LUẬN VĂN:
Tính tất yếu của qúa trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá trong sự
nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam
A)Đặt vấn đề
Công nghiệp hoá hiện đại hoá là một chủ trương lớn của Đảng, chính phủ
nước ta hiện nay, đang thực sự trở thành vấn đề thu hút sự quan tâm của các nhà
lãnh đạo, các nhà nghiên cứu, của mọi doanh nghiệp và của toàn xã hội.
ở nước ta vấn đề công nghiệp hoá nền kinh tế được đặt ra từ năm 1960 trong
văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III. Nhưng sau đó chúng ta phải tập trung
nhân, tài, vật lực cho việc hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân
giải phóng miền nam thống nhất đất nước, chống chiến tranh phá hoại miền bắc của
đế quốc mỹ, nên việc thực hiện chủ trương công nghiệp hoá chưa được bao nhiêu,
mặt khác trong tổ chức chỉ đạo thực hiện công nghiệp hoá đã có những biểu hiện
nôn nóng muốn đốt cháy giai đoạn, chưa xuất phát từ đặc điểm tình hình của nước
ta là một nước nông nghiệp lạc hậu trên 90% dân số sống ở nông thôn.
Sau khi đất nước hoà bình thống nhất cùng đi lên CNXH, chủ trương công
nghiệp hoá tiếp tục triển khai thực hiện được được thể hiện ở văn kiện đại hội IV,
V, VI Đảng cộng sản Việt Nam. Đặc biệt văn kiện đại hội V, đại hội VI chỉ rõ: Tập
trung sức phát triển nông nghiệp coi nông nghiệp là mật trận hàng đầu, đưa nông
nghiệp một bước lên sản xuất lớn, chủ trương trên đánh dấu một giai đoạn mới quá
trình công nghiệp hoá nước ta. Trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật phát triển nhanh chóng, quá trình công nghiệp hoá ở nước ta không những
thực hiện nội dung của cuộc cách mạng kỹ thuật lần thứ nhất chuyển lao động thủ
công năng suất thấp thành lao động sử dụng máy móc có năng suất cao mà còn phải
“đi tắt”, “đón đầu” ứng dụng những thành tựu mới nhất của cuộc cách mạng khoa
học công nghệ. Vì vậy văn kiện đại hội Đảng lần thứ VII đưa ra cụm từ công nghiệp
hoá, hiên đại hoá, dến đại hội Đảng lần thứ VIII, lần thứ IX khẳng định nước ta
bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá hiên đại hoá đất nước.
Vì vậy cần làm rõ tính tất yếu khách quan của quá trình công nghiệp hoá,
hiên đại hoá trong sự nghiệp xay dựng CNXH ở nước ta như thế nào cho đúng, và
công nghiệp hoá, hiên đại hoá có vài trò vị trí như thế nào trong quá trình xây dựng
CNXH ở nước ta.
Đây là vấn đề cấp bách cả về lý luận và thực tiễn. Do đó sau khi được học
tập một số bộ môn lý luận cơ bản của chủ nghĩa mác- Lênin: triết học, kinh tế chính
trị, qua đọc nghiên cứu các tài liệu tham khảo em mạnh dạn viết tiểu luận: “tính tất
yếu của quá trình công nghiệp hoá, hiên đại hoá trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở
Việt Nam”
B)Nội dung
I.Đưa đất nước ta đi lên CNXH là sự lựa chọn duy nhất, đúng đắn của
Đảng và nhân dân ta
1.Cơ sở lý luận
1.1.Khái niệm về chế độ XHCN
Nội dung cơ bản của thời đại ngày nay là quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
CNXH, là thời đại đấu tranh cho hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội trên phạm vi toàn thế giới. Lịch sử loài người đã trải qua 5 hình thái kinh tế xã
hộ là: Công sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩ, XHCN.
Nhưng cho đến nay, xã hội XHCN là mang tính ưu việt nhất, là giai đoạn thấp của
hình thái kinh tế xã hội công sản chủ nghĩa, là xu hướng tất yếu của lịch sử. Vì vậy
ta cần tìm hiểu về chế độ CNXH với những đặc trưng quan trọng của nó.
CNXH là một chế độ xã hội được xây dựng trên cơ sở từng bước thiết lập
chế độ sở hữu XHCN về tư liệu. Chế độ này thường xuyên được củng cố, hoàn
thiện, bảo đảm luôn thích ứng với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Chủ nghĩa Mác– Lênin đã phác hoạ CNXH với những nét đặc trưng cơ bản
sau:
Xoá bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân về những tư liệu sản xuất chủ yếu và thiết
lập chế độ sở hữu XHCN về tư liệu sản xuất với hai hình thức cơ bản: sở hữu toàn
dân và sở hữu tập thể
Phát triển nền sản xuất xã hội với tốc độ ngày càng lớn trên cơ sở khoa học
kỹ thuật công nghệ ngày càng hiện đại, năng xuất lao động ngày càng cao để tạo ra
ngày càng nhiều của cải cho xã hội đảm bảo thoả mãn ngày càng đầy đủ nhu cầu vật
chất văn hoá cho nhân dân lao động, không ngừng nâng cao phúc lợi xã hội.
Đảm boả cho mọi người có quyền bình đẳng trong lao động sáng tạo và được
hưởng thụ lao động theo nguyên tắc “làm theo năng lực, hưởng theo lao động”.
Xoá bỏ tình trạng bất bình đẳng giữa các dân tộc. Củng cố tăng cường tình
hữu nghị giữa các nước.
Nhà nước XHCN ngày càng được củng cố, tăng cường và hoàn thiện nền
dân chủ XHCN được xây dựng và không ngừng phát huy.
Đảm bảo sự phát triển tự do toàn diện của con người là cho con người ngày
càng phát huy đầy đủ tính tích cực sáng tạo của mình trong sự nghiệp xây dựng xã
hội mới, lối sống mới.
Hệ tư tưởng Mác– Lênin chiếm vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã
hội, đời sống văn hoá tinh thần xã hội ngày càng phong phú
Có sự xích lại gần nhau giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động trí óc và
lao động chân tay. Tính thống nhất của xã hội ngày càng cao.
Với những đặc trưng đó, CNXH thực sự là hình thức kinh tế xã hội tiến bộ
của nhân loại
1.2.Tính tất yếu của cách mạng XHCN
Quá độ lên CNXH là một tất yếu lịch sử. bởi vì CNXH – giai đoạn đầu của
hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa không thể tự phát ra đời trong lòng xã
hội cũ. Chủ nghĩa tư bản dù phát triển ở trình độ cao cũng chỉ tao ra tiền đề vật chất
cho sự ra đời của CNXH, còn bản thân công cuộc xây dựng CNXH phải thông qua
quá trình đấu tranh gian khổ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động nhằm
giành lấy chính quyền Nhà nước và sử dụng bộ máy Nhà nước của mình để cải tạo
xã hội cũ, xây dựng xã hội mới từ cơ sở hạ tầng đến kiến trúc thượng tầng. Lênin
viết: “ cần phải có một thời kỳ quá độ khá lâu dài từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH vì
cải tổ sản xuất là việc khó khăn, vì cần phải có thời gian mới thực hiện được những
thay đổi căn bản trong mọi lĩnh vực của đời sống, và phải qua một cuộc đấu tranh
quyết liệt, lâu dài mới có thể thắng được sức mạnh to lớn của thói quen quản lý theo
kiểu tiểu tư sản và tư sản. bởi vậy Mác có nói đến cả một thời kỳ chuyên chính vô
sản, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH”
Sau khi dự báo chủ yếu vào sự bùng nổ hàng loại của cách mạng ở các nước
tư bản phát triển, Các Mác và Ph.Ăng – ghen cũng đã bổ sung dự báo cách mạng
XHCN từ hiện thực ở các nước mà chủ nghĩa tư bản mới ra đời, còn tồn tại những
tàn tích nặng nề của chế độ phong kiến thời trung cổ. Hai ông cho rằng cách mạng
có thể nổ ra ở những nước này trước khi nó nổ ra ở những nước tư bản phát triển.
