Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

mối quan hệ giữa vốn đầu tư, tạo lập, huy động và sử dụng vốn đầu tư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.37 KB, 37 trang )

Mối quan hệ giữa vốn đầu tư, tạo lập, huy động và sử dụng vốn đầu tư
Chương I. Tổng quan về vốn đầu tư, tạo lập huy động và sử dụng vốn đầu
tư.
I .Tổng quan về vốn đầu tư.
1. Khái niệm:
1.1. Khái niệm: Để có thể tạo ra được những tài sản vật chất cụ thể ; nhất
thiết phải sử dụng vốn đàu tư thông qua hoạt động đầu tư. vốn đầu tư
đóng vai trò hết sức quan trọng và là nguồn gốc cho sự phát triển.Theo
luật đầu tư (năm 2005): Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại
tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt
động đầu tư theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp
luật có liên quan.
Nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tích luỹ được thể hiện dưới dạng
giá trị, được chuyển hoá thành vốn đầu tư đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội.
1.2. Phân loại: vốn đầu tư được chia làm hai loại vốn đầu tư sản xuất và
vốn đầu tư phi sản xuất.
- Vốn đầu tư sản xuất là toàn bộ các khoản chi phí nhằm duy trì hoặc gia
tăng mức vốn sản xuất.Vốn đầu tư sản xuất được chia thành vốn đầu tư vào tài
sản cố định và vốn đầu tư vào tài sản lưu động. Trong đó vốn đầu tư vào tài sản
cố định bao gồm vốn đầu tư cơ bản và vốn đầu tư sửa chữa lớn.
+ Vốn đầu tư cơ bản làm tăng khối lượng thực tế của tài sản cố định, bảo
đảm bù đắp số tài sản cố định bị hao mòn và tăng thêm phần xây lấp
dở dang.
+ Vốn đầu tư sửa chữa lớn không làm tăng khối lượng thực tế của tài sản
, do đó nó không có trong thành phần của vốn đầu tư cơ bản.
- Vốn đầu tư phi sản suất : là các nguồn đầu tư vào các tài sản tài chính
như: mua cổ phiếu, trái phiếu…
1
2. Bản chất của nguồn vốn đầu tư
Xét về bản chất nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm hay
tích luỹ mà nền kinh tế có thể huy động để đưa vào quá trình tái sản xuất xã hội.


Điều này đã được cả kinh tế học cổ điển , kinh tế học Mác_Lênin và kinh tế học
hiện đại cách mạng.
Theo lý thuyết của Keynes : Đầu tư chính bằng phần thu nhập mà không
chuyển vào tiêu dùng. Đồng thời ông cũng chỉ ra rằng tiết kiệm chính là phần
dôi ra của thu nhập so với tiêu dùng.
Tức là : Thu nhập = Tiêu dùng + Đầu tư
Tiết kiệm = Thu nhập – Tiêu dùng
Như vậy: Đầu tư = Tiết kiệm
Hay ( I ) = ( S )
Tuy nhiên, điều kiện cân bằng trên chỉ đạt được trong nền kinh tế đóng
khi phần tiết kiệm của nền kinh tế bao gồm tiết kiệm của khu vực tư nhân và tiết
kiệm của cổ phần. Trong nền kinh tế mở, đẳng thức đầu tư bằng tiết kiệm của
nền kinh tế không phảI bao giờ cũng được thiết lập. Vì còn có sự luân chuyển
vốn giữa các nước. Khi phần tích luỹ của nền kinh tế có thể tăng nhu cầu đầu tư
tại nước sở tại, lúc đó vốn có thể được chuyển sang nước khác để thực hiện đầu
tư và ngược lại. Mức chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư được thể hiện trên tài
khoản vãng lai.
CA = S – I
CA: tài khoản vãng lai ( current account )
3. Các yếu tố tác động đến cầu vốn đầu tư.
3.1. Lãi suất tiền vay.
Các nhà đầu tư thường có xu hướng thoanh toán các khoản đầu tư bằng
cách vay vốn. Do đó phải trả lời được câu hỏi liệu lợi nhuận do đầu tư đem lại
có cao hơn so với mức lãi suất phải trả khi chủ đầu tư vay vốn đầu tư hay
không.
2


Lãi suất tiền vay được xem như là giá cả của vốn đầu tư. Nếu mức lãi suất tăng
thì sẽ làm giảm số dự án đầu tư và ngược lại.

3.2. Các nhân tố ngoài lãi suất.
- Chu kỳ kinh doanh : Khi chu kỳ kinh doanh ở vào thời kỳ đi lên quy mô
của nền kinh tế mở rộng, nhu cầu đầu tư gia tăng. Trái lại, khi chu kỳ kinh
doanh ở vào thời kỳ đi xuống, quy mô của nền kinh tế bị thu hẹp lại nhu cầu đầu
tư giảm.
- Thuế thu nhập Doanh nghiệp:Nếu Chính phủ đánh thuế thu nhập cao sẽ
làm tăng chi phí đầu tư và làm cho thu nhập của các doanh nghiệp giảm, làm
nản lòng các nhà đầu tư.
- Môi trường đầu tư: môi trường đầu tư là cơ sở hạ tầng, luật đầu tư, các
thủ tục hành chính; tình hình chính trị – xã hội … Nếu những yếu tố trên đây
thuận lợi thì sẽ khuyến khích được các nhà đầu tư và thu hút được nhiều vốn
đầu tư.
II. Tạo lập vốn đầu tư
1.Định nghĩa
Tạo lập vốn là sự tự tích luỹ tự tạo ra vốn để dầu tư.
3
IoI
1
I0
i
i
1
i
0
D
I
Đối với doanh nghiệp thì đó chính là nguồn vốn góp ban đầu và lọi nhuận
không chia sau mỗi thời kì kinh doanh.Còn Nhà nước có nguồn thu quan trọng
nhất là thuế ngoài ra còn có nhũng khoản thu từ việc cho thuê tài sản cố định các
khoản lãi đầu tư.

