Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

nước việt nam là một, dân tộc việt nam là một

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.02 KB, 29 trang )

Bình luận câu nói của chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Nước Việt nam là một, dân tộc Việt Nam là một.”
Chương I: Chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân.
I. Những quan niệm cơ bản của triết học Mác-Lênin về con người
1. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội
2. Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
II- Quan hệ giữa cá nhân và xã hội
1. Khái niệm cá nhân
2. Biện chứng giữa cá nhân và xã hội
III- Vai trò quần chúng nhân dân trong lịch sử
1. Khái niệm quần chúng nhân dân trong lịch sử
2. Vai trò của quần chúng nhân dân
Chương II: Truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam.
Chương III: Nội dung đoàn kết dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
I. Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đoàn kết dân tộc.
II.Nguyên tắc đại đoàn kết của Hồ Chí Minh.
Chương IV: Tính đúng đắn của câu nói qua thực tiễn lịch sử.
1
Chương I: Chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò của quần chúng
nhân dân.
I. Những quan niệm cơ bản của triết học Mác-Lênin về con người
1. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội
Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết
học, đồng thời khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố
sinh học và yếu tố xã hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người là giới tự nhiên.
Cũng do đó, bản tính tự nhiên của con người bao hàm trong nó tất cả bản
tính sinh học, tính loài của nó. Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện
đầu tiên quy định sự tồn tại của con người. Vì vậy, có thể nói: Giới tự nhiên
là "thân thể vô cơ của con người"; con người là một bộ phận của tự nhiên; là
kết quả của quá trình phát triển và tiến hoá lâu dài của môi trường tự nhiên.


Tuy nhiên, điều cần khẳng định rằng, mặt tự nhiên không phải là yếu tố
duy nhất quy định bản chất con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa
con người với thế giới loài vật là phương diện xã hội của nó. Trong lịch sử
đã có những quan niệm khác nhau phân biệt con người với loài vật, như con
người là động vật sử dụng công cụ lao động, là "một động vật có tính xã
hội", hoặc con người động vật có tư duy Những quan niệm trên đều phiến
diện chỉ vì nhấn mạnh một khía cạnh nào đó trong bản chất xã hội của con
người mà chưa nêu lên được nguồn gốc của bản chất xã hội ấy.
Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất;
hoạt động sản xuất vật chất biểu hiện một cách căn bản tính xã hội của con
người. Thông qua hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải
vật chất và tinh thần, phục vụ đời sống của mình; hình thành và phát triển
2
ngôn ngữ và tư duy; xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố
quyết định hình thành bản chất xã hội của con người, đồng thời hình thành
nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát
triển của con người luôn luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác
nhau, nhưng thống nhất với nhau. Hệ thống các quy luật tự nhiên như quy
luật về sự phù hợp cơ thể với môi trường, quy luật về sự trao đổi chất, về di
truyền, biến dị, tiến hóa quy định phương diện sinh học của con người. Hệ
thống các quy luật tâm lý ý thức hình thành và vận động trên nền tảng sinh
học của con người như hình thành tình cảm, khát vọng, niềm tin, ý chí. Hệ
thống các quy luật xã hội quy định quan hệ xã hội giữa người với người.
Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn
chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội. Mối
quan hệ sinh học và xã hội là cơ sở để hình thành hệ thống các nhu cầu sinh
học và nhu cầu xã hội trong đời sống con người như nhu cầu ăn, mặc, ở; nhu
cầu tái sản xuất xã hội; nhu cầu tình cảm; nhu cầu thẩm mỹ và hưởng thụ
các giá trị tinh thần.

Với phương pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng quan hệ
giữa mặt sinh học và mặt xã hội, cũng như nhu cầu sinh học và nhu cầu xã
hội trong mỗi con người là thống nhất. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên
của con người, còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con người
với loài vật. Nhu cầu sinh học phải được "nhân hóa" để mang giá trị văn
minh con người, và đến lượt nó, nhu cầu xã hội không thể thoát ly khỏi tiền
đề của nhu cầu sinh học. Hai mặt trên thống nhất với nhau, hoà quyện vào
nhau để tạo thành con người viết hoa, con người tự nhiên - xã hội.
3
2. Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại
con người. Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu
dài của giới hữu sinh. Song, điều quan trọng hơn cả là, con người luôn luôn
là chủ thể của lịch sử - xã hội. C.Mác đã khẳng định: "Cái học thuyết duy
vật chủ nghĩa cho rằng con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và của
giáo dục cái học thuyết ấy quên rằng chính những con người làm thay đổi
hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục". Trong tác
phẩm Biện chứng của tự nhiên, Ph.Ăngghen cũng cho rằng: "Thú vật cũng
có một lịch sử, chính là lịch sử nguồn gốc của chúng và lịch sử phát triển
dần dần của chúng cho tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy
không phải do chúng làm ra và trong chừng mực mà chúng tham dự vào việc
làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và không phải
do ý muốn của chúng. Ngược lại, con người càng cách xa con vật, hiểu theo
nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử
của mình một cách có ý thức bấy nhiêu".
Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn,
tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động
phát triển của lịch sử xã hội. Thế giới loài vật dựa vào những điều kiện có
sẵn của tự nhiên. Con người thì trái lại, thông qua hoạt động thực tiễn của
mình để làm phong phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ

hai theo mục đích của mình.
Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của
mình. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra
lịch sử của chính bản thân con người. Hoạt động lao động sản xuất vừa là
điều kiện cho sự tồn tại của con người, vừa là phương thức để làm biến đổi
4
đời sống và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội,
con người thông qua hoạt động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát
triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do con người đặt ra.
Không có hoạt động của con người thì cũng không tồn tại quy luật xã hội, và
do đó, không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài người.
Không có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai
đoạn phát triển nhất định của xã hội. Do vậy, bản chất con người, trong mối
quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận động biến đổi, cũng phải
thay đổi cho phù hợp. Bản chất con người không phải là một hệ thống đóng
kín, mà là hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người. Mặc
dù là "tổng hoà các quan hệ xã hội", con người có vai trò tích cực trong tiến
trình lịch sử với tư cách là chủ thể sáng tạo. Thông qua đó, bản chất con
người cũng vận động biến đổi cho phù hợp. Có thể nói rằng, mỗi sự vận
động và tiến lên của lịch sử sẽ quy định tương ứng (mặc dù không trùng
khớp) với sự vận động và biến đổi của bản chất con người.
II- Quan hệ giữa cá nhân và xã hội
1. Khái niệm cá nhân.
Cá nhân là khái niệm chỉ con người cụ thể sống trong một xã hội nhất
định và được phân biệt với các cá thể khác thông qua tính đơn nhất và tính
phổ biến của nó. Khái niệm cá nhân cũng được phân biệt với khái niệm con
người, vì con người là khái niệm dùng để chỉ tính phổ biến trong bản chất
người của tất cả các cá nhân.
Xã hội do các cá nhân tạo nên. Các cá nhân sống và hoạt động trong
các nhóm, cộng đồng và tập đoàn xã hội khác nhau, mang tính lịch sử xác

định. Yếu tố xã hội là đặc trưng căn bản để hình thành cá nhân.
5
Như vậy, cá nhân là một chỉnh thể đơn nhất, vừa mang tính cá biệt vừa
mang tính phổ biến, là chủ thể của lao động, của mọi quan hệ xã hội và của
nhận thức nhằm thực hiện chức năng cá nhân và chức năng xã hội trong một
giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử xã hội.
2. Biện chứng giữa cá nhân và xã hội
Xã hội là khái niệm dùng để chỉ cộng đồng các cá nhân trong mối quan
hệ biện chứng với nhau, trong đó cộng đồng nhỏ nhất của một xã hội là cộng
đồng tập thể gia đình, cơ quan, đơn vị và lớn hơn là cộng đồng xã hội quốc
gia, dân tộc… và rộng lớn nhất là cồng đồng nhân loại.
Nguyên tắc cơ bản của việc xác lập mối quan hệ giữa cá nhân và tập
thể cũng như mối quan hệ giữa cá nhân và các cộng đồng xã hội nói chung
chính là mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng xã hội. Đó
cũng là mối quan hệ vừa có sự thống nhất vừa có mâu thuẫn.
Mỗi cá nhân với tư cách là một con người, không bao giờ có thể tách
rời khỏi những cộng đồng xã hội nhất định, đồng thời mối quan hệ giữa cá
nhân và xã hội là hiện tượng có tính lịch sử.
Là một hiện tượng lịch sử, quan hệ cá nhân - xã hội luôn luôn vận
động, biến đổi và phát triển, trong đó, sự thay đổi về chất chỉ diễn ra khi có
sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội này bằng hình thái kinh tế - xã hội khác.
Trong giai đoạn cộng sản nguyên thuỷ, không có sự đối kháng giữa cá nhân
và xã hội. Lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội căn bản là thống nhất. Khi xã hội
phân chia giai cấp, quan hệ cá nhân và xã hội vừa có thống nhất vừa có mâu
thuẫn và mâu thuẫn đối kháng. Trong chủ nghĩa xã hội, những điều kiện của
xã hội mới tạo tiền đề cho cá nhân, để mỗi cá nhân phát huy năng lực và bản
sắc riêng của mình, phù hợp với lợi ích và mục tiêu của xã hội mới. Vì vậy,
6
xã hội xã hội chủ nghĩa và cá nhân là thống nhất biện chứng, là tiền đề và
điều kiện của nhau.

Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin, xã hội giữ vai trò quyết định
đối với cá nhân. Bởi vậy, thực chất của việc tổ chức xã hội là giải quyết
quan hệ lợi ích nhằm tạo khả năng cao nhất cho mỗi cá nhân tác động vào
mọi quá trình kinh tế, xã hội, cho sự phát triển được thực hiện. Xã hội càng
phát triển thì cá nhân càng có điều kiện để tiếp nhận ngày càng nhiều những
giá trị vật chất và tinh thần. Mặt khác, mỗi cá nhân trong xã hội càng phát
triển thì càng có điều kiện để thúc đẩy xã hội tiến lên. Vì vậy, thỏa mãn ngày
càng tốt hơn nhu cầu và lợi ích chính đáng của cá nhân là mục tiêu và động
lực thúc đẩy sự phát triển xã hội. Bất cứ vấn đề gì, dù là phạm vi nhân loại
hay cá nhân, dù trực tiếp hay gián tiếp, nếu lợi ích cá nhân và xã hội là thống
nhất thì chính ở đó bắt gặp mục đích và động lực của sự nỗ lực chung vì một
tương lai tốt đẹp.
Mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội do sự quy định của
mặt khách quan và mặt chủ quan. Mặt khách quan biểu hiện ở trình độ phát
triển và năng suất lao động xã hội. Mặt chủ quan biểu hiện ở khả năng nhận
thức và vận dụng quy luật xã hội phù hợp với mục đích của con người.
III- Vai trò quần chúng nhân dân trong lịch sử
Con người sáng tạo ra lịch sử của mình, song vai trò quyết định sự phát
triển xã hội là thuộc về quần chúng nhân dân hay của các cá nhân có phẩm
chất đặc biệt - vĩ nhân, lãnh tụ?
1. Khái niệm quần chúng nhân dân
Quá trình vận động, phát triển của lịch sử diễn ra thông qua hoạt động
của khối đông đảo con người được gọi là quần chúng nhân dân, dưới sự lãnh
7
đạo của một cá nhân hay một tổ chức, nhằm thực hiện mục đích và lợi ích
của mình.
Căn cứ vào điều kiện lịch sử xã hội và những nhiệm vụ đặt ra của mỗi
thời đại mà quần chúng nhân dân bao hàm những thành phần, tầng lớp xã
hội và giai cấp khác nhau.
Như vậy, quần chúng nhân dân là bộ phận có cùng chung lợi ích căn