Theo hai ông, điều đó cũng giống như căn bệnh có thể bộc lộ ở tứ chi của cơ thể
trước khi lan tới tim.
Lênin căn cứ vào hoàn cảnh lịch sử mới đã khẳng định: ở các nước tương đối
kém phát triển, ở đó các quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa còn chiếm ưu thế cũng có
khả năng quá độ lên CNXH khi có những điều kiện thích hợp.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật, sự thay thế hình thức kinh tế xã hội
này bằng một hình thức kinh tế xã hội mới tiến bộ hơn là một quy luật tất yếu. Tuy
nhiên, muốn đạt được CNXH thì giai cấp công nhân phải thực hiện cuộc cách mạng
XHCN. Cách mạng XHCN phát sinh từ nhu cầu giải quyết mâu thuẩn cơ bản trong
xã hội tư bản, đó là giải phóng lực lượng sản xuất đã mang tính xã hội hoá cao ra
khỏi sự kìm hãm của quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về
tư liệu sản xuất.cách mạng XHCN là cuộc cách mạng toàn diện, triệt để và sâu sắc
nhất trong lịch sử, đồng thời nó là cuộc cách mạng diễn ra gay go, phức tạp, lâu dài.
Việc giành được chính quyền mới chỉ là thắng lợi bước đầu. Nhiệm vụ cơ bản, lâu
dài là phải hoàn thiện các yếu tố của lực lương sản xuất và quan hệ sản xuất, tiến
hành cải tạo xã hội cũ và xây dựng thành công CNXH. Hay nói cách khác, đó là quá
trình quá độ lên CNXH. Lý luận và thực tiễn đã chứng minh rằng tất cả các dân tộc
đèu đi lên XHCN là một tất yếu lịch sử và thực hiện cách mạng XHCN là con
đường duy nhất để tiến tới xã hội XHCN. Cách mạng tháng 10 Nga năm 1917 do
Lênin lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong nước đứng lền lật đổ
chế độ Nga hoàng, khai sinh một hình thấi kinh tế xã hội mới – hình thái kinh tế xã
hội XHCN đã biến lý luân thành hiện thực sinh động. Thắng lợi cả cuộc cách mạng
đó đã mở ra thời đại mới, thời đại thắng lợi của một trật tự XHCN, thời đại thể hiện
trong thực tiền những ước mơ, khát vọng chân chính của con ngưỡi là xoá bỏ mọi
hình thức áp bức bóc lột giai cấp, dân tộc, xoá bỏ nghèo nàn, lạc hậu. Trong quá
trình hình thành và phát triển, Liên Xô và các nước XHCN đã đạt được nhiều
thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực có giá trị sâu sắc. đó là việc xây dựng một kiểu
xã hội và tình trạng áp bức bóc lột cơ bản được xoá bỏ. CNXH hiện thực đã từng
cứu loài người thoát khỏi thảm họa của chủ nghĩa phát xít, đã từng là chỗ dựa, là
thành trì của cách mạng và hoà bình thế giới, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh hạt nhân,
đi đầu trong cuộc đấu tranh vì những mục tiêu của thời đại.
Nhưng do duy trì quá lâu một mô hình có nhiều điểm không phù hợp nên
trong những thập kỷ gần đây, các nước XHCN đã không phát huy được mũi đột
phá của cách mạng tháng 10 và những thành quả của nó, lâm vào khũng hoảng trầm
trọng và tan rã ở một số nước. Các thế lực phản động đã lợi dụng những sai lầm,
khó khăn của CNXH đẩy mạnh phản kích của CNXH, xuyên tạc nội dung tính chất
của thời đại, điều đó khẳng định mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản và CNXH, giữa
giai cấp tư sản và vô sản đang diễn ra rất gay gắt, thúc đẩy sự vận động của các dân
tộc từng bước quá độ lên CNXH.
Chủ nghĩa tư bản hiên nay đang còn có những tiền năng phát triển nhờ lợi
dụng được những thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ nhưng bản chất bóc lột
của nó không hề thay đổi, do vậy nó không giải pháp cuối cùng của nhân loại.
CNXH hiện thực dù đang gặp rất nhiều khó khăn và sự khủng hoảng với
những tổn thât to lớn song nó không thể bị xoá bỏ vì nó là sự phát triển hợp quy luật
biện chứng của lịch sử, do đó nó vẫn là tương lai của nhân loại, là mục tiêu tiến tới
của tất cả các dân tộc. Tuy nhiên, CNXH cần phải được nhận thức lại là phải đổi
mới và phát triển trên cơ sơ những nguyên lý, nền tảng của chủ nghĩa Mác– Lênin,
chủ nghĩa cộng sản.
2.Cơ sở thực tiễn
2.1.Sự lựa chọn con đường cách mạng vô sản (CNXH) trong đấu tranh giải
phóng dân tộc và xây dựng đất nước.
Quá độ lên CNXH ở mỗi nước có những nét đặc thù do điều kiện lịch sử cụ
thể của đất nước đó. Nhiệm vụ của các Đảng cộng sản và nhân dân mỗi nước là vận
dụng những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác – Lênin về thời kỳ quá độ lên
CNXH vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể phù hợp với đặc điểm và truyền thống quý báu
của nước mình, đồng thời tận dụng các ưu thế của thời đại để định ra mục tiêu tổng
quát, phương hướng và bước đi thích hợp nhằm thực hiện thành công bước quá độđi
lên CNXH. Lênin viết: “Tất cả các dân tộc đều sẽ đi lên CNXH, đó là điều không
tránh khỏi, nhưng các dân tộc tiến tới CNXH không phải một cách hoàn toàn giống
nhau, mỗi dân tộc sẽ đưa đặc điểm của mình vào hình thức này, hay hình thức khác
của chế độ dân chủ vào loại này, hay loại khác của chuyên chính vô sản, vào nhịp
độ này hay nhịp độ khác của việc cải tạo XHCN đối với các mặt khác nhau của đời
sống xã hội .”
Nước ta quá độ lên CNXH không qua chế độ từ bản chủ nghĩa là sự lựa chọn
phù hợp với đặc điểm tình hình của đất nước và xu thế phát triển của thời đại.