2.Bản chất
Nguồn vốn được hình thành, được tích luỹ từ nội tại doanh nghiệp, tổ
chức sử dụng vốn.Nguồn vốn này thể hiện tiềm lực khả năng tài chính của
doanh nghiệp hay của cả Chính phủ.Khi các doanh nghiệp kinh doanh tốt dạt
dược lợi nhuận cao thì nguồn vốn tích luỹ được càng lớn việc mở rộng qui mô
sản xuất, đầu tư sẽ dễ dàng hơn.Nền kinh tế ổn định nguồn thu từ thuế được đảm
bảo Nhà nước sẽ tạo được nguồn vốn lớn cho đầu tư và chi tiêu của mình.
Đối với cac doanh nghiệp thì muốn tạo lập được thì doanh nghiệp làm ăn cần
phải có lãi.Còn với Chính phủ không thể tuy y tăng thuế để bù đắp cho những
nguôn chi thâm hụt ngân sách mà phải tuân theo xu hướng thị trường.
3.Vai trò
Tạo lập vốn có vai trò hết súc quan trọng trong đầu tư.Nguồn vốn tự tạo
lập chính là nguồn vốn đầu tiên được sử dụng trong hoạt động đầu tư.nguồn vốn
tự tạo lập chiếm một tỷ trọng cao trong cơ cấu vốn đầu tư.Đây là nguồn vốn rất
quan trọng và là cơ sở để có thể thu hút huy động vốn đầu tư bên ngoài.Bởi mỗi
dự án khi kêu goi đầu tư thì bản thân chủ đầu tư phải có từ 15%-30% vốn nếu
không việc vay vốn sẽ khó khăn hơn.
Không chỉ đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu vốn nguồn vốn này còn giúp
cho các nhà đầu tư chủ động hơn trong viêc thực hiện các dự án.Nhờ có nguồn
vốn tự tích luỹ nên khi vốn góp từ bên ngoài chua chuyển về thì chủ dự án vẫn
có thể cho tiến hành ngững công đoạn đầu để tiết kiêm thời gian như việc san
lấp mặt bằng.
Nguồn vốn tự tạo lập,tự tích luỹ của các chủ đầu tư càng lớn thì số tiền phải đi
vay của dọ sẽ ít đi.Do đó áp lực bởi vay vốn sẽ giảm đi.
4
III.Huy động VĐT.
1.Định nghĩa
Huy động vốn là sự điều động chuyển dịch tập trung các nguồn vốn
nguồn lực để thực hiện một dự án một công trình. Các dự án đầu tư, đặc biệt là
đầu tư phát triển đều cần những nguồn vốn rất lớn. Đồng thời do có sự khác

nhau trong quy mô, tỷ lệ tiết kiệm, khả năng tích luỹ ở mỗi nơi và đòi hỏi của sự
tăng trưởng kinh tế nên đòi hỏi cần có các nguồn hỗ trợ cho các dự án đầu tư
Huy động vốn bao gồm kêu gọi vốn góp cùng đầu tư thực hiện dự án và hình
thức đi vay vốn bên ngoài.
2. Bản chất
Luôn có sự chênh lệch giũa nhu cầu sử dụng vốn trong nền kinh tế.Có thể
có cá nhân,doanh nghiệp tại một thời điểm nào đó có tích luỹ nhưng không trực
tiếp tham gia đầu tư.Trong khi đó có những cá nhân. doanh nghiệp có nhu cầu
đầu tư rất lớn nhưng nguồn vốn tự tạo lâp lại chưa thể đáp ứng được.Vì vậy cần
có sự huy động vốn từ những nơi thừa vốn sang những nơi cần vốn,từ những
người chưa có nhu cầu sử dụng đến những người có nhu cầu sử dụng vốn lớn.
Nguồn vốn được huy động trong một quồc gia bao gồm cả nguồn vốn trong
nước và nguồn vốn huy động nước ngoài.
3. Các nguồn huy động VĐT.
3.1. Nguồn vốn trong nước
3.1.1. Nguồn vốn Chính Phủ
Nguồn vốn đầu tư Nhà nước bao gồm nguồn vốn của ngân sách Nhà
nước, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
 Nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước.
5
Đây là nguồn chi của ngân sách Nhà nước cho đầu tư. Đó chính là một
nguồn vốn đầu tư quan trọng trong chiến lược phát triển Kinh tế _ xã hội của
mỗi quốc gia . Nguồn vốn này thường được sử dụng cho các dự án kết cấu hạ
tầng, quốc phòng, an ninh
 Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển Nhà nước.
Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là một hình thức quá độ
chuyển từ phương thức cấp phát vốn ngân sách sang phương thức tín dụng đối
với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp.Bên cạnh đó, vốn tín dụng đầu
tư phát triển của Nhà nước còn phục vụ công tác quản lý và điều tiết kinh tế vĩ
mô; tác dụng tích cực trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

3.1.2. Nguồn vốn của các Doanh nghiệp.
 Nguồn vốn bên trong của Doanh nghiệp.
Nguồn vốn đầu tư của các Doanh nghiệp chủ yếu bao gồm từ khấu hao
tài sản cố định và phần thu lợi nhuận không chia ( hay lợi nhuận giữ lại).
Lợi nhuận sau khi đóng thuế của Doanh nghiệp được xác định :
Pr sau thuế = Pr trước thuế - T
de
với Pr : lợi nhuận
T
de
: là thuế thu nhập của công ty.
Nguồn vốn tái đầu tư từ lợi nhuận để lại chỉ có thể thực hiện được nếu
Doanh nghiệp đã và đang hoạt động và có lợi nhuận. Đối với Doanh nghiệp Nhà
nước thì việc tái đầu tư phụ thuộc không chỉ vào khả năng sinh lời của bản thân
Doanh nghiệp, mà còn phụ thuộc vào chính sách tái đầu tư của Nhà nước. Đối
6
với công ty cổ phần việc để lại lợi nhuận còn liên quan đến tỷ lệ chia cổ tức cho
các cổ đông.
 Nguồn vốn bên ngoài:
Nguồn vốn này có thể hình thành từ việc vay nợ hoặc phát hành chứng
khoán ra công chúng thông qua hai hình thức tài trợ chủ yếu: tài trợ gián tiếp
qua các trung gian tài chính ( Ngân hàng Thương mại, các tổ chức tín dụng )
hoặc tài trợ trực tiếp ( qua thị trường vốn: thị trường chứng khoán, hoạt động tín
dụng thuê mua ).
Việc huy động vốn qua thị trường chứng khoán có ưu điểm là quy mô huy
động rộng rãi, đồng thời yêu cầu công khai minh bạch cũng tạo điều kiện và sức
ép buộc Doanh nghịêp sử dụng vốn có hiệu quả hơn. Tuy nhiên tính cạnh tranh
và rủi ro tại thị trường này rất cao.
3.1.3. Nguồn vốn của dân cư.
Nguồn vốn trong dân cư phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của các hộ gia

đình. Quy mô của nguồn tiết kiệm này phụ thuộc vào : trình độ phát triển của đất
nước; tập quán tiêu dùng của dân cư; chính sách động viên của Nhà nước thông
qua chính sách thuế thu nhập và các khoản đóng góp của xã hội.
3.2. Nguồn VĐT nước ngoài.
3.2.1. Nguồn VĐT trực tiếp FDI.
Là nguồn VĐT của tư nhân nước ngoài để đầu tư cho sản xuất, kinh
doanh và dịch vụ nhằm mục đích thu lợi nhuận. Đây là nguồn vốn lớn có ý
nghĩa quan trọng trong phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển. Nguồn vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài có đặc điểm cơ bản là viêc tiếp nhận nguồn vốn này
không phát sinh nợ cho nước tiếp nhận vốn. Đồng thời nó còn mang lại nhiều lợi
7
nhuận vì vậy FDI trở thành một tất yếu kinh tế trong điều kiện quốc tế hoá sản
xuất và lưu thông. Đầu tư FDI tồn tại dưới dạng nhiều hình thức, song những
hình thức chủ yếu là hợp đồng hợp tác kinh doanh; doanh nghiệp liên doanh;
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. FDI giải quyết tình trạng thiếu vốn cho
phát triển kinh tế - xã hội; thực hiện chuyển giao công nghệ, kỹ thuật tiên tiến
hiện đại. Đầu tư FDI làm cho hoạt động đầu tư trong nước phát triển, tăng khả
năng cạnh tranh trong nước. Việc tiếp nhận FDI không đẩy các nước vào cảnh
nợ nần, không chịu những ràng buộc về chính trị, xã hội.
3.2.2. Nguồn vốn ODA.
Nguồn vốn ODA là nguồn tài chính do các cơ quan chính thức của một
nước hoặc một tổ chức quốc tế viện trợ cho các nước đang phát triển nhằm thúc
đẩy sự phát triển kinh tế và phúc lợi xã hội của các nước này. So với các hình
thức tài trợ khác, ODA mang tính ưu đãi cao cả về lãi suất, thời hạn,khối lượng
và bao giờ cũng có yếu tố không hoàn lại ( ít nhất 25 % ). ODA là nguồn vốn
cực kỳ quan trọng cho công cuộc phát triển kinh tế của các nước đang phát triển.
Thông qua các dự án ODA, cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội của nước tiếp nhận
được nâng lên một bước.Thông qua các dự án ODA về giáo dục, đào tạo, y
tế, giúp cho trình độ dân trí, chất lượng lao động được nâng cao. Tuy nhiên,
ODA có thể gắn với những ràng buộc về chính trị, xã hội.

