Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.64 KB, 15 trang )

MỤC LỤC
I/ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC: 2
1. Về quyền dân tộc: 2
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc thể hiện sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội,
và chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế 3
II/ TƯ TƯỞNG ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI CỦA HỒ CHÍ MINH: 5
1.Theo luận điểm của Hồ Chí Minh: 5
2. Sự thể hiện trên thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội 8
III/ TINH THẦN ĐỘC LẬP TỰ CHỦ, TỰ LỰC TỰ CƯỜNG, ĐỔI MỚI
VÀ SÁNG TẠO: 10
IV/ LIÊN HỆ VỚI THỰC TIỄN VIỆT NAM: 12
1
I/ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC:
Vấn đề dân tộc mà Hồ Chí Minh đề cập đến trong tư tưởng của mình được
thể hiện tập trung chủ yếu ở các nội dung về quyền dân tộc, quan hệ giữa dân
tộc và giai cấp, và quan hệ giữa Việt Nam với các quốc gia, dân tộc trên thế giới.
1. Về quyền dân tộc:
Hồ Chí Minh cho rằng tất cả các dân tộc trên thế giới đều bình đẳng; tức
độc lập tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc.
Sinh ra trong cảnh nước mất nhà tan, tận mắt chứng kiến sự chà đạp của ngoại
bang lên tự do độc lập của đất nước, được kết tinh, hun đúc từ tinh thần nồng
nàn yêu nước của người dân nước Việt, Hồ Chí Minh cho rằng: đối với một
người dân mất nước, cái quí nhất trên đời là độc lập của tổ quốc, tự do của nhân
dân. Trên đường tiếp cận chân lý cứu nước, Hồ Chí Minh đã tiếp nhận những tư
tưởng bất hủ trong Tuyên ngôn độc lập 1776 của Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền
và dân quyền 1791 của cách mạng Pháp. Từ những tinh hoa của dân tộc và thế
giới, Người đã khái quát nên chân lý bất di bất dịch, lẽ phải không ai có thể chối
cãi được: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào


cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Đây là một tư tưởng vĩ
đại, chẳng những mang tính quốc tế, tính thời đại rộng lớn mà còn mang tính
nhân văn sâu sắc.
Độc lập dân tộc, theo Hồ Chí Minh, phải là độc lập thật sự và độc lập hoàn
toàn. Tức là, dân tộc đó phải có đầy đủ chủ quyền (về chính trị, kinh tế, an ninh,
v.v.) và toàn vẹn lãnh thổ, chứ không phải là chiếc bánh vẽ mà người khác (bọn
thực dân, đế quốc) bố thí. Độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn, theo Người, phải
được hiểu một cách đơn giản: nước Việt Nam là của người Việt Nam, mọi vấn
đề thuộc chủ quyền quốc gia Việt Nam phải do người Việt Nam tự giải quyết.
Và giá trị đích thực của độc lập dân tộc phải được thể hiện bằng quyền tự do
hạnh phúc của nhân dân, mà theo Người, độc lập dân tộc là đồng bào ai cũng có
2
cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Tư tưởng độc lập dân tộc, khát vọng độc
lập dân tộc của Người được thể hiện ở tinh thần “thà hy sinh tất cả”, “dù phải
đốt cháy cả dãy Trường Sơn” và vượt lên tất cả là tinh thần “không có gì quí
hơn độc lập tự do.”
Hồ Chí Minh luôn giương cao ngọn cờ đấu tranh vì độc lập dân tộc, song
người cũng là hiện thân của khát vọng hoà bình. Đó là tư tưởng độc lập dân tộc
trong hoà bình chân chính của Người. Tinh thần “chúng ta muốn hoà bình” đã
dẫn dắt nhân dân ta chiến đấu và chiến thắng mọi thế lực xâm lược ngoại bang.
Có thể nói, tinh thần “không có gì quí hơn độc lập tự do” là tư tưởng và lẽ
sống của Hồ Chí Minh. Nó là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng không chỉ
của dân tộc Việt Nam mà còn của các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Vì lẽ đó,
Người không chỉ được tôn vinh là “Anh hùng giải phóng dân tộc” của Việt Nam
mà còn là “Người khởi xướng cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc
địa trong thế kỷ 20”
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc thể hiện sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã
hội, và chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế.
Trên cơ sở những quan điểm cơ bản của Mác-Lenin về mối quan hệ biện