Việc lựa chọn con đường cách mạng vô sản, từ cách mạng giải phóng dân
tộc, tiến tới mục tiêu CNXH được quyết định Ngay từ Cương lĩnh đầu tiên, ngày
Đảng ta mới thành lập, năm 1930. Điều đó dựa trên hai căn cứ chủ yếu là chỉ có
CNXH mới giải phóng được nhân dân lao động thoát khỏi áp bức bóc lột, bất công,
đem lại cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc cho nhân dân và cách mạng XHCN
tháng 10 Nga năm 1917 thành công đã mở ra khả năng thực hiện cho những dân tộc
lạc hậu tiến lên CNXH
Lịch sử cũng đã chứng minh điều đó. Từ khi thực dân pháp xâm lược nước ta
đến năm 1930, các phong troà cứu nước của dân ta theo ý thức phong kiến, tiểu tư
sản, tư sản đều bị thất bại. Năm 1930 dcsvn ra đời đã lãnh đạo nhân dân ta từ thắng
lợi này đến thắng lợi khác và đi đến thắng lợi hoàn toàn. Sự khảo nghiệm đó của
lịch sử dân tộc đã khẳng định: muốn cứu nước và gpdân tộc thì chỉ có con đường
cách mạngvs. Dưới ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, Đảng đã đòn kết được cả
dân tộc, phát huy cao độ truyền thống dân tộc bất khuất, lãnh đạo nhân dân ta ròng
rã suốt gần nữa thế kỷ đấu tranh giành độc lập thống nhất tổ quốc.
Ngay trong cương lĩnh đầu tiên, Đảng ta đã chỉ rõ cách mạng Việt Nam phải
trải qua hai giai đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng XHCN bỏ qua chế
độ TBCN. Sau khi hoàn thành cơ bản nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân do Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta tiến lên xã hội. Như vậy, chính ngọn cờ độc
lập dân tộc và CNXH đã động viên được sức mạnh của cả dân tộc, tranh thủ được
sự đồng tình giúp đỡ của quốc tế nhất là các nước CNXH. Như vậy sự lựa chọn con
đường quá độ lên CNXH không qua chế độ TBCN là phù hợp với ý chí, nguyện
vọng của nhân dân, phù hợp với chiều hướng phát triển của lịch sử.
Cách mạng nước ta do Đảng cộng sản Việt nam lãnh đạo. Đảng có cơ sở xã
hội vững chắc trong nhân dân. đây là nhân tố bên trong quyết định con đường đi lên
CNXH ở nước ta. Đồng thời, các thế lực phản động tay sai cho đế quốc, thực dân ở
nước ta vừa non kém về tổ chức, vừa không có chỗ đứng trong nhân dân. Do đó,
nhân dân ta quyết định không đi theo con đường phản dân hại nước của chúng:
Theo Lênin. Một nước có thể có hai kiểu quá độ lên CNXH là:
Một là quá độ từ cntb lên CNXH. Loại này phản ánh quy luật phát triển tuần
tự của xã hội loài người
Hai là quá độ từ các hình thái kinh tế xã hội trước cntb lên CNXH. Loại này
phản ánh quy luật phát trỉen nhảy vọt của xã hội loài người.
Đồng thời, Lênin cũng chỉ ra bản chất giai cấp, nội dung và các điều kiện của
quá độ tiến lên tới CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN.Theo Lênin, một nước
lạc hậu có thể tiến thẳng lên CNXH khi có hai điều kiện sau:
Điều kiện bên ngoài của sự phát triển này là phải có một nước giành dược
thắng lợi trong cuộc cách mạng vô sản, tiến lên xây dựng CNXH. Công cuộc xây
dựng thành công chủ nghĩa ở các nước này là tấm gương và tạo điều kiện để giúp
đỡ các nước lạc hậu tiến lên CNXH, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN. Thực tế sự
hình thành XHCN ở Liên Xô đã tạo điều kiện giúp cho quá trình đi lên CNXH ở
nước ta rất nhiều, đặc biệt là những kinh nghiệm quý giá trong quá trình hình thành
và phát triển CNXH ở Liên Xô. Tuy CNXH hiện nay đã sụp đổ ở Liên Xô, nhưng
những bài học kinh nghiệm đó sẽ giúp chúng ta xác định được phương hướng đúng
đắn trong thời kỳ quá độ.
Điều kiện bên trong của sự quá độ tiến thẳng lên CNXH là phải hình thành
được các tổ chức Đảng cách mạng và cộng sản, phải giành được chính quyền về tay
mình, xây dựng được tổ chức nhà nước mà bản chất là xô viết nông dân và xô viết
những người lao động. điều này thì chúng ta đã thực hiện được và ngày càng hoàn
thiện tổ chức Đảng và nhà nước.
Như vậy, điều kiện lịch sử và những tiền đề nói trên khẳng định đi lên
CNXH ở nước ta là một tất yếu lịch sử, là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn. Tuy
nhiên, muốn cho CNXH trở thành hiện thực, chúng ta còn phải trải qua nhiều gian
lao thử thách
2.2.Sự lựa chọn con đường CNXH trong giai đoạn hiện nay.
Hiểu rõ tính tất yếu của sự quá độ lên CNXH ở nước ta, Đảng và nhân dân ta
kiên trì với mục tiêu CNXH. Đây là vấn đề rất quan trọng trong tình hình lịch sử
hiện nay và cả trong tương lai. Sự kiên trì đó có cở sở là sự giác ngộ trước đây của
nhân dân ta về những CNXH. Gần đây đường lối đổi mới của Đảng đã đi vào cuộc
sống, đem lại những thắng lợi bước đầu rát quan trọng. Điều đó giúp cho chúng ta
vững tin vào con đường CNXH đã lựa chọn.
Tuy nhiên, hiện nay xuất hiện một số nguy cơ đối với con đường đi lên
CNXH ở nước ta.
Trước hết, là cuộc khủng hoảng rất nghiêm trọng của các nước XHCN, đặc
biệt là sự sụp đổ của chế độ CNXH ở một số nước đã tác động lớn đến tâm tư, tình
cảm, nhận thức của con người về CNXH, Sự tan rã nhanh chóng của nhiều nước
XHCN làm cho một số người dao động, mất đi lòng tin vào CNXH đã được xây
dựng nf năm.
Hai là, nhiều người chỉ thấy được thành tựu mà không thấy cuộc khủng
hoảng kinh tế xã hội mà không thấy được những mâu thuẫn sâu sắc bên trong.
Ba là, bản thân nước ta ũng lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội. Qua
đổi mới, những thành tựu đã đạt được có tác dụng củng cố lòng tin của nhiều người
vào CNXH. Nhưng chúng ta vẫn chưa thoát khỏi khó khăn tệ nạn xã hội còn phổ
biến và nghiêm trọng. Bốn là, các thế lực phản động vẫn luôn tìm mọi các chống
phá ta về mọi mặt và bằng mọi âm mưu, thủ đoạn. Do đó, việc nhận thức rõ tính cất
yếu của CNXH để kiên trì với con đường mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn là rất
quan trọng.
Trong tình hình còn nhiều khó khăn, chúng ta vẫn nhận thấy việc đưa nước
ta đi lên CNXH là lựa chọn đúng đắn và duy nhất. Bởi vì các nguyên nhân sau:
Nhân dân lao động nước ta đã từng chiến đấu hy sinh không chỉ nhằm được
độc lập dân tộc, mà còn vì mục đích xây dựng cuộc sống ấm lo, tự do bình đẳng và
hạnh phúc. Những yêu cầu đó chỉ có CNXH mới đáp ứng được.
Trong cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng ta lấy chủ nghĩa mác – Lênin làm
nền tảng tư tưởng và phấn đấu vì lý tưởng XHCN, cộng sản chủ nghĩa. Kho giành
được chính quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng, tất nhiên là phải cải tạo, đưa đất nước
tiến lên XHCN .
XHCN đã từng trở thành hiện thực ở một số nước và đã từng đạt được những
thành tựu vô cùng to lớn. Đó là sự thể hiện cụ thể phương hướng phát triển của xã
hội loài người.
