Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

mối quan hệ giữa tăng trường và lạm phát trong nền kinh tế việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (231.26 KB, 37 trang )


A. PHẦN MỞ ĐẦU
Tăng trưởng và lạm phát luôn là những chỉ tiêu vô cùng quan trọng trong
các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô và dành được sự quan tâm hàng đầu của các nhà quản
lý, nhà hoạch định cũng như công chúng. Không những thế tăng trưởng và lạm
phát còn được xem là những đề tài hấp dẫn và mới mẻ trong nghiên cứu kinh tế
đặc biệt là trong nền kinh tế hiện đại. Dù bạn là ai, một sinh viên, một người
nông dân, một nhân viên văn phòng hay một nhà quản lý cao cấp thi hàng ngày,
hàng giờ tăng trưởng và lạm phát đều đang ảnh hưởng đến đời sống của bạn.
Tăng trưởng có thể giúp bạn trở nên giàu có thì lạm phát chính là “kẻ móc túi”
vô hình luôn thường trực bên bạn.
Ngày 7/11/2006 Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150
của tổ chức thương mại thế giới WTO. Là một quốc gia đang phát triển, là
thành viên mới của WTO, chúng ta đã bắt đầu có những bước chuyển mình và
dành được những thành công ban đầu. Sau gần hai năm gia nhập, kinh tế Việt
Nam đã đạt được nhiều kết quả nổi bật. Năm 2007, tăng trưởng GDP tiếp tục
đạt mức cao với 8,5%, trong đó, nông-lâm-thủy sản đạt mức tăng trưởng 3,40%,
công nghiệp - xây dựng đạt 10,37%, dịch vụ đạt 8,29%. Vốn FDI đạt mức kỷ
lục về vốn đăng ký và vốn thực hiện, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu
cao và hàng hóa xuất khẩu cũng phong phú hơn. Từ một quốc gia nghèo đói, tư
duy kinh tế lạc hậu chúng ta đã dần bắt kịp nhịp độ phát triển của nền kinh tế
thế giới với một tốc độ tăng trưởng cao và khá đều đặn.
Tuy nhiên bước vào sân chơi thế giới không chỉ mở ra cho chúng ta những cơ
hội mà bên cạnh đó còn vô vàn những thách thức to lớn. Chúng ta phải đối mặt
với sự cạnh tranh khốc liệt, những luật lệ quốc tế và cả sự phụ thuộc vào thị
trường thế giới. Dưới góc độ quản lý chúng ta phải đối mặt với sự tăng trưởng
quá nóng, tình trạng lạm phát tăng cao và những cơn sốt của thị trường chứng
khoán, thị trường vàng, ngoại tệ và sự nguội lạnh của thị trường bất động sản…
1

Trong năm 2008 tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát trong 6 tháng đầu


năm đều chưa đạt được mục tiêu đề ra cho cả năm. Tăng trưởng kinh tế mới đạt
7,63% so với mục tiêu 8,5%, trong khi tốc độ tăng giá tiêu dùng đã đạt 5,2% so
với mục tiêu tăng dưới 6,5%.
Một vấn đề đặt ra hiện nay là làm thế nào để chúng ta có thể duy trì được một
nhịp độ tăng trưởng cao nhưng đều đặn, một mức lạm phát có thể chấp nhận
được vì mục tiêu cuối cùng là ổn định kinh tế vĩ mô.
Trong bài viết này em xin đề cập đến tăng trưởng và lạm phát dưới góc độ mối
quan hệ giữa chúng và vấn đề lựa chọn ưu tiên giữa tăng trưởng và lạm phát
trong điều kiện Việt Nam hiện nay. Đây là một đề tài rất hay và khá “nóng” nên
với lượng kiến thức ít ỏi của mình em khó có thể khai thác hết được. Vậy em rất
mong nhận được sự đóng góp và chỉ bảo của thầy.
B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận về tăng trưởng – lạm phát và mối quan hệ giữa chúng
1. Tăng trưởng
1.1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là sự tăng lên về số lượng, chất lượng, tốc độ và quy
mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Sự tăng trưởng được
so sánh theo các thời điểm gốc sẽ phản ánh tốc độ tăng trưởng. Đó là sự gia
tăng quy mô sản lượng kinh tế nhanh hay chậm so với thời điểm gốc. Quy mô
và tốc độ tăng trưởng là "cặp đôi" trong nội dung khái niệm tăng trưởng kinh tế.
Hiện nay, trên thế giới người ta thường tính mức gia tăng về tổng giá trị của cải
của xã hội bằng các đại lượng tổng sản phẩm quốc dân hoặc tổng sản phẩm
quốc nội.
- Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) là tổng giá trị tính bằng tiền của những hàng
hoá và dịch vụ mà một nước sản xuất ra từ các yếu tố sản xuất của mình (dù là
2

sản xuất ở trong nước hay ở nước ngoài) trong một thời kỳ nhất định (thường là
một năm).
- Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là tổng giá trị tính bằng tiền của toàn bộ hàng

hoá và dịch vụ mà một nước sản xuất ra trên lãnh thổ của nước đó (dù nó thuộc
về người trong nước hay người nước ngoài) trong một thời gian nhất định
(thường là một năm).
So sánh tổng sản phẩm quốc dân (GNP) và tổng sản phẩm quốc nội (GDP) ta
thấy:
GNP = GDP + thu nhập ròng từ tài sản ở nước ngoài. Thu nhập ròng từ tài sản
ở nước ngoài = thu nhập chuyển về nước của công dân nước đó làm việc ở
nước ngoài trừ đi thu nhập chuyển ra khỏi nước của người nước ngoài làm việc
tại nước đó. Tăng trưởng kinh tế là mức gia tăng GDP hay GNP năm sau so với
năm trước.
GNP và GDP là hai thước đo tiện lợi nhất để tính mức tăng trưởng kinh tế của
một nước biểu hiện bằng giá cả. Vì vậy, để tính đến yếu tố lạm phát người ta
phân định GNP, GDP danh nghĩa và GNP, GDP thực tế. GNP, GDP danh nghĩa
là GNP và GDP tính theo giá hiện hành của năm tính; còn GNP và GDP thực tế
là GNP và GDP được tính theo giá cố định của một năm được chọn làm gốc.
Với tư cách này, GNP, GDP thực tế loại trừ được ảnh hưởng của sự biến động
của giá cả (lạm phát). Do đó, có mức tăng trưởng danh nghĩa và mức tăng
trưởng thực tế.
1.2. Vai trò của tăng trưởng kinh tế
Thành tựu kinh tế vĩ mô của một quốc gia thường được đánh giá theo
những dấu hiệu chủ yếu như: ổn định, tăng trưởng, công bằng xã hội. Trong đó,
tăng trưởng kinh tế là cơ sở để thực hiện hàng loạt vấn đề kinh tế, chính trị, xã
hội.
* Trước hết, tăng trưởng kinh tế thể hiện bằng sự tăng lên về số lượng,
3

chất lượng hàng hoá, dịch vụ và các yếu tố sản xuất ra nó, do đó tăng trưởng
kinh tế là tiền đề vật chất để giảm bớt tình trạng đói nghèo. Tăng trưởng kinh tế
nhanh là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với mọi quốc gia trên con đường
vượt lên khắc phục sự lạc hậu, hướng tới giàu có, thịnh vượng.

