buồn,
vui cùng nhân vật cùng nhà văn, sẵn sàng chia sẻ điều mình biết về tác phẩm
cùng học sinh, thì đó là một tâm thế tuyệt vời, cần có của người dạy về điều kiện

kiến thức và sự chuẩn bị cho bài dạy.
11

Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk

download by :


Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
Người dạy Văn vốn nhạy cảm, dễ vui, dễ buồn, dễ bị chi phối tâm trạng
cảm xúc. Điều này ảnh hưởng không tốt đến quá trình dạy Văn. Nếu trước khi
lên lớp mà thầy cơ giáo đang phiền lịng vì chuyện gia đình, đang bực mình vì
ngổn ngang bao nhiêu chuyện riêng chưa biết sắp xếp, tính tốn, xoay sở thế nào
thì thật khó để có được một giờ dạy văn đúng nghĩa.
Ví dụ: Có một lần vơ tình lang thang trên mạng đọc một số tài liệu liên
quan tới môn Văn tơi có đọc được tâm sự của một thầy giáo, thầy có kể chuyện
như sau: “Hơm ấy, gần hết năm học, thầy ra một đề Văn kiểm tra để lấy điểm
chuẩn bị tổng kết cho kì học. Đề bài là: Em hãy viết về điều mà em muốn viết
nhất. Đây là kiểu bài nghị luận cho nên học sinh rất hứng thú. Thơi thì muốn viết
gì thì viết, thoải mái. Tập bài thầy thu về hôm ấy thật bất ngờ, thú vị và xúc
động với nhiều cảm xúc, tình cảm đáng q của học trị. Trong số bài ấy có một
lá thư viết cho thầy. Cơ học trị nói nhiều về sự quý trọng với người thầy chủ
nhiệm, người thầy dạy Văn là thầy nhưng đoạn cuối lá thư có viết: “Thầy ơi, em
luôn chờ đợi những giờ dạy Văn của thầy và thường thì sự chờ đợi của em đều
xứng đáng. Nhưng gần đây, em khơng cịn có cảm giác ấy nữa. Hình như, thầy
bước vào lớp mà quên khơng để lại những ưu tư ngồi cửa. Lúc nào trông thầy
cũng buồn bã. Thầy cố gắng lên nhé. Em rất mong có lại được cảm giác đợi chờ
thầy đến lớp”. Đọc xong lời tâm sự của thầy tôi thật sự xúc động vì tình cảm mà
thầy có được của các học trị của mình. Tơi tự nhìn lại mình và thấy rằng: Đúng

là cũng có lúc vì nhiều chuyện buồn, vì bao nhiêu nhọc nhằn, vất vả những năm
mới ra trường, đã có lúc mình khơng dành trọn cảm xúc, tâm tư cho những giờ
dạy Văn. Học trò của mình sao lại phải chịu trách nhiệm về chuyện buồn của
mình chứ? Thú thực là tơi thấy chán tơi lúc ấy khủng khiếp. Trong lịng tơi thầm
cảm ơn cơ học trò ấy, cảm ơn người thầy giáo nọ và xốc lại tinh thần, quyết lấy
lại niềm tin yêu của học trị. Tơi đã làm theo gợi ý của cơ học trị ấy. Trước khi
vào lớp, hãy hình dung có một cái giá treo vơ hình ngồi cửa và hãy treo tất cả
những chuyện buồn ở đó để bước vào lớp với tâm trạng thoải mái, thân thiện,
toàn tâm toàn ý với bài dạy, với học trị của mình. Hãy thay lời trách móc, mắng
mỏ thành lời trách hài hước, dí dỏm. Hãy để nụ cười trên môi khi chúng ta khi
bước vào lớp. Đành rằng, cũng có lúc phải mắng học sinh nhưng những lúc ấy
lời mắng của người thầy cũng phải thể hiện sự thiện chí và sự bao dung với học
trò để giây phút căng thẳng dễ dàng trôi đi và hãy chỉ để lại trên lớp một giờ dạy
Văn sôi nổi và đầy hứng thú.
Giải pháp 3. Chủ động tích hợp liên mơn kiến thức
Mơn Ngữ văn là một môn học quan trọng, khá hấp dẫn nhưng địi hỏi năng
khiếu và khả năng cảm thụ tốt, vì vậy với nhiều em khơng có năng khiếu văn
chương, mà chỉ thích các mơn học khoa học tự nhiên thì mỗi giờ học trơi qua đơi
khi là một cực hình. Vì vậy trong giờ dạy, giáo viên thay vì cứ rập khn cứng
12

Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk

download by :


Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
nhắc theo nội dung của bài giảng thì có thể sáng tạo bằng cách tích hợp liên mơn
kiến thức, chủ động liên hệ vận dụng vào thực tiễn để tiết học trở lên hấp dẫn

sinh động hấp dẫn hơn.
Ví dụ: Ở chương trình Ngữ văn lớp 9, có bài “Mùa xn nho nhỏ” của
Thanh Hải. Nội dung bài thơ có ba mùa xuân đó là mùa xuân của thiên nhiên,
mùa xuân của đất nước, và mùa xuân của con người. Cuối tiết dạy giáo viên có
thể cho học sinh chọn một trong ba chủ đề đó để phác họa bức tranh ra giấy và
nộp cho giáo viên vào hơm sau.
Ví dụ: Cũng ở chương trình Ngữ văn 9,trong quá trình giảng bài “Những
ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê về cuộc sống và công việc của những cô gái
thanh niên xung phong, thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Nếu giáo viên
chỉ giảng sng bằng lời, thì học sinh khó có thể hình dung hết được những khó
khăn gian khổ của thế hệ cha anh đi trước từng trải qua.Vì vậy giáo viên có thể
cho các em xem một đoạn phim tư liệu lịch sử về Ngã 3 Đồng Lập, về công việc
của những cô gái thanh niên xung phong mở đường cứu nước để các em dễ dàng
hình dung bài học hơn. Hay đến với bài thơ “Mây và sóng” của Tagor, tơi đã
tích hợp phân mơn Địa lý để đưa các em đến với đất nước, con người và nền văn
hóa Ấn Độ - nơi mà tác giả đã từng sinh ra và lớn lên. Cũng như đến với bài thơ
“Đồng chí” của Chính Hữu, khi thực hiện xong phần đọc văn bản tôi đã yêu cầu
học sinh phổ nhạc bài thơ ấy theo cách của mình. Đa số các em rất hào hứng và
tranh nhau thể hiện năng khiếu của bản thân. Chính điều ấy đã làm cho tiết học
trở nên sôi nổi và vô cùng thú vị.
Việc tích hợp liên mơn trong tiết học, khơng chỉ giúp tiết học trở lên sinh
động hơn, mà còn giúp tư duy của các em nhanh nhạy, tích cực và sáng tạo hơn.
Mặt khác chúng ta đều thấy môn Ngữ văn rất kén người học, số em yêu thích
Văn trong một lớp không nhiều. Tuy nhiên nếu giáo viên nhận thức được rằng
học sinh của chúng ta ai cũng có điểm mạnh điểm yếu khác nhau, có những trí
thơng minh khác nhau, có em khơng học tốt mơn Ngữ văn nhưng lại có năng
khiếu về âm nhạc hay hội họa thì việc cho các em lên hát, cũng như cho các em
phác họa lại bài thơ hay câu chuyện bằng tranh là một cách dạy gián tiếp. Cách
này sẽ giúp các em được hịa mình vào tiết học, tính tích cực chủ động của mỗi
cá nhân sẽ được phát huy tối đa và bài học đó cũng sẽ trở lên ấn tượng hơn và

các em cũng nhớ lâu hơn.
Giải pháp 4. Vận dụng linh hoạt các phương pháp giảng dạy tích cực
Một món ăn dù ngon đến mấy, nhưng bữa nào cũng ăn, ngày nào cũng ăn
thì chắc chắn người thưởng thức sẽ khơng cịn thấy nó ngon nữa, thậm chí chán
ngán. Trong tiết học Văn cũng vậy, dù phương pháp dạy đó có tốt đến mấy được
đánh giá cao đến mấy, nhưng tiết học nào người thầy cũng rập khn như vậy
13

Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk

download by :


Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
thì học sinh cũng khơng thể nào thấy hay mãi được. Có thể trong 45 phút đó
chúng ta say mê giảng, nhưng chưa chắc học trò của chúng ta sẽ say mê nghe.
Nếu duy trì cách dạy như vậy thì chúng ta hãy quan sát lớp học của mình xem,
bắt đầu vào buổi học, có thể các em rất vui vẻ, nhưng sau 10 phút một số em đã
lơ đãng, sau 20 phút có em đã ngáp, sau 30 phút có em sẽ trả lời chắc chắn điều
đó là đúng dù khơng biết câu hỏi đó là gì. Vì vậy, chúng ta phải thường xuyên
thay đổi, linh hoạt trong việc lựa chọn phương pháp giảng dạy.
Bên cạnh những phương pháp dạy học theo đặc trưng của bộ môn Ngữ
văn, việc phát huy các phương pháp dạy học tích cực cũng góp phần vào việc
đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn hiệu quả,  đồng thời  khơi dậy niềm
hứng thú, u thích mơn học… Có nhiều phương pháp dạy học tích cực mà giáo
viên có thể sử dụng như: Thảo luận nhóm, Đóng vai, Nghiên cứu tình huống, Dự
án, Động não, Đặt và giải quyết vấn đề…. Trong khuôn khổ bài viết nhỏ này,
bên cạnh những phương pháp truyền thống, tơi chỉ trình bày vài phương pháp
mà bản thân đã áp dụng và đem lại hiệu quả giáo dục trong quá trình giảng dạy.

