SKKN Một vài biện pháp phát huy tính tích cực chủ động của học sinh
trong giờ học Địa lí
Trường THCS Chu Văn An, nơi tôi đang công tác là một trường có
tiếng của thủ đô Hà Nội. Nơi đây có truyền thống dạy và học tốt từ lâu
nên phụ huynh HS rất tin tưởng và yên tâm khi gửi con học tại trường.
Chính vì vậy trường không chỉ có HS của Quận Tây Hồ mà còn đón
nhận HS từ khắp các Quận trong thành phố về học. Phụ huynh học sinh
của trường đa phần có trình độ và rất quan tâm, sát sao đến việc học
của con em mình.Trường được đầu tư cơ sở vật chất toàn diện với các
phòng học bộ môn và máy móc hiện đại để phục vụ các môn học.HS có
ý thức học và các em rất nhanh trong việc tiếp thu kiến thức. Trước tình
hình như vậy tôi thấy không thể không đổi mới phương pháp dạy học.
Bởi thế tôi đã áp dụng một số phương pháp dạy học nhằm phát huy tính
tích cực, chủ động của HS.
PHẦN 1. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
1. Cơ sở lý luận của đề tài.
- Một trong những xu hướng dạy học hiện nay là cố gắng biến những
nội dung trừu tượng thành những dấu hiệu trực quan nhằm giúp học sinh dễ
hình dung hơn kiến thức cơ bản của bài học, giảm tải quá trình lĩnh hội kiến
thức. Vì vậy việc dùng các dấu hiệu trực quan vừa mang tính cụ thể, vừa là
cách để học sinh thị phạm, biến kiến thức khó hiểu, khó nhớ trở nên dễ dàng,
đơn giản hơn. Nội dung bài học không chỉ được các em nghe qua lời giảng
của giáo viên mà còn được tận mắt nhìn, tận tay làm.
- Các nhà nghiên cứu tâm lý đã chỉ ra rằng: trong dạy học mỗi giác
quan của con người có khả năng tri giác một khối lượng thông tin hoàn toàn
khác nhau, trong một thời gian như nhau. Khả năng dẫn thông tin bằng thị
giác là 3 triệu BIS/giây, bằng thính giác là 30-50 nghìn BIS/giây. Như vậy
có thể thấy thông qua các hình thức dạy học trực quan, các em sẽ dễ dàng
nắm bắt thông tin kiến thức, nhất là với môn Địa lí, các em sẽ thấy rõ sự tác
động qua lại giữa các thành phần tự nhiên, mà như người xưa thường
nói"trăm nghe không bằng một thấy" khi các em được tự mình tham gia góp
phần làm nổi bật các mối quan hệ địa lí ấy. Đây là điều quan trọng trong
giảm tải sức nặng của môn học.
2. Cơ sở thực tiễn của đề tài.
Hiện nay ngành giáo dục đang từng bước đổi mới nhiều mặt nhằm nâng
cao hơn nữa chất lượng đại trà học sinh. Phải đổi mới thế nào? Bắt đầu từ
đâu? Theo hình thức nào?…còn phụ thuộc vào từng môn học, từng trường,
từng lớp, từng trình độ học sinh. Mỗi phương pháp khác nhau, đều có ưu
điểm, nhược điểm khác nhau. Vì vậy người giáo viên không nên máy móc
bài nào cũng đổi mới phương pháp và hình thức dạy học. Điều này tưởng
như dễ nhưng lại rất khó nhất là trong xu hướng đổi mới dạy học hiện nay.
Vì vậy người giáo viên cần biết lựa chọn phương pháp dạy học sao cho phù
hợp để có hiệu quả cao trong môn học của mình và dễ hiểu với học sinh.
Trong hoạt động dạy học, nhằm đổi mới phương pháp , phát huy tính
tích cực chủ động của học sinh như :xây dựng tình huống có vấn đề, sử dụng
các dạng bài tập, tổ chức hoạt động nhóm… đã được sử dụng ở một vài bộ
môn nhưng phạm vi còn rất hạn chế. Ngay cả đối với môn địa lí thì hình
thức này cũng mới xuất hiện bằng những yêu cầu của giáo viên trong giờ
học hoặc ngoại khoá nên chưa phát huy được khả năng truyền dẫn nắm bắt
thông tin của môn học.
II. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU THỰC HIỆN SKKN
Từ xưa đến nay, môn địa lí vốn luôn được coi là "môn đất đá , khô
khan", coi là "môn phụ". Nhưng trên thực tế, môn địa lí lại rất gần gũi, gắn
bó với con người bởi nó là những hiện tượng tự nhiên diễn ra xung quanh
cuộc sống. Vậy làm thế nào để xoá bỏ những quan niệm trên? Làm thế nào
để mỗi bài học địa lí trở thành sự đam mê thích thú, sự mong ước được tìm
hiểu khám phá của mỗi học sinh ? Điều này khiến tôi trăn trở, suy nghĩ rất
nhiều để viết đề tài này qua quá trình dạy học ở trường THCS Chu Văn An
nhằm giúp học sinh yêu thích học tập môn địa lí hơn.
III. MỤC ĐÍCH CỦA SKKN
Là một giáo viên đứng trước những yêu cầu đổi mới của giáo dục, bằng
cố gắng và kinh nghiệm học hỏi từ bạn bè, bản thân, tôi muốn đưa ra một số
phương pháp đổi mới trong dạy học trong môn địa lí. Biến môn địa lí trở
thành một "niềm vui" với trẻ nhỏ, giúp các em yêu thích môn học hơn.
IV. PHẠM VI NGHIÊN CỨU, KẾ HOẠCH ĐÃ NGHIÊN CỨU.
1. Đối tượng nghiên cứu: Một vài biện pháp phát huy tính tích cực chủ
động của học sinh trong giờ học Địa lí
2. Phạm vi nghiên cứu và kế hoạch nghiên cứu
- Nghiên cứu trong việc giảng dạy môn địa lí ở trường THCS Chu Văn An
- Nghiên cứu trong hai năm : Năm 1 khối lớp 6, 7.
Năm 2 khối lớp 7.
PHẦN 2: NỘI DUNG CỦA SKKN
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
I. Cơ sở khoa học của vấn đề “Một vài biện pháp phát huy tính tích cực
chủ động của học sinh trong giờ học Địa lí " ở trường phổ thông.
*Vị trí, vai trò của việc “Phát huy tính tích cực chủ động của học sinh
trong giờ học Địa lí”
Học địa lí không phải là học một cách máy móc thầy nói trò nghe, cũng
không phải học từng phần riêng biệt độc lập. Mỗi bài, mỗi phần đều có sự
gắn kết, đều có mối quan hệ qua lại tác động đến nhau. Trong chương trình
địa lí ở trường THCS học sinh được tìm hiểu về tự nhiên, về các hoạt động
kinh tế xã hội của con người dựa trên đặc điểm tự nhiên sẵn có.Vì vậy việc
dạy học địa lí không thể theo kiểu truyền thống thầy đưa ra câu hỏi , học
sinh trả lời máy móc như sách mà không có sự mở rộng, không được minh
hoạ kiến thức bằng tranh ảnh,lại không phát huy khả năng vận động của học
sinh.Vì thế việc đưa ra một vài biện pháp phát huy tính tích cực chủ động
của học sinh trong giờ học Địa lí là một cách hữu hiệu để học sinh được
vận động, được phát huy vốn hiểu biết của mình,qua đó có thể tự mình kiểm
tra kiến thức của bản thân đồng thời thấy rõ mối quan hệ biện chứng của các
thành phần địa lí.không những thế qua việc đưa ra các hình thức học đổi
mới,các em được rèn khả năng tư duy nhanh, lập luận suy diễn logic, từ đó
hình thành thế giới quan duy vật biện chứng. Đây là một kỹ năng địa lí cần
thiết mà bất kỳ một giáo viên địa lí nào cũng mong đạt đến.
Trên thực tế,việc học thông qua các hình thức đổi mới: tổ chức các hoạt
động nhóm, xây dựng các tình huống có vấn đề…. được sử dụng trong rất
nhiều ngành nghề, môn học,…Đây là một hình thức giảm tải, tạo không khí
vui vẻ khiến người học cảm thấy nhẹ nhàng, thoải mái, thích thú. Hơn nữa
trong những năm gần đây, việc thay đổi SGK với khối lượng kiến thức
phong phú hơn , nặng hơn, hay hơn thì phương pháp dạy học cũng đang thay
đổi theo hướng vừa học , vừa chơi là điều cần thiết.
II. Mục đích nghiên cứu “Một vài biện pháp phát huy tính tích cực chủ
động của học sinh trong giờ học Địa lí”
1. Mục tiêu đối với giáo dục bộ môn.
Mỗi khái niệm địa lí chỉ hình thành và tồn tại lâu bền trong trí nhớ của học
sinh nếu chúng được trình bày trong mối quan hệ nội tại của khái niệm này
với các khái niệm khác.Đó là mối quan hệ địa lí.Vì thế việc hình thành cho
học sinh kỹ năng phát hiện, xác lập mối quan hệ địa lí trong dạy học là việc
làm quan trọng, vì bản chất của học địa lí phải gắn liền với không gian, bản
đồ và các sự vật hiện tượng địa lí. Ngoài cung cấp kiến thức người giáo viên
phải rèn cho học sinh những kỹ năng cần thiết: đọc bản đồ, xác định phương
hướng, đo đạc tính toán….Những kỹ năng này sẽ được các em nắm bắt dễ
dàng hơn nếu các em được tham gia vào những phương pháp học tập đổi
mới nhằm phát huy tính tích cực chủ động của học sinh để giờ học thêm bổ
ích .
Trước yêu cầu của môn học nói chung và môn địa lý nói riêng, tôi thấy hình
thức đổi mới nhằm phát huy tính tích cực chủ động của học sinh sẽ giúp cho
các em được tự mình khám phá, được thấy các mối quan hệ địa lí một cách
rất tường minh, các kiến thức cơ bản sẽ trở nên dễ hiểu, đơn giản hơn, lúc đó
các em không còn tâm lý ngại học nữa. Ngoài ra đổi mới nhằm phát huy tính
tích cực chủ động của học sinh để học địa lí còn rèn cho các em thói quen
quan sát, suy luận tư duy logic, rèn khả năng nhanh nhạy của đôi tay, trí óc.
Việc ghi chép sẽ đơn giản, dễ hiểu, tránh được cách học vẹt, học thuộc lòng
một cách máy móc, tạo tâm lý thoải mái khi học tập, kích thích được lòng
ham học hỏi, khả năng tư duy sáng tạo của mỗi cá nhân học sinh.
2. Mục tiêu đối với cá nhân.
Trước thực tế môn dạy và yêu cầu chung của bộ môn, là một giáo viên với
tuổi đời còn rất trẻ, tôi tự nhận thấy không có một môn học nào là khô khan
nếu người giáo viên biết tự tìm tòi , nghiên cứu, đổi mới phương pháp, hình
thức tổ chức dạy học cùng với lòng yêu nghề và yêu trẻ. Chính vì thế tôi đã
nghiên cứu và thực hành áp dụng vào các lớp mình dạy từ 2005 đến nay
nhằm mục đích tìm ra một hình thức giúp học sinh học bài , hiểu bài dễ dàng
hơn.
CHƯƠNG II : NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI
I. Thực trạng của việc dạy học địa lí ở trường THCS Chu Văn An- Tây
Hồ- Hà Nội
1. Đặc điểm của trường
Trường THCS Chu Văn An, nơi tôi đang công tác là một trường có tiếng của
thủ đô Hà Nội. Nơi đây có truyền thống dạy và học tốt từ lâu nên phụ huynh
HS rất tin tưởng và yên tâm khi gửi con học tại trường. Chính vì vậy trường
không chỉ có HS của Quận Tây Hồ mà còn đón nhận HS từ khắp các Quận
trong thành phố về học. Phụ huynh học sinh của trường đa phần có trình độ
và rất quan tâm, sát sao đến việc học của con em mình.Trường được đầu tư
cơ sở vật chất toàn diện với các phòng học bộ môn và máy móc hiện đại để
phục vụ các môn học.HS có ý thức học và các em rất nhanh trong việc tiếp
thu kiến thức. Trước tình hình như vậy tôi thấy không thể không đổi mới
phương pháp dạy học. Bởi thế tôi đã áp dụng một số phương pháp dạy học
nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của HS.
2. Tình hình giảng dạy môn địa lí.
Với tâm lý phân biệt môn chính môn phụ vốn đã hình thành trong đầu óc của
phụ huynh, học sinh và ngay cả một số giáo viên từ xưa đến nay. Nhiều
người vẫn cho học địa lí là học thuộc lòng những gì cô dạy: nhớ số liệu,địa
danh,…như vậy là đủ.Còn kĩ năng và tư duy dành cho các môn
toán,lý,hóa Vì thế học sinh có thái độ coi thường học địa lí khiến giờ học
địa lí trở nên nhàm chán.
II . Áp dụng một số biện pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực chủ
động của học sinh trong giờ học địa lí ở trường THCS Chu Văn
An.
1. Phạm vi áp dụng.
Qua nghiên cứu và thực nghiệm giảng dạy địa lí tại trường THCS Chu Văn
AN tôi thấy rằng ngoài các hình thức dạy học truyền thống nếu ta biết đổi
mới phương pháp nhằm phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong
giờ học thì hiệu quả bài dạy cao hơn. Các mối quan hệ địa lí rất đa dạng và
phong phú: tự nhiên-tự nhiên,tự nhiên-xã hội,kinh tế xã hội-tự nhiên cùng
vơí việc tạo không khí chủ động học sinh nắm bài nhanh hơn, dễ dàng phân
biệt được các mối quan hệ để phán đoán nhận định đúng về các sự vật, hiện
tượng địa lí.
2. Phát huy tính tích cực chủ động của học sinh để thể hiện các mối
quan hệ địa lí .
Trong dạy học địa lí các mối quan hệ địa lí luôn thể hiện sự phụ thuộc, trao
đổi một hoặc nhiều chiều của các sự vật hiện tượng địa lí. Trong đó nổi bật
là mối quan hệ nhân quả và các mối quan hệ khác.Các mối quan hệ này
nhiều khi rất phức tạp hoặc rất đơn giản.Vì vậy khi tổ chức cho học sinh
học cần thông qua những biện pháp đổi mới tạo tính tích cực chủ động, dù
nhiều hay ít thời gian mà vẫn thể hiện rõ các mối quan hệ địa lí ấy, đồng
thời phải biến những mối quan hệ địa lí ấy trở nên đơn giản để học sinh dễ
tiếp thu. Đối với mỗi bài dạy người giáo viên cần xác định rõ mục tiêu bài
đó cần cung cấp cho học sinh những kiến thức gì? Rèn kỹ năng địa lí gì?
Dựa trên mục tiêu đó giáo viên sẽ chọn lựa hình thức , biện pháp phù hợp
với nội dung bài học.
Hơn nữa tạo tính tích cực ,chủ động trong học tập là một biện pháp giúp học
sinh học tập một cách thoải mái, thư giãn từ đó thêm yêu đời, yêu cuộc sống.
Vì thế áp dụng các biện pháp đổi mới nhằm phát huy tính tích cực chủ động
của học sinh trong học địa lí là cách để các em vừa có điều kiện thư giãn,
giải trí vừa tăng thêm vốn hiểu biết phong phú về thế giới xung quanh ( tự
nhiên và xã hội ). Các hình thức đổi mới phong phú không chỉ giúp các em
nắm bài tốt, nhớ bài lâu đồng thời tạo cho các em hưng phấn trong học tập.
Đối với học địa lí thì sử dụng các biện pháp nhằm phát huy tính tích cực chủ
động trong giờ học địa lí là một thế mạnh thu hút sự chú ý rất lớn với học
sinh. Các em sẽ được tự mình sắp xếp thể hiện các mối quan hệ địa lí một
cách dễ dàng hơn theo cách hiểu của mình, được thể hiện khả năng tư duy
trước mọi người, được sử dụng đôi tay nhanh nhẹn và khéo léo của mình
trong quá trình học. Đó cũng là một cách để học sinh tham gia vào bài giảng
nhiều hơn, thúc đẩy sự cạnh tranh lành mạnh trong học tập, tạo không khí
sôi nổi vui vẻ. Hơn nữa để tham gia được vào những phương pháp đổi mới
địa lí ấy, đòi hỏi các em phải chăm học, tập trung nghe giảng trên lớp, luôn
quan sát mọi sự vật hiện tượng xung quanh, chăm đọc sách báo. Nhờ vậy
khả năng tư duy nhanh nhạy, sáng tạo, từ đó sẽ có nhiều cách học thông
minh được trò tìm ra và thể hiện, học hỏi lẫn nhau. Do đó học địa lí sẽ nhàn
hơn, dễ hiểu, dễ nhớ, khiến các em yêu thích môn học.
3. “Một vài biện pháp phát huy tính tích cực chủ động của học sinh
trong giờ học Địa lí ”.
A. Xây dựng tình huống có vấn đề
- Tình huống có vấn đề xuất hiện khi một cá nhân đứng trước một mục đích
muốn đạt tới, nhận biết một nhiệm vụ cần giải quyết nhưng chưa biết bằng
cách nào, chưa đủ kiến thức để giải quyết.
- Khi xây dựng tình huống có vấn đề, GV cần lựa chọn:
+ Đặt vấn đề, hướng dẫn học sinh cách giải quyết.GV đánh giá kết quả làm
việc của HS
+ Nêu vấn đề, gợi ý học sinh cách giải quyết. GV và HS cùng đánh giá kết
quả làm việc.
+ GV cung cấp thông tin , tạo tình huống. HS phát hiện vấn đề nảy sinh cần
giải quyết, tự đề xuất các giả thuyết và lựa chọn phương pháp giải quyết. GV
và HS cùng đánh giá.
+ GV đưa tình huống thực để học sinh tự phát hiện vấn đề, lựa chọn vấn đề
cần giải quyết, tự đưa ra phương pháp, lập kế hoạch giải quyết, tự đánh giá
chất lượng và hiệu quả giải quyết vấn đề.
VD: Địa lí 7 : Bài 27 Thiên Nhiên Châu Phi
GV: ? Vì sao Châu Phi được bao bọc xung quanh bởi các biển và đại
dương nhưng lại là khu vực có khí hậu nóng và khô vào bậc nhất thế giới?
- HS: Nêu các giả thuyết về nguyên nhân làm cho khí hậu Châu Phi khô và
nóng vào bậc nhất thế giới: Do vị trí Châu Phi nằm ở các vĩ độ thấp, do
Châu Phi có kích thước rộng lớn, lục địa dạng hình khối, do ảnh hưởng của
gió mậu dịch và khối khí lục địa khô nóng… HS thảo luận , trao đổi, quan
sát , phân tích bản đồ Tự nhiên Châu Phi để trả lời. HS rút ra kết luận
+ GV chốt lại toàn bộ phần trả lời của Hs: Sự phối hợp , tác động của các
nhân tố trên là nguyên nhân làm cho khí hậu Châu Phi nóng vào bậc nhất thế
giới.
VD: Địa lí 6: Bài 7 Sự vận động tự quay quanh trục của trái đất và các
hệ quả của nó.
GV: ? Tại sao hằng ngày chúng ta thấy mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao
trên bầu trời chuyển động theo hướng từ Đông sang Tây?hoặc tại sao các
cụ ta thường nói: mặt trời mọc ở hướng Đông và lặn ở hướng Tây?
-HS dựa vào vốn hiểu biết nêu ra các giả thuyết và trả lời:
GV:Chốt lại toàn bộ kiến thức chuẩn cho HS :đây chỉ là chuyển động giả
chúng ta nhìn thấy bằng mắt thường. VD khi ta đi xe lửa ,xe chạy nhanh ta
không có cảm giác là xe chạy mà lại thấy là xe đứng còn cây cối, núi, rừng
bên ngoài chạy lùi lại phía sau. Ta ở trên trái đất cũng giống như ở trên xe
lửa, Trái đất quay từ Tây sang Đông nên ta thấy mặt trời chuyển động ngược
lại, mọc ở phía Đông và lặn ở phía Tây.
B. Tổ chức hoạt động nhóm.
- Hiện nay hoạt động nhóm có nhiều ưu điểm nổi bật, giúp học sinh phát huy
tối đa tính chủ động, tích cực trong giờ học. Thực tế ở các nước phát triển ta
thấy hoạt động nhóm tổ chức tốt thì sẽ giải quyết được nhiều vấn đề trong
giờ học, học tập có chất lượng, rèn được kĩ năng nói , viết cho HS . Khi cho
học sinh hoạt động theo nhóm, tùy theo bài mà GV có thể phân ra các nhóm
nhỏ, lớn để thu hút HS giải quyết vấn đề có hiệu quả.
- Các bước tiến hành:
+ B1: Hình thành các nhóm làm việc: tổ chức nhóm, chỉ định chỗ làm việc
của các nhóm, giao nhiệm vụ cho các nhóm.
+ B2: Các nhóm thực hiện công việc: thảo luận , trao đổi ý kiến, đưa ra kết
luận chung, cử đại diện trình bày kết quả của nhóm trước lớp.
+ B3: Tổng hợp kết quả của các nhóm: đại diện các nhóm trình bày, các
nhóm khác nghe và nhận xét, bổ sung nếu thiếu.
+ B4: GV tóm tắt ý kiến phản hồi của các nhóm sau đó cùng cả lớp chốt lại
nội dung chủ yếu của bài học. GV nhận xét kết quả làm việc của từng nhóm
và tổng kết lại kiến thức toàn bài.
VD: Địa lí 6: Bài 13: Địa hình bề mặt trái đất
Dựa vào kênh chữ SGk, quan sát sơ đồ núi già, núi trẻ (H35/SGK) , thảo
luận nhóm 4 hs , thời gian 5 phút theo yêu cầu sau
? Hãy so sánh sự khác nhau giữa núi già , núi trẻ về thời gian hình
thành và đặc điểm hình thái( đỉnh , sườn, thung lũng)?
Hs dựa vào SGK, trao đổi , thảo luận và đưa ra các ý kiến của nhóm
mình: Núi già, hình thành cách đây hàng trăm triệu năm , đã trải qua các
quá trình bào mòn mạnh mẽ do ngoại lực vì vậy có đỉnh tròn , sườn thoải,
thung lũng nông. Núi trẻ mới được hình thành cách đây vài chục triệu
năm và vẫn được nội lực tiếp tục nâng lên với tốc độ rất chậm vì vậy có
đỉnh nhọn, sườn dốc, thung lũng sâu.
- + Sau khi các nhóm trình bày ý kiến của nhóm mình, Gv gọi các
nhóm khác nhận xétt, bổ sung và rút ra kiến thức cần nhớ của phần
thảo luận. Gv đánh giá cho điểm từng nhóm hoặc để HS tự đánh giá
cho điểm các nhóm dưới sự dẫn dắt của GV.
Sau phần thảo luận GV có thể đưa thêm câu hỏi khó để HS suy
nghĩ trả lời nhằm khuyến khích các em tập trung, gợi óc liên tưởng,
mở rộng kiến thức cho HS : Theo em sau khi núi già trẻ lại hình
dáng núi có đặc điểm gì, núi già có khác núi trẻ hiện nay không? HS
trả lời, nhận xét, bổ sung. Gv có thể mở rộng và chốt kiến thức: khi trẻ
lại núi già được nâng cao lên nhưng đỉnh vẫn tròn, sườn dốc, thung
lũng sâu.
Bài: 22 Các đới khí hậu trên trái đất.
Dựa vào kênh chữ SGk mục 2, và đoạn băng hình , thảo luận nhóm 8
hs( 5 nhóm) , thời gian 7 phút theo yêu cầu sau:
? Hãy xác định vị trí của các vành đai nhiệt và so sánh sự khác nhau
về đặc điểm khí hậu của từng vành đai nhiệt đới, ôn đới, hàn đới ( vị trí,
nhiệt độ, lượng mưa, gió) ?
+Hs thảo luận , xác định vị trí các vành đai trên “Hình 58: Các đới khí
hậu” và tìm ra các đặc điểm khác nhau của các đới khí hậu, điền vào
bảng phụ. Đại diện từng nhóm trình bày, các nhóm khác bổ sung, GV
chốt kiến thức cơ bản của cả 5 nhóm.
+ GV nhận xét, mở rộng và chốt kiến thức cần nhớ bằng bảng mẫu, gọi
HS đọc lại, cả lớp tự ghi vào vở . GV đánh giá và cho điểm.
Các yếu tố Nhiệt đới Ôn đới Hàn đới
Vị trí Nằm giữa 2 chí tuyến
Từ chí tuyến đến
vòng cực ở 2 nửa
cầu
Từ vòng cực đến cực
ở 2 nửa cầu
Nhiệt độ
TB
Trên 20
0
C, nắng,
nóng quanh năm
Trên 10
0
C, ấm áp.
Có 4 mùa rõ rệt
trong năm.
Luôn dưới 0
0
C, lạnh
giá quanh năm
Lượng mưa
TB
Mưa lớn: 1000-
2000mm/n
Mưa dao động: 500-
1000mm/n mùa
đông có tuyết rơi.
Mưa ít: dưới
500mm/n, mưa dưới
dạng tuyết rơi.
Gió thường
xuyên thổi.
Gió Tín phong Gió Tây ôn đới Gió Đông cực
VD: Địa lí 7 Bài 44: Kinh tế Trung và Nam Mĩ
* Dựa vào kênh chữ SGK, phân tích H44.1,44.2,44.3; Thảo luận nhóm 4
Hs, thời gian 5 phút.
? Hãy so sánh 2 hình thức sở hữu chính ở Trung và Nam Mĩ về:
Diện tích đất; Quyền sở hữu; Hình thức canh tác; Nông sản chính; Mục
đích sản xuất ( hoàn thành bảng )?
Hs trao đổi thảo luận, đưa ra ý kiến của nhóm mình điền theo bảng mẫu
GV kẻ sẵn, Đại diện trình bày ý kiến của nhóm trước lớp, các nhóm khác
nhận xét , bổ sung.
+ Gv chốt kiến thức bằng bảng chuẩn kiến thức. Gv hướng dẫn HS tự
đánh giá về quá trình làm việc của nhóm .