* Tăng trưởng kinh tế làm cho mức thu nhập của dân cư tăng, phúc lợi xã
hội và chất lượng cuộc sống của cộng đồng được cải thiện như: kéo dài tuổi thọ,
giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng và tử vong ở trẻ em, giúp cho giáo dục, y tế, văn
hoá phát triển.
* Tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện giải quyết công ăn việc làm, giảm
thất nghiệp. Khi một nền kinh tế có tỷ lệ tăng trưởng cao thì một trong những
nguyên nhân quan trọng là đã sử dụng tốt hơn lực lượng lao động. Vì vậy, tăng
trưởng kinh tế nhanh thì thất nghiệp có xu hướng giảm. Mối quan hệ giữa tăng
trưởng thực tế và tỷ lệ thất nghiệp ở nước phát triển đã được lượng hoá dưới tên
gọi quy luật Okum1 (hay quy luật 2,5% - 1). Quy luật này xác định, nếu GNP
thực tế tăng 2,5% trong vòng một năm so với GNP tiềm năng của năm đó thì tỷ
lệ thất nghiệp giảm đi 1%.
* Tăng trưởng kinh tế tạo tiền đề vật chất để củng cố an ninh quốc phòng,
củng cố chế độ chính trị, tăng uy tín và vai trò quản lý của nhà nước đối với xã
hội.
* Đối với các nước chậm phát triển như nước ta, tăng trưởng kinh tế còn
là điều kiện tiên quyết để khắc phục sự tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các
nước đang phát triển.
Như vậy, tăng trưởng kinh tế nhanh là mục tiêu thường xuyên của các
quốc gia, nhưng sẽ là không đúng nếu theo đuổi tăng trưởng kinh tế bằng mọi
giá. Thực tế cho thấy, không phải sự tăng trưởng nào cũng mang lại hiệu quả
kinh tế - xã hội như mong muốn, đôi khi quá trình tăng trưởng mang tính hai
mặt. Chẳng hạn, tăng trưởng kinh tế quá mức có thể dẫn đến tình trạng nền kinh
4

tế "quá nóng", gây ra lạm phát, hoặc tăng trưởng kinh tế cao làm cho dân cư
giàu lên, nhưng đồng thời cũng có thể làm cho sự phân hoá giàu nghèo trong xã
hội tăng lên. Vì vậy, đòi hỏi mỗi quốc gia trong từng thời kỳ phải tìm ra những
biện pháp tích cực để đạt được sự tăng trưởng hợp lý, bền vững. Tăng trưởng
kinh tế bền vững là tăng trưởng kinh tế đạt mức tương đối cao, ổn định trong

thời gian tương đối dài (ít nhất từ 20 - 30 năm) và giải quyết tốt vấn đề tiến bộ
xã hội gắn với bảo vệ môi trường sinh thái.
1.3. Các chỉ số đánh giá tăng trưởng kinh tế
* Tổng giá trị sản xuất ( GO – Gross output ): là tổng giá trị sản phẩm vật
chất và dịch vụ được tạo nên trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia trong một
thời kì nhất định (thường là một năm).
* Tổng sản phẩm quốc nội ( GDP – Gross domestic product ): là tổng giá
trị sản phẩm vật chất và dịch vụ cuối cùng do kết quả hoạt động kinh tế trên
phạm vi lãnh thổ của một quốc gia tạo nên trong một thời kì nhất định.
* Tổng sản phẩm quốc dân ( GNP – Gross national product ): là tổng thu
nhập từ sản phẩm vật chất và dịch vụ cuối cùng do công dân một nước tạo nên
trong một khoảng thời gian nhất định.
* Thu nhập quốc dân ( NI – National income ): là phần sản phẩm vật chất
và dịch vụ mới sáng tạo ra trong một khoảng thời gian nhất định.
* Thu nhập quốc dân sử dụng ( NDI – National disposable income ): là
phần thu nhập của quốc gia dành cho tiêu dùng cuối cùng và tích lũy thuần
trong một thời gian nhất định.
* Thu nhập bình quân đầu người ( GDP\người; GNP\người ): chỉ tiêu này
phản ánh tăng trưởng kinh tế có tính đến sự thay đổi dân số, nó là những chỉ
báo quan trọng phản ánh và là tiền đề để nâng cao mức sống dân cư nói chung.
5

1.4. Các nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế.
* Vốn (K): là yếu tố vật chất đầu vào quan trọng có tác động trực tiếp đến
tăng trưởng kinh tế. Vốn sản vốn sản xuất đứng trên góc độ vĩ mô có liên quan
trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế được đặt ra ở khía cạnh vốn vật chất chứ
không phải dưới dạng tiền, nó là toàn bộ tư liệu vật chất được tích lũy lại của
nền kinh tế vào bao gồm: nhà máy, thiết bị, máy móc, nhà xưởng và các trang
thiết bị được sử dụng như những yếu tố đầu vào trong sản xuất. Ở các nước
đang phát triển sự đóng góp của vốn sản xuất vào tăng trưởng kinh tế thường

chiếm tỷ trọng cao nhất. Đó là sự thể hiện của tính chất tăng trưởng theo chiều
rộng. Tuy vậy tác động của xu hướng này có xu hướng giảm dần và được thay
thế bằng các yếu tố khác.
* Lao động (L): làm một yếu tố đầu vào của sản xuất. Trước đây chúng ta
chỉ quan niệm lao động là yếu tố vật chất đầu vào giống như yếu tố vốn và được
xác định bằng số lượng nguồn lao động của mỗi quốc gia (có thể tính bằng đàu
người hay thời gian lao động). Những mô hình tăng trưởng kinh tế hiện đại gần
đây đã nhấn mạnh đến khía cạnh phi vật chất của lao động và gọi là vốn nhân
lực, đó là các lao động có kĩ năng sản xuất , lao động có thể vận hành được máy
móc thiết bị phức tạp, những lao động có sáng kiến và phương pháp mới trong
hoạt động kinh tế. Việc hiểu yếu tố lao động theo hai nội dung có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng trong việc phân tích lợi thế và vai trò của yếu tố này trong tăng
trưởng kinh tế của các nước phát triển và các nước đang phát triển. Hiện nay
tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển được đóng góp nhiều bởi quy
mô, số lượng lao động, yếu tố vốn nhân lực còn có vị trí chưa cao do trình độ và
chất lượng lao động ở các nước này còn thấp.
* Tài nguyên, đất đai (R): Đất đai được coi là yếu tố quan trọng trong sản
xuất nông nghiệp và là yếu tố không thể thiếu được trong việc thực hiện bố trí
các cơ sở kinh tế thuộc các ngành công nghiệp, dịch vụ. Tài nguyên thiên nhiên
6

từ trong lòng đất, không khí, từ rừng và biển được chia ra làm: tài nguyên vô
hạn và không thể thay thế, tài nguyên có thể tái tạo và tài nguyên không thể tái
tạo. Các nguồn tài nguyên dồi dào phong phú được khai thác tạo điều kiện tăng
sản lượng đầu ra một cách nhanh chóng, nhất là đối với các nước đang phát
triển; một số tài nguyên quý hiếm là những đầu vào cần thiết cho sản xuất song
lại có hạn không thay thế được và không thể tái tạo hoặc nếu tái tạo được thì
phải có thời gian và phải có chi phí tương đương với quá trình tạo ra sản phẩm
mới. Từ những tính chất đó, các tài nguyên được đánh giá về mặt kinh tế và
được tính giá trị như các đầu vào khác trong quá trình sử dụng. Trong nền kinh