- Kể chuyện hoặc giai thoại liên quan
Ví dụ: Trong tác phẩm “Cố hương” của Lỗ Tấn ở chương trình Ngữ văn
9, khi tìm hiểu về tác giả, học sinh đọc trong sách giáo khoa chỉ có thể biết được
Lỗ Tấn đã học rất nhiều trường, nhưng sau đó ơng chuyển từ ngành y sang học
văn vì ơng nghĩ rằng, văn học là vũ khí lợi hại để “biến đổi tinh thần” của nhân
dân Trung Quốc đang ở tình trạng “ngu muội”, “hèn nhát”. Nếu nói vậy các em
sẽ chưa hiểu được căn ngun của lí do. Lúc đó, giáo viên có thể kể thêm một
giai thoại gắn liền với quyết định này của ơng đó là: “Trong một lần đi xem
phim, ông thấy cảnh rất nhiều người dân Trung Quốc khỏe mạnh đi xem cảnh
người Nhật chém đầu một người Trung Quốc, đồng bào mình bị giặc mang ra
chặt đầu mà họ lại rất hăm hở, hào hứng. Ông giật mình nhận ra chữa bệnh thể
xác khơng quan trọng bằng chữa bệnh tinh thần, nên ông đã quyết định chuyển
sang nghề văn”.
- Lồng ghép trò chơi trong dạy - học mơn Ngữ văn
Trị chơi vừa là một hoạt động giải trí vừa là một phương pháp giáo dục:
giáo dục bằng trò chơi - một phương pháp đã được nhiều nền giáo dục tiên tiến
trên thế giới vận dụng. Lồng ghép trị chơi trong dạy và học mơn Ngữ văn, kết
hợp với những phương pháp dạy học khác sẽ có ý nghĩa tích cực đối với yêu cầu
đổi mới hiện nay đồng thời tạo được hứng thú trong học tập cho học sinh.
Qua phân tích ý nghĩa, mối quan hệ của việc học mà chơi, để giới thiệu
một cách có hệ thống về các hình thức lồng ghép trị chơi, minh hoạ một số trò
chơi và những khả năng lồng ghép trị chơi đối với cả ba phân mơn: Đọc văn,
Tiếng Việt và Tập làm văn. Nhằm hướng đến mục đích cuối cùng là cải tiến
14

Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krơng Ana – Đắk Lắk

download by :



Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
phương pháp dạy học, tạo thêm hứng thú cho người học, giúp học sinh tích cực,
chủ động tiếp nhận tri thức và hình thành kĩ năng, phát triển nhân cách.
Nguyên tắc: Giáo viên cần chú ý đến đặc thù của từng phân mơn; lưu ý
mối quan hệ giữa trị chơi với hệ thống câu hỏi; vận dụng linh hoạt, hợp lí, đúng
mức và đúng lúc để không xáo trộn nhiều không gian lớp học, nhanh chóng ổn
định lớp học khi trị chơi kết thúc; trò chơi phải phù hợp với nội dung, mục tiêu
cần đạt, không vận dụng cho tất cả các tiết học, đơi khi gây phản cảm, phản tác
dụng; trị chơi bao giờ cũng kết thúc bằng thưởng cho người (đội) thắng hoặc xử
phạt nhẹ nhàng cho vui (dí dỏm, tế nhị).
Một số hình thức lồng ghép trị chơi: Xem trị chơi là một hình thức tổ
chức cho một đơn vị kiến thức nhỏ trong giờ học để triển khai ở các bước khác
nhau của bài giảng (phần tìm hiểu chung, tìm hiểu ngữ liệu, phần đọc - hiểu văn
bản, phần luyện tập, củng cố bài…). Tổ chức tiết học thành một trị chơi lớn đối
với một số tiết ơn tập hoặc khái qt.
Một số trị chơi có thể vận dụng lồng ghép trong dạy học Ngữ văn: giáo
viên có thể tự sáng tạo ra những trò chơi phù hợp với tiết học (trò chơi phát
động, trò chơi hoạt động, trị chơi luyện trí, trị chơi chú ý và quan sát, trò chơi
huy động kiến thức, trò chơi vận dụng kiến thức…), tự đặt tên trò chơi (theo
nguyên tắc vừa phù hợp, vừa kích thích sự tị mị của các em. Ví dụ: Ơ chữ,
Nhanh trí-nhanh tay, Bình thơ văn, Tiếp sức, Hùng biện…
Có nhiều trị chơi có thể lồng ghép vào giờ học Ngữ văn nhằm tạo khơng
khí lớp học sôi nổi, tạo hứng thú học tập cho các em. Tơi sẽ trình bày một số trị
chơi dễ áp dụng đem lại hiệu quả học tập cao:
    
Trong chương trình ngữ văn lớp 9 có bài ơn tập thơ và truyện hiện đại.
Giáo viên nên chia lớp ra thành các đội chơi để các em thi với nhau. Giáo viên
cũng chia tiết học thành các phần chơi khác nhau cũng như có số điểm luật chơi
tương ứng mỗi phần.

Phần 1. Khởi động
Phần này giáo viên có thể giúp các em nhớ lại kiến thức về tác giả, hoàn
cảnh ra đời bằng các câu hỏi nhỏ, mỗi đội sẽ giành quyền trả lời bằng cách bấm
chng (nếu có) hoặc giơ cờ.
Ví dụ: Bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt được ra đời trong hồn cảnh
nào?
Trong những bài thơ “Đồng chí”, “Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính”,
“Bếp lửa”, “Đồn thuyền đánh cá” bài thơ nào được sáng tác trong thời kì kháng
chiến chống Mĩ?
15

Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk

download by :


Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
Phần 2. Vượt chướng ngại vật
Phần này giáo viên sẽ tổng kết kiến thức về nội dung và nghệ thuật cho
các em bằng cách sau:
ST
T

Tên tác phẩm

Nội dung

1


Ca ngợi sự giàu đẹp của biển, sự giàu đẹp trong
tâm hồn người lao động. Bộc lộ niềm vui niềm
tự hào của nhà thơ trước cuộc sống.

2

Tình u làng, tinh thần u nước của người
nơng dân trong thời kì kháng chiến.

3

....

....