Toàn bộ lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh quy luật đã thành chân
lý là độc lập dân tộc gắn liền với XHCN.
Mặt khác, chúng ta cũng có những điều kiện nhất định để xây dựng thành
công XHCN. Trong khi XHCN sụp đổ ở những nước khác, thì Đảng ta đã xây dựng
được đường lối đổi mới đúng đắn, xây dựng được trên những nét chủ yếu quan
niệm về xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng được trên những nét chủ yếu quan
niệm về xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng và con đường xây dựng XHCN.
Với quá trình đổi mới, Đảng ta đã từng bước tìm được bước khắc phục khủng hoảng
kinh tế xã hội. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ, Đảng viên, cốt cán của ta vẫn trung
thành với sự nghiệp cách mạng, vẫn là một tập thể đoàn kết, vững vàng về chính trị,
có khả năng lãnh đạo đất nước, đối phó với những khó khăn, thử thách.
Nói tóm lại, để đi lên xã hộ chủ nghĩa là lựa chọn duy nhất đúng đắn của
Đảng và nhân dân ta.
3.Đặc điểm nước ta đi lên XHCN
3.1 Nhận xét chung tình hình:
Xuất phát từ thực trạng nền kinh tế nước ta từ trước chúng ta thấy rằng khó
khăn lớn nhất là nước ta nghèo và kém phát triển, thu nhập bình quân đầu ngươi còn
thuộc vào diện thấp nhất trên thế giới. hơn nữa trong sản xuất còn chưa cần kiệm
cũng như chưa tiết kiệm trong tiêu dùng và dồn vốn lớn cho đầu tư phát triển trong
khi ngân sách còn eo hẹp. Tình trạng tiêu xài lãng phí của công còn chưa được ngăn
chặn và xử lý thích đáng. Bên cạnh đó, trong bộ máy Nhà nước, tổ chức Đảng và
đoàn thể còn tồn tại nhiều tiêu cực. Hệ thống lập pháp và hành pháp còn chưa
nghiêm, pháp luật còn chưa chặt chẽ để nhiều chỗ hở khiến cho kẻ xấu lợi dụng làm
thiệt hại không ít tiền của. Một khó khăn khó có thể tránh khỏi trong cơ chế thị
trường, đó là nạn thất nghiệp gia tăng, phân cách giàu nghèo ngày càng lớn. Việc
lãnh đạo, xây dựng quan hệ sản xuất còn nhiều lúng túng và vướng mắc. Quản lý
nhà nước về kinh tế – xã hội còn yếu. Cơ cấu cán bộ còn nhiều nhược điểm như đội
ngũ cán bộ có năng lực và trình độ lãnh đạo còn kém, không phù hợp với cơ chế
mới: Bộ máy chính quyền còn chậm chạp trong tổ chức quản lý điều hành, thủ tục
hành chính còn quan liêu rờm rà, gây phiền nhiễu cho nhân dân. Về mặt xã hội, chất
lượng giáo dục đào tạo, y tế nhiều nơi còn yếu kém nhất là ở các vùng nông thôn,
vùng rừng núi xa xôi hay ở ngoài hải đảo. Các tệ nạn xã hội gia tăng mạnh mẽ, trật
tự an toàn xã hội vẫn còn tồn tại khó khăn chưa được giải quyết, ý thức xã hội của
người dân còn thấp
ở nước ta, chuyên chính vô sản ra đời trong tình hình lực lượng sản xuất hết
sức lạc hậu, những tiền đề vật chất cần thiết cho việc xây dựng CNXH còn rất yếu.
Bản thân nền sản xã hội đứng lại trong một thời gian ở tình trạng sản xuất nhỏ. đối
với nước ta, một nước thực hiện quá độ lên CNXH không qua giai đoạn phát triển
TBCN, việc xoá bỏ thành phần kinh tế tư chủ nghĩa và mọi hình thức bóc lột khác,
ngăn chặn khuynh hướng phát triển tự bản chủ nghĩa và mọi hình thức bóc lột khác,
ngăn chặn khuynh hướng phát triển TBCN của sản xuất nhỏ, đâp tan mội âm mưu
ngóc đầu dậy của các phần tử thù địch, đảm bảo an ninh trật tự, là một cuộc đấu
tranh giai cấp lâu dài, phức tạp, là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của
chuyên chính vô sản. Tuy nhiên muốn xây dựng thành công CNXH và tiến tới chủ
nghĩa cộng sản thì việc trấn áp các giai cấp bóc lột cùng mọi lực lượng phản cách
mạng khác, việc xoá bỏ thành phần kinh tế TBCN cùng mọi hình thức bóc lột khác
là chưa đủ. Vấn đề cơ bản là phải cải tạo sản xuất nhỏ, cá thể thành sản xuất lớn
XHCN, là xây dựng mới gần như toàn bộ cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng của XHCN. Hay nói cách khác thì muốn đảm bảo được thắng
lợi hoàn toàn và triệt để cho CNXH thì ta phải đồng thời tiến hành ba cuộc cách
mạng; cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng kỹ thuật cách mạng tư tưởng và văn
hoá, trong đó cách mạng về khoa học kỹ thuật là then chốt.
3.2.Đường lối cụ thể:
Nước ta quá độ lên CNXH không qua giai đoạn phát triển TBCN chúng ta
không có sẵn nền đại công nghiệp, một cơ sở vật chất và kỹ thuật phát triển cao.
Nhưng cũng không thể tiến tới XHCN trên cơ sở một nền nông nghiệp phân tán, lạc
hậu, trong khi vẫn duy trì thành phần kinh tế TBCN và kinh tế cá thể, xác lập chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất, nhằm hoàn thiện chế độ làm chủ của nhân dân lao
động trong quản lý kinh tế và phân phối sản phẩm lao động.
Từ sản xuất nhỏ tiến thẳng lên CNXH, đi đôi với cách mạng quan hệ sản
xuất, chúng ta phải tiến hành cách mạng kỹ thuật nhằm nhằm biến lao động thủ côg
thành lao động cơ giới, xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật mới của XHCN. Hiện
nay, trên thế giới, khoa học kỹ thuật đang rất phát triển ở nhiều nước. Vì vậy,lực
lượng phát triển sản xuất của nước ta vừa phải phát triển tuần tự theo quy luật
chuyển từ sản xuất sang sản xuất lớn, vừa có thể và cần phải phát triển nhảy vọt lên
cơ giới hoá và tự động hoá.
Xây dựng CNXH còn phải xây dựng những con người mới CNXH, đem lại
giá trị chân chính cho con người. Do đó, song song với cuộc cách mạng vê kinh tế,
tất yêu phải tiến hành cách mạng về tư tưởng, tinh thần và văn hoá của toàn xã hội
Xây dựng nền sản xuất lớn XHCN ở nước ta thực chất là quá trình cải biến
quan hệ sản xuất đi đôi với tiến hành cách mạng kỹ thuật, biến lao động thủ công
thành lao động cơ giới, là quá trình phân công lại lao động xã hội, xây dựng nền
kinh tế dân tộc tự chủ, đồng thời mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài. Để làm
điều đó, chúng ta phải biết xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý và tiến hành một sự
phân công lại lao động mới.
Trước năm 1986, đường lối phát triển kinh tế ở nước ta tập trung vào hoàn
thiện quan hệ sản xuất XHCN nhưng không phù hợp với tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất. Trong đường lối công nghiệp hoá thì chú trọng phát triển công
nghiệp nặng không chú ý đến thực tế của Việt Nam. Cơ chế quản lý tập trung quan
liêu bao cấp. Do đó đã làm nền kinh tế Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng.