tế hiện đại người ta dã tìm cách thay thế để khắc phục mức độ khan hiếm của
tài nguyên và đất đai tromg quá trình tăng trưởng kinh tế, hơn nữa sản phẩm
quốc dân và mức tăng của nó không phụ thuộc nhiều vào dung lượng tài nguyên
thiên nhiên và đất đai. Tuy vậy tài nguyên thiên nhiên và đất đai vẫn là nhân tố
không thể thiếu được của nhiều quá trình sản xuất, nhất là các nước đang phát
triển.
* Công nghệ, kĩ thuật (T): được quan niệm là nhân tố tác động ngày càng
mạnh đến tăng trưởng trong điều kiện hiện đại. Yếu tố công nghệ kĩ thuật cần
được hiểu đầy đủ theo hai dạng: thứ nhất đó là những thành tựu kiến thức, tức
là nắm bắt kiến thức khoa học, nghiên cứu đưa ra những nguyên lý, thử nghiệm
về cải tiến sản phẩm, quy trình công nghệ hay thiết bị kĩ thuật; thứ hai là sự áp
dụng phổ biến các kết quả nghiên cứu, thử nghiệm vào thực tế nhằm nâng cao
trình độ phát triển chung của sản xuất. Yếu tố công nghệ hiểu theo nghĩa toàn
diện như thế đã được K.Marx xem như là “chiếc đũa thần tăng thêm sự giàu có
của cải xã hội”.
Hiện nay các mô hình tăng trưởng hiện đại thường không nói đến nhân tố
tài nguyên đất đai với tư cách là biến số của hàm tăng trưởng kinh tế, họ cho
rằng đất đai là yếu tố cố định còn tài nguyên thì có xu hướng giảm dần trong
7

quá trình khai thác. Mặc khác, những yếu tố tài nguyên và đất đai được sử dụng
có thể gia nhập dưới dạng yếu tố vốn sản xuất (K). Vì vậy, 3 yếu tố trực tiếp tác
động đến tăng trưởng kinh tế được nhấn mạnh là vốn, lao động và năng xuất
yếu tố tổng hợp (TFP – total factor productivity).
2. Lạm phát
2.1. Khái niệm lạm phát
Lạm phát được định nghĩa là sự gia tăng liên tục trong mức giá chung.
Điều này không nhất thiết có nghĩa giá cả của mọi hàng hóa và dịch vụ đồng
thời phải tăng lên theo cùng một tỷ lệ, mà chỉ cần mức giá trung bình tăng lên.
Một nền kinh tế vẫn có thể trải quan lạm phát khi giá của một số hàng hóa giảm

,nếu như giá cả của các hàng hóa và dịch vụ khác tăng đủ mạnh.
Lạm phát cũng có thể được định nghĩa là sự suy giảm sức mua trong nước của
đồng nội tệ. Trong bối cảnh lạm phát, thì một đơn vị tiền tệ chỉ có thể mua được
ngày càng ít hàng hóa và dịch vụ hơn. Hay nói cách khác, khi có lạm phát,
chúng ta sẽ phải chi ngày càng nhiều đồng nội tệ hơn để mua một lượng hàng
hóa và dịch vụ cố định.
Nếu thu nhập bằng tiền không theo kịp tốc độ trượt giá, thì thu nhập thực tế, tức
là sức mua của thu nhập bằng tiền sẽ giảm. Một điều quan trọng mà chúng ta
cần nhận thức là lạm phát không chỉ đơn thuần là sự gia tăng của mức giá mà
đó phải là sự gia tăng liên tục trong mức giá. Nếu như chỉ có một cú sốc xuất
hiện làm tăng mức giá, thì dường như giá cả chỉ đột ngột bùng lên rồi lại giảm
trở lại mức ban đầu ngay sau đó. Hiện tượng tăng giá tạm thời như vậy không
được gọi là lạm phát.
2.2. Phân loại lạm phát.
Xét về mặt định lượng: dựa trên độ lớn nhỏ của tỷ lệ phần trăm lạm phát
tính theo năm người ta chia lạm phát ra thành:
8

* Lạm phát vừa phải: loại lạm phát này xảy ra khi giá cả tăng chậm và tỷ
lệ lạm phát dười 10% một năm. Đây là mức lạm phát mà nền kinh tế chấp nhận
được, với mức lạm phát này, những tác động kém hiệu quả của nó là không
đáng kể.
* Lạm phát phi mã: là tỷ lệ lạm phát khi tỷ lệ tăng giá cả đã bắt đầu tăng
đến hai chữ số mỗi năm. Ở mức lạm phát hai chữ số thấp (11, 12, 13 %/năm),
nói chung những tác động tiêu cực của nó là không đáng kể, nền kinh tế có thể
vẫn chấp nhận được. Nhưng khi tỷ lệ tăng giá ở mức hai chữ số cao, lạm phát sẽ
trở thành kẻ thù của sản xuất và thu nhập vì những tác động tiêu cực của nó là
không nhỏ. Lạm phát hai chữ số trở thành mối đe dọa đến sự ổn định của nền
kinh tế.
* Siêu lạm phát: tùy theo quan niệm của các nhà kinh tế, ngoài các loại

lạm phát trên đây còn có lạm phát ba chữ số. Nhiều người coi các loại lạm phát
này là siêu lạm phát vì nó có tỉ lệ lạm phát rất cao và tốc độ tăng nhanh. Với
siêu lạm phát, những tác động tiêu cực của nó đến đời sống và đến nền kinh tế
trở nên nghiêm trọng: kinh tế suy sụp một cách nhanh chóng, thu nhập thực tế
của người lao động giảm mạnh.
Về mặt định tính người ta chia lạm phát ra thành:
* Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng:
Lạm phát cân bằng: khi nó tăng tương ứng với thu nhập, do vậy lạm phát
không ảnh hưởng đến đời sống của người lao động.
Lạm phát không cân bằng: Tỉ lệ lạm phát tăng không tương ứng với thu
nhập. Trên thực tế, lạm phát không cân bằng thường hay xảy ra nhất.
* Lạm phát dự đoán trước và lạm phát bất thường:
Lạm phát dự đoán trước: lạm phát xảy ra trong một thời gian tương đối
dài với tỉ lệ lạm phát hàng năm khá đều đặn, ổn định. Do vậy, người ta có thể
dự đoán trước được tỉ lệ lạm phát cho những năm tiếp sau.
9

Lạm phát bất thường: lạm phát xảy ra có tính đột biến mà trước đó chưa
hề xuất hiện. Do vậy, tâm lý, cuộc sống và thói quen của mọi người đều chưa
thích nghi được. Lạm phát bất thường gây ra những cú sốc cho nền kinh tế và
sự thiếu tin tưởng của người dân vào chính quyền đương đại.
2.3. Nguyên nhân của lạm phát
* Lạm phát do cầu kéo: khi cầu của người tiêu dùng, doanh nghiệp và
chính phủ về hàng hóa và dịch vụ vượt quá năng lực tạo ra của nền kinh tế.
Thực ra đây cũng là một cách định nghĩa về lạm phát dựa vào nguyên nhân gây
ra lạm phát. Tuy nhiên để cho định nghĩa này có sức thuyết phục thì cần phải
giải thích tại sao chi tiêu lại lớn hơn giá trị sản xuất.
Lạm phát có thể hình thành khi xuất hiện sự gia tăng đột biến trong nhu cầu về
tiêu dùng và đầu tư. Trong nhiều trường hợp, lạm phát thường bắt nguồn từ sự
gia tăng quá mức trong các chương trình chi tiêu của chính phủ. Khi chính phủ