bản, bao gồm những thành phần, những tầng lớp và những giai cấp, liên kết
lại thành tập thể dưới sự lãnh đạo của một cá nhân, tổ chức hay đảng phái
nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của một thời đại nhất
định.
Khái niệm quần chúng nhân dân được xác định bởi các nội dung sau
đây: Thứ nhất, những người lao động sản xuất ra của cải vật chất và các giá
trị tinh thần, đóng vai trò là hạt nhân cơ bản của quần chúng nhân dân. Thứ
hai, những bộ phận dân cư chống lại giai cấp thống trị áp bức, bóc lột, đối
kháng với nhân dân. Thứ ba, những giai cấp, những tầng lớp xã hội thúc đẩy
sự tiến bộ xã hội thông qua hoạt động của mình, trực tiếp hoặc gián tiếp trên
các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Do đó, quần chúng nhân dân là một phạm trù lịch sử, vận động biến đổi
theo sự phát triển của lịch sử xã hội.
2. Vai trò của quần chúng nhân dân
Về căn bản, tất cả các nhà triết học trong lịch sử triết học trước Mác
đều không nhận thức đúng vai trò của quần chúng nhân dân trong trong tiến
trình phát triển của lịch sử. Về nguồn gốc lý luận, điều đó có nguyên nhân từ
quan điểm duy tâm hoặc siêu hình về xã hội.
8
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định quần chúng nhân dân là chủ thể
sáng tạo chân chính ra lịch sử. Bởi vì, mọi lý tưởng giải phóng xã hội, giải
phóng con người chỉ được chứng minh thông qua sự tiếp thu và hoạt động
của quần chúng nhân dân. Hơn nữa, tư tưởng tự nó không làm biến đổi xã
hội mà phải thông qua hành động cách mạng, hoạt động thực tiễn của quần
chúng nhân dân, để biến lý tưởng, ước mơ thành hiện thực trong đời sống xã
hội.
Vai trò quyết định lịch sử của quần chúng nhân dân được biểu hiện ở
ba nội dung.
Thứ nhất, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội,
trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của

xã hội. Con người muốn tồn tại phải có các điều kiện vật chất cần thiết, mà
những nhu cầu đó chỉ có thể đáp ứng được thông qua sản xuất. Lực lượng
sản xuất cơ bản là đông đảo quần chúng nhân dân lao động bao gồm cả lao
động chân tay và lao động trí óc. Cách mạng khoa học kỹ thuật hiện nay có
vai trò đặc biệt đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Song, vai trò
của khoa học chỉ có thể phát huy thông qua thực tiễn sản xuất của quần
chúng nhân dân lao động, nhất là đội ngũ công nhân hiện đại và trí thức
trong nền sản xuất xã hội, của thời đại kinh tế tri thức. Điều đó khẳng định
rằng, hoạt động sản xuất của quần chúng nhân dân là điều kiện cơ bản để
quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Thứ hai, quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách
mạng xã hội.
Lịch sử đã chứng minh rằng, không có cuộc chuyển biến cách mạng
nào mà không là hoạt động đông đảo của quần chúng nhân dân. Họ là lực
lượng cơ bản của cách mạng, đóng vai trò quyết định thắng lợi của mọi cuộc
9
cách mạng. Trong các cuộc cách mạng làm chuyển biến xã hội từ hình thái
kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác, nhân dân lao động
là lực lượng tham gia đông đảo. Cách mạng là ngày hội của quần chúng, là
sự nghiệp của quần chúng. Tất nhiên, suy đến cùng, nguyên nhân của mọi
cuộc cách mạng là bắt đầu từ sự phát triển của lực lượng sản xuất, dẫn đến
mâu thuẫn với quan hệ sản xuất, nghĩa là bắt đầu từ hoạt động sản xuất vật
chất của quần chúng nhân dân. Bởi vậy, nhân dân lao động là chủ thể của
các quá trình kinh tế, chính trị, xã hội, đóng vai trò là động lực cơ bản của
mọi cuộc cách mạng xã hội.
Thứ ba, quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra những giá trị văn hóa
tinh thần. Quần chúng nhân dân đóng vai trò to lớn trong sự phát triển của
khoa học, nghệ thuật, văn học, đồng thời, áp dụng những thành tựu đó vào
hoạt động thực tiễn. Những sáng tạo về văn học, nghệ thuật, khoa học, y
học, quân sự, kinh tế, chính trị, đạo đức của nhân dân vừa là cội nguồn,

vừa là điều kiện để thúc đẩy sự phát triển nền văn hóa tinh thần của các dân
tộc trong mọi thời đại. Hoạt động của quần chúng nhân dân từ trong thực
tiễn là nguồn cảm hứng vô tận cho mọi sáng tạo tinh thần trong đời sống xã
hội. Mặt khác, các giá trị văn hóa tinh thần chỉ có thể trường tồn khi được
đông đảo quần chúng nhân dân chấp nhận và truyền bá sâu rộng, trở thành
giá trị phổ biến.
Tóm lại, xét từ kinh tế đến chính trị, từ hoạt động vật chất đến hoạt
động tinh thần, quần chúng nhân dân luôn đóng vai trò quyết định trong lịch
sử. Tuy nhiên, tùy vào điều kiện lịch sử mà vai trò chủ thể của quần chúng
nhân dân cũng biểu hiện khác nhau. Chỉ có trong chủ nghĩa xã hội, quần
chúng nhân dân mới có đủ điều kiện để phát huy tài năng và trí sáng tạo của
mình.
10
Chương II: Truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam
Trong tiến trình phát triển lịch sử, Việt Nam là một trong những khu
vực được coi là cái nôi của loài người và cũng được coi là một trong những
trung tâm phát sinh nông nghiệp sớm với nền văn minh lúa nước, nơi đã
từng trải qua các cuộc cách mạng đá mới và cách mạng luyện kim. Nền sản
xuất nông nghiệp lúa nước phụ thuộc nhiều vào tự nhiên, dó đó tinh thần
đoàn kết để chống chọi với thiên tai cũng như sản xuất sớm được hình tình ở
người Việt cổ. Trên nền tảng phát triển kinh tế - xã hội thời Đông Sơn, trước
những đòi hỏi của công cuộc trị thủy và chống xâm lăng, Nhà nước Văn
Lang - Nhà nước đầu tiên - đã ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VII trước Công
nguyên. Bằng sức lao động cần cù sáng tạo, cư dân Văn Lang, (sau đó là Âu
Lạc) đã tạo dựng nên một nền văn minh tỏa sáng khắp vùng Đông Nam Á.
Đi cùng với Nhà nước đầu tiên của lịch sử Việt Nam là một nền kinh tế
phong phú, một nền văn hóa cao mà mọi người biết đến với tên gọi là văn
minh Sông Hồng (còn gọi là văn minh Đông Sơn) với biểu tượng là trống
đồng Đông Sơn - thể hiện sự kết tinh lối sống, truyền thống và văn hóa của
người Việt cổ.