Đến đại hội VI năm 1986. chúng ta đã tiến hành đổi mới và thu được những
kết quả khả quan. Đại hội VI, VII, VIII, IX đều khẳng định phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần là chủ trương chiến lược lâu dài và là đặc trưng của thời kỳ quá độ
lên CNXH tức là khẳng định tính tất yếu khách quan của sự tồn tại nhiều thành
phần kinh tế trong thời kỳ quá độ. Năm 1986 cũng đánh dấu bước đổi mới về đường
lối công nghiệp hoá, điều chỉnh lại cơ cấu kinh tế theo đường lối tập trung thực hiện
ba chương trình về kinh tế là lương thực, thực phẩm,hàng tiêu dùng và hàng xuất
khẩu. Đại hội VI khẳng định vị trí hàng đầu của nông nghiệp, vài trò của công
nghiệp nhẹ và thủ công nghiệp ; phát triển công nghiệp nặng có trọng điểm phù hợp
với nước mình; công nghiệp hoá hiên đại hoá nông thôn ; gắn công nghiệp hoá với
hiên đại hoá ; xây dựng cơ cấu kinh tế, tập trung vốn đầu tư vào các vùng trọng
điểm để thúc đẩy động lực phát triển kinh tế. đồng thời ta chuyển sang cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước chỉ thực hiện chức năng điều tiết vĩ mô nên kinh
tế, cơ chế thị trường sẽ quyết định ba vấn đề cơ bản của sản xuất, dùng đòn bẩy
kinh tế như giá cả, lãi xuất, trao quyền tự chủ sản xuất kinh doanh cho các xí nghiệp
quốc doanh, thực hiên tư do hoá giá cả. trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại cũng có
nhiều thay đổi : đa phương hoá, đa dạng hoá kinh tế đối ngoại ( xuất nhập khẩu, đầu
tư nước ngoài, dịch vụ, ), chuyển từ nên kinh tế đóng sang nền kinh tế mở, chủ
động hội nhập quốc tế, tự do giá cả ngoại thương
Nhờ những thay đổi trong chính sách kinh tế, nước ta đã đạt được những
thành tựu như kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao, cơ cấu kinh tế dịch chuyển, tích
luỹ phát triển.
II) Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là yêu cầu khách quan trong sự
nghiệp xây dựng XHCN ở nước ta
1)Khái niệm về công nghiệp hoá hiện đại hoá và các vấn đề cơ bản
1.1Khái niệm công nghiệp hoá hiện đại hoá
Công nghiệp hoá và hiện đại hoá là một quá trình có tính chất lịch sử. Tất cả
các nước công nghiệp phát triển đều trải qua quá trình công nghiệp hoá ở các thời
điểm khác nhau, với những quy mô tốc độ khác nhau trong những điều kiện lịch sử
kinh tế xh khác nhau. Với hầu hết các nước phát triển hiện nay công nghiệp hoá là
một trong những chính sách chủ yếu và là một thách thức lớn. Tuy nhiên, chính
sách công nghiệp hoá trong giai đoạn hiên nay có nhiều khác biệt lớn so với các
nước công nghiệp hoá giai đoạn trước đây . Chính điều này đã làm cho chính sách ở
các nước, ở các thời kỳ thêm đa dạng.
Kết hợp quan niệm truyền thống với quan niệm hiện đại và vận dụng vào
điều kiện cụ thể của Việt Nam, hội nghị lần thứ VII ban chấp hành TW Đảng khoá
VII đã đưa ra quan niệm mới về công nghiệp hoá hiện đại hoá và đây cungx chính
là quan niệm được sử dụng một cách phổ biến ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Theo tư tưởng này, công nghiệp hoá hiện đại hoá là qúa trình chuyển đổi căn bản
toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ
sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động
cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự
phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học – công nghệ tạo ra năng suất lao
động xã hội cao
1.2Vai trò và những mục tiêu nhiệm vụ của công nghiệp hoá hiện đại hoá
Vai trò của công nghiệp hoá
Một là phát triển lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động, thúc đẩy tăng
trưởng và phát triển kinh tế, khắc phục nghuy cơ tụt hậu ngày càng xa hơn về kinh
tế giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới, góp phần ổn định và
nâng cao đời sống của nhân dân.
Hai là, củng cố và tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước, nâng cao năng
lực tích luỹ, tạo công ăn việc làm khuyến khích sự phát triển tự do và toàn diện của
mỗi cá nhân.
Ba là, tạo điều kiện vật chất cho việc tăng cường củng cố an ninh quốc
phòng.
Bốn là, tạo điều kiện vật chất cho việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ,
đủ sức tham gia một cách có hiệu quả vào sự phân công và hợp tác quốc tế.
Mục tiêu nhiệm vụ của công nghiệp hoá hiện đại hoá:
Do vị trí và tầm quan trọng của các tác dụng nói trên của công nghiệp hoá và
hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân, nên qua tất cả các kỳ đại hội Đảng ta luôn luôn
xác định công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm trong suốt quá trình quá độ lên
CNXH ở nước ta. Đại hội lần thứ VIII của Đảng cộng sản Việt Nam lại một lần nữa
xác định mục tiêu của công nghiệp hoá hiện đại hoá là: “xây dựng nước ta thành
một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiên đại, cơ cấu kinh tế hợp lý,
quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời
sóng vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh,
xã hội công bằng văn minh. Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ
bản trở thành một nước công nghiệp”.
1.3.Cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH
Lịch sử phát triển của sản xuất xã hội đã chứng minh: mỗi phương thức sản
xuất của xã hội chỉ có thể xác lập một cách vững chắc trên cơ sở vật chất kỹ thuật
thích ứng, và chính cơ sở này là một trong những nhân tố quan trọng nhất xác định
phương thức sản xuất đó thuộc loại hình xã hội- lịch sử nào và thuộc thời đại kinh tế
nào.
Cơ sở vật chất kỹ thuật của một phương thức sản xuất của xã hội là tổng thể
hữu cơ các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất đạt được trong những điều kiện
lịch sử nhất định của sự tiến bộ khoa học – kỹ thuật, dựa trên đó lực lượng lao động
của xã hội ấy sản xuất ra của cải vật chất để thoả mãn nhu cầu vật chất của xã hội.
Do trong lịch sử xã hội đã hình thành và tồn tại những mối liên hệ tất yếu,
nên phương thức sản xuất ra đời sau bao giờ cũng kế thừa những yếu tố của cơ sở
vật chất – kỹ thuật của phương thức sản xuất trước đó, trên cơ sở đó cải tạo và phát
triển thành cơ sở vật chất – kỹ thuật của bản thân mình
Phương thức sản xuất TBCN tuy xuất hiện từ đầu thế kỷ thứ XVI , nhưng nó
chỉ trở thành phương thức sản xuất thống trị khi đã tạo ra được nền đại công nghiệp
cơ khí ra đời từ cuộc cách mạng công nghiệp và quá trình công nghiệp hoá TBCN
thế kỷ XVIII – IXX. Tiếp sau đó nó được hiện đại hoá ngày càng cao trên cơ sở của
những thành tựu của tiến bộ khoa học kỹ thuật, nhất là những thành tựu mới của
cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại.