quyết định tăng chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư nhiều hơn vào cơ sở hạ tầng,
thì mức giá sẽ tăng. Ngược lại, khi chính phủ quyết định cắt giảm các chương
trình chi tiêu công cộng, hoặc các công trình đầu tư lớn đã kết thúc, thì mức giá
sẽ giảm.
Lạm phát cũng có nguyên nhân từ nhu cầu xuất khẩu. Tuy nhiên, hàng xuất
khẩu tác động tới lạm phát trong nước theo một cách khác: khi nhu cầu xuất
khẩu tăng, lượng còn lại để cung ứng trong nước giảm và do vậy làm tăng mức
giá trong nước. Ngoài ra, nhu cầu xuất khẩu và luồng vốn chảy vào cũng có thể
gây ra lạm phát, đặc biệt là trong chế độ tỷ giá hối đoái cố định, vì điều này có
thể là nguyên nhân dẫn tới sự tăng lượng tiền cung ứng.
* Lạm phát do chi phí đẩy: lạm phát cũng có thể xảy ra khi một số loại
chi phí đồng loạt tăng lên trong toàn bộ nền kinh tế. Ba loại chi phí có thể gây
ra lạm phát là: tiền lương, thuế gián thu và giá nguyên liệu nhập khẩu. Khi công
đoàn thành công trong việc đẩy tiền lương lên cao, các doanh nghiệp sẽ tìm
10

cách tăng giá và kết quả là lạm phát xuất hiện. Việc chính phủ tăng những loại
thuế tác động đồng thời đến tất cả các nhà sản xuất cũng có thể gây ra lạm phát.
Tương tự như vậy, đối với các nền kinh tế nhập khẩu nhiều loại nguyên liệu,
cấu kiện cần thiết mà nền công nghiệp trong nước chưa sản xuất được, thì sự
thay đổi giá cả của chúng sẽ có ảnh hưởng quan trọng đến tình hình lạm phát
trong nước. Những yếu tố trên có thể tác động riêng rẽ, nhưng cũng có thể gây
ra tác động tổng hợp, làm cho lạm phát ra tăng với tốc độ cao và rất cao.
* Lạm phát do dự tăng một chiều của chi tiêu:
* Lạm phát do cơ cấu: Ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền công danh
nghĩa cho người lao động. Ngành kinh doanh không hiệu quả, vì thế, không thể
không tăng tiền công cho người lao động trong ngành mình. Nhưng để đảm bảo
mức lợi nhuận, ngành kinh doanh kém hiệu quả sẽ tăng giá thành sản phẩm.
Lạm phát nảy sinh vì điều đó
* Lạm phát do kỳ vọng: Lạm phát có được động lực khi công nhân,

người tiêu dùng và doanh nghiệp dự kiến nó sẽ tiếp diễn. Các kì vọng về lạm
phát kích thích công nhân đòi hỏi tăng luơng cao hơn. Các nhà quản lỳ kinh
doanh khi dự đoán lạm phát tiếp sẽ đáp ứng yêu cầu của công nhân, bằng cách
đẩy việc tăng chi phí người tiêu dung, họ mua vật liệu và thiết bị ngay bây giờ
chứ không chờ đến tương lai và trả lãi xuất cao hơn vì họ dự kiến sẽ tăng giá
bán hàng hoá của họ. Những người cho vay đòi hỏi lãi xuất cao hơn vì họ dự
đoán tiền bị mất giá khi thanh toán khoản cho vay sau khi giá cả đã tăng. Người
tiêu dùng mua hàng hóa lâu bền đề phòng với giá tương lai cao hơn. Vì thế, một
khi đã xảy ra, lạm phát sẽ tiếp diễn vì mọi người dự đoán nó sẽ tiếp tục.
* Lạm phát do chính trị: khi một quốc gia có tình hình chính trị bất ổn,
các đảng phái chính trị mâu thuẫn về lợi ích kinh tế. Mỗi đảng phái đều có
những biện pháp để tăng cường tiềm lực tài chính của mình, điều này có thể dẫn
11

đến việc làm cho giá cả các mặt hàng tăng lên, thị trường bất ổn và lạm phát sẽ
xảy ra.
2.4. Ảnh hưởng của lạm phát
- Tác dụng của lạm phát: Lạm phát không phải lúc nào cũng xấu cả. Một số nhà
kinh tế lập luận rằng lạm phát có thể thúc đẩy phát triển kinh tế theo những
cách sau:
* Việc tài trợ lạm phát cho phép chính phủ quản lý phần tiền lớn hơn
bằng cách thu hút các nguồn lực từ những lĩnh vực kém ưu tiên.
* Chính phủ có thể sử dụng tín dụng dành cho lạm phát để phân phối lại
thu nhập, từ người ăn lương để tiết kiệm ít đến nhà tư bản có tỷ lệ hình thành
vốn sản xuất cao.
* Các nhà kinh doanh thường được lợi từ lạm phát vì giá sản phẩm có xu
hướng tăng nhanh hơn giá nguyên liệu đầu vào.
* Lạm phát làm giảm lãi xuất thực tế và gánh nặng nợ nần thực tế đối với
việc mở rộng kinh doanh.
* Áp lực lạm phát đẩy nền kinh tế theo hướng đủ việc làm và sử dụng

đầy đủ hơn lao động và các nguồn lực khác.
- Tác hại của lạm phát:
* Việc phân phối lại của chính phủ từ những người tiêu dùng nhiều đến
người tiết kiệm nhiều thông qua tài trợ lạm phát chỉ có thể có hiệu quả trong
những giai đoạn đầu của lạm phát. Khi người ta dự đoán lạm phát tiếp diễn, họ
tìm cách bảo vệ mình. Đòi hỏi về tiền lương, những điều chỉnh tự động về chi
phí sinh hoạt từ đó làm sai lệch việc phân bổ nguồn lực, thường dẫn đến sự
thiếu hụt, chợ đen và tham nhũng.
* Lạm phát áp đặt một mức thuế lên những người nắm giữ tiền. Chính
phủ hay các nhà kinh doanh có lợi nhờ tài trợ lạm phát thu các nguồn lực từ
12

thuế lạm phát. Để phục hồi giá trị thực tế của số tiền của mình, người ta phải
tích lũy tiền bằng bổ xung theo tỷ lệ tương đương với lạm phát. Người ta tìm
cách tránh thuế bằng cách giữ hàng thay cho tiền.
* Lạm phát làm biến dạng hành vi kinh doanh, đặc biệt là hành vi đầu tư
khi mà mọi tính toán hợp lý về lợi nhuận bị đổ vỡ. Các chủ doanh nghiệp không
đầu tư mạo hiểm vào những ngành cơ sở có thời gian thu hồi vốn dài mà
thường đầu tư vào tài sản mang lại lãi vốn nhằm chống lại lạm phát. Các nhà
kinh doanh theo tiêu phí nhiều nỗ lực vào việc dự báo và đầu cơ theo tỷ lệ lạm
phát hay ngăn ngừa những sự bất ổn kèm theo.
* Lạm phát, đặc biệt khi nó không liên tục và không đều, làm suy yếu
việc hình thành thị trường vốn và tín dụng. Sự không chắc chắn về tăng giá
trong tương lai có thể ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của các ngân hàng tiết
kiệm, cộng đồng những người để dành, thị trường trái phiếu, các quỹ an sinh xã
hội, hưu trí, bảo hiểm và các công cụ nợ của chính phủ.
* Các công cụ tiền tệ và tài chính ở các nước kém phát triển thường quá
yếu nên khó có thể làm giảm lạm phát mà không thiệt hại về thu nhập thực tế,
việc làm và các trương trình phúc lợi xã hội.
* Việc phân phối thu nhập thường kém đồng đều trong các thời kì lạm

phát. Lạm phát phân phối lại thu nhập, ít nhất trong những thời kì đầu, từ những
công nhân có thu nhập thấp và những người có nguồn thu nhập cố định tới các
tầng lớp thu nhập cao. Việc phân phối lại này có thể không tăng tiết kiệm, vì
người giàu có thể mua hàng xa xỉ bằng phần thu nhập tăng của họ.
* Lạm phát làm tăng gia hàng trong nước tương ứng với hàng nước
ngoài, làm giảm khả năng cạnh tranh quốc tế của hàng trong nước và làm giảm
xút cán cân ngoại thương. Lạm phát khuyến khích nhận các dòng vốn nước
ngoài vào vì giá trị thực tế của vốn đầu tư và thu nhập chuyển về nước trong
tương lai bị xói mòn. Sự thâm hụt quốc tế lớn, thường do lạm phát nhanh gây
13