Vừa dựng nước người Việt đã phải liên tiếp đương đầu với sự xâm
lăng của các thế lực bên ngoài. Độ dài thời gian và tần suất các cuộc kháng
chiến, khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam rất lớn. Kể
từ cuộc kháng chiến chống Tần (thế kỷ III trước Công nguyên) đến cuối thế
kỷ XX, đã có tới 12 thế kỷ Việt Nam phải tiến hành hàng trăm cuộc chiến
tranh giữ nước, khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng. Một điều đã trở thành
quy luật của các cuộc chiến tranh giữ nước của dân tộc Việt Nam là phải
"lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh”. Tinh thần đoàn
kết cũng từ đây mà hình thành.
11
Từ thế kỷ thứ II trước Công nguyên (kéo dài hơn 1.000 năm), Việt
Nam bị các triều đại phong kiến phương Bắc thay nhau đô hộ. Sự tồn vong
của một dân tộc bị thử thách suốt hơn nghìn năm đã sản sinh ra tinh thần bất
khuất, kiên cường, bền bỉ đấu tranh bảo tồn cuộc sống, giữ gìn và phát huy
tinh hoa văn hóa, quyết giành lại độc lập cho dân tộc của người dân Việt
Nam.
Từ Văn Lang-Âu Lạc đến Vạn Xuân, Đại Cồ Việt, Đại Việt, mặc dù
phải trải qua nhiều thăng trầm, nhưng Việt Nam vẫn là một quốc gia phát
triển liên tục trên tất cả các lĩnh vực, khẳng định sự tồn tại và không ngừng
lớn mạnh của một dân tộc.
Đặc điểm nổi bật của văn hóa Việt Nam là văn hóa làng, xã. Chính
xóm làng của người Việt đã nuôi dưỡng và phát triển những tinh hoa của
văn hóa truyền thống, làm cơ sở cho tinh thần đoàn kết trong các cuộc đấu
tranh chống Bắc thuộc, chống chính sách đồng hóa của các triều đại Phương
Bắc, giành độc lập cho dân tộc, gìn giữ truyền thống, văn hóa riêng của
mình.
Lịch sử giống nòi Hồng Lạc đã chứng minh dân tộc ta là một dân tộc
kiên cường đã biết chung lưng đấu cật để không những tồn tại được cho đến
ngày hôm nay, mà còn mở mang được bờ cõi, tạo nên một giải giang sơn
gấm vóc từ Nam Quan đến Cà Mâu. Các nhà khảo cổ và nhân chủng học đều

đi đến kết luận dân tộc Việt Nam là một dân tộc có một trong những nền văn
hóa cổ xưa nhất, xây dựng trên nền nông nghiệp trồng lúa nước. Đây là
ngành nghề truyền thống đòi hỏi nhiều người cùng chung sức khai phá và
phấn đấu chống lại thiên tai, đồng thời bảo đảm tưới tiêu cho ruộng đồng.
Xã hội Việt Nam cũng là một xã hội được hình thành rất sớm trên trái đất.
Nếu chỉ kể nền văn hiến nước ta bắt đầu từ thời Hùng Vương, thì cũng đã
trải qua gần 5000 năm dân ta lập quốc. Trong suốt quá trình này, đoàn kết,
12
hợp lực là một nhu cầu trong việc cầy cấy để làm ra miếng ăn nuôi sống xã
hội, cũng như để bảo vệ đất nước trước quân xâm lăng phương Bắc.
Trong khuôn khổ nền văn minh nông nghiệp, nếp sống của dân tộc Việt
Nam được xây dựng trong khung cảnh làng xã (chiềng, chạ) với lũy tre, ao
cá, cánh đồng Một số các nhà khảo cổ, các nhà nhân chủng học và xã hội
học đã gọi đây là một hình thức "công xã nông thôn". Tuy khởi thủy, làng xã
là sự tập trung của nhiều gia đình cùng một chi tộc. Nhưng càng về sau, làng
xã Việt Nam ít khi là nơi quy tụ chỉ một giòng họ, mà đã được mở ra cho
những người từ xa đến làm dâu, làm rể. Dân tộc Việt Nam là một dân tộc
hiền hòa và bao dung. Tổ tiên ta khai khẩn đất đai là để biến rừng núi thành
ruộng đồng canh tác, mưu sinh chứ không đi xâm lấn các nước khác để
chiếm chiến lợi phẩm hay bắt nô lệ. Từ bản sắc hiền hòa và bao dung, dân
tộc ta chấp nhận sự khác biệt từ trong làng xã cho đến ở quy mô rộng lớn
hơn là trong xã hội. Chính tinh thần chấp nhận khác biệt, chấp nhận đa
nguyên này mà khi các tôn giáo, tín ngưỡng, triết lý từ nước ngoài du nhập
vào nước ta đã không bị kỳ thị; trái lại đã được dân tộc ta "hoan hỉ" chấp
nhận.
Trong quan hệ con người với con người, không những người ngoại tộc mà
còn cả giữa những người cùng nòi giống, dân ta đã có quan niệm rõ ràng về
"Hòa" và "Đồng". Trên đất nước ta hiện nay có 54 sắc dân sinh sống. Các
nhà khoa học đã phân tích các sắc dân này mà tuyệt đại đa số là người tộc
Việt, thành 8 nhóm ngôn ngữ khác nhau. Các dân tộc này có thể đã hiện hữu