Mỗi đội chơi sẽ cử thành viên trong tổ lên điền vào phần tên tác phẩm,
tương ứng với nội dung và nghệ thuật thì đội chơi sẽ có hai lượt chơi. Mỗi lượt
điền 2 tác phẩm theo sự chỉ định của giáo viên.
Phần 3. Tăng tốc
Phần này giáo viên có thể cho học sinh làm bài tập ô chữ. Mỗi ô chữ
tương ứng với tên một tác giả hoặc nội dung nhỏ nào đó trong tác phẩm từ đó
tìm ra từ khóa.
1. Có 8 chữ cái: Tác giả của bài thơ Bếp lửa?
2. Có 8 chữ cái: Một sáng tác của Nguyễn Duy?
3. Có 4 chữ cái: Một sáng tác của Kim Lân?
4. Có 3 chữ cái: Con gái ông Sáu trong truyện Chiếc lược ngà có tên là gì?
5. Có 5 chữ cái: Nhân vật đi cùng cô gái vào nhà anh thanh niên trong truyện
Lặng lẽ SaPa làm nghề gì?
6. Có 6 chữ cái: Tác giả của bài thơ Đoàn thuyền đánh cá?
7. Có 8 chữ cái: Tác giả của bài thơ Đồng chí?

8. Có 4 chữ cái: Bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ nói về
người mẹ dân tộc nào?
….
16

Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk

download by :


Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
B



N

G

V

I



Á N

H


T

R

Ă

N

G

L

À

N

G

T

H

U

H



A


S

C

T
N

B

I



À

T

Ĩ

H

U

Y

C



N


H

I

N

H

H



U

T

À

Ô

I

R

U

Y




N

N

G

M

T

I

N
Đ



N

G

C

O



I


K

I

M

L

Â

N

N

G



N

H

Phần 4. Về đích
Ở phần thi này giáo viên sẽ cho các đội chơi một đoạn thơ và các đội sẽ
chứng tỏ năng khiếu của mình bằng việc ngâm hoặc đọc diễn cảm đoạn thơ đó.
Sau khi tổ chức xong các phần thi giáo viên cộng điểm lại ở các phần và
cơng bố nhóm được điểm cao nhất. Tun dương các nhóm có thành tích tốt
khuyến khích các nhóm cịn lại.
- Sân khấu hóa tác phẩm văn học
           Để tăng cảm hứng học tập môn Ngữ văn cho các em học sinh và khuyến

khích tinh thần đọc sách, cũng như sự cảm thụ tác phẩm văn học và đồng sáng
tạo cùng nhà văn, giáo viên có thể cho học sinh học theo cách sân khấu hóa tác
phẩm văn học. Nghĩa là học văn bằng diễn kịch. Nghĩa là học sinh sẽ chuyển thể
tác phẩm văn học thành vở diễn, sau đó thảo luận những vấn đề trọng tâm. Từ
đó rút ra những bài học cần thiết của tác phẩm.

17

Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krơng Ana – Đắk Lắk

download by :

Í


Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
Giáo viên có thể chọn tác phẩm phù hợp để áp dụng cách này. Mỗi lớp sẽ
được chia nhóm khác nhau. Trong nhóm có các bạn khác nhau như viết kịch
bản, phụ trách diễn xuất, media, hậu cần, nhóm tổ chức hội thảo... học sinh dàn
dựng từ chính tác phẩm văn học các em đang học trong trường để chuyển thành
vở diễn. Các em tự xây dựng kịch bản, giáo viên chỉ duyệt nội dung. Việc chuẩn
bị phục trang, dựng cảnh, phân vai diễn xuất, rồi chọn nhạc, làm tiếng động... để
tạo nên một vở diễn ngắn ấn tượng đều là sáng tạo của học sinh.
Học chính là thảo luận. Khác với việc chỉ dừng lại ở dựng tiểu phẩm tham
dự các hội thi, sân khấu hóa tác phẩm văn học được thực hiện tại từng lớp học
và trở thành một phần của bài học. Sau phần diễn kịch học sinh các nhóm sẽ
cùng thảo luận về một số vấn đề trọng tâm của bài học. Với cách thức này, tất cả
học sinh đều phải đọc tác phẩm để nắm nội dung, tìm những chi tiết đắt giá góp
ý cho kịch bản.

Việc dựng lại những câu chuyện trong bối cảnh thực tại của hàng chục
năm trước trong cái nhìn mới mẻ của chính các em học sinh đã thổi luồng gió
mới vào tác phẩm văn học, khiến tác phẩm văn học không xa rời thực tế cuộc
sống hiện tại, không nhàm chán, đơn điệu mà có sức hấp dẫn mới. Từ đó rút ra ý
nghĩa của tác phẩm hay trích đoạn tác phẩm để tất cả học sinh cùng nắm bắt và
thấu hiểu.
Bên cạnh đó, tơi cịn kết hợp vận dụng phương pháp đóng vai vào mỗi
kịch bản. Bởi đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành, thử
nghiệm một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định. Đây là
phương pháp nhằm giúp học sinh suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách tập
trung vào một sự việc cụ thể mà các em vừa thực hiện hoặc quan sát được. Việc
“diễn” không phải là phần chính của phương pháp này mà điều quan trọng là sự
thảo luận sau phần diễn ấy.
Có thể cho học sinh tiến hành đóng vai theo các bước sau: Giáo viên nêu
chủ đề, chia nhóm và giao tình huống, yêu cầu đóng vai cho từng nhóm. Trong
đó có quy định rõ thời gian chuẩn bị, thời gian đóng vai của mỗi nhóm. Các
nhóm thảo luận chuẩn bị đóng vai. Các nhóm lên đóng vai. Lớp thảo luận, nhận
xét về cách ứng xử và cảm xúc của các vai diễn; về ý nghĩa của các cách ứng
xử. Giáo viên kết luận, định hướng cho học sinh về cách ứng xử tích cực trong
tình huống đã cho.
Chúng ta cần lưu ý khi cho học sinh đóng vai: 
+ Tình huống đóng vai phải phù hợp với chủ đề bài học, phù hợp với lứa
tuổi, trình độ học sinh và điều kiện, hồn cảnh lớp học. Tình huống không nên
quá dài và phức tạp, vượt quá thời gian cho phép.
18

Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk

download by :



Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
+ Tình huống phải có nhiều cách giải quyết. Tình huống cần để mở để học
sinh tự tìm cách giải quyết, cách ứng xử phù hợp; không cho trước “kịch bản”,
lời thoại.
+ Mỗi tình huống có thể phân cơng một hoặc nhiều nhóm cùng đóng vai.
Phải dành thời gian phù hợp cho học sinh thảo luận xây dựng kịch bản và chuẩn
bị đóng vai cần quy định rõ thời gian thảo luận và đóng vai của các nhóm. Trong
khi học sinh thảo luận và chuẩn bị đóng vai, giáo viên nên đi đến từng nhóm
lắng nghe và gợi ý, giúp đỡ học sinh khi cần thiết. Các vai diễn nên để học sinh
xung phong hoặc tự phân công nhau đảm nhận. Nên khích lệ cả những học sinh
nhút nhát cùng tham gia.

Ảnh: Học sinh diễn đoạn “cảnh chia tay của cha con ông Sáu” trong tác
phẩm “Chiếc lược ngà”
Với phương pháp này trong những năm gần đây một số trường THCS trên
địa bàn huyện cũng đã áp dụng và khá thành công. Cụ thể nhất là vào tháng
11/2018, được sự phân công và giao nhiệm vụ của Cụm chuyên môn số 1,
trường tôi cũng đã thực hiện chuyên đề hoạt động trải nghiệm sáng tạo với chủ
đề “Người thắp lên ngọn lửa tâm hồn” do cô Nguyễn Thị Y Vân, Nguyễn Thị
Hương và học sinh khối 7 thực hiện. Chuyên đề đã nhận được rất nhiều lời khen
ngợi từ các thầy cô trong cụm tổ bộ môn và được đánh giá khá cao.
19

Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk

download by :



Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9

Ảnh: Chuyên đề TNST chủ đề “Người thắp lên ngọn lửa tâm hồn”
- Vận dụng linh hoạt, hiệu quả phương pháp thảo luận cặp - nhóm.
Giáo viên chia học sinh trong lớp thành các nhóm nhỏ, hoặc có thể tổ
chức cho các em bốc thăm chọn cặp-nhóm, khơng nên phân sẵn cũng như cố
định thành viên của nhóm mà cần thường xuyên thay đổi, tránh tình trạng nhàm
chán, khơng tích cực hoạt động của trong khoảng thời gian giới hạn, mỗi nhóm
tự lực hoàn thành các nhiệm vụ học tập trên cơ sở phân công và hợp tác làm
việc. Kết quả làm việc của nhóm sau đó được trình bày và đánh giá trước tồn
lớp.
    
Dạy học nhóm nếu giáo viên tổ chức tốt sẽ phát huy được tính tích cực,
tính trách nhiệm; phát triển năng lực cộng tác làm việc và năng lực giao tiếp của
học sinh. Đồng thời tránh được sự nhàm chán, khơi dậy sự hứng thú cho học
sinh. Để tổ chức một hoạt động dạy học theo hình thức thảo luận nhóm, giáo
viên cần tiến hành theo các bước: 
Bước chuẩn bị (giao nhiệm vụ): chuẩn bị đề tài, nội dung, phương tiện hỗ
trợ...
Thực hiện nhiệm vụ: Chia nhóm theo u cầu, cử nhóm trưởng, người báo
cáo, thơng qua định hướng, yêu cầu... giáo viên quan sát, đôn đốc, nhắc nhở...
Yêu cầu thực hiện: Mỗi thành viên trong nhóm đều được tham gia bàn luận,
được lắng nghe, tránh căng thẳng hoặc người được nói quá nhiều, làm việc quá
nhiều. Mọi thành viên đều tích cực làm việc.
Trình bày kết quả: Đại diện nhóm trình bày kết quả các thành viên bổ
sung thêm. Các nhóm khác nhận xét, bổ sung, trao đổi.
20

Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk


download by :


Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
Kết thúc: Giáo viên đúc kết, bổ sung, nhấn mạnh, kết luận vấn đề.
   