chứng giữa dân tộc với giai cấp, Hồ Chí Minh đã đưa ra những luận điểm mới
và sáng tạo, góp phần bổ sung và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác Lenin.
Theo Người, ở các nước thuộc địa “chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của
đất nước”. Người phân tích, do kinh tế còn lạc hậu, chưa phát triển nên sự phân
hoá giai cấp ở nước ta và nhiều nước thuộc địa khác chưa triệt để, mâu thuẫn
chưa đến mức đối kháng quyết liệt. Ở những nước thuộc địa như nước ta, mâu
thuẫn giữa dân tộc với chủ nghĩa đế quốc quyết liệt hơn mâu thuẫn giữa giai cấp
nông dân với địa chủ, giữa công nhân với tư sản. Do đó, trong bối cảnh này
không thể giải quyết vấn đề giai cấp rồi mới giải quyết vấn đề dân tộc như ở các
nước tư bản phương Tây được, mà chỉ có thể giải phóng Dân tộc mới giải phóng
3
được giai cấp, quyền lợi dân tộc, đất nước phải đặt lên trên quyền lợi giai cấp.
Xuất phát từ luận điểm trên, Hồ Chí Minh từng kiến nghị Cương lĩnh hành động
của Quốc tế Cộng sản theo hướng phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân
danh Quốc tế Cộng sản, khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng, nhất định nó sẽ
biến thành chủ nghĩa quốc tế. Nguyễn Ái Quốc đã đánh giá cao sức mạnh của
chủ nghĩa dân tộc với chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính, coi
đó là một động lực lớn mà những người cộng sản phải nắm lấy và phát huy,
không để ngọn cờ dân tộc rơi vào tay giai cấp nào khác, phải nhận thức và giải
quyết vấn đề dân tộc trên lập trường của giai cấp vô sản, kết hợp chủ nghĩa dân
tộc với chủ nghĩa quốc tế.
Độc lập dân tộc, theo Hồ Chí Minh, là phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Ngay từ khi tiếp cận Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin, Hồ
Chí Minh đã hình thành đường lối cứu nước: giải phóng dân tộc theo con đường
cách mạng vô sản, gắn bó thống nhất giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc
tế, độc lập dân tộc và CNXH. Người nói: “ Cả hai cuộc giải phóng này (dân tộc
và giai cấp) chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế
giới.” Tiếp đó, ngay trong Chánh cương, Sách lược vắn tắt được thông qua tại
Hội nghị thành lập Đảng cộng sảnViệt Nam tháng 2/1930, Hồ Chí Minh đã xác
định Cách mạng Việt Nam trải qua hai giai đoạn: Làm tư sản dân quyền cách