ra, có thể làm tăng gánh nặng nợ nần và hạn chế nhập khẩu những mặt hàng cần
thiết.
3. Mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát
3.1. Tác động của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế
Trong quan niệm của nhiều người, lạm phát có ảnh hưởng tiêu cực đến
tăng trưởng kinh tế vì làm giảm năng suất lao động. Lạm phát bóp méo mức độ
khan hiếm tương đối (phản ánh qua giá cả) của các nguồn lực sản xuất và do đó
bóp méo các quyết định đầu tư và sự phân bổ các nguồn lực khan hiếm này.
Lạm phát còn làm giảm mức khấu trừ thực tế cho phép trong thuế doanh nghiệp
đối với khấu hao tài sản cố định và làm tăng giá thuê tư bản, do đó làm giảm
tích lũy vốn, dẫn đến giảm năng suất. Hàm lượng thông tin liên quan đến biến
động giá cả giảm đi kể cả trong thời kỳ lạm phát ổn định. Như vậy, các nhà đầu
tư thường có xu hướng mắc lỗi trong quyết định của mình và chọn những “gói”
yếu tố sản xuất không phải là tối ưu, làm giảm hiệu quả kinh tế và, do đó, giảm
năng suất.
Tuy nhiên, không ít người lại lập luận rằng lạm phát ở một mức nhẹ lại có tác
dụng tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Chẳng hạn, nhà kinh tế học nổi tiếng
Tobin cho rằng lạm phát làm cho nhà đầu tư tái phân bổ danh mục đầu tư của
mình từ tiền sang chứng khoán, làm giảm lãi suất thực tế và do đó làm tăng đầu

tư và nâng cao năng suất lao động. Ông lập luận thêm rằng “một chút lạm phát
giúp bôi trơn nền kinh tế” vì nó giúp thị trường lao động điều chỉnh cho phù
hợp. Một số khác cũng chỉ ra rằng nhu cầu tăng lên ổn định sẽ gây ra lạm phát ở
mức nhẹ, là cái mà thực ra lại làm tăng, chứ không phải giảm, năng suất lao
động và, do đó, tăng tốc độ tăng trưởng. Vì thế, động thái nhằm đạt mức lạm
phát bằng 0 chẳng qua là chính sách trả trước ngay bây giờ cho nhiều thiệt hại
14

hơn sau này.
Từ một khía cạnh khác, một số người cho rằng lạm phát có ảnh hưởng tiêu cực
đến tăng trưởng kinh tế nếu xét đến mối quan hệ giữa tính bất trắc của lạm phát
trong tương lai với tăng trưởng sản lượng. Họ cho rằng tính bất trắc của lạm
phát càng cao thì tăng trưởng sản lượng càng thấp. Sở dĩ có điều này bởi vì nhà
sản xuất khai thác triệt để tính bất đối xứng về thông tin trên thị trường – thông
tin có được của người tiêu dùng bị hạn chế so với nhà sản xuất – để tăng biên
độ lợi nhuận, do đó làm tăng doanh thu kể cả cho những nhà sản xuất không
thật sự hiệu quả. Việc phân bổ các nguồn lực sản xuất tới những nhà sản xuất
không hiệu quả như vậy sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng. Nhưng ngược lại với
dòng lập luận này, một số nhà kinh tế chỉ ra rằng tính bất trắc của lạm phát lại
có tác động tích cực đến tăng trưởng, nhờ vào động thái tăng tiết kiệm để phòng
ngừa lạm phát. Họ cũng chỉ ra thêm rằng trên thực tế, quan hệ nhân quả giữa
hai biến số này là không nhất quán ở từng trường hợp nghiên cứu quốc gia.
3.2. Sự đánh đổi giữa mục tiêu kiềm chế lạm phát và tốc độ tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng và lạm phát là hai đỉnh có tầm quan trọng hàng đầu của tứ
giác mục tiêu thuộc mọi quốc gia (tăng trưởng cao, lạm phát thấp, thất nghiệp
ít, cán cân thanh toán có số dư). Nhưng đó là mục tiêu lý tưởng, rất khó có
nước nào đạt được cùng một lúc, nên cần có sự lựa chọn ưu tiên, tuỳ hoàn cảnh
của từng nước, trong từng giai đoạn, thậm chí trong từng thời gian ngắn. Để có
thể hạn chế tới mức thấp nhất những tác hại của lạm phát thì ta phải chấp nhận
đánh đổi. Trong những lĩnh vực phải chịu sự trả giá và đánh đổi, thì trước hết

và quan trọng nhất là phải chấp nhận tăng trưởng kinh tế bị chậm lại so với mục
tiêu đã đề ra. Tăng trưởng kinh tế chậm lại để tập trung ưu tiên kiềm chế lạm
phát. Một mặt, mục tiêu tăng trưởng kinh tế là vì con người, mà con người lại
vừa là mục tiêu vừa là động lực của tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, kiềm chế
15

lạm phát là để ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi trường sản suất kinh doanh tốt
hơn, tạo điều kiện cho tăng trưởng kinh tế trung và dài hạn.
Kiềm chế lạm phát thì phải thắt chặt tiền tệ. Nhưng đối với những lĩnh vực sản
xuất hàng hoá cho thị trường trong nước để tăng cung hàng hoá cũng như sản
xuất hàng xuất khẩu thì không những không được thắt chặt, mà còn phải được
bảo đảm đủ vốn, thậm chí còn được ưu tiên, vừa để bảo đảm cho sự bền vững
của tín dụng, vừa duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Vốn đầu tư là yếu tố vật chất trực tiếp quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Khi kiềm chế lạm phát được ưu tiên thì phải cắt giảm đầu tư công (từ ngân sách
nhà nước), kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp Nhà nước. Muốn
vậy, một mặt cần chuyển dịch cơ cấu đầu tư, mặt khác cần nâng cao hiệu quả
đầu tư.
Chuyển dịch cơ cấu đầu tư trong điều kiện hiện nay là chuyển dịch trên các
mặt: tăng nguồn vốn đầu tư của khu vực ngoài nhà nước, nguồn vốn đầu tư
nước ngoài để bù cho phần cắt giảm nguồn vốn đầu tư của khu vực nhà nước;
tập trung đầu tư cho những ngành, lĩnh vực tạo ra sản phẩm đang có giá nóng
hoặc trong nước có lợi thế sản xuất, nhưng đã phải nhập khẩu; đầu tư cho thiết
bị kỹ thuật công nghệ tiêu hao ít nguyên nhiên vật liệu.
Nâng cao hiệu quả đầu tư bằng việc tập trung cho những công trình hoàn thành
sớm đưa vào hoạt động, giảm thiểu chi phí và thời gian giải phóng mặt bằng,
giảm thiểu lãng phí, thất thoát
3.3. Mối quan hệ phi tuyến tính giữa tăng trưởng và lạm phát
Tăng trưởng cao, lạm phát thấp, thất nghiệp ít, cán cân thanh toán có số
dư là một tứ giác đẹp, tứ giác lý tưởng của mọi quốc gia. Giữa các "đỉnh" của tứ

giác này có mối quan hệ khá chặt chẽ, đặc biệt là giữa tăng trưởng và lạm phát.
Tăng trưởng kinh tế cao thì lạm phát thấp; khi thiểu phát hoặc lạm phát cao quá
16