Chính sự phát triển của nền đại công nghiệp cơ khí với sản xuất ngày càng
xã hội hoá đã tự phát tạo ra tiền đề vật chất khách quan cho sự ra đời của phương
thức sản xuất mới: phương thức sản xuất cộng sản chủ nghiã mà giai đoạn đầu của
nó là CNXH. tính tất yếu đó đã được chứng minh trong sự phát triển của lịch sử xã
hội: Nước Nga XHCN xuất hiện từ cách mạng tháng 10 năm 1917 mở đầu một thời
đại mới; thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH. Như vậy, do mối liên hệ tất
yếu của lịch sử, cơ sở vật chất – kỹ thuật của XHCN – giai đoạn đầu của phương
thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa phải là nền đại công nghiệp cơ khí hiên đại.
Các Mác và Ph.Ăng – ghen, Lênin đã nói nhiều về vấn đề nền đại công
nghiệp cơ khí hiện đại là cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH.
Tại đại hội III quốc tế cộng sản năm 1921 Lênin đã chỉ rõ: “cơ sở vật chất
duy nhất của CNXH chỉ có thể là nền đại công nghiệp cơ khí có khả năng cải tạo cả
nông nghiệp nhưng không tghể đóng khung ở nguyên lý chung đó. cần phải cụ thể
hoá nguyên lý đó. Một nền đại công nghiệp ở vào trình độ kỹ thuật hiện đại và có
khả năng cải tạo cả nông nghiệp, đó là diện khí hoá cả nước”. Lênin còn nói “Một
lần nữa tôi phải nhấn mạnh rằng cơ sở kinh tế duy nhất có thể có được của CNXH
là nền đại công nghiệp cơ khí. ai quên điều đó người đó không phải là người cộng
sản. Chúng tôi phải đặt vấn đề một cách thực tiễn đại công nghiệp hiện đại là thế
nào?Đại công nghiệp hiện đại có nghĩa là điện khí hoá toàn nước Nga”.
Tóm lại, cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH là nền đại công nghiệp cơ khí
hiện đại có khả năng cải tạo nông nghiệp. luận điểm trên của chủ nghĩa mác Lênin
cần phải được vận dụng môt cách thích hợp với đặc điểm của thời đại cách mạng
khoa học kỹ thuật và đặc điểm cụ thể của mỗi nước.
Ngày nay trong điều kiện của cách mạng khoa học công nghệ hiện đại với 5
nội dung: tự động hoá đồng bộ, năng lượng nguyên tử, vật liệu mới, công nghệ sinh
học, điện tử – tin học. Vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa mác – Lênin
cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ của Đảng cộng sản Việt Nam
khẳng định: xã hội – XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội có nền kinh tế
phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu
sản xuất chủ yếu.
Do đó, cho phép chúng ta hiểu rằng cơ sở vật chất – kỹ thuật của CNXH ở
nước ta, phải là nền đại công nghiệp cơ khí ứng dụng những thành tựu mới nhất của
cuộc cách mạng khoa học công nghệ vào mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã
hội.
2)Hoàn cảnh nước ta và yêu cầu khách quan của quá trình công nghiệp hoá
hiện đại hoá
Thời đại ngày nay là thời đại quá độ lên CNXH trên toàn thế giới, ở nước ta
khi đất nước hoà bình thống nhất cả nước đi lên CNXH “Đây là sự lựa chọn duy
nhất đúng đắn của Đảng và nhân dân ta”. Nước ta quá độ đi lên CNXH từ một nước
nông nghiệp lạc hậu điều dó cũng có nghĩa là nước ta bỏ qua giai đoạn phát triển
TBCN. nhưng người ta chỉ bỏ việc xác lập phương thức sản xuất TBCN, chứ không
thể bỏ qua việc phát triển lực lượng sản xuất. Cái thiếu nhất của đất nước ta là thiếu
một lực lượng sản xuất phát triển. đất nước ta chưa có một cơ sở vật chất kỹ thuật
phù hợp với CNXH. Chừng nào chư tạo ra được cái cốt vật chất – kỹ thuật phù hợp
với CNXH thì đất nước ta chưa có CNXH hiện thực. Quá trình xây dựng cơ sở vật
chất – kỹ thuật ấy ở nước ta chính là quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nên
kinh tế quốc dân. Văn kiện hội nghị lầ thứ VII ban chấp hành TW khoá VII khẳng
định quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta là: “Quá trình chuyển đổi căn
bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã
hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sứ lao
động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên
sự phát triển của nông nghiệp và tiến bộ khoa học – công nghệ, tạo ra năng suất lao
động xã hội cao”. Thực chất công nghiệp hoá,hiện đại hoá ở nước ta là quá trình tạo
ra những tiền đề vật chất, kỹ thuật về con người, công nghệ, phương tiện, phương
pháp – những yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất cho CNXH. Nội dung cốt lõi
của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là cải biến lao động thủ công, lạc hậu
thành lao động sử dụng kỹ thuật tiên tiến, hiện đại để đạt tới năng suất lao động xã
hội cao. Xây dựng nền đại công nghiệp cơ khí hiện đại – cơ sở vật chất – kỹ thuật
của CNXH bằng con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá đó là một tất yếu khách
quan đối với nước ta quá độ lên CNXH xúat phát từ một nên kinh tế kém phát triển.
Tính tất yếu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong sự nghiệp xây dựng
CNXH ở nước ta được thể hiện ở góc độ kinh tế và chính trị xã hội
Về kinh tế: Chỉ có công nghiệp hoá, hiện đại hoá XHCN mới có cơ sở vật
chất – kỹ thuật của CNXH. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta sẽ tạo
ra một sức sản xuất mới bao gồm nhiều loại công cụ mới và các loại tư liệu sản xuất
khác, cùng với những người lao động có tổ chức, tiến hành hiệp tác sản xuất với kỹ
năng lao động ngày càng cao từ đó làm cho năng suất lao động tăng lên cái “Đảm
bảo cho sự thắng lợi của trật tự xã hội này so với xã hội khác”
Do mối quan hệ biện chứng hữu cơ giữa quan hệ sản xuất và cơ sở vật chất –
kỹ thuật nên việc xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của CNXH có tác dụng củng
cố hoàn thiệp quan hệ sản xuất XHCN – dựa trên cơ sở vật chất kỹ thuật ngày càng
cao của CNXH và quan hệ sản xuất XHCN ngày càng được hoàn thiện, nên sản
xuất xã hội sẽ không ngừng phát triển và đời sống vật chất văn hoá của nhân dân sẽ
không ngừng được nâng cao trên cơ sở phát triển nền sản xuất đó
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá XHCN còn là một tất yếu về chính trị– xã hội
Với cơ sở vật chất – kỹ thuật vừa đạt được trong quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá giai cấp công nhân tầng lớp trí thức XHCN có thêm nhiều điều kiện để
giúp đỡ nông dân ùng đi lên CNXH. Sự liên minh giữa công nhân, nông dân, tầng
lớp trí thức XHCN ngày càng được củng cố, Nhà nước XHCN được tăng cường.
những thành tựu đạt được trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá tạo ra nhiều
khả năng thực hiện sự bình đẳng về kinh tế giữa các dân tộc, giữa các vùng, các
miền của đất nước. Tình hình đó đưa đến sự thống nhất ngày càng cao về chính trị
và tinh thần trong xã hội – XHCN.