trên đất nước ta từ thời thượng cổ, và cũng có thể di chuyển từ xa tới. Hiện
nay họ còn giữ được ngôn ngữ, văn hóa, cách trang phục riêng biệt. Điều
này chứng tỏ dân ta không chủ trương kỳ thị hoặc "đồng hóa" họ. Trái lại,
theo các sử gia thì, ngay từ thời Văn Lang, Âu Lạc, người Việt Nam gồm
mọi sắc tộc đã có "Xu hướng thống nhất, đoàn kết, hòa hợp" . Xu hướng này
13
cho phép trong đời sống thường ngày, lúc đất nước thái bình thì mỗi sắc tộc
có điều kiện và sự tự do có nếp sống theo nề văn hóa của riêng mình. Tuy có
sự khác biệt, tuy không hoàn toàn giống nhau về văn hóa, ngôn ngữ, tập
tục nhưng các sắc tộc, kể cả tộc Việt là mạnh nhất, đông nhất, vẫn sống
hòa bình, hòa thuận và hòa hợp với nhau. Đây là hình ảnh một xã hội đa
nguyên trong đó mọi sắc dân, mọi thành tố của xã hội đều có cơ hội để phát
triển trong thái hòa. Trái lại, khi cần kết hợp sức mạnh để đối phó với những
khắc nghiệt của thiên nhiên như giông bão, lũ lụt, hạn hán ; hoặc để chống
trả kẻ cường định xâm lăng thì toàn dân, bất kể kinh, thượng đều một lòng
một dạ, "đồng tâm hợp lực" thành sức mạnh của dân tộc. Chính quan niệm
rõ rệt "hòa" và "đồng" của dân tộc ta đã viết lên những trang sử oai hùng, đã
làm nên nước Việt của chúng ta.
Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử
Việt Nam – kỷ nguyên phát triển quốc gia phong kiến độc lập, thời kỷ xây
dựng và bảo vệ nền độc lập dân tộc. Dưới các triều Ngô (938-965), Đinh
(969-979), Tiền Lê (980-1009) nhà nước trung ương tập quyền được thiết
lập.
Sau đó, Việt Nam bước vào thời kỳ phục hưng và phát triển (với quốc
hiệu Đại Việt) dưới triều Lý (1009-1226), Trần (1226-1400), Hồ (1400-
1407), Lê Sơ (1428-1527). Đại Việt dưới thời Lý-Trần-Lê Sơ được biết đến
như một quốc gia thịnh vượng ở Châu Á. Đây là một trong những thời kỳ
phát triển rực rỡ nhất trong lịch sử của Việt Nam trên mọi phương diện. Về
kinh tế: nông nghiệp phát triển, thủy lợi được chú ý phát triển (đê Sông
Hồng được đắp vào thời kỳ này), các làng nghề ra đời và phát triển. Về tôn

giáo: tín ngưỡng dân gian, Phật giáo và Nho giáo được coi là tam giáo đồng
nguyên. Một thành tựu quan trọng trong thời Lý-Trần là việc phổ biến chữ
14
Nôm, chữ viết riêng của Việt Nam dựa trên cơ sở cải biến và Việt hóa chữ
Hán. Bên cạnh đó các lĩnh vực khác như giáo dục, khoa học kỹ thuật, văn
học - nghệ thuật, lịch sử, luật pháp… cũng rất phát triển (Văn Miếu - Quốc
Tử Giám được xây dựng và ngày một phát triển, sự ra đời của Bộ luật Hồng
Đức, Đại Việt Sử ký, Đại Việt Sử ký toàn thư…). Lịch sử gọi thời kỳ này là
Kỷ nguyên văn minh Đại Việt. Thăng Long (bây giờ là Hà Nội) cũng được
chính thức công nhận là Kinh đô của Đại Việt với Chiếu dời đô của Lý Công
Uẩn vào năm 1010. Suy cho cùng, tất cả thắng lợi mà dân tộc ta đạt được
suy cho cùng cũng là dựa vào sức mạnh đoàn kết và tinh thần yêu nước mà
đạt được.
Chương III: Nội dung đoàn kết dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí
Minh.
I. Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đoàn kết dân tộc.
Khái niệm đại đoàn kết dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh: là một hệ
thống những luận điểm, nguyên tắc, phương pháp giáo dục. Tập hợp và tổ
chức cách mạng và tiến bộ nhằm phát huy đến mức cao nhất sức mạnh dân
tộc và sức mạnh thời đại trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân
chủ và chủ nghĩa xã hội. Nói một cách khác, đó là tư tưởng xây dựng, củng
cố, mở rộng lực lượng cách mạng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải
phóng giai đoạn, giải phóng con người.
1. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, bảo đảm thành công của
cách mạng.
Với Hồ Chí Minh, đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của
nhân dân ta. Người cho rằng: “ muốn giải phóng các dân tộc bị áp bức và
15
nhân dân lao động phải tự mình cứu lấy mình bằng đấu tranh vũ trang cách
mạng, bằng cách mạng vô sản.

Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng ,có thể và cần thiết phải
điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với
những đối tượng khác nhau, nhưng đại đoàn kết dân tộc luôn luôn được
Người nhân thức là vấn đề sống còn của cách mạng.
-Đoàn kết không phải là thủ đoạn chính trị nhất thời mà tư tưởng đoàn
kết là tư tưởng cơ bản, nhất quán, xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt
Nam.
-Đoàn kết quyết định thành công cách mạng vì: đoàn kết tạo nên sức
mạnh, là then chốt của thành công. Muốn đưa cách mạng đến thắng lợi phải
có lực lượng đủ mạnh, muốn có lực lượng phải quy tụ cả dân tộc vào một
mối thống nhất.Giữa đoàn kết và thắng lợi có mối quan hệ chặt chẽ, qui mô,
mức độ của thành công.
-Đoàn kết phải luôn được nhận thức là vấn đề sống còn của cách
mạng.
Ví dụ:
Tại sao Pháp – một đất nước có ưu thế về vật chất, về phương tiện chiến
tranh hiện đại lại phải thua một Việt Nam nghèo nàn, lạc hậu trong cuộc
chiến xâm lược? Đó là vì đồng bào Việt Nam đã đoàn kết như chủ tịch Hồ
Chí Minh nói:
“Toàn dân Việt Nam chỉ có một lòng: Quyết không làm nô lệ
Chỉ có một chí: Quyết không chịu mất nước
Chỉ có một mục đích: Quyết kháng chiến để tranh thủ thống nhất và độc lập
cho Tổ quốc
16
Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng vững chắc
xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu
nhằm bức tường đó, chúng cũng phải thất bại”.
Để thấy rõ hơn vị trí của sức mạnh lực lượng toàn dân đoàn kết trong
thắng lợi của Cách Mạng Tháng Tám, chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ ra:
“ Vì sao có cuộc thắng lợi đó?