lại làm cho kinh tế tăng trưởng thấp.
Giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát thường có mối quan hệ nhất định. Tuy
nhiên mức độ gắn kết như thế nào vẫn là vấn đề tranh cãi. Một số nghiên cứu
theo lối kinh nghiệm cho thấy, lạm phát có thể tác động tiêu cực đến tăng
trưởng kinh tế khi nó vượt qua một ngưỡng nhất định. Mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế và lạm phát là phi tuyến tính.
Fischer (1993) là người đầu tiên nhiên cứu vấn đề này với kết luận, khi lạm
phát tăng ở mức độ thấp mối quan hệ này có thể không tồn tại , hoặc thậm trí
mang tính đồng biến, và lạm phát ở mức cao mối quan hệ này là nghịch biến.
Một số các nhà Nhiên cứu sau này như Sarel (1996), Gosh và philíp(1998),
Shan và Senhadji(2001), và một số các nhà nghiên cứu khác đã cố gằng tìm ra
đặc điểm đặc biệt về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế. Bằng
các nghiên cứu khác nhau họ đã tìm ra một ngưỡng lạm phát, mà tại ngưỡng đó
nếu lạm phát vượt ngưỡng sẽ có tắc động tiêu cực (tác động ngược chiều) đến
tăng trưởng. Sarel ngưỡng lạm phát là 8%,Shan và Senhadji ngưỡng lạm phát
cho các nước đang phát triển là 11-12%, các nước công nghiệp khoảng 1-3%.
Gân đây nhất là nghiên cứu của tác giả Khan(2005) đã tập trung nghiên cứu xác
định mức lạm phát tối ưu . Kết quả Khan đã tìm ra mức lạm phát tối ưu đối với
các nước vùng trung đông và trung á là khoảng 3.2%.
Học thuyết kinh tế vĩ mô đã khẳng định, nếu sản lượng thực tế vượt sản lượng
tiềm năng sẽ làm lạm phát gia tăng. Thực tế 2005-2006 lạm phát thế giới gia
tăng, ngoài nguyên nhân giá dầu còn do nền kinh tế nhiều nước phát triển quá
nóng.
Sử dụng mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế, một số nước đã sử
dụng lạm phát cao để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên
cứu kinh tế cho rằng, đây là giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh,

17

nhưng kém bền vững. Hay còn nói đó là giải pháp tăng trưởng “ bong bóng”.
Xu hướng các nước phát triển chọn giải pháp tăng trưởng kinh tế thực chất, đó
là dựa trên cơ sở giá cả ổn định ở mức thấp. Căn cứ biện luận cho giải pháp này
là: Trong nền kinh tế thị trường, lạm phát ổn định thì tình dự báo được nâng
cao. Điều đó giúp các nhà đầu tư có thể xây dựng được các phương án đầu tư
hiệu quả. Đối với người tiêu dùng thì chi tiêu yên tâm, họ không phải lo cân
nhắc các mặt hàng khác để thay thế do giá tăng. Tất cả điều đó đã góp phần
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thưc chất. Hiện nay các nước phát triển chọn mức
lạm phát gần 2% là mức tối ưu cho tăng trưởng. Tuy nhiên cũng phải hiểu rằng,
lạm phát ổn định chỉ là điều kiện đủ cho tăng trưởng kinh tế, còn điều kiện cần
cho tăng trưởng phải là vấn đề của Chính phủ trong việc phát triển nguồn lực,
vốn và công nghệ kỹ thuật
II. Tình hình tăng trưởng và lạm phát của Việt Nam thời kì hậu WTO
1. Tổng quan nền kinh tế Việt Nam thời kì hậu WTO
Sau gần hai năm gia nhập, WTO đã thực sự đưa nước ta bước vào một kỉ
nguyên của những cơ hội và rủi ro đồng thời tạo động lực cho Việt Nam đẩy
nhanh quá trình cải cách thể chế theo hướng minh bạch, phù hợp với các quy
tắc kinh tế thị trường, tạo môi trường kinh doanh hấp dẫn cho các nhà đầu tư
nước ngoài, nâng cao được năng lực cạnh tranh của các ngành kinh tế và doanh
nghiệp trong nước. Vậy sau hai năm gia nhập chúng ta đã đạt được những thành
tựu gì?
Năm 2007 là năm đầu tiên Việt Nam trở thành thành viên chính thức của
WTO và thực hiện cam kết PNTR (Thương mại bình thường vĩnh viễn) với Hoa
Kỳ, do đó thị trường xuất khẩu mở rộng, các rào cản thương mại giữa Việt Nam
với các nước thành viên WTO được dỡ bỏ hoặc hạn chế. Nhờ đó kinh tế cả
nước trong năm 2007 tiếp tục phát triển toàn diện và hầu hết các chỉ tiêu kinh tế
18


chủ yếu đều đạt và vượt kế hoạch đề ra. Kinh tế tăng trưởng cao, cơ cấu kinh tế
chuyển dịch theo hướng tiến bộ là thành tựu nổi bật nhất, cơ bản nhất của nền
kinh tế Việt Nam năm 2007. Tổng sản phẩm trong nước ước tăng 8,44%, đạt kế
hoạch đề ra (8,0 - 8,5%), cao hơn năm 2006 (8,17%) và là mức cao nhất trong
vòng 11 năm gần đây. Với tốc độ này, Việt Nam đứng vị trí thứ 3 về tốc độ tăng
GDP năm 2007 của các nước châu Á sau Trung Quốc (11,3%) và Ấn Độ
(khoảng 9%) và cao nhất trong các nước ASEAN (6,1%). Tốc độ tăng trưởng
GDP cả 3 khu vực kinh tế chủ yếu đều đạt mức khá: Khu vực nông - lâm
nghiệp và thủy sản ước tăng 3,0%/ so với mức 3,32% cùng kỳ 2006, khu vực
công nghiệp và xây dựng tăng 10,33% (riêng công nghiệp tăng 10,32%)/ so với
mức 10,4% và 10,32% cùng kỳ và khu vực dịch vụ tăng 8,5%/ so với mức
8,29% của năm 2006. (tính theo giá so sánh năm 1994). Cơ cấu kinh tế theo giá
thực tế chuyển dich theo hướng tích cực. Tỷ trọng GDP khu vực nông - lâm
nghiệp - thủy sản giảm còn dưới 20,0% so với 20,81% năm 2006, khu vực công
nghiệp và xây dựng tăng dần và chiếm trên 41,7% so với 41.56% và khu vực
dịch vụ tăng nhẹ, chiếm 38,3% so với 38,08% trong 2 năm tương ứng. Thu hút
vốn đầu tư nước ngoài đạt mức kỷ lục: Ước tính vốn đăng ký mới và vốn tăng
thêm của các dự án cũ bổ sung cả năm 2007 đạt trên 20,3 tỉ USD, tăng 8,3 tỉ
USD, so năm 2006 (12 tỉ USD), vượt kế hoạch 7 tỉ USD và là mức cao nhất từ
trước đến nay. Tổng số vốn FDI năm 2007 đạt mức gần bằng vốn đầu tư của 5
năm 1991 - 1995 là 17 tỉ USD và vượt qua năm cao nhất 1996 là 10,1 tỉ USD.
Thu nhập bình quân đầu người năm 2007 đạt 835 USD, tăng 15 USD so kế
hoạch. Dự trữ ngoại tệ đạt 20 tỉ USD, cao so với các năm trước. Chi trả nợ nước
ngoài đạt kế hoạch. Nợ công và nợ nước ngoài vẫn ở mức kiểm soát được. Thị
trường chứng khoán đi vào ổn định khi các nhà đầu tư bắt đầu thận trọng hơn.
Tuy nhiên thị trường thế giới biến động lớn, phức tạp đã gây nhiều yếu tố bất
lợi cho nền kinh tế Việt Nam. Giá cả nhiên liệu, vật tư, nhất là xăng dầu, phôi
19