Thực hiện đổi mới phương pháp giáo dục đã có nhiều giáo viên sử dụng
phương pháp này. Tuy nhiên chúng ta có thể thấy rằng đơi lúc cịn mang tính
hình thức, đối phó nên chưa đem lại hiệu quả cao. Có tình trạng thảo luận nhóm
nhưng chỉ có một, hai người trong mỗi nhóm là làm việc cịn những thành viên
khác ngồi chơi hoặc khơng tích cực hoạt động. Khi nhận xét kết quả có tình
trạng qua loa, q nhanh khiến học sinh trong lớp không nắm bắt được đâu là
nội dung đúng, sai, trọng tâm cần nắm... Chính vì vậy để phương pháp này đem
lại hiệu quả, góp phần khơi dậy sự hào hứng trong học tập, theo tơi giáo viên cần
chủ động tổ chức thảo luận nhóm một cách linh hoạt. Tùy từng đơn vị kiến thức,
quỹ thời gian trong bài học mà chọn phương pháp thảo luận nhóm cho phù hợp,
tránh lạm dụng.
Qua q trình giảng dạy, tôi thấy rằng khi dạy các bài Tiếng Việt, Tập làm
văn mà có phần thực hành hay chữa bài tập thì việc sử dụng phương pháp này
rất hiệu quả, tạo được sự hứng thú cho học sinh, tránh nhàm chán, lớp trầm lắng.
Đặc biệt tránh tình trạng dạy những bài này theo cách truyền thống, bài thực
hành, luyện tập nhưng chỉ là giáo viên thực hành, luyện tập là chính, cịn các em
thì lại xem thực hành, xem luyện tập.
Ảnh: Học sinh tích cực hoạt động nhóm
Giải pháp 5. Lập phiếu phản hồi
Tôi nhận thấy sau mỗi tiết học giáo viên chúng ta thường đặt ra các câu
hỏi như: “Các bạn có hiểu bài khơng? “Có bạn nào chưa hiểu bài thì giơ tay
lên?” “Các bạn có cần thầy (cô) giảng lại phần nào không?”. Nếu chúng ta chỉ

đặt ra những câu hỏi đơn thuần như vậy thì đa số các em sẽ khơng trả lời thật, có
thể vì sợ bị mắng, cũng có thể vì các em khơng học nữa, mà chỉ muốn ra chơi…
Cho nên thay vì hỏi những câu hỏi như vậy, chúng ta có thể cho các em trình
bày suy nghĩ của mình vào phiếu phản hồi, vì có như vậy các em mới dám nói

21

Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk

download by :


Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
thật suy nghĩ của mình. Qua phiếu phản hồi, chúng ta sẽ có hướng điều chỉnh
sao cho phù hợp để rút kinh nghiệm ở những tiết tiếp theo.
Ảnh: Mẫu phiếu phản hồi của học sinh
Giải pháp 6. Giao nhiệm vụ
Học bài và soạn bài trước khi đến lớp là nhiệm vụ của mỗi học sinh.Tuy
nhiên với nhiều em có biểu hiện chán học thì việc học bài và làm bài ở nhà chỉ là
làm đối phó, chiếu lệ cho có mà thơi. Tuy nhiên các em có thể lười soạn bài,
nhưng lại hứng thú khi tìm hiểu đời sống xung quanh, hoặc làm một số việc liên
quan đến năng khiếu của mình. Vì vậy để các em thấy được vai trị của mình
trong tiết học thì chúng ta nên giao nhiệm vụ cụ thể cho các em.
Ví dụ: Sau khi học xong các tác phẩm truyện hiện đại. Nắm được năng
khiếu của các em theo từng nhóm, tơi chủ động giao cho các em bài tập về nhà
như sau: Nhóm 1 vẽ tranh và hùng biện về đề tài người lính; Nhóm 2: đóng
phim tư liệu về chiến tranh; Nhóm 3: Sáng tác nhạc, thơ về đề tài tình phụ tử
trong chiến tranh; Nhóm 4: Phân vai và đóng kịch theo trích đoạn… Sau đó
dành những tác phẩm ấy để các em thực hiện trong tiết hoạt động Trải nghiệm

sáng tạo với đề tài “Người lính trong mắt em”.
Nếu chúng ta chịu khó dành thời gian một chút cho các em thì tôi tin
rằng, trong một tiết học các em sẽ luôn cảm thấy mình là người quan trọng, sự
góp mặt của mình trong lớp là một phần khơng thể thiếu. Có như vậy thì chúng
ta sẽ ít khi gặp những cái ngáp vặt, những ánh mắt vơ hồn nhìn ra cửa sổ, hay
những cái đầu gục dưới bàn vì buồn ngủ...
Giải pháp 7. Ln u thương học trị bằng cả trái tim
Học trò của chúng ta đến lớp được chúng ta chỉ dạy cho từng con chữ,
từng lời ăn tiếng nói, cách ứng xử với bạn bè, thầy cô, cha mẹ, mọi người…
Thậm chí có thể nói thời gian trong ngày các em ở bên chúng ta còn nhiều hơn
là bên cha mẹ. Cho nên người giáo viên, không chỉ làm cơng việc của người làm
nghề sư phạm mà cịn là người cha, người mẹ, người bạn luôn quan tâm, để ý
đến tâm tư tình cảm của các em để kịp thời chia sẻ, giúp đỡ các em vượt qua
những giây phút khó khăn. Đặc biệt là những giáo viên dạy Ngữ văn, thì dường
như trách nhiệm đó cịn nhiều hơn.Tình cảm phải đi từ trái tim đến trái tim. Mỗi
học sinh đều có cá tính riêng, muốn thay đổi chúng phải thực sự yêu thương và
coi chúng như những đứa em trong gia đình mình. Khi học sinh nhận thấy được
sự yêu thương xuất phát từ trái tim mình, chúng sẽ yêu quý và bảo nhau học tập
tốt hơn. Tôi đã từng làm như sau:
- Không chê bai hay quát mắng: Ở lớp tôi phần lớn học sinh nam rất lười
học, quậy nghịch, mất căn bản về kiến thức. Thêm nữa, do nhiều em có hồn
22

Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krơng Ana – Đắk Lắk

download by :


Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9

cảnh gia đình éo le nên sinh ra chán nản. Khi bị thầy cô nhắc nhở, các em giận
dữ chửi tục, chửi thề ngay trước lớp. Ban đầu tôi rất giận và sốc. Nhưng tơi đã
kiềm chế cơn giận của mình, tự suy nghĩ, lý giải vì đâu các em trở nên như vậy.
Tơi thấy mình cần bao dung, độ lượng và cho các em cơ hội. Bởi nếu không làm
vậy, các em càng chênh vênh khơng biết bấu víu vào đâu.
- Cảm hóa bằng tình u thương: Đối với những học sinh chưa ngoan, tôi
luôn dùng phương pháp vừa cứng rắn, vừa mềm dẻo, nghĩa là vừa dùng tình
cảm, sự thương u lẫn chế tài. Những em quậy thường có hồn cảnh gia đình
khơng được hạnh phúc, hoặc là nghèo khó, cha mẹ khơng quan tâm. Chúng tơi
ln tìm hiểu cụ thể các em đang gặp phải vấn đề gì. Nếu khơng có tiền đóng
học phí thì trường tìm nhà tài trợ hỗ trợ. Em nào có ba mẹ ly hơn thì thầy cơ lại
thay ba mẹ quan tâm, chia sẻ, động viên… Chỉ có lịng u thương, bao dung, vị
tha của người thầy cô, cùng với sự răn đe phù hợp, mới giúp học trò chưa ngoan
trở nên tốt hơn được.
IV. Tính mới của giải pháp
Với phương pháp phát huy tính chủ động, tích cực của học sinh trong giờ
học Ngữ văn, tơi nhận thấy rằng đã có một số trường trên địa bàn huyện đã áp
dụng và trường tôi cũng thế. Nhưng nhận thấy tiết học Văn vẫn còn nhiều bất
cập, lớp học trầm, không sôi nổi, học sinh thì ngán ngẫm khi đến giờ học Văn…
Chính điều đó tơi đã khơng ngừng quan sát, tìm hiều và đưa ra giải pháp phù
hợp cho học sinh của mình. Trong đó, điều mà tơi đặc biệt chú ý đó là thao tác
chủ động từ khâu thiết kế bài dạy, vì qua thao tác này sẽ giúp giáo viên chủ động
kiến thức hơn, sáng tạo hơn khi tổ chức một giờ học sôi nổi. Điều không kém
phần quan trọng và cũng có thể nói là tính mới của giải pháp này là để có một
giờ học Văn sinh động, đầy ắp tiếng cười và sự đam mê tôi đã áp dụng thành
cơng giải pháp sân khấu hóa tác phẩm văn học. Theo tôi, đổi mới đối với môn
Văn trước hết phải thoát khỏi cách học một chiều thầy cứ đọc và trò cứ chép,
những bài làm văn của các em lại được đi sao chép, cóp nhặt. Chỉ khi các em
được trải nghiệm, được hóa thân vào tác phẩm, nhân vật thì mới có thể khắc sâu
vào tâm hồn, suy nghĩ của các em, từ đó các em mới có thể u thích mơn Văn,

bởi “10 giờ dạy học một chiều khơng bằng 2 giờ các em tự tìm tịi, thể hiện”.
Chắc chắn những bài học này, những bài văn này sẽ theo các em suốt cuộc đời.
Đặc biệt hơn, với giải pháp lập phiếu phản hồi tôi nhận thấy đây là phương pháp
vơ cùng hữu hiệu giúp tơi có thể gần gũi với học sinh hơn, hiểu các em nhiều
hơn, đồng thời từ đó tơi có thể đưa ra giải pháp kịp thời để giúp các em đến với
bộ môn Ngữ văn bằng cả một tấm chân tình. Mặc dù, giải pháp tơi đưa ra có thể
vẫn chưa phải là mới nhưng với tôi cái mới ở đây là tôi đã thực hiện, áp dụng
giải pháp này một cách có hiệu quả và thu được một kết quả thật sự đáng mừng.
23

Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk

download by :


Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
V. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm
Nhìn chung việc áp dụng những kinh nghiệm ở trên của bản thân tôi đã
phần nào tạo được khơng khí học tập sơi nổi, tích cực, chủ động cho các em học
sinh.
- Kiến thức: Đảm bảo đầy đủ nội dung bài dạy, khách quan khoa học theo
đúng chuẩn kiến thức đặt ra trước đó. Nội dung bài dạy trở nên nhẹ nhàng, dễ
hiểu phù hợp với tầm hiểu biết của học sinh, có thể giúp học sinh nhớ lâu kiến
thức một cách tự nhiên nhất mà giáo viên không cần ép buộc các em theo kiểu
học vẹt.
- Khả năng tự tin, chủ động, sáng tạo: Đây là những kinh nghiệm có sử
dụng khá nhiều phương pháp dạy học tích cực, cho nên sau khi thực hiện kết quả
lớn nhất thu về không chỉ là nội dung kiến thức mà các em còn tự nhận thấy vai
trò cá nhân của mình trong tập thể và nâng cao khả năng làm chủ kiến thức của