Một phần là vì tình hình quốc tế thuận lợi cho ta. Nhất là vì lực lượng của
toàn dân đoàn kết. Tất cả các dân tộc, các giai cấp, các địa phương, các tôn
giáo đều nổi dậy theo là cờ Việt Nam để tranh lại quyền độc lập cho Tổ
quốc.
Lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết. Không ai thắng được lực
lượng đó”
Từ thực tiễn đó, Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận:
“Sử dạy cho ta bài học này:
Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do.
Trái lại, lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”.
Và Người khuyên dân ta rằng:
“Dân ta xin nhớ chữ đồng:
Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh”
Đây chính là con đường đưa dân ta tới độc lập, tự do.
2. Đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng
Hồ Chí Minh cho rằng “ đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu, nhiệm
vụ hàng đầu của đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân
tộc”. Bởi vì, đại đoàn kết dân tộc chính là nhiệm vụ của quần chúng, do
quần chúng, vì quần chúng. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, đoàn kết
17
quần chúng tạo thành sức mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho
dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho con người.
3. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, “dân” chỉ mọi con dân đất Việt, con rồng cháu
tiên, không phân biệt dân tộc đa số, người tín ngưỡng với người không tín
ngưỡng, không phân biệt già trẻ , gái, trai, giàu, nghèo. Nói dến đại đoàn kết
dân tộc cũng có nghĩa phải tập hợp mọi người dân vào một khối trong cuộc
đấu tranh chung. Người đã nhiều lần nói rõ: “ ta đoàn kết để đấu tranh cho
thống nhất và độc lập tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà.
Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự tổ quốc và phụng sự nhân dân thì

ta đoàn kết với họ”
Muốn thực hiện đại đoàn kết toàn dân thì phải kế thừa truyền thống yêu
nước- nhân nghĩa- đoàn kết của dân tộc, phải có tấm lòng khoan dung, độ
lượng với con người. Xác định khối đại đoàn kết là liên minh công nông, trí
thức. Tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của dân.
Người cho rằng: liên minh công nông- lao động trí óc làm nền tảng cho khối
đại đoàn kết toàn dân, nền tảng được củng cố vững chắc thì khối đại đoàn
kết dân tộc càng được mở rộng, không e ngại bất cứ thế lực nào có thể làm
suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc.
4. Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất có tổ chức là
Mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng:
Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng theo những nguyên
tắc:
+ Trên nền tảng liên minh công nông (sau thêm lao động trí óc) dưới
sự lãnh đạo của Đảng.
18
+ Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương, dân chủ lấy việc
thống nhất lợi ích của tầng lớp nhân dân làm cơ sở để củng cố và
không ngừng mở rộng.
+ Đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thực sự, chân thành, thân ái
giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Phương châm đoàn kết các giai cấp, các
tầng lớp khác nhau của Hồ Chí Minh là: “Cầu đồng tồn dị” – lấy cái
chung , đề cao cái chung, để hạn chế cái riêng, cái khác biệt.
Đầu năm 1951, tại hội nghị đại biểu Mặt trận Liên – Việt toàn quốc,
Bác nói: “ Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân,
mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động
khác… Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hoà bình, thống nhất, độc lập, dân
chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng
thật thà đoàn kết với họ”. Bác chỉ rõ: “Đoàn kết là một chính sách dân tộc,
không phải là một thủ đoạn chính trị. Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống

nhất và độc lập của tổ quốc, ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai
có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta
đoàn kết với họ”. Bác còn nhấn mạnh:”Đoàn kết rộng rại, chặt chẽ, đồng
thời phải củng cố. Nền có vững, nhà mới chắc chắn, gốc có tốt thì cây mới
tốt tươi. Trong chính sách đoàn kết phải chống hai khuynh hướng sai lầm:
cô độc, hẹp hòi và đoàn kết vô nguyên tắc”.
Cũng tại đại hội đó, Bác còn phát biểu:
“Tôi rất sung sướng được lãnh cái trách nhiệm kết thúc lễ khai mạc
của Đại hội thống nhất Việt Minh – Liên Việt. Lòng sung sướng ấy là của
chung toàn dân, của cả Đại hội, nhưng riêng cho tôi là một sự sung sướng
không thể tả, một người đã cùng các vị tranh đấu trong bấy nhiêu năm cho
khối đại đoàn kết toàn dân. Hôm nay, trông thấy rừng cây đại đoàn kết ấy
19
đã nở hoa kết quả và gốc rễ của nó đang ăn sâu lan rộng khắp toàn dân, và
nó có một cái tương lai “trường xuân bất lão”. Vì vậy cho nên lòng tôi sung
sướng vô cùng.”
Người đã nói lên không chỉ niềm vui vô hạn trước sự lớn mạnh của
Mặt trận dân tộc thống nhất, mà còn là sự cần thiết phải mở rộng và củng
cố Mặt trận cũng như niềm tin vào sự phát triển bền vững của khối đại
đoàn kết dân tộc lâu dài về sau. Điều này được thể hiện trong toàn bộ tiến
trình cách mạng Việt Nam, khi Hồ Chí Minh còn sống cũng như sau khi
Người đã mất.
II. Nguyên tắc đại đoàn kết của Hồ Chí Minh.
Dù cách mạng Việt Nam trải qua những thời kỳ lịch sử khác nhau,
song chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh luôn được xây dựng,
hoàn thiện và tuân theo những nguyên tắc nhất quán sau:
1.Đại đoàn kết phải được xây dựng trên cơ sở bảo đảm những lợi ích tối
cao của dân tộc, lợi ích của nhân dân lao động và quyền thiêng liêng của
con người:
Bởi vì trong mỗi quốc gia, mỗi dân tộc bao giờ cũng tồn tại những