3.2.3. Nguồn vốn tín dụng Thương mại Quốc tế.
Tín dụng thương mại là nguồn vốn mà các nước nhận vốn vay sau một
thời gian phải hoàn trả cả vốn lẫn lãi cho nước cho vay. Thủ tục vay đối với
nguồn vốn này thường tương đối khắt khe, thời gian trả nợ nghiêm ngặt, mức lãi
suất cao. Vốn vay dưới dạng tiền tệ, các Doanh nghiệp vay vốn có thể toàn
quyền sử dụng. Đồng thời, khi sử dụng không phải chịu bất cứ ràng buộc nào về
kinh tế - chính trị. Tuy nhiên, do đây là nguồn vốn cho vay với lãi suất Thương
8
mại nên nếu các nước tiếp nhận không sử dụng hiệu quả thì nguy cơ dẫn đến
tình trạng mất khả năng chi trả; dẫn đến tình trạng vỡ nợ.
IV. Sử dụng VĐT.
Sử dụng VĐT chính là việc giải ngân, đưa vào sử dụng các nguồn lực,
nguồn vốn đã tích luỹ, huy động được thông qua hoạt động đầu tư:
A.Hoạt động đầu tư bao gồm: đầu tư phát triển và đầu tư phi phát triển.
- Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc chi dùng vốn trong
hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra những tài
sản vật chất và tài sản trí tuệ, gia tăng năng lực sản xuất, tạo thêm việc làm và vì
mục tiêu phát triển.
Mục đích của đầu tư phát triển là vì sự phát triển bền vững, vì lợi ích quốc
gia, cộng đồng và nhà đầu tư. Trong đó đầu tư Nhà nước nhằm thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, tăng thu nhập quốc dân, góp phần giảI quyết việc làm và nâng
cao đời sống của các thành viên trong xã hội. Đầu tư của Doanh nghiệp nhằm tối
thiểu chi phí tối đa lợi nhuận, nâng cao khả năng cạnh tranh.
- Đầu tư phi phát triển là loại đầu tư không trực tiếp làm tăng tài sản thực
cho nền kinh tế mà chỉ làm tăng giá trị tài sản chính cho chủ đầu tư. Đầu tư phi
phát triển bao gồm đầu tư tài chính và đầu tư thương mại.
Đầu tư tài chính là đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc
cho mua các chứng chỉ có giá trên thị trường tiền tệ, thị trường vốn để hưởng lãi
suất định trước hoặc lợi nhuận tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản suất kinh
doanh của công ty phát hành. đầu tư tài chính thường được thực hiện gián tiếp

quá các trung gian tài chính như Ngân hàng, Công ty chứng khoán.
Đầu tư tài chính là kênh huy động vốn rất quan trọng cho hoạt động đầu
tư phát triển và là một trong những loại hình đầu tư để tối đa hoá lợi ích, giảm
thiểu rủi ro cho các chủ đầu tư.
9
Đầu tư thương mại là hình thức sử dụng vốn mua hàng hoá nhằm mục
đích bán lại với giá cao hơn. Đầu tư thương mại không làm tăng tài sản cho nền
kinh tế nhưng lại góp phần thúc đẩy lưu thông hàng hoá một cách thuận tiện cho
nền kinh tế.
Tác động của đầu tư phát triển đến tăng trưởng và phát triển.
- Đầu tư phát triển tác động đến tổng cung, tổng cầu của nền kinh tế: tăng
đầu tư làm gia tăng cả tổng cầu tổng cung của nền kinh tế. Sản xuất phát triển là
nguồn gốc tăng tích luỹ, tăng thu nhập, năng cao đời sống
- Tác động của đầu tư phát triển đến tăng trưởng kinh tế: Đầu tư vừa tác
động đến tốc độ tăng trưởng vừa tác động đến chất lượng tăng trưởng. Tăng quy
mô đầu tư cộng với việc sử dụng vốn đầu tư hiệu quả sẽ nâng cao chất lượng
tăng trưởng kinh tế. Hệ số ICOR : là tỷ số giữa quy mô đầu tư tăng thêm với
mức gia tăng sản lượng hay là suất đầu tư cần thiết để tạo ra một đơn vị sản
lượng ( GDP ) tăng thêm.
ICOR = Vốn đầu tư tăng thêm = Đầu tư trong kỳ
GDP tăng thêm GDP tăng thêm.
= Tỷ lệ vốn đầu tư / GDP
Tốc độ tăng trưởng kinh tế.
- Đầu tư phát triển tác động đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Đầu tư
có tác động quan trọng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đầu tư góp phần làm
chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp quy luật và chiến lược phát triển kinh tế –
xã hội của quốc dân và giữa các ngành, vùng.
- Tác động của đầu tư phát triển khoa học và công nghệ: Dù nhập hay tự
nghiên cứu để có công nghệ cũng đều đòi hỏi lượng vốn đàu tư lớn. Mỗi doanh
nghiệp, mỗi nước khác nhau cần phảI có bước đi phù hợp để lựa chọn công