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải có sự chuẩn bị vè tư tưởng và
văn hoá nhưng công nghiệp hoá, hiện đại hoá lại có tác dụng thúc đẩy xây dựng nền
văn hoá mới và con người mới XHCN. Việc xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện
đại và sản xuất theo phương thức đại công nghiệp đòi hỏi quần chúng lao động phải
có trình độ giác ngộ cách mạng và trình độ văn hoá khoa học kỹ thuật ngày càng
cao. Đồng thời cơ sở vật chất – kỹ thuật của CNXH lạ tạo ra những điều kiện vật
chất cần thiết cho việc xây dựng nền văn hoá mới và con người mới XHCN.
Công nghiệp hoá XHCN còn là một yêu cầu khách quan của quốc phòng.
Nguồn lực quốc phòng của một nước phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố, trong đó nền
kinh tế lớn mạnh, sản xuất nhiều loại sản phẩm chế độ chính trị kinh tế và xã hội
vững chắc và việc cung cấp các phương tiện hiện đại hoá quốc phòng có ý nghĩa
đặc biệc quan trọng. Công nghiệp hoá hiện đại hoá có tác dụng trực tiếp trong việc
tạo ra các nhân tố đó.
Công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta là quá trình giai cấp công nhân
trưởng thành về số lượng và chất lượng. Giai cấp công nhân ngày càng đông, kỹ
thuật sản xuất ngày càng cao, đời sống ngày càng được cải thiện, trình độ giác ngộ
XHCN được nâng dần lên. Do đó vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân trong mọi
mặt sinh hoạt của xã hội ngày càng được củng cố. Chỉ có thực hiện công nghiệp
hoá, hiện đại hoá XHCN nước ta mới xây dựng được nền kinh tế độc lập tự chủ và
tham gia phân công hợp tác quốc tế và chủ động hội nhập.
Qua đó có thể khẳng định rằng sự thành công của quá trình công nghiệp hoá
hiện đại hoá XHCN là nhân tố quyết định sự thắng lợi hoàn toàn và triệt để của
XHCN, không làm công nghiệp hoá hiện đại hoá sẽ không có XHCN. xuất phát từ
tính khách quan và tác dụng nhiều mặt trên đây của công nghiệp hoá hiện đại hoá
XHCN, đảng ta coi công nghiệp hoá hiện đại hoá là “Nhiệm vụ trung tâm trong suốt
cả thời kỳ quá độ lên CNXH”. Chỉ có hoàn thành công nghiệp hoá hiện đại hoá
XHCN mới có cơ sở để thực hiện các nhiệm vụ khác một cách triệt để và mới có
CNXH một cách đầy đủ
Nhiệm vụ cải tạo quan hệ sản xuất và để có được quan hệ sản xuất XHCN
đồng thời để mở rộng cho lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao
động cải thiện đời sống nhân dân. nhưng, những việc đó chỉ đạt mức cao nhất khi
nào cơ sở vật chất – kỹ thuật của XHCN được xây dựng xong và cũng chỉ lúc đó
quan hệ sản xuất mới được hoàn thiện và củng cố vững chắc. CNXH ở nước ta sẽ
được xác lập với các đặc trưng: có một nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. có nền
văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Con người được giải phóng khỏi áp bức
bóc lột và bất công làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự
do hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. các dân tộc trong nhận thức
rõ tính tất yếu khách quan của quá trìng công nghiệp hoá hiện đại hoá đối với sự
nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta”.
3.Nội dung công nghiệp hoá, hiện đại hoá và những biện pháp thực hiện
3.1.Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý
Việc xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý bao giờ cũng phải dựa trên tiền đề là
phân công lại lao động xã hội.
Phân công lao động xã hội là sự chuyên môn hoá lao động, do đó chuyên
môn hoá sản xuất giữa các nghành, trong nội bộ từng nghành và giữa các vùng
trong nên kinh tế quốc dân . phân công lao động có tác dụng rất to lớn. Nó là đòn
bẩy của sự phát triển công nghệ và năng suất lao động. Cùng với cách mạng khoa
học va công nghệ nó góp phần hình thành và phát triển cơ cấu kinh tế hợp lý. Sự
phân công lại lao động xã hội trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải
tuân thủ các quá trình có tính quy luật sau:
Một là, tỷ trọng và số tuyệt đối lao động nông nghiệp giảm dần, tỷ trọng và
số tuyệt đối lao động công nghiệp tăng lên.
Hai là, tỷ trọng và số tuyệt đối lao động trí thức ngày một tăng và chiếm ưu
thế so với lao động giản đơn trong tổng lao động xã hội.
Ba là, tốc độ tăng lao động trong các ngành phi sản xuất vật chất tăng lên
nhanh hơn tốc độ tăng lao động trong các ngành sản xuất vật chất
ở nước ta phương hướng phân công lại lao động xã hội hiện nay cần triển
khai trên cả hai địa bàn: cả nước và tại chỗ để kết hợp phát triển cả về chiều rộng
lẫn chiều sâu. Xong phải đặc biệc chú ý đến phân công lao động tại chỗ, phải trên
cơ sở hợp lý hoá lao động tại chỗ mà phân bổ lại lao động trên phạm vi cả nước. đi
đôi với quá trình phân công lại lao động xã hội, một cơ cấu kinh tế mới cũng dần
dần được hình thành . Cơ cấu kinh tế của một nước là tổng thể các quan hệ kinh tế
hay các bộ phận hợp thành của nền kinh tế, gắn với vị trí, trình độ kỹ thuật công
nghệ, quy mô, tỷ trọng tương ứng với từng bộ phận và mối quan hệ tương tác giữa
các bộ phận, gắn với điều kiện kinh tế – xã hội trong từng giai đoạn phát triển nhất
định, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế đã được hoạch định. Cấu trúc của cơ cấu
kinh tế bao gồm:
Cơ cấu ngành kinh tế
Cơ cấu vùng kinh tế
Cơ cấu giữa thị tứ, thị xã, thị trấn, thành phố và đô thị
Cơ cấu thành phần kinh tế
Để tối ưu hoá cơ cấu kinh tế được hình thành phải đạt được các yêu cầu sau:
phản ánh được và đúng các quy luật khách quan, trước hết là các quy luật kinh tế,
cho phép khai thác tối đa các tiềm năng kinh tế của đất nước, sử dụng được nhiều
lợi thế so sánh của các nước phát triển muộn về công nghiệp, phù hợp với xu thế
của cách mạng khoa học công nghệ, xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá và đem lại
hiệu quả kinh tế – xã hội cao
Về cơ cấu nghành kinh tế: Trong những năm trước mắt cơ cấu ngành ở nước
ta sẽ được xác lập là cơ cấu công – nông nghiệp - dịch vụ. phương hướng phát triển
của các ngành trong cơ cấu ấy phải đáp ứng được những yêu cầu của mô hình chiến
lược, cụ thể là:
Thứ nhất, khai thác có hiệu quả tiềm năng đa dạng về nông lâm ngư nghiệp,
thức đẩy nhanh việc hình thành các vùng tập trung chuyên canh, đưa công nghệ sinh
học và các phương pháp canh tác tiên tiến vào nông nghiệp, thúc đẩy quá trình công
nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn, Bảo đảm thoả mãn các yêu cầu lương thực,
thực phẩm trong nước, tao nguồn nguyên liệu vững chắc cho công nghiệp chê biến,
tăng nguồn hạt xuât khẩu, tạo công ăn việc làm, phân công lại lao động xã hội, mở
rông thị trường trong nước cho công nghiệp và dich vụ.