tầng lớp, giai cấp khác nhau. Mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp lại có lợi ích khác
nhau nhưng tất cả các lợi ích khác nhau đó đều có một điểm chung là lợi ích
dân tộc. Quyền lợi của các tầng lớp, giai cấp có thực hiện được hay không
còn phụ thuộc vào dân tộc đó có được độc lập tự do, có đoàn kết hay không
và việc nhận thức, giải quyết đúng đắn các quan hệ lợi ích đó như thế nào.
Nguyên tắc đại đoàn kết dân tộc Hồ Chí Minh là tìm kiếm, trân trọng và phát
huy những yếu tố tương đồng, thu hẹp đến mức thấp nhất những yếu tố khác
biệt, mâu thuẫn và Người bao giờ cũng tìm ra những yếu tố của đoàn kết dân
20
tộc thay cho sự đào sâu tách biệt, thực hiện sự quy tụ thay cho việc loại trừ
những yếu tố khác nhau về lợi ích.
Theo Hồ Chí Minh, lợi ích tối cao của dân tộc là độc lập, chủ quyền
và toàn vẹn lãnh thổ, là bình đẳng, dân chủ, tự do. Lợi ích tối cao này là
ngọn cờ đoàn kết, là sức mạnh dân tộc và là nguyên tắc bất di bất dịch của
cách mạng Việt Nam. Đó cũng là nguyên tắc bất biến trong tư tưởng Hồ Chí
Minh để Người tìm ra những phương pháp để thực hiện nguyên tắc đó trong
chiến lược đại đoàn kết dân tộc của mình.
2. Tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của dân
Đây là nguyên tắc xuất phát từ tư tưởng lấy dân làm gốc của ông cha
ta được Người kế thừa và nâng lên một bước và là phạm trù cơ bãn của chủ
nghĩa duy vật lịch sử: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là
người sáng tạo ra lịch sử.
Tin vào dân, dựa vào dân và lấy dân làm gốc có nghĩa là phải tin
tưởng vững chắc vào sức mạnh to lớn và năng lực sáng tạo của nhân dân,
phải đánh giá đúng vai trò của lực lượng nhân dân. Người viết: “Có lực
lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy cũng làm được. Không có
thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề
một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ mà những người tài giỏi, những
đoàn thể to lớn nghĩ mãi không ra”.
3. Đại đoàn kết một cách tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo; đại đoàn kết

rộng rãi, lâu dài, bền vững:
Theo Hồ Chí Minh, có đoàn kết mới tạo nên sức mạnh của cách mạng.
Muốn đoàn kết thì trước hết phải có Đảng cách mạng để trong thì vận động,
tổ chức dân chúng, ngoài thì liên minh với các dân tộc bị áp bức và giai cấp
vô sản ở mọi nơi. Như vậy, để đoàn kết và lãnh đạo cách mạng, điều kiện
tiên quyết là phải có một Đảng cách mạng với tính cách là Bộ tham mưu, là
21
hạt nhân để tập hợp quần chúng trong nước và tổ chức, giữ mối liên hệ với
bè bạn ở ngoài nước. Đảng cách mạng muốn thống nhất về chính trị và tư
tưởng, đảm bảo được vai trò đó, thì phải giữ vững bản chất của giai cấp công
nhân, phải được vũ trang bằng chủ nghĩa chân chính, khoa học và cách mạng
nhất là chủ nghĩa Mác – Lênin:”Để làm trọn trách nhiệm người lãnh đạo
cách mạng, Đảng ta phải dựa vào giai cấp công nhân, lấy liên minh công
nông làm nền tảng vững chắc để đoàn kết các tầng lớp khác trong nhân dân.
Có như thế mới phát triển và củng cố được lực lượng cách mạng và đưa
cách mạng đến thắng lợi cuối cùng”.
Đại đoàn kết một cách tự giác là một tập hợp bền vững của các lực
lượng xã hội có định hướng, tổ chức và có lãnh đạo. Đây là sự khác biệt
mang tính nguyên tắc của tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến lược đại đoàn kết
dân tộc với tư tưởng đoàn kết, tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt
Nam tiền bối và một số lãnh tụ cách mạng trong khu vực và trên thế giới. Đi
vào quần chúng, thức tỉnh quần chúng, đoàn kết quần chúng vào cuộc đấu
tranh tự giải phóng mình theo nguyên tắc của chủ nghĩa Mác – Lênin là mục
tiêu nhất quán của Hồ Chí Minh là đại đoàn kết dân tộc lập trường vô sản,
mà sức mạnh chủ yếu của nó là liên minh công nông.
4. Đại đoàn kết chân thành, thân ái, thẳng thắn theo nguyên tắc tự phê
bình, phê bình vì sự thống nhất bền vững:
Giữa các bộ phận của khối đại đoàn kết dân tộc, bên cạnh những điểm
tương đồng còn có những điểm khác nhau cần phải giải quyết theo con
đường đối thoại, bàn bạc để đi đến sự nhất trí; bên cạnh những nhân tố tích