nghệ thích hợp. Trên cơ sở đó, đầu tư có hiệu quả để phát huy lợi thế so sánh
của từng đơn vị cũng như toàn nền kinh tế quốc dân.
B. Để sử dụng vốn đầu tư hiệu quả cần tuân theo một số nguyên tắc.
10
- Mục tiêu của đầu tư, của dự án cần tuân theo định hướng mục tiêu phát
triển kinh tế – xã hội của nền kinh tế. Sự thay đổi của cơ cấu đầu tư phải phù
hợp với mục tiêu đã xác định của toàn bộ nền kinh tế trong từng thời kỳ phát
triển.
- Đầu tư phải xuất phát từ tình hình cung – cầu của thị trường, trên cơ sở
nghiên cứu thị trường để quyết định phương hướng đầu tư mới nâng cao được
hiệu quả trong đầu tư.
- Hoạt động đầu tư cần đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả. Trong đầu tư tiết
kiệm và hiệu quả thể hiện ở chỗ: với một lượng vốn đầu tư nhất định phải đem
lại hiệu quả kinh tế- xã hội đã dự kiến với chi phí đầu tư thấp nhất.
Biểu hiện tập trung nhất của nguyên tắc tiết kiệm hiệu quả là đạt được lợi nhuận
cao, tăng sản phẩm quốc nội, tăng giá trị gia tăng, tăng thu nhập, bảo vệ môI
trường, phát triển văn hoá- giáo dục…
- Kết hợp hài hoà các lợi ích trong đầu tư: Trong hoạt động đầu tư, kết
hợp hài hoà các loại lợi ích thể hiện sự kết hợp giữa lợi ích của xã hội với lợi ích
cá nhân và tập thể; giữa lợi ích chủ đầu tư, nhà thầu và lợi các thành viên có thể
mâu thuẫn. Vì vậy vần có sự kết hợp hài hoà theo luật định.
- Cần có các bước lập kế hoạch cho các dự án, các hoạt động đầu tư. Kế
hoạch đầu tư sẽ giúp nhà đầu tư phối hợp tốt các nguồn lực, điều chỉnh và hạn
chế những khuyết tật, tránh thất thoát, lãng phí.
- Cần có những ban ngành, quản lý giám sát chặt chẽ các hoạt động đầu tư
V. Mối quan hệ giữa tạo lập , huy động và sử dụng vốn đầu tư.
1. Tính tất yếu khách quan phải tạo lập huy động và sử dụng vốn đầu tư.
Tạo lập, huy động là nguồn gốc , cơ sở của sử dụng vốn đầu tư. Chỉ có
thông qua tự tích luỹ và huy động tích luỹ các đầu tư mới có thể có được nguồn
lực nguồn vốn để đầu tư. Theo Adam Smith thì : " Tiết kiệm là nguyên nhân

trực tiếp gia tăng vốn. Lao động tạo ra sản phẩm để tích luỹ cho quá trình tiết
kiệm. Nhưng dù có tạo ra bao nhiêu đi chăng nữa , nhưng không có tiết kiệm thì
11
vốn không bao giờ tăng lên". Chính vì vậy tất yếu cần phải có tạo lập và huy
động vốn trong bất kỳ một nền kinh tế nào. Chỉ khi đã thực hiện được qua trình
tạo lập và huy động thì mới có thể có được nguồn vốn để tham gia vào hoạt
động đầu tư duy trì và tái sản xuất mở rộng nền kinh tế. Đối với tạo lập thì đó là
nguồn vốn ban đầu, tiềm lực khả năng tự tích luỹ. Đối với huy động vốn đó là
nguồn đóng góp bên ngoài, là nguồn vốn cực kỳ quan trọng, động lực thúc đẩy
hoạt động đầu tư. Đối với các nước đang phát triển thì khả năng tích luỹ còn
kém cần thiết phải có nguồn hỗ trợ từ nước ngoài. Mặt khác do đòi hỏi giao lưu
quốc tế hiện nay các nước công nghiệp phát triển cần có sự kết hợp nguồn vốn
đầu tư trong nước và nước ngoài phục vụ công cuộc phát triển kinh tế. Khi nền
kinh tế phát triển thì khả năng tích luỹ, tạo lập và huy động vốn lại càng nâng
cao.
Sử dụng vốn đầu tư là kết quả, mục tiêu tạo lập và huy động vốn. Khi đã
có sự tích tụ và tập trung vốn đến một mức nhất định thông qua quá trình tạo
lập và huy động thì nhà đầu tư đã có được " nguyên liệu " trong tay để tiến hành
đầu tư. Mỗi cá nhân, tập thể hay một chính phủ đều có những mục tiêu, những
kế hoạch khác nhau. Chủ đầu tư cá nhân và doanh nghiệp thì mong muốn thu
được lợi nhuận; Nhà nước có mục tiêu tăng trưởng kinh tế nâng cấp cơ sở hạ
tầng,cải tiến phúc lợi Dù cho có mục đích khác nhau, nhưng để đạt được nhưng
mục đích này thì đều cần phải sử dụng vốn đầu tư thông qua hoạt động đầu tư.
Bất kể là đầu tư phát triển, đầu tư tài chính hay đầu tư thương mại thì đó đều là
thành quả từ việc tập trung nguồn lực qua hoạt động tạo lập và huy động. Tuy
nhiên nếu không có hoạt động đầu tư, hoạt động sử dụng vốn đầu tư thì sẽ
không còn cần thiết phải tạo lập và huy động vốn đầu tư. Vì vậy tạo lập, huy
động vốn đầu tư có mối quan hệ mật thiết, khăng khít là những điều kiện cần và
thiết yếu cho hoạt động duy trì và tái sản xuất. Nếu thiếu đi bất kỳ một bước một
hoạt động nào thì sẽ không thể có sự tăng trưởng kinh tế.

Nhất thiết cần có tạo lập và huy động vốn để sử dụng vốn đầu tư thông
qua hoạt động đầu tư để duy trì và phát triển nền kinh tế của một quốc gia.
12
Trong quá trình vận hành của nền kinh tế thì tất yếu phải có hoạt động đầu tư, để
phục hồi năng lực sản xuất cũ và tạo thêm năng lực sản xuất mới. Do sự hao
mòn của tài sản cố định và sự tham gia một lần của tài sản lưu động vào quá
trình sản xuất, vì vậy cần phải tiến hành đầu tư để bù đắp giá trị tài sản cố định
bị hao mòn và duy trì dự trữ nguyên vật liệu cho quá trình sản xuất tiếp theo. Do
nhu cầu quy mô sản xuất xã hội ngày càng mở rộng đòi hỏi phải tiến hành đầu
tư tăng thêm tài sản cố định mới và tăng thêm dự trữ tài sản lưu động. Do ngày
nay,tiến bộ công nghệ diễn ra khá mạnh mẽ, nhiều máy móc, thiết bị nhanh
chóng bị rơi vào trạng thái lạc hậu công nghệ. Nên cần phải tiến hành đầu tư
mới nhằm thay thế các tài sản sản xuất đã bị hao mòn vô hình. Qua đây, ta nhìn
rõ vai trò của hoạt động đầu tư là hết sức cần thiết, từ đó thấy được tầm quan
trọng vai trò quyết định của vốn đầu tư trong quá trình duy trì và phát triển nền
kinh tế.
2. Phân tích tác động của tạo lập, huy động đến việc sử dụng vốn đầu tư.
Tạo lập, huy động vốn là đầu vào là nguồn cung cung của vốn đầu tư. Chỉ
khi tạo lập và huy động có hiệu quả thì mới có thể tich tụ tập trung được nguồn
vốn để sử dụng. Tạo lập và huy động được đủ vốn cho yêu cầu của nền kinh tế
thì quá trình đầu tư có thể mở rộng thực hiện đồng bộ, đa dạng cả về chiều dọc
lẫn chiều sâu. Nếu tạo lập và huy động vốn kém sẽ dẫn tới thiếu vốn, khi đó
nguồn vốn sẽ trở nên khan hiếm, hoạt động đầu tư trỏ nên khó khăn làm cho nền
kinh tế trở nên trì trệ.
Tạo lập và huy động vốn rất cần thiết cho hoạt động đầu tư, nếu tạo lập và
huy động được ít vốn sẽ làm cho hoạt động đầu tư khó thực hiện. Tuy nhiên tạo
lập và huy động được nguồn vốn quá nhiều vượt quá nhu cầu hiện tại thì vừa
làm giảm đi tiêu dùng trong nền kinh tế, gây tác động xấu cho tăng trưởng kinh
tế, vừa gây khó khăn trong việc sử dụng, hấp thụ, giải ngân nguồn vốn. Khi đó
việc kiểm soát vốn đầu tư và hoạt động vốn đầu tư rất khó khăn, hoạt động đầu