mình hơn. Điều này tạo tiền đề cho việc học sau này của các em với môn Ngữ
văn nhẹ nhàng hơn, cũng như sẽ giúp giáo viên truyền thụ kiến thức dễ dàng
hơn.
- Không khí giờ dạy Văn: Những kinh nghiệm đã thu hút các em hơn,
giúp cho giờ dạy Văn hào hứng hơn, sinh động hơn và mang nhiều sức sống hơn
tránh được cảm giác nhàm chán, buồn ngủ…
- Kết quả lâu dài: Một tiết học sôi nổi, tạo được sự hứng thú cho học sinh
nó sẽ mang lại một hiệu quả lâu dài cho những tiết tương tự như vậy sau này,
không những thế nó cịn giúp học sinh khẳng định được bản thân mình trong q
trình học từ đó mà có sự phấn đấu tích cực, mạnh dạn hơn trong các tiết học.
Niềm vui được nhân lên khi kết quả học tập của các em đã có sự tiến bộ rõ
rệt. Đối chiếu vơi kết quả năm học 2016-2017 khi chưa áp dụng giải pháp và từ
kết quả tương đối thấp của đầu năm học 2017 – 2018 (như đã khảo sát ở phần
thực trạng) thì đến cuối năm học 2017-2018 đã khả quan hơn. Cũng bằng việc
điều tra, sát hạch về hứng thú học tập và kết quả học tập môn Ngữ văn của học
sinh hai lớp 9A3 và 9A4, tôi đã thu được kết quả đáng mừng như sau:
+ Về hứng thú học tập:
Tổng
số HS

Năm học

60
63

u thích

Khơng u thích

Số lượng


Tỉ lệ

Số lượng

Tỉ lệ

2016-2017

15

25%

45

75%

2017-2018

45

71,4%

18

28,6%
24

Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk


download by :


Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ dạy Ngữ văn 9
+ Về kết quả học tập:
Tổn
g số
HS

Giỏi
Năm học

60
63

Khá

Trung bình

Yếu

SL

TL

SL

TL


SL

TL

SL

TL

2016-2017

4

28,5%

15

25%

39

65%

2

3,3%

2017-2018

14


22,2%

22

34,9%

27

42,9%

0

0

Tuy kết quả trên chưa thực sự cao, chưa hoàn toàn mĩ mãn như mong uớc
của tơi. Nhưng tơi có quyền hi vọng và tin tưởng rằng nếu như chúng ta thực sự
cố gắng tìm ra những giải pháp tối ưu trong quá trình dạy học thì chắc chắn rằng
tỉ lệ học sinh khá, giỏi sẽ luôn được nâng cao lên, đồng thời tỉ lệ học sinh yếu
kém sẽ ngày một giảm xuống và quan trọng hơn các em ln đón nhận chúng tơi
trong mỗi giờ lên lớp.
PHẦN III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
I. Kết luận
Dạy văn thì nhọc nhằn, lao tâm khổ tứ. Đã theo nghề thì đâu có ngại
những gian khổ của nghề. Chính nỗi nhọc nhằn, vất vả của nghề tạo nên niềm
vui, hạnh phúc và ý nghĩa cao cả của một giáo viên dạy Văn. Văn chương thì vơ
bờ, nghề dạy học thì thầm lặng, cuộc sống thì bộn bề, sơi động với bao nhiêu
thăng trầm, toan tính. Cái tâm của người thầy dạy Văn là cốt lõi, là nền tảng của
mọi kinh nghiệm dạy học. Khi yêu bằng một tình u đủ lớn, người ta có mn
ngàn cách vượt qua những trở ngại để giữ gìn và bồi đắp tình yêu ấy.
Trên tinh thần đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực, trong

q trình dạy học, người giáo viên cần có: “Tim nhiệt tình, óc thơng minh, mắt
tinh, tai thính, chân năng động, tay rộng mở, miệng nở nụ cười, người đầy kĩ
năng công cụ” để phối hợp linh hoạt các phương pháp và có các hình thức dạy
học tạo khơng khí hào hứng, vui tươi để học sinh tiếp thu bài có hiệu quả. Sự
quan tâm của cha mẹ học sinh đối với việc học tập của con em mình sẽ chính là
động lực mạnh mẽ giúp học sinh thực sự trở thành con ngoan, trò giỏi, là những
cơng dân năng động, có ích cho gia đình, nhà trường và xã hội. Đặc biệt, mỗi
giáo viên cần dành nhiều thời gian nghiên cứu tài liệu giảng dạy, tăng cường
hiệu quả của các giờ sinh hoạt chuyên môn để đưa ra những bài giảng sinh động,
hấp dẫn.
Tóm lại, ở tất cả các trường hợp thì sự quan tâm của giáo viên đến từng
học sinh và phương pháp giảng dạy sát đối tượng, kịp thời khích lệ động viên,
đáp ứng đúng những điều các em còn thiếu về kiến thức là việc làm bức thiết.
25

Nguyễn Thị Thùy Dung – THCS Lê Đình Chinh – Krơng Ana – Đắk Lắk

download by :


×