cực vẫn có những tiêu cực cần phải khắc phục. Để giải quyết vấn đề này,
một mặt Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương châm “cầu đồng tồn dị”; mặt
khác, Người nêu rõ: Đoàn kết phải gắn với đấu tranh, đấu tranh để tăng
cường đoàn kết và căn dặn mọi người phải ngăn ngừa tình trạng đoàn kết
22
xuôi chiều, nêu cao tinh thần phê bình và tự phê bình để biểu dương mặt tốt,
khắc phục những mặt chưa tốt, củng cố đoàn kết: “Đoàn kết that sự nghĩa là
mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí. Đoàn kết thực sự
nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học hỏi những cái tốt của nhau, phê
bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì
dân”. Trong quá trình xây dựng, củng cố và phát triển, Đảng ta và Mặt trận
dân tộc thống nhất luôn đấu tranh chống khuynh hướng hẹp hòi, một chiều,
chống coi nhẹ việc tranh thủ tất cả những lực lượng có thể tranh thủ được;
đồng thời chống khuynh huớng đoàn kết mà không có đấu tranh đúng mức
trong khối đại đoàn kết dân tộc. “Chúng ta làm cách mạng nhằm mục đích
cải tạo thế giới, cải tạo xã hội. Muốn cải tạo thế giới và cải tạo xã hội thì
trước hết phải tự cải tạo bản thân chúng ta”.
5. Đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế; chủ nghĩa yêu
nước chân chính phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai
cấp công nhân:
Ngay từ khi con đường cứu nước vừa sáng tỏ, Hồ Chí Minh đã xác
định con đường cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới
và chỉ có thể giành được thắng lợi hoàn toàn khi có sự đoàn kết chặt chẽ với
phong trào cách mạng thế giới. Về sau, trong quá trình cách mạng, tư tưởng
cuả Người về vấn đề đoàn kết với cách mạng thế giới càng được làm sáng tỏ
hơn và đầy đủ hơn: Đó là vấn đề cách mạng trong nước phải gắn với phong
trào và phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Cụ thể hơn là với nhân
dân Pháp, Mỹ, nhân dân Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa
khác, với phong trào đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội
của nhân dân thế giới. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã định hướng cho việc hình

thành 3 tầng Mặt trận: Mặt trận đại đoàn kết dân tộc; Mặt trận đoàn kết Việt-
Miên-Lào và Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam trong cuộc
23
đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Đây là sự phát
triển rực rỡ và là thắng lợi to lớn của tư tưởng Hồ Chí minh về đại đoàn kết.
Như vậy đại đoàn kết dân tộc phải là cơ sở và phải đi đến việc thực
hiện đoàn kết quốc tế, nếu đại đoàn kết dân tộc là một trong những yếu tố
quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam, thì đoàn kết quốc tế cũng là
yếu tố hết sức quan trọng giúp cho cách mạng dân tộc dân chủ ở Việt Nam
đi đến thắng lợi hoàn toàn và đưa cách mạng Việt Nam lên giai đoạn cách
mạng xã hội chủ nghĩa.
Chương IV: Tính đúng đắn của câu nói qua thực tiễn lịch sử
Toàn thắng 30 tháng 4 năm 1975 là kết quả của cả chặng đường dài
chiến đấu đầy gian khổ, hy sinh của mọi người Việt Nam yêu nước; của khối
đại đoàn kết 54 dân tộc trên toàn cõi Việt Nam dưới ngọn cờ lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hơn 20 năm sau khi cuộc chiến ở Việt Nam kết thúc, trong tác phẩm
Nhìn lại quá khứ - tấn thảm kịch và bài học Việt Nam, cựu Bộ trưởng Quốc
phòng Mỹ Mắc Na-ma-ra, người đã phục vụ qua hai đời Tổng thống Mỹ là
Ken-nơ-đi và Giôn-xơn; người can dự vào việc Mỹ leo thang chiến tranh
trên cả hai miền Nam - Bắc Việt Nam, đã thừa nhận sai lầm của nước Mỹ.
Theo ông ta, trong cuộc chiến tranh này, nước Mỹ ''đã không nhận ra được
những hạn chế của các thiết bị quân sự kỹ thuật cao và hiện đại, lực lượng
quân sự và học thuyết quân sự trong sự đối đầu với những trào lưu nhân dân
được thúc đẩy cao"; Mỹ đã "đánh giá thấp sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc
thúc đẩy nhân dân Việt Nam đấu tranh và hy sinh cho lý tưởng và các giá trị
của nó''.
24
Dù chưa đầy đủ, thậm chí còn lệch lạc trong cách nhìn lại cuộc chiến
tranh ở Việt Nam và nguyên nhân thất bại của Mỹ, thì ý kiến này của ông ta

cũng đã phần nào chạm tới một sự thật mà lẽ ra ngay từ những ngày đầu can
dự vào Việt Nam và Đông Dương, nhà cầm quyền nước Mỹ đã phải nhận
biết để có thể tránh khỏi một cuộc chiến kéo dài và đẫm máu. Sự thật đó
chính là: sức mạnh của lòng yêu nước, của "trào lưu nhân dân được thúc đẩy
cao" mà thực chất, đấy là khối đại đoàn kết toàn dân tộc được Đảng Cộng
sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu xây dựng, củng
cố theo một đường lối đúng đắn vì độc lập - tự do của Tổ quốc Việt Nam;
giữ vững nền hòa bình cho đất nước mình và sự hòa hiếu giữa các dân tộc.
Sau này, trong Tổng kết chiến tranh Việt Nam, Bộ Quốc phòng Mỹ đã rút ra
kết luận rằng, "Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã nắm được ngọn cờ dân tộc
và chống thực dân". Giữa những ngày chống Mỹ đầy gian lao, thử thách,
Chủ tịch Hồ Chí Minh vững tin vào thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước. Bởi theo Người, "Dân ta có một lòng nồng nàn
yêu nước". "Từ xưa tới nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại
sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi
sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước".
"Làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn" ấy, thực chất là sức mạnh của lòng yêu
nước, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Sức mạnh ấy là nền tảng
vững bền bảo đảm cho dân tộc ta vượt qua bao nhiêu gian nan, thử thách
trên dặm dài lịch sử - một lịch sử lắm gian truân, nhọc nhằn nhưng cũng đầy
chiến công hiển hách. Sức mạnh ấy đã làm nên thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 với sự khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa. Sau ngót 80 năm dưới ách đô hộ của đế quốc, thực dân, từ đây, "Nước
Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự
do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực
25

×