tư tràn lan thiếu hiệu quả dễ gây ra thất thoát lãng phí.
13
3. Phân tích tác động ngược lại giữa sử dụng đối với tạo lập và huy động
vốn đầu tư.
Nhu cầu về sử dụng vốn đầu tư đòi hỏi cần có lượng vốn đầu tư như thế
nào giúp chúng ta xác định được nhiệm vụ, khối lượng vốn cần tạo lập và huy
động. Khi nhu cầu sử dụng vốn lớn thì cần có những chính sách khuyến khích
để tăng cường tạo lập và huy động vốn đáp ứng đủ yêu cầu. Tuỳ từng quốc gia
với nền tảng phát triển, cơ cấu sử dụng vốn khác nhau mà việc tạo lập và huy
động vốn có sự khác nhau. Trong mỗi nứơc thì hệ số ICOR của từng ngành ,
từng vùng, từng nền kinh tế có sự khác nhau. Và qua đó thì tỷ trọng vốn đầu tư
của từng ngành từng khu vực là khác nhau. Theo công thức dự báo : Tổng nhu
cầu vốn đầu tư.
Tổng nhu cầu vốn đầu tư = GDP tăng thêm x Hệ số ICOR
do đầu tư mới.
Khác với nước phát triển thường thì các nước đang phát triển có hệ số
ICOR ngành nông nghiệp thấp hơn công nghiệp. Tuỳ theo hệ số ICOR và chính
sách kinh tế của mỗi ngành mỗi nước mà nhu cầu vốn đầu tư là khác nhau, nên
việc tạo lập và huy động vốn quá nhiều vốn vào một ngành đã bão hoà thiếu
hiệu quả trong khi đó những ngành khác lại khan hiếm vốn.
Khi việc sử dụng vốn đạt hiệu quả sẽ làm tăng thêm niềm tin của nhà đầu
tư về khả năng sinh lời của số vốn họ bỏ ra. Có nghĩa khi vốn đầu tư được sử
dụng càng hiệu quả thì khả năng thu hút của nó càng lớn.Do đó đối với các
nguồn vốn đầu tư phải xác định yếu tố hiệu quả là yêu cầu về mặt chất lượng
của việc huy động vốn trong lâu dài.
Tuy nhiên, nếu việc sử dụng vốn thiếu hợp lý không chỉ gây thất thoát,
lãng phí, thiếu niềm tin ở nhà đầu tư mà còn là nguyên nhân lớn thúc đẩy lạm
phát trong nước.Dễ đưa nền kinh tế vào tình trạng khó khăn ảnh hưởng lớn tới
việc thu hút, tạo lập nguồn vốn
14

Chương II- Thực trạng tạo lập, thu hút và sử dụng vốn đầu tư
ở Việt Nam
1. Tạo lập vốn đầu tư
Đứng trên quan điểm doanh nghiệp thì tạo lập vốn được chia thành hai
thời kì:
• Trước khi doanh nghiệp được thành lập nguồn tạo lập vốn là từ nguồn
vốn chủ sở hữu và nguồn đi vay.
Nguồn vốn doanh nghiệp được hình thành từ:
- Vốn chủ sở hữu: đối với doanh nghiệp nhà nước thì nguồn vốn
này có được do Nhà nước.Nguồn vốn này được tài trợ từ ngân
sách nhà nước và nguồn thu ngân sách không gì khác ngoài thuế.
Hiện nay, vốn Nhà nước trong các doanh nghiệp chỉ vào khoảng trên
200.000 tỷ đồng, nhưng nếu được định giá theo thị trường và bán ra bên ngoài
thì có thể sẽ lên tới 300.000 - 400.000 tỷ đồng. Cụ thể, số lượng doanh nghiệp
Nhà nước hiện chỉ còn chiếm 3.61% tổng số doanh nghiệp trong cả nhà nước .
- Lợi nhuận giữ lại có xu hướng tăng.Trong giai đoạn từ năm 2001 đến
năm 2005 doanh thu tăng bình quân 11.2%/năm. Đây la tín hiệu tốt của doanh
nghiệp vì lợi nhuận giữ lại là một phần của lợi nhuận doanh nghiệp sau khi trừ
đi phần thuế nộp cho nhà nước và chi cổ tức chô các cổ đông.Nó trực tiếp làm
tăng nguồn vốn chủ sở hữu trong doanh nghiệp tạo sự chủ động và an toàn cho
các mục tiêu đầu tư trong tương lai của doanh nghiệp.
- Vốn vay từ các ngân hàng thương mại đây là phần quan trọng và chiếm
tỷ trọng lớn nhất trong tổng lượng vốn má doanh nghiệp hiện nay đang thu hút.
Nó chiếm khoảng trên 20% nguồn vốn của doanh nghiệp và ngày càng tăng.
Hiện nay doanh nghiệp nhá nước vẫn là khách hàng thường xuyên của các ngân
hàng thương mại chiếm 30% tổng số vốn cho vay.
• Sau khi doanh nghiệp thành lập thi tạo lập vốn được hình thành từ vốn
chủ sở hữu và vốn từ quỹ đầu tư phát triển được trích từ lợi nhuận sau
thuế được giữ lại.
15

Nếu nhà nước đánh thuế quá cao sẽ dẫn dến khả năng tạo lập vốn của các
doanh nghiệp bị thu hẹp.
2. Huy động vốn đầu tư
Việc thực hiện hoạt động thu hút vốn đầu tư đã đạt được một số kết quả tích
cực về bốn mặt:
- Tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP liên tục tăng qua các năm và đến nay đã đạt
38,7%, thuộc loại cao nhất thế giới, có chăng chỉ thấp thua tỷ lệ trên 40% của
Trung Quốc. Đối với nước có điểm xuất phát còn thấp, muốn tăng trưởng cao
và chống tụt hậu xa hơn thì đòi hỏi phải có một lượng vốn lớn là rất có ý nghĩa.
- Cơ cấu nguồn vốn huy động đã có bước chuyển dịch quan trọng. Điểm nổi
bật nhất là sự tăng lên mạnh mẽ của đầu tư từ khu vực kinh tế tư nhân, với tỷ
trọng trong tổng số vốn đã lên đến 32,4%, cao hơn mười điểm phần trăm so với
cách đây 5 năm. Đó là kết quả của việc thực hiện Luật Doanh nghiệp. Một điểm
nổi bật khác là đã có trên 70 nước và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp (FDI) với
tổng số vốn đăng ký mới và bổ sung tính từ năm 1988 đến nay đạt trên 66 tỉ
USD, với số vốn thực hiện đạt được một nửa. Nguồn vốn này đã góp phần tăng
trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, tăng kim ngạch xuất khẩu, đóng góp ngân
sách Đã có 45 nước và định chế tài chính quốc tế đã cam kết với số vốn hỗ trợ
phát triển chính thức (ODA) lên đến 30 tỉ USD và số vốn giải ngân đạt khoảng
16 tỉ USD. Nguồn vốn này đã được ưu tiên sử dụng để hỗ trợ phát triển hạ tầng
kinh tế - xã hội, góp phần tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo. Nhiều
công trình quan trọng trong các lĩnh vực giao thông vận tải, năng lượng, thủy lợi
quy mô lớn, giáo dục đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế, chăm sóc sức khỏe
đã được xây dựng và nâng cấp. Nguồn vốn này đã góp phần tăng cường năng
lực và thể chế thông qua các chương trình, dự án hỗ trợ xây dựng pháp luật, cải
cách hành chính, xây dựng chính sách và cơ chế quản lý, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực Tỷ trọng nguồn vốn Nhà nước tuy đã giảm nhưng vẫn còn
16
chiếm quá nửa tổng vốn đầu tư, có tác dụng hình thành các công trình trọng
điểm của quốc gia, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đầu tư vào những ngành, lĩnh