thép, thép, nguyên liệu sợi, vải, vật liệu phục vụ công nghiệp dệt may, da giày,

hóa chất, phân bón, thức ăn chăn nuôi tăng cao. Thị trường xuất khẩu một số
mặt hàng biến động phức tạp như dệt may, da giày, thủy sản, thủ công mỹ nghệ,
xe đạp và phụ tùng, động cơ điện Điều đó đã làm cho giá cả tiêu dùng trong
nước tăng cao liên tục chưa có điểm dừng. Chỉ số giá tiêu dùng ước tăng 12,4%
so với tháng 12-2006. Đây là tốc độ tăng giá cao nhất trong những năm gần
đây, vượt qua tốc độ tăng GDP và không đạt mục tiêu đề ra. Đầu tư xây dựng
cơ bản không đạt kế hoạch giải ngân vốn ngân sách nhà nước. Chung cả năm,
ước tính không đạt kế hoạch đề ra về nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản bằng
nguồn ngân sách nhà nước thông qua các chương trình, dự án quốc gia. Tiến độ
giải ngân vốn đầu tư xây dựng cơ bản cả năm rất chậm. Đến cuối năm 2007, cả
nước mới thực hiện 84,1 nghìn tỉ đồng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước đạt
84,6% kế hoạch năm, lý do là công tác quy hoạch, giải phóng mặt bằng, thủ tục
hành chính và nhất là giá cả vật tư như tăng cao khiến nhiều nhà thầu phải
ngưng thực hiện dự án hoặc tiến độ giải ngân chậm. Tốc độ giải ngân vốn ODA
tuy có nhanh hơn, nhưng vẫn chậm so với yêu cầu. Trong 2 năm 2006 - 2007 cả
nước mới giải ngân đươc 3,9 tỉ USD, tương đương 32% tổng vốn ODA dự kiến
giải ngân thời kỳ 2006 - 2010.
Bước vào năm 2008 Việt Nam chịu tác động mạnh mẽ hơn từ những bất
ổn của kinh tế thế giới, đặc biệt khủng hoảng tài chính kéo theo sự suy giảm của
nhiều nền kinh tế. Thiên tai, dịch bệnh trong nước liên tiếp xảy ra gây thiệt hại
nhiều cho sản xuất và đời sống dân cư. Tuy nhiên, Chính phủ đã tiếp tục chỉ
đạo quyết liệt các cấp, các ngành thực hiện 8 nhóm giải pháp nhằm kiềm chế
lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội nên kinh tế-xã hội nước
ta 10 tháng năm 2008 vẫn phát triển ổn định, kết quả hoạt động sản xuất cụ thể
của từng ngành và lĩnh vực như sau:
20

Giá trị sản xuất công nghiệp 10 tháng đầu năm 2008 ước tính tăng 15,8%
so với cùng kỳ năm trước, bao gồm khu vực kinh tế Nhà nước tăng 5,5%
(Trung ương quản lý tăng 7,7%; địa phương quản lý giảm 1,7%); khu vực kinh

tế ngoài Nhà nước tăng 21,1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 17,8%
(dầu mỏ và khí đốt giảm 8,2%; các ngành khác tăng 20,6%).
Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến ngày 15/10/2008 ước tính
đạt 102,2% dự toán năm, trong đó thu nội địa đạt 96,5%; thu từ dầu thô đạt
98,9%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 121,7%.
Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/10/2008 ước tính đạt
87,8% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển đạt 75,7% (riêng chi đầu tư
xây dựng cơ bản đạt 71,9%); chi phát triển sự nghiệp kinh tế-xã hội, quốc
phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể (gồm cả chi cải cách tiền
lương) đạt 87,5%; chi trả nợ và viện trợ đạt 86,6%.
Lạm phát đã bắt đầu tăng chậm lại. Những nỗ lực kềm chế lạm phát của
chính phủ đã bắt đầu có kết quả, với lạm phát tính theo CPI trong tháng 4 được
giữ ở mức 2.2% so với tháng trước. Tuy nhiên, so với cùng kỳ năm trước, lạm
phát tháng 4 là 21%, cao nhất trong vòng các năm gần đây. Giá tiêu dùng tháng
10/2008 giảm 0,19% so với tháng trước, là lần giảm đầu tiên kể từ đầu năm trở
lại đây.
Mười tháng đầu năm 2008, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt
53,8 tỷ USD, tăng 36,7% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm khu vực kinh tế
trong nước đạt 24,1 tỷ USD, tăng 41,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
(không kể dầu thô) đạt 20,2 tỷ USD, tăng 28,6%; dầu thô đạt 9,5 tỷ USD, tăng
43,2%. Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu 10 tháng ước tính đạt 70,1 tỷ USD, tăng
42,6% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm khu vực kinh tế trong nước đạt trên
21

45,8 tỷ USD, tăng 44,6%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 24,2 tỷ USD,
tăng 39%.
Như vậy qua hai năm là thành viên của tổ chức thương mại lớn nhất thế
giới ta có thể thấy rằng WTO không phải là một bài thuốc thần kì cho sự phát
triển của Việt Nam. Chúng ta có những cơ hội lớn nhưng bên cạnh đó cũng là
những thách thức không nhỏ. Nền kinh tế đã duy trì được một tốc độ tăng

trưởng cao, kim ngạch xuất nhập khẩu tăng, các thể chế, chính sách đã được
minh bạch hóa để phù hợp với các điều luật quốc tế nhưng bên cạnh đó lại nổi
lên hai vấn đề lớn là tình trạng nhập siêu và lạm phát ngày càng gia tăng. Đề có
thể tiếp tục duy trì được đà tăng trưởng cao, kìm chế lạm phát, đưa đất nước
thoát khỏi ảnh hưởng của cơn suy thoái tài chính đang ngày càng lan rộng trên
thế giới đòi hỏi nhà nước phải tiếp tục có những biện pháp điều tiết mạnh mẽ
hơn, chủ động hơn, hợp lý hơn thì mới có thể bắt kịp nhịp độ phát triển cũng
như tính biến động vô cùng phức tạp của nền kinh tế hiện đại ngày nay.
2. Thực chất của tình hình tăng trưởng ở Việt Nam
Mức độ tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia đều phụ thuộc vào các yếu
tố đầu vào và đầu ra. Nghiên cứu về sự đóng góp của các yếu tố đối với tăng
trưởng kinh tế có ý nghĩa về nhiều mặt, không những xác định vị trí của từng
yếu tố để có kế hoạch khai thác, mà còn có ý nghĩa xác định được yếu tố tiềm
ẩn gia tăng lạm phát.
* Tăng trưởng do các yếu tố đầu vào: Tăng trưởng kinh tế xét ở đầu vào,
có ba yếu tố đóng góp. Đó là sự đóng góp của yếu tố số lượng vốn đầu tư, đóng
góp của số lượng lao động và đóng góp của yếu tố năng suất các nhân tố tổng
hợp (TFP). Theo tính toán ban đầu, yếu tố số lượng vốn đầu tư đã đóng góp
khoảng 57%, yếu tố số lượng lao động đóng góp khoảng 20%, yếu tố TFP đóng
góp 23%. Từ sự đóng góp như trên, có thể rút ra một số nhận xét đáng lưu ý.
22

Một là, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam dựa chủ yếu vào sự đóng góp của yếu
tố số lượng vốn đầu tư. Tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP từ năm 2004 đến nay đều
đã vượt qua mốc 40% (năm 2004 đạt 40,7%, năm 2005 đạt 40,9%, năm 2006
đạt 41%, ước năm 2007 đạt 40,4%), kế hoạch năm 2008 còn cao hơn, lên đến
42%.
Đây là tỷ lệ thuộc loại cao nhất thế giới, chỉ sau tỷ lệ trên dưới 44% của Trung
Quốc - một tỷ lệ làm cho tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đạt cao nhất thế
giới, đã nhiều năm liền tăng hai chữ số, hiện đang giữ kỷ lục thế giới về số năm

tăng trưởng liên tục (28 năm), nhưng Trung Quốc đưa ra mục tiêu giảm độ
nóng của tăng trưởng và đẩy mạnh chống lạm phát do tốc độ tăng giá tính theo
năm của tháng 2/2008 đã lên đến 8,3%, cao nhất trong 12 năm qua.
Hai là, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hiện còn dựa một phần quan trọng vào
yếu tố số lượng lao động, sự quan trọng này được xét trên hai mặt. Một mặt, do
nguồn lao động hàng năm vẫn còn tăng khoảng 2%, tức là trên 1 triệu người
mỗi năm. Mặt khác, do tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và tỷ lệ thiếu việc làm ở
nông thôn còn cao.
Ba là, nếu tính cả sự đóng góp của yếu tố số lượng vốn đầu tư và sự đóng góp
của yếu tố số lượng lao động, thì hai yếu tố này đã đóng góp trên ba phần tư
tổng tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Điều đó chứng tỏ, sự đóng góp
của yếu tố TFP đối với tổng tốc độ tăng trưởng kinh tế còn nhỏ, chưa được một
phần tư, thấp chỉ bằng hai phần ba tỷ trọng đóng góp của yếu tố này của các
nước trong khu vực hiện nay.
Điều đó cũng chứng tỏ, nền kinh tế Việt Nam hiện vẫn đi theo hướng tăng
trưởng về số lượng, chưa chuyển sang tăng trưởng về chất lượng, vẫn chủ yếu
phát triển theo chiều rộng, chưa chuyển mạnh sang phát triển theo chiều sâu.
Hiệu quả sử dụng vốn chưa cao: TFP là tổng hợp của các nhân tố hiệu quả sử
dụng vốn đầu tư và năng suất lao động. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư được thể
23

hiện ở nhiều chỉ tiêu. Gần đây, trên các diễn đàn hội thảo và trên một số phương
tiện thông tin đại chúng, khi đề cập đến hiệu quả đầu tư các chuyên gia thường
dùng hệ số ICOR.
Chỉ tiêu này được tính bằng nhiều cách, song theo cách tính đơn giản mà các
chuyên gia đề cập là lấy tỷ lệ vốn đầu tư/GDP chia cho tốc độ tăng trưởng
GDP. Hệ số ICOR càng lớn thì hiệu quả đầu tư càng thấp và ngược lại.
Tỷ lệ vốn đầu tư/GDP và tốc độ tăng GDP thì ICOR qua các thời kỳ như sau:
Tính chung ICOR của Việt Nam trong thời kỳ 1991-2007 là 4,86 lần, cao hơn
nhiều so với 2,7 lần của Đài Loan (trong thời kỳ 1961-1980), 3 lần của Hàn

Quốc (trong thời kỳ 1961- 1980), 3,7 lần của Indonesia (trong thời kỳ 1981-
1995), 4 lần của Trung Quốc (trong thời kỳ 2001-2006), 4,1 lần của Thái Lan
(trong thời kỳ 1981-1995); cũng cao hơn so với 4,6 lần của Malaysia (trong thời
kỳ 1981-1995).
Điều đó chứng tỏ, hiệu quả đầu tư của Việt Nam còn thấp
Hiệu quả đầu tư còn được tính theo cách lấy GDP chia cho vốn đầu tư hàng
năm (đều tính theo giá thực tế). Theo cách này, thì GDP/vốn đầu tư (có nghĩa là
1 đồng vốn đầu tư tạo ra được bao nhiêu đồng GDP) của Việt Nam đã bị sút
giảm qua các thời kỳ: nếu thời kỳ 1991-1995 đạt 3,55 đồng/đồng, thì năm 1996-
2000 còn 3,0 đồng/đồng, 2001-2005 còn 2,56 đồng/đồng, 2006-2007 còn 2,46
đồng/đồng.
Năng suất lao động của toàn nền kinh tế thấp (năm 2007) mới đạt 25.886.000
đồng/người, của nhóm ngành nông, lâm nghiệp - thuỷ sản còn đạt thấp hơn chỉ
có 9.607.000 đồng/người, ngay cả nhóm ngành công nghiệp-xây dựng cao nhất
cũng mới đạt 55.072.000 đồng/người và của nhóm ngành dịch vụ cũng chỉ đạt
38.159.000 đồng/người. (quy ra USD các số liệu tương ứng: khoảng 1.600
USD, 600 USD, 3.438 USD, và 2.385 USD).
24

Các con số trên còn thấp xa so với năng suất lao động chung của thế giới (trên
14.600 USD), còn thấp hơn cả mức bình quân đầu người của thế giới (khoảng
6.500 USD/người). Với năng suất thấp như trên thì giá trị thặng dư còn đang rất
nhỏ nhoi.
Một nền kinh tế tăng trưởng chủ yếu dựa vào vốn, mà hiệu quả đầu tư thấp,
nhất là hiệu quả đầu tư của khu vực kinh tế Nhà nước còn thấp hơn; năng suất
lao động thấp, nên nhu cầu đối với tiền tệ, yêu cầu cung tiền luôn luôn cao,
tạo sức ép làm tăng lạm phát. Sức ép này cộng hưởng với lạm phát trên thế giới
trong khi đồng Việt Nam được neo giá chặt với USD mà USD lại mất giá lớn so
với các đồng tiền mà Việt Nam có quan hệ buôn bán lớn nhất lại càng tạo ra sưc
ép lạm phát tại Việt Nam lớn hơn các nước.

* Tăng trưởng do các yếu tố đầu ra: Tăng trưởng kinh tế xét ở yếu tố đầu
ra có ba yếu tố đóng góp. Đó là sự đóng góp của tiêu dùng cuối cùng, của tích
lũy tài sản, của xuất khẩu ròng (xuất khẩu ròng được tính bằng xuất khẩu trừ đi
nhập khẩu). Có một số nhận xét được rút ra từ đóng góp của các yếu tố đầu ra
đối với tăng trưởng kinh tế:
Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế chủ yếu do tăng trưởng tiêu dùng cuối cùng. Điều
đó được lý giải là do quy mô GDP của Việt Nam còn thấp, nên tỷ trọng tiêu
dùng cuối cùng hiện đang chiếm tỷ trọng lớn trong GDP (trên dưới 70%); mức
tiêu dùng bình quân đầu người trong nhiều năm còn thấp nên nhu cầu và tốc độ
tăng thường khá cao (mấy năm liên tục tăng trên 7%, gần bằng với tốc độ tăng
của GDP).
Một nét quan trọng là tiêu dùng cuối cùng thông qua mua bán trên thị trường
ngày một chiếm tỷ trọng lớn, do tốc độ tăng qua các năm (đã loại trừ yếu tố giá)
gần đây liên tục tăng hai chữ số (năm 2002 tăng 11,2%, năm 2003 tăng 15,2%,
năm 2004 tăng 10,8%, năm 2005 tăng 11,3%, năm 2006 tăng 12,5%, năm 2007
tăng 11,4%). Khi tiêu dùng cuối cùng thông qua mua bán trên thị trường tăng
25

×