Các yếu tố Đại điền trang Tiểu điền trang
Diện tích đất
60% diện tích đất tự nhiên
và đồng cỏ.
Dưới 5 ha
Quyền sở hữu
Các đại điền chủ ( 5% dân
số)
Các hộ nông dân( 90% -95% dân
số)
Hình thức
canh tác
Máy móc hiện đại, sản xuất
theo lối quảng canh, năng
suất còn thấp.
Dụng cụ thô sơ: sử dụng sức kéo
của gia súc và lao động chân tay,
năng suất thấp.
Nông sản
chính
Sản phẩm cây công nghiệp,
cây ăn quả, nuôi cừu, bò, lạc
đà.
Sản phẩm cây công nghiệp
Mục đích sản
xuất
Xuất khẩu thu ngoại tệ. Tự cung tự cấp
C. Tổ chức trò chơi.
C1. Xếp hình và ghép tên
***Ví dụ minh hoạ Địa lí 7
Bài 12: Thực hành : Nhận biết đặc điểm của môi trường đới nóng
Chuẩn bị: Ba bức ảnh môi trường đới nóng, tên môi trường (in giấy)đặc
điểm của các môi trường(in giấy).
Yêu cầu :Thi theo nhóm.Nhận biết đặc điểm 3 môi trường, dán tên 3
môi trường, dán đặc điểm các môi trường phù hợp với ảnh, thời
gian 5-7 phút.
Bài 32: Các khu vực Châu Phi
Chuẩn bị: Bản đồ Châu Phi không màu, bút màu.
Yêu cầu: Thi theo nhóm. Tô màu và xác định đúng 3 khu vực Châu Phi,
thời gian 5-7 phút.
Bài 35: Khái quát Châu Mĩ
Chuẩn bị: Bản đồ câm châu Mĩ, các băng giấy ghi chữ , băng dính 2 mặt.
Yêu cầu: Thi dán các chữ vào bản đồ cho phù hợp,thời gian 5 phút.
Bài 39: Kinh tế Bắc Mĩ
Chuẩn bị: Lược đồ công nghiệp Bắc Mĩ trống,mảnh giấy in thông tin,
băng dính 2 mặt.
Yêu cầu: Thi gắn các bảng dữ liệu sau vào lược đồ cho phù hợp,
thời gian 5-6 phút.
Vành đai công nghiệp truyền thống
*** Ví dụ minh hoạ Địa lí 9Bài 19: Thực hành: Đọc bản đồ, phân tích và
đánh giá ảnh hưởng của tài nguyên khoáng sản đối với phát triển công
nghiệp ở Trung du miền núi phía Bắc.
Chuẩn bị: Lược đồ Trung du miền núi Bắc Bộ trống, mảnh giấy ghi dữ liệu,
băng dính 2 mặt.
Yêu cầu:Thi gắn các điểm cực và các mỏ khoáng sản của vùng, thời gan 5-7
phút.
Bài 31: Vùng Đông Nam Bộ
Chuẩn bị: Lược đồ vùng có gắn tên các tỉnh, nam châm.
Yêu cầu: Một bạn đã gắn sai tên các tỉnh của Đông Nam Bộ như sau.
Hãy sửa lại cho đúng, thời gian 5 phút.
C2. Thi giải thích các hiện tượng địa lí trong bài.
***Ví dụ minh hoạ Địa lí 6
Bài 7: Sự vận động tự quay quanh trục của trái đất và các hệ quả của
nó.
Yêu cầu: Thi theo tổ, thời gian 5 phút.
Câu hỏi: Trái đất quay từ Tây sang Đông, tại sao ta thấy mặt trời, mặt trăng
và các vì sao trên bầu trời chuyển động từ Đông sang Tây?
Bài 9: Hiện tượng ngày đêm dài ngắn theo mùa.
Yêu cầu: Thi theo nhóm, thời gian 5 phút
Câu hỏi: Hãy giải thích tại sao dân gian ta có câu:
Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng
Ngày tháng mười chưa cười đã tối
Bài 19: Khí áp và gió trên trái đất.
Yêu cầu: Thi theo tổ, thời gian 5 phút.
Câu hỏi: Hãy giải thích câu tục ngữ: "Nóng quá sinh gió"
C3. Mô tả các mối quan hệ địa lí theo cách của em.
***Ví dụ minh hoạ Địa lí 6.
Bài 20: Hơi nước trong không khí. Mưa.
Yêu cầu: Thi theo tổ, cử đại diện trình bày trong thời gian ngắn nhất
Câu hỏi: Mô tả quá trình bốc hơi nước,ngưng tụ thành mây mưa theo cách
của em.
Bài 26: Đất,các nhân tố hình thành đất.
Yêu cầu: Thi theo nhóm, cử đại diện trình bày trên bảng,thời gian 5 phút.
Câu hỏi: Hãy vẽ sơ đồ thể hiện quá trình hình thành đất theo cách của em
C4. Giải ô chữ :HS lựa chọn và giải từng ô chữ để tìm ra từ chìa khóa
***Ví dụ minh hoạ địa lí 7
Bài 2: Sự phân bố dân cư. Các chủng tộc trên thế giới.
Yêu cầu: Thi theo nhóm, thời gian 3-5 phút
Câu hỏi:
Khu vực tập trung đông dân nhất trên thế giới ở châu nào?
Khu vực có mật độ dân số cao nhất trên thế giới ở châu nào?
Khu vực ít dân nhất trên thế giới?