Thứ hai, kết hợp phát triển nông lâm ngư nghiệp với phát triển công nghiệp
chế biến nông lâm thuỷ sản, phát triển công nghiệp chế biến lúa gạo có chất lượng
ngày càng cao đáp ứng nhu cầu trong nước, nâng cao hiệu quả xuất khẩu, chế biến
thực phẩm có chất lượng dinh dưỡng cao, bảo đảm vệ sinh, đa dạng hoá mặt hàng,
kiểu cách, bao bì và nhãn hiệu để phục vụ nhu cầu trong nước và đẩy mạnh xuất
khẩu, tăng nhanh năng lực và nâng cao trình độ công nghệ chế biến các loại cây
công nghiệp dài ngày, lâm sản, thuỷ sản
Thứ ba, phát triển mạnh mẽ sản xuất hàng tiêu dùng thông thường để thoả
mãn những nhu cầu tiêu dùng cơ bản, thiết yếu và phổ thông của dân cư, hạn chế tối
đa việc nhập khẩu hàng hoá này vừa nhằm tiết kiệm ngoại tệ, vừa tạo điều kiện
thuận lợi cho phát triển sản xuất trong nước mở rông sản xuất hàng lâu bền, cao cấp
để thoả man nhu cầu ngày càng tăng của dân cư, giảm dần tiến tới thay thế nhapạ
khẩu của loại hàng này bằng hàng hoá sản xuất trong nưỡc. Cần chú ý tới đổi mới
công nghệ nâng cao chất lượng, đa dạng hoá mặt hàng, cải tiến bao bì, giảm giá
thành .v.v. Để nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá sản xuất trong nước. Phát
huy lợi thế về công nhân và truyền thống sản xuất đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu
dùng phục vụ xuất khẩu, tập trung chủ yếu vào các sản phẩm may mặc, dệt da, hàng
điện tử, đồ điện gia dụng, hàng thủ công mỹ nghệ
Thứ tư, xây dựng và cải tạo nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ phát
triển các nghành kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân, thu hút đầu tư trực tiếp đầu tư
nước ngoài, trước hết ưu tiên cho những khâu ách tắc và yếu kém nhất đang cản trở
sự phát triển.
Thứ năm, xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng trọng yếu và
hết sức cấp thiết, có điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường để phát huy nhanh và
có hiệu quả cao. Cụ thể: Ngành cơ khí hướng mạnh vào sản xuất công cụ, thiết bị
phục vụ sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp, thiết bị phục vụ công nghiệp chế biến
nông lâm thuỷ sản và sản xuất hàng tiêu dùng, sản xuất phụ tùng lắp ráp một số loại
sản phẩm phức tạp có trình độ kỹ thuật cao phát triển một số ngành sản xuất nguyên
nhiên vật liệu: dầu khí và lọc dầu, xi măng, luyện cán thép
Thứ sáu, phát triển dịch vụ du lịch, khai thác có hiệu quả lợi thế về tự nhiên,
truyền thống lịch sử văn hoá dân tộc, phục vụ phát triển kinh tế và cải thiện đời
sống nhân dân
Về cơ cấu nguồn kinh tế tạo điều kiện cho tất cả các vùng đề phát triển trên
cơ sở khai thác thế mạnh và tiềm năng của các vùng liên kết giữa các vùng làm cho
mỗi vùng có một cơ cấu kinh tế hợp lý và đều có chuyển biến tiến bộ góp phần vào
sự phát triển kinh tế xã hội của đát nước.
Về cơ cấu giữa thị tứ, thị xã, thị trấn, thành phố và đô thị
Tuỳ điều kiện từng nơi, tất cả các thị xã, thị trấn đều phải được phát triển
trên cơ sở đẩy mạnh công nghiệp dịch vụ mang ý nghĩa tiểu vùng. Hình thành các
thị tứ làm trung tâm kinh tế, văn hoá cho mỗi xã hoặc cụm xã. Phát triển các đô thị
vệ tinh xung quanh các thành phố lớn đẻ giãn bớt công nghiệp và dân cư tránh sự
tập trung quá mức vào Hà Nội và Thành Phố Hố Chí Minh coi trọng việc phát triển
kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế và văn hoá, giữ gìn bản sắc và truyền thống văn hoá
dân tộc tiến lên hiện đại trong phát triển đô thị.
Về cơ cấu thành phần kinh tế : Lấy việc giải phóng sức sản xuất, động viên
tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà
nước trên cơ sở chủ động đổi mới về tổ chức và hiệu quả quản lý tạo điều kiện
thuận lợi về kinh tế và pháp lý để các chủ doanh nghiệp tư nhân yên tâm đầu tư
chuyển dịch cơ cáu kinh tế. Mở rộng các hình thức liên doanh liên kết, áp dụng rộng
rãi các hình thức kinh tế tư bản nhà nước.
3.2.Đẩy mạnh cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đi đôi với
tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới từ nước ngoài
Hiện nay cuộc cách mạng khoa học và công nghệ có nhiều nội dung phong
phú, trong đó có thể chỉ ra những nội dung nổi bật sau đây:
Một là, cách mạng về phương pháp sản xuất: Đó là tự động hoá. Ngoài phạm
vi tự động như trước đây, hiện nay tự động hoá còn bao gồm cả việc sử dụng rộng
rãi người máy thay thế con người điều khiển quá trình vận hành sản xuất.
Hai là cách mạng về năng lượng: bên cạnh những năng lượng truyền thống
mà con người đã sử dụng trước kia như nhiệt điện, thuỷ điện, thì ngày nay con
người ngày càng khám phá ra nhiều năng lượng mới và sử dụng chúng rộng rãi
trong sản xuất như năng lượng nguyên tử, năng lượng mặt trời.
Ba là, cách mạng về vật liệu mới: Ngày nay ngoài việc sử dụng các vật liệu
tự nhiên, con người ngày càng tạo ra các vật liệu nhân tạo mới thay thế có hiệu quả
cho các vật liệu tự nhiên khi mà các vật liệu tự nhiên đang có xu hướng ngày càng
giảm dần
Bốn là, cách mạng vê công nghệ sinh học: các thành tựu của cuộc cách mạng
này đang được áp dụng rộng rãi trong lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, y tế, hoá
chất, bảo vệ môi trường sinh thái
Năm là, cách mạng về điện tử tin học: Đây là một lĩnh vực mà hiện nay loại
người đặc biệt quan tâm, trong đó phải kể đến lĩnh vực máy tính điện tử .
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới đã và đang đóng vai trò
rất to lớn đối với sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá trong tất cả các nước, nhất
là các nước có nền kinh tế kém phát triển. Tuy nhiên cách thức tiến hành ở những
nước khác nhau lại không giống nhau, có nước tiến hành bằng cách tự nghiên cứu,
tự trang bị công nghệ mới cho các ngành kinh tế trong nước, có nước tiến hành
thông qua chuyển giao công nghệ cũng có nước tiến hành bằng cách kết hợp giữa tự
nghiên cứu và chuyển giao.
Thực chất của chuyển giao công nghệ là đưa công nghệ bao gồm cả phần
cứng và phần mềm từ nước này sang nước khác, làm thay đổi quyền sở hữu và
quyền sử dụng công nghệ được chuyển giao. Thực tế cho thấy việc chuyển giao
công nghệ cỉ phát huy được hiệu quả trong mô hình chiến lược công nghiệp hoá
hướng ngoại, “Hướng về xuất khẩu”
Chuyển giao công nghệ có những tác dụng sau: