Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

trang phục dân tộc thái – nét văn hoá riêng biệt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 45 trang )


LỜi MỞ ĐẦU
Việt Nam với 54 dân tộc anh em là một trong những đất nước có nền
văn hoá phong phú và đa dạng. Mỗi miền, mỗi dân tộc đều có bản sắc riêng,
văn hoá riêng. Cuộc sống của họ khác nhau, đời sống tâm linh khác nhau hay
tập tục thói quen khác nhau đã tạo nên những nét khác biệt cho mỗi dân tộc.
Nhưng không vì thế mà làm mất đi tình đoàn kết của dân tộc Việt Nam, ngược
lại nó còn làm nên một dân tộc đa văn hoá, giàu truyền thống.
Bản sắc của mỗi dân tộc được thể hiện rõ trong lối ăn, cách ở của đồng
bào dân tộc nhưng có lễ dễ nhận biết nhất chính là qua trang phục của họ. Mỗi
dân tộc đều có một trang phục riêng mang đậm nét văn hoá mỗi vùng miền và
không lẫn với bất cứ nơi đâu. Đây cũng chính là giá trị khác biệt mà cũng là giá
trị văn hoá vô giá mà chúng ta cần gìn giữ.
Một trong những dân tộc mà trang phục của họ được biết đến khá nhiều
qua những chiếc khăn piêu, váy đen, váy đỏ. Đó chính là dân tộc Thái, mà đặc
biệt là trang phục của phụ nữ Thái.Trang phục phụ nữ không chỉ phản ánh trình
độ phát triển kinh tế - xã hội mà còn thể hiện tập quán, nếp sống, trình độ thẩm
mỹ và văn hoá các dân tộc. Trang phục của người phụ nữ Thái là niềm tự hào
không chỉ của riêng người Thái mà còn là một nét văn hóa rất đặc sắc trong kho
tàng văn hoá vật thể của dân tộc.
Qua nghiên cứu và tìm hiếu em đã lựa chọn đề tài tiểu luận: “Trang
phục dân tộc Thái – Nét văn hoá riêng biệt”. Do còn hạn chế về mặt thời gian
và nhận thức nên tiểu luận sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong thầy
cô thông cảm và giúp đỡ.
Em xin chân thành cảm ơn!
1

Ngoài Lời mở đầu và Kết luận, tiểu luận gồm 3 phần chính:
PHẦN I: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA DÂN TỘC
THÁI – TRANG PHỤC THÁI
PHẦN II: TRANG PHỤC THÁI - VẺ ĐẸP TIỀM ẨN


PHẦN III: GÌN GIỮ BẢN SẮC DÂN TỘC THÁI, MỘT NÉT VĂN
HOÁ ĐẶC SẮC TRONG KHO TÀNG VĂN HOÁ VẬT THỂ CỦA DÂN
TỘC
2

PHẦN I: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA DÂN TỘC
THÁI – TRANG PHỤC THÁI
1. Lịch sử phát triển:
Người Thái di cư đến Việt Nam trong thời gian từ thế kỉ 7 đến thế kỉ
13
[1]
. Theo sách sử Việt Nam, vào thời Lý, đạo Đà Giang, man Ngưu Hống (tức
người Thái) đến từ Vân Nam, đã triều cống lần đầu tiên vào năm 1067. Trong
thế kỷ 13, người Ngưu Hống kết hợp với người Ai Lao chống lại nhà Trần và bị
đánh bại năm 1280, lãnh tụ Trịnh Giác Mật đầu hàng, xứ Ngưu Hống bị đặt
dưới quyền quản trị trực tiếp của quan quân nhà Trần. Năm 1337 lãnh tụ Xa
Phần bị giết chết sau một cuộc xung đột, xứ Ngưu Hống bị sát nhập vào lãnh
thổ Đại Việt và đổi tên thành Mương Lễ, hay Ninh Viễn (Lai Châu ngày nay)
và giao cho họ Đèo cai quản. Năm 1431 lãnh tụ Đèo Cát Hãn, người Thái Trắng
tại Mương Lễ, nổi lên chống triều đình, chiếm hai lộ Qui Hóa (Lào Cai) và Gia
Hưng (giữa sông Mã và sông Đà), tấn công Mương Mỗi (Sơn La) Đèo Mạnh
Vương (con của Đèo Cát Hãn) làm tri châu. Năm 1466, lãnh thổ của người Thái
được tổ chức lại thành vùng (thừa tuyên) Hưng Hóa, gồm 3 phủ : An Tây (tức
Phục Lễ), Gia Hưng và Qui Hóa, 4 huyện và 17 châu.
Những lãnh tụ Thái được gọi là phụ đạo, được phép cai quản một số
lãnh địa và trở thành giai cấp quí tộc của vùng đó, như dòng họ Đèo cai quản
các châu Lai, Chiêu Tấn, Tuy Phụ, Hoàng Nham; dòng họ Cầm các châu Phù
Hoa, Mai Sơn, Sơn La, Tuần Giáo, Luân, Ninh Biên; dòng họ Xa cai quản châu
Mộc ; dòng họ Hà cai quản châu Mai, dòng họ Bạc ở châu Thuận ; họ Hoàng ở
châu Việt

3

Năm 1841, trước sự đe dọa của người Xiêm La, triều đình nhà Nguyễn
kết hợp ba châu Ninh Biên, Tuần Giáo và Lai Châu bên bờ tả ngạn sông
Mekong thành phủ Điện Biên. Năm 1880, phó lãnh sự Auguste Pavie nhân
danh triều đình Việt Nam phong cho Đèo Văn Trí chức tri phủ cha truyền con
nối tại Điện Biên; sau khi giúp người Pháp xác định khu vực biên giới giữa Việt
Nam với Trung Quốc và Lào, Đèo Văn Trí được cử làm quan đạo Lai Châu, cai
quản một lãnh thổ rộng lớn từ Điện Biên Phủ đến Phong Thổ, còn gọi là xứ
Thái. Tháng 3-1948, lãnh thổ này được Pháp tổ chức lại thành Liên bang Thái
tự trị, qui tụ tất cả các sắc tộc nói tiếng Thái chống lại Việt Minh.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, để lấy lòng các sắc tộc thiểu số miền
Bắc, Chính phủ Việt Minh thành lập Khu tự trị Thái Mèo ngày 29 tháng 4 năm
1955, Khu tự trị Tày Nùng và vùng tự trị Lào Hạ Yên, nhưng tất cả các khu này
đều bị giải tán năm 1958.
2. Dân cư
Tại Việt Nam, người Thái có số dân là 1.000.000 người, cư trú tập
trung tại các tỉnh Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An. Người
Thái sử dụng các họ chủ yếu như: Bạc, Bế, Bua, Bun, Cà (Hà, Kha, Mào, Sa),
Cầm, Chẩu, Chiêu, Đèo, Điều, Hà, Hoàng, Khằm Leo, Lèo, Lềm (Lâm, Lịm),
Lý, Lò (Lô, La), Lộc, Lự, Lượng (Lương), Manh, Mè, Nam, Nông, Ngần,
Ngưu, Nho, Nhật, Panh, Pha, Phia, Phìa, Quàng (Hoàng, Vàng), Quảng, Sầm,
Tạ, Tày, Tao (Đào), Tạo, Tòng (Toòng), Vang, Vì (Vi), Xa (Sa), Xin.
• Nhóm Thái Trắng (Táy Đón hay Táy Khao) cư trú chủ yếu ở
tỉnh Lai Châu và một số huyện tỉnh Sơn La (Quỳnh Nhai, Bắc Yên, Phù
Yên). Ở Đà Bắc thuộc Hà Sơn Bình, có nhóm tự nhận là Táy Đón, được
4

gọi là Thổ. Ở vùng Văn Bàn, Dương Quỳ thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn, có
một số Thái Trắng chịu ảnh hưởng đậm của văn hóa Tày. Ở Sapa, Bắc

Hà, nhiều nhóm Thái Trắng đã Tày hóa. Người Thái Trắng đã có mặt dọc
hữu ngạn sông Hồng và tỉnh Lai Châu từ thế kỷ 13 và làm chủ Mường
Lay thế kỷ 14, một bộ phận di cư xuống Đà Bắc (Hà Sơn Bình) và Thanh
Hóa thế kỷ 15. Có thuyết cho rằng họ là con cháu người Bạch Y ở Trung
Quốc.
• Nhóm Thái Đen (Táy Đăm) cư trú ở khu vực tỉnh Sơn La và
2 huyện Điện Biên, Tuần Giáo)của tỉnh Lai Châu . Các nhóm Tày Thanh
(Man Thanh), Tày Mười, Tày Khăng ở miền Tây Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh
cũng mới từ mạn Tây Bắc chuyển xuống cách đây vài ba trăm năm và bị
ảnh hưởng bởi văn hóa và nhân chủng của cư dân địa phương và Lào.
Nhóm Tày Thanh từ Mường Thành (vùng Điện Biên) đi từ Lào vào
Thanh Hóa và tới Nghệ Tĩnh định cư cách đây hai, ba trăm năm, nhóm
này gần gũi với nhóm Thái Yên Châu (Sơn La) và chịu ảnh hưởng văn
hóa Lào.
• Nhóm Thái Đỏ, gồm nhiều nhóm khác nhau cư trú chủ yếu ở
một số huyện như Mộc Châu (Sơn La), Mai Châu (Hà Sơn Bình) và các
huyện miền núi Mường Khoòng (Thanh Hóa) và Quỳ Châu, Quỳ Hợp,
Con Cuông, Tương Dương (Nghệ Tĩnh).
Ngoài ra còn có chừng 20.000 người Thái gốc Việt Nam sinh sống tại
nước ngoài, chủ yếu là Pháp và Hoa Kỳ.
3. Ngôn ngữ
5

Người Thái nói các thứ tiếng thuộc nhóm ngôn ngữ gốc Thái của hệ
ngôn ngữ Thái-Kadai. Trong nhóm này có tiếng Thái của người Thái Lan, tiếng
Lào của người Lào, tiếng Shan ở Myanma và tiếng Choang ở miền nam Trung
Quốc. Tại Việt Nam, 8 sắc tộc thiểu số gồm Bố Y, Giáy, Lào, Lự, Nùng, Sán
Chay, Tày, Thái được xếp vào nhóm ngôn ngữ Thái.
4. Đặc điểm kinh tế
Người Thái có nhiều kinh nghiệm đắp phai, đào mương, dựng con, bắc

máng lấy nước làm ruộng. Lúa nước là nguồn lương thực chính, đặc biệt là lúa
nếp. Người Thái cũng làm nương để trồng lúa, hoa màu và nhiều thứ cây khác.
Từng gia đình chăn nuôi gia súc, gia cầm, đan lát, dệt vải, một số nơi làm đồ
gốm Sản phẩm nổi tiếng của người Thái là vải thổ cẩm, với những hoa văn
độc đáo, màu sắc rực rỡ, bền đẹp.
5. Hôn nhân
Người Thái có tục ở rể, vài năm sau, khi đôi vợ chồng đã có con mới về
ở bên nhà chồng, nhưng bây giờ hầu như không có trừ vài trường hợp gia đình
bên gái khó khăn quá.
6. Tục lệ ma chay
Người Thái quan niệm chết là tiếp tục "sống" ở thế giới bên kia. Vì vậy,
đám ma là lễ tiễn người chết về "mường trời".
7. Văn hóa dân gian
Thần thoại, cổ tích, truyền thuyết, truyện thơ, ca dao là những vốn
quý báu của văn học cổ truyền người Thái. Những tác phẩm thơ ca nổi tiếng
6

của dân tộc Thái là: Xống chụ xon xao, Khun Lú Nàng Ủa. Người Thái sớm có
chữ viết nên nhiều vốn cổ (văn học, luật lệ, dân ca) được ghi chép lại trên giấy
bản và lá cây. Người Thái rất thích ca hát, đặc biệt là khăp. khắp là lối ngâm thơ
hoặc hát theo lời thơ, có thể đệm đàn và múa. Nhiều điệu múa như múa xòe,
múa sạp đã được trình diễn trên sân khấu trong và ngoài nước, hấp dẫn đông
đảo khán giả. Hạn khuống, ném còn là hai đặc trưng văn hóa nổi tiếng của
người Thái.
8. Nhà cửa
Nhà người Thái trắng có khá nhiều điểm gần với nhà Tày-Nùng. Còn
nhà người Thái Đen lại gần với kiểu nhà của các cư dân Môn-Khmer. Tuy vậy,
nhà người Thái Đen lại có những đặc trưng không có ở nhà của cư dân Môn-
Khmer: nhà người Thái Đen nóc hình mai rùa, chỏm đầu đốc có khau cút với
nhiều kiểu khác nhau. Hai gian hồi để trống và có lan can bao quanh. Khung

cửa ra vào và cửa sổ có nhiều hình thức trang trí khác nhau.
Bộ khung nhà Thái có hai kiểu cơ bản là khứ tháng và khay điêng. Vì
khay điêng là vì khứ kháng được mở rộng bằng cách thêm hai cột nữa. Kiểu vì
này dần gần lại với kiểu vì nhà người Tày-Nùng.
Cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt của nhà Thái Đen khá độc đáo: các
gian đều có tên riêng. Trên mặt sàn được chia thành hai phần: một phần dành
làm nơi ngủ của các thành viên trong gia đình, một nửa dành cho bếp và còn là
nơi để tiếp khách nam.
9. Trang phục
7

Có nhiều nhóm địa phương với những phong cách trang phục khác
nhau.
9.1 Trang phục nam
Thường nhật, trong sinh hoạt và lao động, nam giới người Thái mặc áo
cánh ngắn, xẻ ngực, quần xẻ dũng. Áo là loại cổ tròn, không cầu vai, hai túi
dưới và trước cài cúc vải hoặc xương. Đặc điểm của áo cánh nam giới người
Thái khu Tây Bắc không phải là lối cắt may (vì cơ bản giống ngắn nam Tày,
Nùng, Kinh ) mà là ở màu sắc đa dạng của loại vải cổ truyền của cộng đồng
sáng tạo nên: không chỉ có màu chàm, trắng mà còn có màu cà phê sữa, hay dật
các vuông bằng các sợi màu đỏ, xanh, cà phê Trong các ngày lễ, tết, họ mặc
loại áo dài xẻ nách phải màu chàm, đầu quấn khăn, chân đi guốc. Trong tang lễ
họ mặc nhiều loại áo sặc sỡ, tương phản màu sắc với ngày thường với lối cắt
may dài, thụng, không lượn nách với các loại: xẻ ngực, xẻ nách, chui đầu.
9.2 Trang phục nữ
Trang phục nữ Thái chia làm 2 loại phân biệt khá rõ theo hai ngành Thái Tây
Bắc là Thái trắng (Táy khao) và Thái đen (Táy đăm):
+ Thái trắng: Thường nhật, phụ nữ Thái trắng mặc áo cánh ngắn (xửa cóm),
váy màu đen không trang trí hoa văn. Aáo thường là màu sáng, trắng, cài cúc
bạc tạo hình bướm, ve, ong Cái khác xửa cóm Thái đen là cổ áo hình chữ V.

Thân áo ngắn hơn áo cánh người Kinh, tạo dáng ôm chặt lấy thân, khi mặc cho
vào trong cạp váy. Váy là loại váy kín (ống), màu đen, phía trong gấu đáp vải
đỏ. Khi mặc xửa cóm và váy chị em còn tấm choàng ra ngoài được trang trí
nhiều màu. Khăn đội đầu không có hoa văn mà chỉ là băng vải chàm dài trên
dưới 2 mét Trong các dịp lễ tết họ mặc áo dài màu đen. Đây là loại áo dàu
8

thụng thân thẳng, không lượn nách, được trang trí bằng vải 'khít' ở giữa thân có
tua vải phủ từ vai xuống ngực, nách áo trang trí theo lối đáp hai mảng hoa văn
trong bố cục hình tam giác. Phụ nữ chưa chồng búi tóc sau gáy, có chồng búi
trên đỉnh đầu. Họ có loại nón rộng vành.
+ Thái đen: Thường nhật phụ nữ Thái đen mặc áo ngắn (xửa cóm) màu tối
(chàm hoặc đen), cổ áo khác Thái trắng là loại cổ tròn, đứng. Đầu đội khăn
'piêu' thêu hoa văn nhiều mô-típ trang tri mang phong cách từng mường. Váy là
loại giống phụ nữ Thái trắng đã nói ở trên. Lối để tóc có chồng và chưa chồng
cũng giống ngành Thái trắng. Trong lễ, tết áo dài Thái đen đa dạng với các loại
xẻ nách, chui đầu, trang trí phong phú đa dạng về màu và màu mà mô-típ hơn
Thái trắng.
9

PHẦN II: TRANG PHỤC THÁI - VẺ ĐẸP TIỀM ẨN
Một số nét văn hoá tiêu biểu của người Thái
Dân tộc Thái hiện là cộng đồng đông nhất ở Sơn La, chiếm 54% dân số.
Tiếng Thái thuộc nhóm ngôn ngữ Thái - Tày.
Người Thái có nhiều kinh nghiệm đắp phai, đào mương, dựng cọn, bắc
máng lấy nước làm ruộng. Lúa nước là nguồn lương thực chính, đặc biệt là lúa
nếp.
Người Thái cũng làm nương để trồng lúa, hoa mầu và nhiều thứ cây
khác. Các gia đình chăn nuôi gia súc, gia cầm, đan lát, dệt vải, một số nơi làm
đồ gốm"Sản phẩm nổi tiếng của người Thái là vải thổ cẩm, với những hoa văn

đặc sắc, màu sắc tươi hài hoà, bền đẹp.
Mấy chục năm gần đây, nam giới người Thái mặc Âu phục khá phổ
biến, nhưng phụ nữ vấn gắn bó với bộ áo, váy, khăn cùng lối trang sức theo
truyền thống dân tộc, người Thái ở nhà sàn, mỗi bản thường có khoảng 40-50
nóc nhà kề bên nhau. Người Thái Ðen thường tạo dáng mái nhà hình mai rùa,
trang trí trên hai đầu nóc nhà bằng những khau cút được làm theo phong tục từ
xưa truyền lại. Người Thái có tục ở rể, vài năm sau, khi đôi vợ chồng đã có con
mới về ở bên nhà chồng.
10

Ðồng bào quan niệm, chết là tiếp tục “sống” ở thế giới bên kia. Vì vậy,
đám ma là lễ tiễn người chết về “mường trời”.
Người Thái có nhiều họ, mỗi họ thường có những quy định kiêng kỵ
khác nhau. Họ Lò không ăn thịt chim Táng Lò. Họ Quàng kiêng con hổ. ”Ðồng
bào Thái thờ cúng tổ tiên, cúng trời đất, cúng bản mường. Gắn liền với sản xuất
là những lễ nghi cầu mùa. Mở đầu hàng năm bằng lễ đón tiếng sấm năm mới.
Thần thoại, cổ tích, truyền thuyết, truyện thơ, ca dao là những vốn quý
báu của văn học cổ truyền người Thái. Những tác phẩm thơ ca nổi tiếng của
đồng bào Thái là “Xống chụ xon xao”, “Khu Lú, Nàng ủa. Người Thái sớm có
chữ viết. Ðồng bào rất thích ca hát, đặc biệt là khắp. Khắp là lối ngâm thơ hoặc
hát theo lời thơ, có thể đệm dàn và múa. Nhiều điệu múa như múa xoè, múa sạp
đã được trình diễn trên sân khấu trong và ngoài nước, hấp dẫn đông đảo khán
giả.

Cơm Lam - món ăn của người Thái Tây Bắc
Ai đã từng đặt chân lên Sơn La, được thưởng thức món cơm Lam dù
chỉ một lần, sẽ cảm nhận được cuộc sống, văn hoá và hương vị của núi, rừng
Tây Bắc. Món cơm Lam được làm từ gạo nếp nấu trong ống tre, tiếng Thái gọi
là (Co má ngã) thân to khoảng cổ tay, các đốt dài từ 60-70 cm, cây cao, vỏ dày,
11


bên trong có lớp màng dai. Khi nấu cơm Lam, người ta thường chọn cây non,
chặt từng đốt, cho gạo nếp và nước vào ống, để khoảng 2-3 tiếng, dùng lá dong
làm nút, đem đốt trên đống lửa. Khi gạo chín, dùng dao sắc tước vỏ, cắt từng
khúc rồi ăn cùng chẳm chéo, muối vừng, hương của nếp nương, quyện cùng vị
đậm của vừng, vị ngọt của tre sẽ đọng lại trong ta những cảm giác khó quên.
Ðây là món ăn dễ làm, nguyên liệu sẵn có; người xưa thường dùng cơm Lam
cho việc đi nương rẫy, săn bắn lâu ngày trong rừng sâu, hoặc trong các cuộc
vui, bên những lời khắp, vòng xoè, người ta thường dựng ống Lam trên đống
lửa món cơm Lam cũng được dùng là món ăn kiêng trong kỳ sinh nở của phụ
nữ.
Ngày nay, cơm Lam khá phổ biến trong các nhà hàng, hàng bán ở chợ,
thể hiện tập tục, nét văn hoá truyền thống của người Thái vùng Tây Bắc. Nếu
đến Sơn La, bạn hãy thưởng thức cơm Lam với các món cá mương ( Pa pỉnh
tộp) và nếm men rượu cần bạn sẽ có thêm cảm nhận về Sơn La.

Một số trò chơi dân gian đặc sắc của đồng bào dân tộc Thái
12

Hàng năm vào các dịp hội hè như hội đầu xuân, hội săn bắn, đánh cá
tập thể, gắn liền với các buổi lễ sinh hoạt cộng đồng, như lễ Xên mương, Xên
bản, Xên hươn, lễ “kim pảng” Ðồng bào Thái thường tổ chức vui chơi ca hát,
nhảy múa tổ chức nhiều trò chơi dân gian.
Thi ném còn: Thi ném còn qua vòng tròn treo trên độ cao từ 10-20 mét;
đứng cách từ 10-20 mét, nam, nữ tập trung 2 bên tự do ném, ai ném trúng được
thưởng (phần thưởng tuỳ theo sự thoả thuận giữa mọi người khi tổ chức).
Tung còn: Chủ yếu được tổ chức giữa nam, nữ thanh niên ( chưa vợ,
chưa chồng).Trai gái chia hai bên, một bên là nữ, một bên là nam (số lượng bất
kỳ). Ban đầu hai bên sẽ tung còn qua lại, về sau người con trai sẽ chú ý tung
còn cho con gái nào mình thích. Nếu người con gái đó bắt quả còn một cách

nhiệt tình, tức là họ đã có ý chấp nhận cầu thân. Từ lúc đó cặp trai chỉ tung còn
cho nhau. Nếu ai để rơi còn, người bạn có quyền lấy một thứ gì đó như khăn, đồ
trang sức, khăn tay Sau khi trò chơi kết thúc, hai người lại trao trả lại cho
nhau thứ đã lấy. Nếu buổi làm quen này có nhiều hứa hẹn, đó sẽ là một tình
yêu đẹp.
Trò tó má lẹ
Bước 1: Tó khấu luông- người chơi đứng ở vị trí cách hàng má lẹ đội
bạn một khoảng cách (tuỳ theo quy định, thường bằng hai bước dài), đặt má lẹ
lên điểm đầu gối giáp đùi, dùng ngón cái bật quả má lẹ sao cho trúng má lẹ đội
bạn bay đến đích hoặc quá đích (theo thoả thuận) coi như thắng (gọi là oi).
Trường hợp có thành viên đánh không oi thì thành viên đó có quyền “Sặm”
(đánh lại) một lần hoặc để thành viên trong đội “Sen” (đánh cứu).
Bước 2: Tó khấu nọi, đội đánh cử một người đứng ở vạch qui định tung
quả má lẹ về phía hàng má lẹ đội bạn, má lẹ dừng ở điểm nào, lấy điểm đó làm
điểm để đánh. Người đánh sẽ ngồi sát vạch trên, ngồi xuống đặt má lẹ như
13

“như tó khấu luông” và cũng đánh như cách trên. Nếu không “oi” thì đánh như
cách 1.
Bước 3: Tó phá, từ vạch quy định, người đánh sẽ đặt má lẹ trên mu bàn
chân (tuỳ chân thuận), với hai bước chân của mình người đánh phải làm sao cho
má lẹ bắn vào má lẹ đội bạn cho “oi”. Nếu không “oi”, tiếp tục như tó khấu
luông.
Bước 4: Tó lai lin (hay tó tháp), như bước 2, người đánh tung má lẹ
đánh dấu vạch đánh, sau đó đặt má lẹ xuống đất sát vạch đánh dùng má lẹ đội
bạn sao cho “oi”, trường hợp không “oi” được tiến hành như bước một.
Ðội nào đã qua cả bốn bước là thắng một vòng và tiếp tục vòng hai.
Trường hợp không qua bước thứ mấy sẽ được ghi nhớ để đánh ở vòng sau, sau
khi đội bạn không qua. Trong trường hợp tung má lẹ để đánh dấu điểm đánh (tó
khấu nọi và lai lin) nếu nhỡ tung má lẹ qua hàng má lẹ đội bạn hoặc làm đổ má

lẹ coi như bị thua ở vòng đó và đội bạn có quyền đánh. Cuộc chơi cứ thế tiếp
diễn.
Đây là một trò chơi tập thể, có tính đồng đội cao và đòi hỏi sự khéo léo,
kiên trì và mạnh mẽ.
Mỗi dân tộc trên thế giới đều mang sắc thái văn hóa độc đáo của mình
qua trang phục. Cùng với ngôn ngữ, trang phục là dấu hiệu thông tin quan
trọng thứ hai để chúng ta dễ nhận biết tộc người này và tộc người khác mỗi khi
dịp tiếp xúc.
I. Luận giải Thái trắng và Thái đen qua văn hóa của họ
Thư tịch của Trung Quốc như sách Man thư và Tân Đường thư
trong phần mô tả về người phương Nam Bách Việt ở vùng Vân Nam xưa,
có đoạn ghi về người Man như sau: "Ô Man Đông Thoán và bạch Man
14

Tây Thoán" (ô là đen, bạch là trắng), sự đen trắng này không phải ở da
người mà ở trang phục - ô Man Đông Thoán là người Man ở phía Đông có
trang phục màu đen, còn bạch Man Tây Thoán là người Man ở phía Tây
có trang phục màu trắng. (Cần Trọng, Thái Tây Bắc Việt Nam, Nxb khoa
học xã hội, 1978, tr 210)
Ở đây đều là người Man cả, nhưng người Man ở phía Đông thì mặc
trang phục màu đen, còn người Man ở phía Tây thì mặc trang phục màu trắng.
Tại sao như vậy? Đây là quan niệm về phạm trù lưỡng hợp âm dương trong
sinh học. Quan niệm này chi phối nhận thức trong đời sống của người phương
Nam - Bách Việt, cơ sở cho sự hình thành các cặp "đực cái" và hiện vật lưỡng
hợp - âm dương.
Tư tưởng này, ngày nay vẫn còn thấy tiềm tàng, đậm nét trong tâm thức
của các cư dân sinh sống ở đây, song có sự đậm nhạt khác nhau qua các hình
thái biểu hiện văn hoá của từng dân tộc. Còn việc phân đôi dân tộc thành hai
ngành thì nay vẫn còn thấy trong trang phục của một số dân tộc như người Mèo
và đặc biệt là người Thái ở Tây Bắc. Vì thế, việc tìm hiểu người Thái Trắng và

người Thái Đen ở Tây Bắc là điều cần thiết. Tuy nhiên việc nghiên cứu này là ở
yếu tố văn hoá học, chứ không phải yếu tố dân tộc học.
Dân tộc Thái ở Tây Bắc, phân làm hai ngành Thái Trắng - Thái Đen.
Đây là một vấn đề đặt ra cho ngành Thái học của cả khu vực Đông Nam Á - nơi
có người Thái sinh sống. Song cho đến nay, vấn đề đó vẫn chưa thấy giả thuyết
nào có sức thuyết phục.
15

Thiếu nữ dân tộc Thái Đen
Thiếu nữ dân tộc Thái Trắng
Theo tác giả CầmTrọng, ngành Thái Trắng và ngành Thái Đen thuộc
phạm vi cư trú rất rộng: ngành Thái Trắng sang cả người Tày ở Việt Bắc, song
nay họ đã là một cộng đồng riêng, nhưng vẫn là bộ phận trong nhóm nói tiếng
Thái thuộc ngành “Trắng” . Ở đây chúng tôi chỉ đề cập đến ngành Thái Trắng
và ngành Thái Đen cư trú ở Tây Bắc nước ta.
Có ý cho rằng Thái Đen là nhóm người có nước da hơi đen và ngược
lại, nhưng qua trực quan, chúng tôi thấy không phải thế, và lâu nay cũng không
16

thấy khoa Nhân chủng học nói đến điều đó. Vì thế, việc có hai ngành Thái
Trắng và Thái Đen ở đây, không phải do vấn đề màu sắc sinh học, mà do tâm lý
xã hội tạo nên.
Chúng tôi đã thẩm thức vấn đề này ở vùng Thái Tây Bắc từ năm 1958
và sau này, khi đang chuẩn bị tư liệu cho cuốn sách "Văn hoá Nõ Nường" (sinh
thực) qua những cổ vật: tượng, phù điêu và hoa văn thổ cẩm biểu tượng "âm
dương" của người Kinh và người Thái thì thấy rằng việc có hai ngành: Thái
Trắng, Thái Đen ở dân tộc Thái, đó là sự phân chia một "nửa" của cha và một
"nửa" của mẹ, về những người con trong cùng một dân tộc.
Tư tưởng ấy được người Thái xưa ký thác lại trong ba biểu tượng sau
đây: một là "quả trứng" tâm linh, tiếng Thái gọi là "Xay mo" cùng hai hoa văn

thổ cẩm khác là "Xai Peng" (Tơ hồng) và "Kút Piêu" (ngọn lửa sự sống). Ba
biểu tượng này mô tả về chất "nguyên khí" của Po Me (Bố Mẹ) - chất đã "sinh
ra" con người - người Thái . Ba biểu tượng hoa văn đó được thêu vào khăn Piêu
để phụ nữ đội lên đầu cất giữ.
Ngay từ thưở ban sơ, các dân tộc nói chung và người Thái nói riêng đã
đặt câu hỏi về nòi giống, gốc nguồn của dân tộc mình: con người ở đâu mà ra,
và quá trình sinh ra đó như thế nào? Trả lời - Qua trực quan, họ thấy: Người
Thái sinh ra từ hai chất "nguyên khí" của Po Me (bố mẹ): chất của Po màu
"trắng", chất của Me màu "đỏ". Vậy phần của cha (Po) ký hiệu màu "trắng"
Thái Trắng, trang phục màu trắng – tóc để sau vai; phần của mẹ (Me) ký hiệu
màu "đỏ" Thái Đỏ, trang phục màu đỏ. Vậy ngành Thái Đỏ có trước, về sau
ngành Thái Đỏ chuyển thành ngành Thái Đen- phụ nữ Thái đen có chồng rồi
tóc trên đầu tằng cẩu bới ngược lên và trùm khăn Piêu.
Sự phân định màu sắc về Thái Trắng, Thái Đen ấy, ngày nay nhìn lại là
phù hợp với người phương Đông, trong quan niệm về ngũ sắc thì màu "đen" và
17

các màu "sẫm" là thuộc tính "Âm", còn màu "trắng" và các màu "sáng" là thuộc
tính "Dương".
Theo tập tính của loài người thì giới mày râu (Po) nghiêng về sức vóc
cường tráng, còn giới đàn bà (Me) thuộc phái yếu, làm đẹp. Vậy nên nhóm
phần của mẹ - Thái Đen, phụ nữ được trưng diện thoả sức với các gam màu sặc
sỡ theo huyết khí của mẹ là màu đỏ, mà chiếc khăn "Piêu" đội đầu của phụ nữ
Thái Đen là một điển hình.
Những hoa văn trên khăn "Piêu" đội đầu của phụ nữ Thái đen, với ý
nghĩa chịu trách nhiệm mang tải những tư tưởng ban đầu của người Thái về
việc sinh thành, phát triển và bảo vệ từng thành viên của dân tộc. Còn phụ nữ
ngành Thái Trắng tuy cũng là phái yếu, thuộc diện làm đẹp, nhưng theo ký hiệu
của cha (Po) mầu "trắng", cho nên chỉ được trưng diện ở các gam màu "trắng"
và "sáng", không có gam màu sặc sỡ. Như vậy, việc Thái "Trắng" và Thái

"Đen" là thuộc phạm trù tâm thức, quan niệm về sinh học giống nòi, còn sắc
phục chỉ phần thứ yếu bên ngoài. Dù vậy cả hai ngành Thái đều cùng một cội
nguồn (cha mẹ) cho nên mỗi ngành đều giữ lại những kỷ vật màu sắc của ngành
kia. Hiện tượng ấy, người Trung Quốc gọi là cất giữ ngọc bội. Đó là việc ngành
Thái trắng vào những ngày cúng giỗ Tổ tiên người ta lại ăn vận đồ "đen" và phụ
nữ hàng ngày mặc áo ngắn (xửa cóm) thì nẹp viền cổ và lề áo cũng phải màu
"đen" rồi trên đó mới đơm hàng cúc bướm bạc, vì thế ngạn ngữ có câu áo rách
giữ lấy lề cho nên người ta lấy lề áo làm vật "ngọc bội" là có dụng ý. Còn phụ
nữ ngành Thái Đen thì trên lề áo đen cũng đơm hàng cúc bướm bạc và đeo xà
tích bằng bạc bên thắt lưng trái.
Trong các dấu hiệu về trao đổi màu sắc (ngọc bội) này của hai ngành
Thái vừa nêu ở trên thì dấu hiệu mặc áo đen trong dịp cúng lễ Tổ tiên của ngành
Thái Trắng là có ý nghĩa hơn cả, hoặc dùng "lề áo" màu đen, vòng qua cổ, rồi
thõng xuống hai đường trước ngực cũng là một biểu hiện có ý nghĩa. Ngoài ra
18

việc ngành Thái Đen dùng mầu "đen" và màu "trắng" để làm bao bì đóng gói
quà biếu giữa hai nhà thông gia, cũng là tín hiệu có sức thuyết phục cao.
Ở ngành Thái Đen, con gái đi lấy chồng, sau thời gian gia thất yên ổn,
con cái đã lớn khôn, có tục về tạ ơn cha mẹ đẻ. Lễ vật mang theo gồm: 5 sải vải
trắng và 4 sải vải đen, cùng 6 đồng và 4 hào bạc trắng. Phân thành các lễ: dùng
một sải vải trắng gói 4 hào bạc biếu người làm mối, dùng 4 sải vải trắng gói 2
đồng bạc biếu bố vợ, dùng 2 sải vải đen gói 2 đồng bạc biếu mẹ vợ và dùng 2
sải vải đen gói 2 đồng bạc trả lại cho vợ chồng con đem về lại quả, bên gia đình
nhà chồng
Nghi thức dùng màu sắc để đóng gói quà biếu ở đây là có dụng ý (chỉ
diễn ra ở hai gia đình thông gia - tức là tượng trưng cho: bên nửa của cha nhà
“trai” và bên nửa của mẹ nhà “gái”) gói vải màu "trắng" biếu cho "bố" vợ, gói
vải màu "đen" biếu cho "mẹ" vợ và gói quà của nhà "gái" lại quả thì gói vào vải
màu "đen", còn gói quà của nhà "trai" biếu cho người làm mối thì gói vào tấm

vải màu "trắng" : ở đây mầu "trắng" thì bên nam (bố vợ, nhà trai), còn màu
"đen" thì bên nữ (mẹ vợ, nhà gái). Đó là những tín hiệu tự nó đã giải mã cái tâm
thức truyền kỳ về Thái Trắng "phần" của cha và Thái Đen "phần" của mẹ ở
người Thái cho hậu thế.
Từ hai chất "nguyên khí" của Po Me có mầu "trắng" và màu "đỏ" người
xưa đã lấy quả trứng gà cũng có hai mầu "trắng" - "đỏ" và nở thành gà con, làm
vật biểu tượng so sánh, đối chứng và được coi như quá trình thai nghén của một
hài nhi trong bụng mẹ- tức là "quả trứng tín ngưỡng" biểu tượng về nguồn cội
sinh thành ra người Thái. Cho nên quả trứng tâm linh được họ tôn vinh thành
"vật linh" thờ phụng mà việc phân đôi hai ngành Thái Trắng và Thái Đen là
điển hình cho việc tôn vinh, thờ phụng đó. Vì vậy, giới thầy Mo trong nghề bói
toán đã lấy quả trứng "tâm linh" (âm, dương) này để làm lễ vật môi giới, thỉnh
cầu đến đấng siêu nhiên, thánh thần, tổ tiên: thì điềm lành, điềm dữ ứng nghiệm
19

tức thì ở vỏ quả trứng, hoặc trứng đã ấp dở, còn non thì đập vỡ quả trứng ra
nhìn hai đường máu mà đoán định sự việc lành hay dữ, trong nghề bói toán. Do
đó, quả trứng tâm linh được người Thái trân trọng tôn thờ cả trong tín ngưỡng
và ngoài đời thường.
Ngoài đời thường, trong bữa ăn tươi, khi có khách, theo tục, trên mâm
trước chỗ ngồi của chủ nhà, đặt chiếc đĩa nhỏ đựng hai quả trứng, và hai cốc
rượu hai bên. Lễ vật tưởng nhớ đến Tổ tiên, gọi là "xay - Po Me đẳm" (trứng
ông bà) ; vào bữa, chủ nhà khấn mấy lời, rồi chủ khách mới nâng cốc chúc
nhau.
Cùng cần nói thêm: có thể ban đầu chỉ có hai ngành: Thái Trắng và
Thái Đỏ, theo trực quan qua mầu sắc "nguyên khí" của Po Me, về sau, khi xác
lập mầu trắng là Dương và mầu đen là Âm thì nhóm Thái mầu Đỏ chuyển sang
nhóm Thái màu Đen. Do đó mà có ngành Thái Trắng và Thái Đen, nhưng nhóm
Thái Đỏ vẫn còn tồn tại, song mờ nhạt dần.
Dân tộc Thái Đen. Ảnh - Tư liệu

20

Như vậy, quả trứng "tâm linh" là thành quả của cả quá trình tiên niệm
trực quan, mà tư duy trực quan là thuộc về thời tiền sử, mọi điều lớn lao đều
được bắt đầu từ đó - từ cái phôi thai của một sự sống của con người.
Ở người Văn Lang – Giao Chỉ tâm thức phân đôi các con trong cùng
dân tộc được thể hiện trong văn hoá tâm linh, qua truyền thuyết Mẹ Âu Cơ đẻ
bọc trứng nở trăm người con: năm mươi người theo mẹ lên rừng, năm mươi
người theo cha xuống biển. Tư tưởng này được thể hiện trong các hình thái sinh
hoạt của đời sống văn hoá và phong tục tập quán, song ở đây chỉ nói riêng phần
màu sắc trang phục.
Trang phục của người Kinh bao giờ cũng thể hiện theo hai phần và hai
màu. Đó là bộ áo "kép" của người đàn ông: trong áo trắng, ngoài áo xanh lam,
còn bộ áo "tứ thân" của phụ nữ thì "mớ ba" "bớ bảy" và hai màu, hoặc phụ nữ
miền Trung thì áo "vá vai" nửa trên mầu trắng, nửa dưới màu nâu. Người miền
Trung ngày nay (như ở QuangTrị), chúng tôi thấy, khi ra khỏi nhà đi chợ, đi
làm, đều mặc hai áo cộc (kép) - hai áo kiểu như nhau, chỉ khác là áo trong cài
cúc, áo ngoài để hở. Hồ Chủ tịch có bức ảnh hai áo đại cán (chiếc mặc trong,
chiếc khoác ngoài) là từ tâm thức áo “kép” này của dân tộc.
Như vậy tư tưởng phân đôi "phần" của cha và "phần" của mẹ - những
người con trong cùng một dân tộc, thành hai ngành kí hiệu trang phuc, “trắng”
“đen” chỉ còn lại trong dân tộc Thái ở Tây Bắc Việt nam. Còn tư tưởng này ở
người phương Nam Bách Việt nay chỉ tiềm tàng, sâu sắc trong tư tưởng phân
đôi Âm Dương mà thôi, được thể hiện trong ý niệm và các hình thái phong tục
tập quán v.v
Ở đây, việc dùng trang phục hai màu thì hầu như là tập tục của nhân
loại, phải chăng cũng được bắt nguồn từ tư tưởng phân đôi phần của cha và
phần của mẹ những người con trong cùng dân tộc? Vì tư tưởng “âm dương” là
21


của nhân loại là cái mách bảo cho nhân loại biết về “âm dương” là chất “nguyên
khí ” của sinh thực.
Tóm lại, tư tưởng phân đôi "phần" của cha và "phần" của mẹ - những
người con trong cùng một dân tộc, thành hai ngành kí hiệu trang phục, “trắng”
“đen” “Âm” “Dương”. Đó là tư tưởng chủ đạo của người phương Nam Bách
Việt, trung tâm là người Văn Lang Giao Chỉ. Tư tưởng này chi phối toàn bộ
phong tuc tập quán sinh hoạt đời sống của xã hội: từ đồ dùng vật dụng, chúng
đều mang tính “đực” “cái”, như ở người Kinh, ngay đôi phách gõ nhịp của ả
đào trong Hát thờ cũng có ý phiếm chỉ cái “âm” cái “dương” và âm nhạc thì
tiếng trong, tiếng đục, hoặc chiếc trống cũng trống đực, trống cái v.v - nghĩa
là, tư tưởng Âm Dương, chủ đạo trong ý niệm và các hình thái hoạt động xã hội
của người phương Nam Bách Việt.
Thiếu nữ Thái duyên dáng với chiếc khăn Piêu
Piêu còn là vật trang sức quan trọng của các cô gái Thái trong sinh hoạt
hằng ngày, nhất là trong lúc đi chơi hay dự lễ hội



22

II. Nét đẹp trong trang phục phụ nữ Thái Mai Châu

Dệt thổ cẩm ở Bản Lác (Mai Châu - Hoà Bình). Trong cộng đồng 54
dân tộc Việt Nam, mỗi dân tộc đều có những trang phục riêng đặc sắc và rất
độc đáo. Trang phục phụ nữ gắn bó mật thiết với cuộc sống, là dấu hiệu thông
tin để nhận biết tộc người sau ngôn ngữ. Nhìn trang phục phụ nữ là biết đó là
người dân tộc nào, hiện đang cư trú ở đâu.
Trang phục phụ nữ không chỉ phản ánh trình độ phát triển kinh tế - xã
hội mà còn thể hiện tập quán, nếp sống, trình độ thẩm mỹ và văn hoá các dân
tộc, trong đó có trang phục của người phụ nữ Thái. Trang phục của người phụ

nữ Thái là niềm tự hào không chỉ của riêng người Thái mà còn là một nét văn
hóa rất đặc sắc trong kho tàng văn hoá vật thể của dân tộc.
Từ lâu đời, người phụ nữ dân tộc Thái ở Mai Châu (Hoà Bình) đã biết
trồng bông, dệt vải, trồng dâu, nuôi tằm để tự dệt lấy vải mặc, họ ý thức được
rằng: “Gà đẹp nhờ bộ lông/ Người đẹp nhờ quần áo”.
Để làm đẹp cho bộ trang phục của mình, người phụ nữ Thái Mai Châu
đã biết tìm cây tô mộc (cây phang) làm màu đỏ, cây chàm (hóm) làm màu xanh
và đen, củ nghệ (nghìn) làm màu vàng, đã biết cô đặc lá chàm qua nhiều công
đoạn phức tạp và kỹ thuật làm “chua” bằng lá trầu, nước chanh cùng một số loại
cây có chất keo làm bền sợi, sau đó mới đem nhuộm màu.
Ngay từ khi mới trưởng thành, phụ nữ Thái đã biết lo sắm cho mình cái
nằm, cái mặc, ngoài trang phục mặc hàng ngày, còn để dành bộ váy áo đẹp nhất
để mặc trong những ngày hội hè, lễ tết. Bộ trang phục hàng ngày là áo cóm cổ
tròn, viền nhỏ, xẻ thêm hai bên vai để dễ chui đầu khi mặc. ống tay áo may chặt
23

bó lấy cánh tay tròn. Thân áo dài từ 25 đến 30 cm, hình bán nguyệt ở đằng
trước. Màu áo phổ biến là xanh và trắng. Thân váy dài trùm gót, màu đen chàm.
ẩn hiện bên trong gấu váy là viền vải đỏ. Cạp váy có hai phần, nửa trên rộng
khoảng 2 cm dệt hai màu đen và trắng, hoa văn đơn giản. Nửa dưới gắn với
thân váy rộng khoảng 16 cm đến 17 cm dệt bằng vải tơ tằm xen vải màu (ít là 4
màu, nhiều là 6 màu) thể hiện các hoa văn rồng, phượng, hoa. Thường ngày,
phụ nữ Thái Mai Châu thắt dải lưng màu trắng, bổ tua ngắn bên trái. Nhiều chị
em thích mặc thêm áo dài cộc tay vừa có tác dụng mặc ấm, lại giữ sạch áo váy
đẹp bên trong, khi cần bế gùi thì lấy ra lót trên đầu.
Phụ nữ Thái Mai Châu búi tóc cố định sau gáy, cài châm bạc hoặc
xương thú. Khi còn trẻ, chưa có chồng thì tóc buông thả sau lưng, buộc chỉ màu
thay cặp tóc. Khăn đội đầu màu trắng (dài 60 cm, rộng 20 cm) gấp nếp, để nhọn
ở trước trán.
Mỗi khi mở hội, phụ nữ Thái Mai Châu lại mặc bộ trang phục đẹp nhất

để dành: khăn trắng, áo cóm trắng, váy đen mịn màng đính cạp rồng, cạp
phượng, thắt dải lưng màu (xanh nếu áo dài màu đỏ, đỏ nếu áo dài màu xanh
hoặc vàng). Cổ tay đeo 2-3 đôi vòng bạc, tai đeo khuyên nhỏ mặt ngọc óng ánh,
chùm dây xà tích bạc uốn lượn bên hông. Nổi bật giữa bãi cỏ xanh - nơi tổ chức
vui hội là những chiếc áo dài thân, mỗi người một kiểu màu riêng biệt. Khi vào
cuộc chơi ném còn đôi, áo dài được cởi ra vắt lên sào nứa cho khỏi vướng vào
người, đồng thời đấy cũng là kỷ vật gửi tặng chàng trai thắng còn với mình.
Trong các ngày lễ, những nàng dâu trong gia đình được ưu tiên mặc
những bộ trang phục lộng lẫy hơn cả. Họ mặc chiếc áo cóm màu tươi (không
mặc áo trắng), chiếc váy cạp rồng, phượng và thêm mảng dệt hoa rộng chừng
24

20 cm may liền với gấu, bên ngoài mặc thêm áo tin dài (màu xanh, đỏ hoặc
vàng). Gấu áo nổi lên rực rỡ mảng thêu cầu kỳ cùng các thanh vải màu được
chắp lại làm nền. Cổ áo thêu dây leo, tay áo để cộc, hơi rộng để lộ ra cánh tay
tròn mềm mại. Ngày lễ, phụ nữ thái đội khăn đen chàm, cổ đeo vòng bạc to,
bước đi uyển chuyển, cười nói dịu dàng, từ tốn. Tất cả sự phô diễn ấy biểu hiện
lòng tôn kính đối với tổ tiên, là dịp để chị em khoe sắc, khoe tài với họ hàng,
làng xóm.
Khi còn nhỏ, các em gái Thái được bố mẹ may cho chiếc áo cóm nhỏ,
dệt sọc ngang, mặc váy hoa tím, hoa xanh và đeo vòng cổ, vòng tay bằng bạc
nhỏ nhắn có chạm trổ hoa văn. Mùa đông đến, các em gái đội mũ trùm đầu
được khâu bằng những thanh vải màu đặt ngang theo vòng mũ.
Khi trở về già, các cụ bà đều truyền hết cho con cháu, từ cách thêu dệt
may vá, đến việc giữ gìn ý tứ khi ăn mặc, đi đứng sao cho người ngoài khỏi chê
trách. Trang phục của các cụ bà từ khăn đội đầu đến váy, áo cóm đều màu chàm
đen, ít dùng cạp váy hoa mà dùng vải trơn khác màu với váy là được. Chiếc áo
dài xanh chàm luôn mặc bên người, khi không mặc thì gấp gọn để trong giỏ
đựng trầu cau đeo ở lưng, dù nhà giàu hay nghèo thì các cụ bà cũng chọn cho
mình một đôi khuyên và đôi vòng trơn bằng bạc coi như một kỷ vật. Khi qua

đời, những vật trang sức đó cũng được chôn theo người.
Hoà cùng dòng chảy của cuộc sống, những bộ trang phục của người
phụ nữ Thái đã có sự hoà hợp với các vùng, các dân tộc và không ngừng được
sáng tạo để ngày càng phù hợp với sự phát triển của xã hội nhưng vẫn giữ được
nét độc đáo, truyền thống riêng có của dân tộc mình.
25

×