Người da trắng thuộc chủng tộc? Phân bố ở đâu?
Người da đen thuộc chủng tộc? Phân bố ở đâu?
Người da vàng thuộc chủng tộc? Phân bố ở đâu?
Bài 26 : Thiên nhiên Châu Phi.
Đây là hoang mạc ở phía Nam châu Phi?
Tên hồ rộng lớn nhất châu Phi?
Tên một dãy núi trẻ ở Tây Bắc châu Phi?
Khoáng sản có nhiều ở ven biển Bắc Phi?
Sơn nguyên rộng nhất ở Đông Phi?
Hoang mạc rộng lớn thế giới?
Con sông lớn nhất ở châu Phi?
***Ví dụ minh hoạ địa lí 6.
Bài 9 Hiện tượng ngày đêm dài ngắn theo mùa.
Yêu cầu:Thi theo nhóm,thời gian 5 phút.
Câu hỏi:
Ngày nào nửa cầu Bắc ngả về phía mặt trời? Ngày nào nửa cầu
Nam ngả về phía mặt trời?
Ngày 22/6 ánh sáng mặt trời chiếu vuông góc mặt đất ở vĩ tuyến ?
Đó là đường?
Ngày 22/12 ánh sáng mặt trời chiếu vuông góc mặt đất ở vĩ tuyến?
Đó là đường?
Ngày gì ánh sáng mặt trời vuông góc xích đạo?
Vĩ tuyến 60 độ 33 phút Bắc-Nam còn gọi là đường gì?
***Ví dụ minh hoạ địa lý 9.
Bài 20: Vùng đồng bằng sông Hồng.
Yêu cầu: Thi theo tổ, cử đại diện trình bày,thời gian 5 phút
Câu hỏi:
Phía Bắc của Đồng bằng sông Hồng giáp?
Phía Nam của đồng bằng sông Hồng giáp?
Tên đảo có 5 chữ ở đồng bằng sông Hồng?
Con sông gắn bó với cư dân ở vùng đồng bằng này,có 8 chữ?
Tài nguyên quý nhất của đồng bằng sông Hồng?
Tên một tài nguyên quý có ở Thái Bình?
Đất sét có nhiều ở nơi đây?
Tên thành phố cảng của đồng bằng sông Hồng?
Tên thành phố lớn nhất ở đồng bằng sông Hồng có 5 chữ?
*Lưu ý: Với mỗi hình thức trò chơi, ngoài đáp án,giáo viên có thể đánh giá
cho điểm dưới nhiều hình thức khác nhau tạo không khí sôi nổi trong học
tập.
4. Hình thức áp dụng.
Tổ chức học tập qua các biện pháp đổi mới có thể áp dụng trong việc giảng
dạy địa lí dưới nhiều hình thức khác nhau:
a) Sử dụng “ Một vài biện pháp nhằm phát huy tính tích cực chủ động
của học sinh trong giờ địa lí” qua kiểm tra và củng cố:
Giáo viên có thể sử dụng nhiều hình thức khác nhau trong kiểm tra và củng
cố bài, tuỳ theo từng bài học để lựa chọn. Bằng cách nêu các câu hỏi tình
huống có vấn đề,sử dụng các dạng bài tập có sẵn trong SGK, SBT, hoặc GV
tự nghĩ ra, bằng cách sử dụng bảng phụ có đề sẵn trò chơi, tận dụng bảng
chữ cái tiếng Anh đa dụng, các thanh gắn nam châm hoặc các mảnh xốp
mỏng , giấy A4 để tự tạo ra các trò chơi đơn giản nhằm phục vụ cho học tập
đạt hiệu quả . Qua đó giúp học sinh tự mình khái quát lại toàn bộ những kiến
thức cần nắm vững sau bài học.
b) Sử dụng “ Một vài biện pháp nhằm phát huy tính tích cực chủ động
của học sinh ” trong hệ thống kiến thức bài học.
Đối với đa số bài giáo viên có đều có thể sử dụng các biện pháp đổi mới
nhằm tạo sự liên kết giữa vốn hiểu biết của bản thân gắn kết với kiến thức cũ
để từ đó rút ra đơn vị kiến thức cần nắm trong bài.Đặc biệt có thể sử dụng
đạt hiệu quả cao trong các bài thực hành địa lí.
III. Kết quả thu được khi áp dụng “một vài biện pháp nhằm phát huy tính
tích cực chủ động của học sinh trong giờ học địa lí “
Sau khi sử dụng hình thức này tôi đã đạt được những kết quả sau:
* Đối với học sinh:
Các lớp dạy học không sử dụng các biện pháp phát huy tính tích cực
chủ động của HS: Tỷ lệ bài kiểm tra trên trung bình đạt 70 ¸ 75% trong đó tỷ
lệ khá giỏi đạt 35 ¸ 40%. Thực trạng học địa lí ở những lớp này thường
không sôi nổi. Các em chỉ học và trả lời những kiến thức có sẵn trong sách,
khả năng tư duy và tìm tòi kém. Những câu hỏi mở rộng được giáo viên đưa
ra các em ít khi trả lời đúng và đầy đủ. Thái độ đối với học tập không hào
hứng, nhiệt tình ,mang đậm tính sách vở, nhiều khi còn học vẹt, đối phó
trong các giờ kiểm tra nên tỷ lệ học sinh giỏi rất ít vì vậy việc học địa lí trở
nên nhàm chán, ít cuốn hút các em hơn.
Các biện pháp đổi mới nhằm phát huy tính tích cực chủ động của học sinh là
hình thức cụ thể hoá thông tin, nó giúp các em nhìn thấy rõ các mối quan hệ
địa lí, nhất là những mối quan hệ nhân quả hay các mối quan hệ phức tạp
nhiều chiều mà nếu giải thích bằng lời thì rất khó diễn đạt. Hơn nữa các khái
niệm địa lí lại rất rộng lớn và phong phú nên không phải khi nào học sinh
cũng được quan sát trực tiếp. Vì thế sau khi áp dụng dạy học bằng các hình
thức này tôi thấy tỷ lệ bài kiểm kiểm tra trên trung bình đạt 100%, trong đó
tỷ lệ khá giỏi đạt 65 ¸ 70%
+ Ý thức học tập của học sinh tiến bộ rõ rệt, học sinh chăm học, chịu khó
nghe giảng hơn trước đây.
+ Khả năng quan sát sự vật hiện tượng của học sinh tốt hơn. Các em đã chịu
khó quan sát những hiện tượng xảy ra xung quanh: Các loại đất ở địa
phương; hiện tượng mây, mưa; nơi phân bố các loại khoáng sản…dựa vào
kiến thức đã học để tự mình lý giải nguyên nhân tạo nên chúng.
+ Cách ghi vở, vẽ hình rõ ràng, sạch đẹp, ngắn gọn và đầy đủ kiến thức hơn
trước. Ngoài những kiến thức giáo viên đã ghi trên bảng, các em đã biết
chọn lựa ghi những kiến thức mà giáo viên nhấn mạnh trong lúc dạy để bài
học đầy đủ hơn, phong phú hơn.
+ So với cách dạy trước đây thì kết quả học tập nâng cao rõ rệt. Tỉ lệ học
sinh khá, giỏi nhiều hơn, lớp học sôi nổi hơn, các em đã biết đặt ra nhiều câu
hỏi nhằm tìm hiểu vấn đề sâu hơn, rõ hơn.
*Đối với giáo viên: Với nhiều cách áp dụng hình thức dạy học nhằm phát
huy tính tích cực chủ động của học sinh, tôi có thể sử dụng nó vào nhiều
bước trong hoạt động dạy học như: Kiểm tra bài, củng cố kiến thức, hệ
thống hoá kiến thức cơ bản, tìm tòi nghiên cứu phát hiện kiến thức
mới v.v Thông qua các hình thức này, các bài dạy của tôi đã thú vị hơn
trước, sôi nổi hơn trước và lòng yêu nghề ham học hỏi nhiều hơn, tránh được
lối dạy học đọc, chép góp phần tạo thêm sự phong phú và đa dạng hoá các
hình thức dạy học trên lớp. Vì vậy việc dạy học trở nên thoải mái nhẹ nhàng,
chất lượng dạy học nâng cao
IV. Kết luận
Mỗi một môn học trong nhà trường là một mảng của đời sống được đúc rút,
tích luỹ qua nhiều thế hệ. Người giáo viên có nhiệm vụ truyền đạt những tri
thức ấy tới thế hệ trẻ, bồi dưỡng cho các em nguồn kiến thức cơ bản, giáo
dục cho các em lòng yêu thiên nhiên, yêu tổ quốc, biết trân trọng những gì
cuộc sống đã ban tặng cho con người. Từ đó phát huy khả năng tìm tòi, sáng
tạo những tri thức mới phục vụ cho cuộc sống và góp phần xây dựng tổ quốc
giàu đẹp hơn.
Đất nước của chúng ta vốn rất nghèo nàn về kinh tế, muốn thoát khỏi tình
trạng nghèo nàn, lạc hậu ấy, bắt kịp những tiến bộ về khoa học kỹ thuật của
nhiều nước trên thế giới thì giáo dục phải được ưu tiên hàng đầu. Giáo dục
vốn là gốc rễ, là căn bản của mọi vấn đề. Đây cũng là sự nghiệp lâu dài
những người làm thầy.
Ngày nay trước những tiến bộ không ngừng của khoa học kỹ thuật,
công nghệ thông tin. Trên thế giới chúng ta đang nỗ lực không ngừng để đổi
mới nhiều mặt giáo dục, nhưng phải hiểu rằng không có phương pháp giảng
dạy nào là tuyệt đối. Vì vậy nhiệm vụ đặt ra cho mỗi người giáo viên là phải
lựa chọn phương pháp và hình thức dạy học nào đó dể đạt hiệu quả cao nhất,
giúp học sinh chủ động, tích cực nắm bắt kiến thức hơn. Sau 5 năm nghiên
cứu và 2 năm áp dụng hình thức tổ chức đổi mới trong dạy học địa lí tôi đã
thu được một vài kết quả tuy chưa được nhiều nhưng bước đầu đã có tính
tích cực nhất định trong dạy học địa lí. Tuy nhiên do năng lực và kinh
nghiệm của bản thân còn nhiều hạn chế nên đề tài tôi viết rất có thể còn chưa
trở thành một sáng kiến kinh nghiệm hoàn thiện. Vì vậy tôi mong nhận được
sự đóng góp chân tình của các thầy cô và các bạn đồng nghiệp.
Tôi xin trân thành cảm ơn!
Tây Hồ, ngày 25/4/2011
Người viết
Chử Thị Thu Hường