vực, vùng mà các nguồn vốn khác không muốn đầu tư, có tác động là vốn mồi
để thu hút các nguồn vốn khác
- Cơ cấu đầu tư đã chuyển dịch theo hướng tích cực, tập trung cho những
mục tiêu quan trọng về phát triển kinh tế- xã hội; vừa tập trung cho tăng trưởng
kinh tế, vừa quan tâm đến phát triển xã hội và xây dựng cơ sở hạ tầng; vừa tập
trung cho vùng động lực, vừa tăng cho vùng nghèo, xã nghèo.
- Cơ chế quản lý đầu tư xây dựng và công tác chỉ đạo, điều hành của
Chính phủ đã có những đổi mới trong việc phân cấp, trong công tác giám sát
2.1.Thu hút vốn đầu tư trong nước
Vốn đầu tư trong nước dự kiến huy động khoảng 21-22% GDP, khoảng
560 nghìn tỷ đồng, chiếm khoảng 2/3 tổng vốn đầu tư toàn xã hội, tương đương
khoảng 40 tỷ USD.
Các nhà kinh tế cho rằng vốn nhàn rỗi trong dân cư là 60.000 tỷ đồng có
thể huy động được còn con số thực sự có thể còn cao hơn nhiều. Hơn nữa, con
số này cũng sẽ gia tăng theo từng năm. Vì vậy, các doanh nghiệp, kể cả các tổng
công ty nhà nước, các công ty cổ phần trong tất cả các lĩnh vực: thủy điện, xi
măng, bưu chính - viễn thông, công nghệ thông tin đều có thể lập dự án để
phát hành trái phiếu, cổ phiếu, nhằm huy động vốn trong dân.
Tuy nhiên, không dễ để huy động nguồn vốn đầy tiềm năng trong dân cư
nếu như các doanh nghiệp chưa tạo đựơc niềm tin cho dân cư. Một trong những
giải pháp cần thiết là phải tạo được sự công khai, minh bạch. Đặc biệt, đối với
các doanh nghiệp cổ phần hóa, việc định giá doanh nghiệp theo thị trường là rất
quan trọng. Nếu được đánh giá đúng và mọi thông tin trước khi bán cổ phần ra
bên ngoài được công khai, minh bạch thì chắc chắn là hiệu quả thu hút vốn từ
công chúng sẽ cao hơn nhiều.
Chẳng hạn, cổ phần của Công ty Bảo Minh khi bán ra bên ngoài đã gấp 2,16
17
lần so với giá ban đầu. Hay như Ngân hàng Ngoại thương cũng vậy. Nếu mà
đem đấu giá ngân hàng này, hay mời các nhà đầu tư quốc tế vào đánh giá thì giá
trị của nó sẽ không chỉ là 5.000 tỷ đồng theo vốn điều lệ nữa, mà chắc chắn sẽ

cao hơn nhiều.
2.2.Thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Qua tính toán sơ bộ của các Bộ, địa phương, qua các chương trình, dự án, và
các cam kết hợp tác đầu tư với nước ngoài, dự kiến vốn đầu tư toàn xã hội trong
5 năm tới có thể huy động (tương đối khả thi) là 840 nghìn tỷ đồng.
Huy động nguồn vốn từ bên ngoài: Dự kiến khoảng 20 tỷ USD, trong đó
vốn đăng ký các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được cấp phép và các
dự án tăng vốn khoảng trên 15 tỷ USD, (vốn đăng ký của các dự án cấp mới là
12 tỷ USD, các dự án tăng vốn đạt trên 3 tỷ USD). Ước tính vốn đưa vào thực
hiện có thể đạt khoảng 11 tỷ USD và vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) dự
kiến đưa vào khoảng 9 tỷ USD (vốn vay khoảng 7,5 tỷ USD, vốn viện trợ không
hoàn lại khoảng 1,5 tỷ USD).
Trong tổng vốn nêu trên, khả năng huy động của khu vực Nhà nước (đầu
tư công cộng) đạt 467 nghìn tỷ đồng, chiếm 55,5%, trong đó vốn Ngân
sách (không kể ODA) khoảng 123 nghìn tỷ đồng, chiếm 14,7%, tín dụng nhà
nước (không kể ODA cho vay lại) gần 56 nghìn tỷ đồng, chiếm 6,6%, doanh
nghiệp nhà nước 162 nghìn tỷ đồng, chiếm 19,3%; vốn hỗ trợ phát triển chính
thức ODA đạt 126 nghìn tỷ đồng, chiếm 15%; khu vực tư nhân trong nước
khoảng 220 nghìn tỷ đồng, chiếm 26,2%; khu vực vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) khoảng 153 nghìn tỷ đồng, chiếm 18,2% tổng vốn đầu tư toàn xã
hội.
Như vậy, khu vực nhà nước vẫn chiếm tỷ lệ lớn (55,5%), khu vực tư nhân
trong nước tuy tỷ lệ có tăng từ 21,9% (1996-2000) lên 26,2% (2001-2005),
nhưng vẫn còn rất thấp, mới chiếm khoảng 1/4 vốn đầu tư toàn xã hội. Đây là
18
khu vực còn nhiều tiềm năng, Chính phủ sẽ chỉ đạo các Bộ, ngành và địa
phương tiếp tục nghiên cứu, tháo gỡ khó khăn, tìm các biện pháp hữu hiệu hơn
để huy động thêm vốn đầu tư cho Chiến lược này.
Vốn FD: Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI thời gian qua đã đạt được 5
thành tựu sau:

Thứ nhất, dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ngày càng gia tăng,
góp phần bổ sung nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế-xã hội.
Tính từ năm 1988 đến nay, Việt Nam đã thu hút 9.500 dự án đầu tư nước
ngoài với tổng vốn đăng ký khoảng 98 tỷ USD. Đặc biệt, năm 2007 thu hút đầu
tư nước ngoài vượt ngưỡng hơn 20 tỷ USD, tăng gần 70% so với năm 2006,
chiếm trên 20% tổng vốn đầu tư nước ngoài trong 20 năm qua
Thứ hai, quá trình thu hút đầu tư nước ngoài đóng góp tích cực vào thành
công của công cuộc đổi mới trong 21 năm qua. Hiện khu vực kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài chiếm khoảng 16% GDP, đóng góp vào ngân sách Nhà nước vượt
1,5 tỷ USD trong năm 2007; đồng thời thu hút 1,2 triệu lao động trực tiếp và
hàng triệu lao động gián tiếp.
Thứ ba, đầu tư nước ngoài đã góp phần tích cực thúc đẩy sự chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Về
cơ cấu, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 37% giá trị sản
xuất công nghiệp của cả nước. Về cơ cấu vùng, đầu tư nước ngoài tập trung chủ
yếu ở các vùng kinh tế trọng điểm đã góp phần làm cho các vùng này thực sự là
vùng kinh tế động lực để lôi kéo sự phát triển chung và các vùng phụ cận.
Thứ tư, đầu tư nước ngoài là cầu nối quan trọng giữa kinh tế Việt Nam
với nền kinh tế thế giới, thúc đẩy phát triển thương mại, du lịch và tạo điều kiện
quan trọng để Việt Nam hội nhập ngày càng chủ động và sâu hơn vào đời sống
kinh tế thế giới.
19
Thứ năm, đầu tư nước ngoài có tác động đến kinh tế trong nước, thúc đẩy
các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh, đổi mới phương thức quản trị
doanh nghiệp cũng như phương thức kinh doanh; đồng thời nâng cao sức cạnh
tranh của nền kinh tế thế giới.
Thông qua đầu tư nước ngoài, nhiều nguồn lực trong nước như lao động,
đất đai, lợi thế địa kinh tế, tài nguyên được khai thác và sử dụng có hiệu quả
hơn.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, lãnh đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư

cũng nhìn nhận vẫn còn một số tồn tại cần tiếp tục giải quyết như: vốn thực hiện
tăng qua các năm nhưng chậm nên khoảng cách giữa vốn đăng ký và vốn thực
hiện ngày càng giãn ra; đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực nông, lâm, ngư, nghiệp
còn thấp; đầu tư từ những nước phát triển có thế mạnh về công nghệ như Hoa
Kỳ, một số quốc gia thuộc EU tăng chậm; việc cung cấp nguyên liệu, phụ tùng
của các doanh nghiệp trong nước cho các doanh nghiệp nước ngoài còn chậm
Vốn ODA

Vốn cam kết trong những năm gần đây(đơn vị nghìn tỷ)
Tính đến năm 2007, tổng cộng đã có khoảng 37 tỷ USD vốn ODA tài trợ cho
Việt Nam, trong đó vốn thực hiện đạt 47%. Xu hướng của chính sách phân cấp
quản lý ODA của WB cũng như các nhà tài trợ khác đã tác động rất lớn đối với
20
các quốc gia thụ hưởng nguồn vốn này.
Ở Việt Nam, chính sách này được tiến hành từng bước và được đẩy mạnh từ
cuối năm 2006, khi Nghị định số 131/2006/NĐ-CP của Chính phủ ra đời với nội
dung cốt lõi là Thủ tướng chỉ phê duyệt các chương trình quan trọng quốc gia,
khung chính sách và các dự án liên quan đến an ninh quốc phòng. Khung pháp
lý liên quan như Luật Ngân sách nhà nước, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật
Xây dựng, cũng thay đổi theo hướng đồng bộ hóa và phân cấp mạnh các dòng
vốn cho địa phương.
Theo đánh giá, chính sách phân cấp thời gian qua đã tạo ra hàng loạt ưu điểm
như mở rộng đối tượng tham gia quản lý, giảm các rào cản trong việc ra các
quyết định hoạt động kinh tế - xã hội quan trọng ở địa phương. Địa phương cũng
dễ dàng tiếp cận các dịch vụ do bộ, ngành cung cấp hơn, đồng thời điều phối
hiệu quả hơn các chương trình quốc gia, tỉnh, huyện, tạo cơ hội tốt hơn cho
người dân tham gia quyết định.
Nhưng ngược lại, thực tế phân cấp ở Việt Nam cũng đã cho thấy một loạt các
hạn chế: năng lực quản lý và chuyên môn yếu kém đã làm cho các dự án ODA ở
địa phương kém hiệu quả đi, việc chuyển giao trách nhiệm trong khi không đủ

nguồn lực cần thiết đã làm cho việc phân phối công bằng dịch vụ dịch vụ hoặc
cung cấp dịch vụ khó khăn hơn.
Đặc biệt, việc chưa gắn kết giữa các cấp quản lý đã làm cho sự phối hợp
thực hiện chính sách trở nên phức tạp và không đảm bảo tính thông suốt xuống
cơ sở. Một vấn đề tồn tại mang tính tổng quát hơn cũng được chỉ rõ: Đó là tình
trạng khung pháp lý dù đã thay đổi theo hướng đồng bộ hóa, phân cấp mạnh hơn
nhưng vẫn lệch pha, chưa đồng bộ, nội dung phân cấp quản lý ODA thể hiện
trong rất nhiều văn bản khác nhau. Việc hài hòa chính sách, thủ tục và quy trình
giữa Việt Nam và nhà tài trợ cũng còn chậm, khoảng cách của sự cách biệt còn
lớn.
3. Thực trạng sử dụng vốn
21
Vốn đầu tư là yếu tố vật chất trực tiếp quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế,
phát triển xã hội và bảo vệ, cải thiện môi trường. Nhận thức được tầm quan
trọng này, nên trong chiến lược 10 năm cũng như kế hoạch 5 năm, Đảng và Nhà
nước đều đưa ra mục tiêu này và được coi là một trong mười mục tiêu tổng quát
nhất.
Về lĩnh vực này việc thực hiện đã đạt được những thành tựu tích cực về bốn
mặt.
Tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP liên tục tăng qua các năm và đến nay đã đạt
38,7%, thuộc loại cao nhất thế giới, có chăng chỉ thấp thua tỷ lệ trên 40% của
Trung Quốc. Đối với nước có điểm xuất phát còn thấp, muốn tăng trưởng cao và
chống tụt hậu xa hơn thì đòi hỏi phải có một lượng vốn lớn là rất có ý nghĩa.
Cơ cấu nguồn vốn huy động đã có bước chuyển dịch quan trọng. Điểm nổi
bật nhất là sự tăng lên mạnh mẽ của đầu tư từ khu vực kinh tế tư nhân, với tỷ
trọng trong tổng số vốn đã lên đến 32,4%, cao hơn mười điểm phần trăm so với
cách đây 5 năm. Đó là kết quả của việc thực hiện Luật Doanh nghiệp. Một điểm
nổi bật khác là đã có trên 70 nước và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp (FDI) với
tổng số vốn đăng ký mới và bổ sung tính từ năm 1988 đến nay đạt trên 66 tỉ
USD, với số vốn thực hiện đạt được một nửa. Nguồn vốn này đã góp phần tăng

trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, tăng kim ngạch xuất khẩu, đóng góp ngân
sách Đã có 45 nước và định chế tài chính quốc tế đã cam kết với số vốn hỗ trợ
phát triển chính thức (ODA) lên đến 30 tỉ USD và số vốn giải ngân đạt khoảng
16 tỉ USD. Nguồn vốn này đã được ưu tiên sử dụng để hỗ trợ phát triển hạ tầng
kinh tế - xã hội, góp phần tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo. Nhiều
công trình quan trọng trong các lĩnh vực giao thông vận tải, năng lượng, thủy lợi
quy mô lớn, giáo dục đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế, chăm sóc sức khỏe
đã được xây dựng và nâng cấp. Nguồn vốn này đã góp phần tăng cường năng
lực và thể chế thông qua các chương trình, dự án hỗ trợ xây dựng pháp luật, cải
22
cách hành chính, xây dựng chính sách và cơ chế quản lý, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực Tỷ trọng nguồn vốn Nhà nước tuy đã giảm nhưng vẫn còn
chiếm quá nửa tổng vốn đầu tư, có tác dụng hình thành các công trình trọng
điểm của quốc gia, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đầu tư vào những ngành, lĩnh
vực, vùng mà các nguồn vốn khác không muốn đầu tư.
Cơ cấu đầu tư đã chuyển dịch theo hướng tích cực, tập trung cho những mục
tiêu quan trọng về phát triển kinh tế- xã hội; vừa tập trung cho tăng trưởng kinh
tế, vừa quan tâm đến phát triển xã hội và xây dựng cơ sở hạ tầng; vừa tập trung
cho vùng động lực, vừa tăng cho vùng nghèo, xã nghèo.
Cơ chế quản lý đầu tư xây dựng và công tác chỉ đạo, điều hành của Chính
phủ đã có những đổi mới trong việc phân cấp, trong công tác giám sát.
Nhờ những kết quả trên mà tăng trưởng kinh tế đạt tốc độ cao, năm sau cao
hơn năm trước; cơ cấu kinh tế bước đầu chuyển dịch theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa; cơ sở hạ tầng được xây dựng, nâng cấp
4. Thực trạng mối quan hệ tạo lập thu hút và sử dụng vốn ở Việt Nam
4.1. Tác động của tạo lập, huy động đến việc sử dụng vốn đầu tư.
Vốn đầu tư là yếu tố vật chất trực tiếp quyết định tốc độ tăng trưởng kinh
tế. Nhưng đó là nói về đầu tư có hiệu quả.
23
Năm 2007 tăng trưởng kinh tế đạt 8.48% cao nhất trong 11 năm qua.

Còn nếu đầu tư không có hiệu quả, thì chẳng những tăng trưởng kinh tế
phải tốn nhiều vốn đầu tư hơn, mà còn gây ra lạm phát, xét trên nhiều mặt lạm
phát do 'chi phí đẩy' và lạm phát do 'cầu kéo'.
Bản thân vốn đầu tư sẽ làm cho lạm phát 'cầu kéo'; còn đầu tư kém hiệu
quả sẽ làm cho lạm phát do 'chi phí đẩy'. Lạm phát do quan hệ cung - cầu, quan
hệ tiền - hàng mất cân đối thường có bề nổi, dễ nhận thấy, nhưng lạm phát do
đầu tư không có hiệu quả thì thường là lạm phát ngầm, lúc đầu rất khó nhận
thấy, nhưng khi nó bộc phát thì rất cao, rất khó trị và việc trị nó thường phải
kèm theo cái giá phải trả không nhỏ, thậm chí còn có thể rơi vào cuộc khủng
hoảng
Mặc dù tỷ lệ huy động vốn từ các nguồn là tốt nhưng ở Việt Nam hiện
nay vẫn tồn tại nhiều vấn đề trong việc sử dụng vốn nếu không muốn nói là lãng
phí đó là đối với những dự án có vốn đầu tư của nhà nước. Chúng ta chưa quan
tâm đầy đủ việc sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư kể cả ngân sách, nguồn
đầu tư trong nước cũng như nước ngoài và ODA.
Việc thất thoát ngân sách đã được Chính phủ thừa nhận, Quốc hội bàn thảo, và
khiến người dân xót xa.
Còn đối với những dự án của tư nhân họ có lợi ích,vốn do họ bỏ ra nên họ có
động lực thúc đẩy hiệu quả sử dụng vốn tốt hơn.Tuy nhiên hiệu quả sử dụng vốn
trong nước vẫn bị hạn chế do tác động chung của các nguồn lực khác: Cơ chế
chính sách, vấn đề cơ sở hạ tầng và cả những ưu đãi lớn dành cho doanh nghiệp
nhà nước. Đáng ra, tư nhân có thể sử dụng nguồn vốn hiệu quả hơn rất nhiều.
Tất nhiên, không phủ nhận sự yếu kém của DN tư nhân trong nước, nhưng một
yếu tố quan trọng chính là môi trường kinh doanh còn quá nhiều nhân tố bất ổn,
do chính nhà nước tạo ra.
Về vốn bên ngoài, chúng ta đã nhận được rất nhiều cam kết, nhưng tốc độ
giải ngân còn quá thấp. Cam kết FDI 10-16 tỷ USD nhưng thực tế tỉ lệ giải ngân
24
thấp hơn đáng kể, chỉ 4,1 tỷ USD năm ngoái. Các nhà đầu tư vào nhưng chưa
đưa được tiền vào.

Về cơ sở hạ tầng, nhiều nhà đầu tư nước ngoài mong đầu tư nhưng bản thân
Việt Nam lại chưa tạo điều kiện đầy đủ. Hình thức BOT đã được luật hóa nhưng
chưa có hướng dẫn thực sự để DN nước ngoài tham gia. Cách đây chưa lâu,
Phần Lan đã mất 5-7 năm để đàm phán tham gia xây dựng hạ tầng, đạt đến kí
kết. Họ lại phải mất thêm 2 năm đàm phán về giá cung cấp điện nhưng không có
kết quả. Nước này đã rút dự án khỏi Việt Nam.
Đối với vốn ODA, Việt Nam chưa thực hiện tốt tất cả các công việc cần
thiết để giải ngân tốt hơn. Một phần do phức tạp thủ tục, một phần do quy định
khác nhau giữa nhà tài trợ và chính phủ Việt Nam nên khó thống nhất.
Sau khi chọn được dự án ODA đã khó, việc chuẩn bị của Việt Nam khi có vốn
ODA còn chậm, rõ nhất là chuẩn bị mặt bằng, và không có sẵn vốn đối ứng
trong các dự án. Điều kiện con người và kinh tế kỹ thuật đã làm chậm quá trình
giải ngân. Trong khi đó, mỗi nguồn ODA có thời gian ân hạn nhất định. Nếu
không làm việc, chúng ta đã tự tước bỏ đi thời gian ưu đãi ấy. Ví dụ, một dự án
ODA quy định trong 10 năm được hưởng lãi suất thấp, hoặc không phải trả lãi.
Nhưng vì quá trình giải ngân chậm, khi dự án bắt đầu đi vào sử dụng chỉ còn 2-3
năm. Chúng ta đã tự đánh mất 7-8 năm quý giá. Và cái giá của ODA trở nên đắt
đỏ hơn. Chưa kể nó sẽ kìm hãm sự phát triển của khu vực, lĩnh vực đưa ODA
vào.
Đây là lãng phí kép: tiền của, gánh nợ, thời gian cho phát triển. Đặc biệt,
mất thời gian đồng nghĩa với mất đi các cơ hội.
Tạo lập, huy động vốn vượt quá nhu cầu hiện tại sẽ dẫn đến lãng phí thất
thoát
Năm Số DA đã
thanh tra
Tổng vốn
ĐT (tỷ đồng)
Sai phạm về
TC (tỷ đồng)
Tỷ lệ (%)

2002 17 9.385 871 13.6
25

×