mạng và thổ địa cách mạng (tức cách mạng dân tộc-dân chủ) để đi tới xã hội
cộng sản. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự gắn bó thống nhất giữa độc lập dân tộc
và CNXH vừa phản ảnh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc
trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục
tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con
người. Xoá bỏ ách áp bức dân tộc mà không xoá bỏ tình trạng bóc lột và áp bức
giai cấp thì nhân dân lao động vẫn chưa được giải phóng. Người nói: “Nếu nước
độc lập mà dân không được hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa
gì.” Do đó giành được độc lập rồi, thì phải tiến lên CNXH, vì mục tiêu của
4
CNXH là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Như vậy,
ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước truyền thống đã phát triển thành chủ nghĩa
yêu nước hiện đại, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
Là một chiến sỹ quốc tế chân chính, xuất phát từ quan điểm độc lập tự do là
quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc, Hồ Chí Minh
không chỉ đấu tranh cho độc lập của dân tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập
dân tộc của tất cả các dân tộc bị áp bức. Ở Người, chủ nghĩa yêu nước chân
chính luôn gắn liền với chủ nghĩa quốc tế cao cả, trong sáng. Người nói: “
Chúng ta phải tranh đấu cho tự do độc lập của các dân tộc khác như là tranh đấu
cho dân tộc ta vậy.” Chủ trương “ giúp bạn là tự giúp mình”, Hồ Chí Minh luôn
nêu cao tinh thần dân tộc tự quyết song không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả của
mình. Với Người, phải thông qua thắng lợi của Cách mạng mỗi nước mà đóng
góp vào thắng lợi chung của Cách mạng thế giới. Về quan hệ quốc tế, Người
tuyên bố với thế giới: “ Căn cứ trên quyền lợi chung, Chính phủ Việt Nam Dân
chủ cộng hòasắn sàng đặt quan hệ ngoại giao với chính phủ nước nào trọng
quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của nước Việt Nam,
để cùng nhau bảo vệ hoà bình và xây đắp dân chủ thế giới.”
Tựu trung, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc vừa mang tính khoa
học đúng đắn, vừa có tính chất cách mạng, mang đậm tính nhân văn sâu sắc, thể
hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước với

chủ nghĩa quốc tế trong sáng, độc lập dân tộc cho mình đồng thời độc lập cho tất
cả các dân tộc.
II/ TƯ TƯỞNG ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI CỦA HỒ CHÍ MINH:
1.Theo luận điểm của Hồ Chí Minh:
+ Độc lập dân tộc là mục tiêu trước hết, là cơ sở, tiền đề để tiến lên chủ
nghĩa xã hội.
5
Hồ Chí Minh cho rằng, cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn:
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai giai
đoạn ấy không có bức tường ngăn cách, mà gắn bó chặt chẽ với nhau.
Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân có hai nhiệm vụ chiến lược: chống
thực dân xâm lược và chống địa chủ phong kiến. Nhiệm vụ dân tộc và dân chủ
quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó nhiệm vụ giải phóng dân tộc đặt lên trên
hết, trước hết, nhiệm vụ dân chủ cần thực hiện từng bước và phải phục tùng sự
nghiệp giải phóng dân tộc. Tư tưởng trên đây được Hồ Chí Minh thể hiện rõ nét
trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng năm 1930 và Người nhấn mạnh tại Hội nghị
Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tám (khóa I) 5-1941.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao gồm cả nội dung dân tộc
dânchủ. Không phải bất kỳ độc lập dân tộc nào cũng tạo cơ sở, tiền đề để tiến
lên chủ nghĩa xã hội. Theo Hồ Chí Minh, để tạo cơ sở, tiền đề cho việc tiến lên
chủ nghĩa xã hội, cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân phải được thực hiện
một cách triệt để, "đến nơi". Đó là một nền độc lập thực sự, độc lập hoàn toàn
không lệ thuộc vào bất cứ lực lượng nào cả về đối nội, lẫn đối ngoại. Hồ Chí
Minh nhiều lần phê phán sự lệ thuộc về mọi mặt của những chính quyền do thực
dân cũ và mới lập nên ở Việt Nam. Người gọi đó là độc lập giả hiệu, độc lập
kiểu Mỹ.
Để tạo cơ sở, tiền đề cho việc tiến lên chủ nghĩa xã hội, đối với Việt Nam,
một đòi hỏi có ý nghĩa sống còn là độc lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Nước Việt Nam là một, dân tộc

Việt Nam là một, Bắc - Trung - Nam là một khối thống nhất không thể phân
chia, đồng bào Kinh, Mường, Thái, Êdê, Bana… đều là con dân nước Việt, là
con Rồng cháu Tiên. Đó là quan điểm nhất quán, mang tính nguyên tắc của Hồ
Chí Minh. Không duy trì và phát triển được khối thống nhất đó thì không thể có
độc lập dân tộc, càng không thể nói đến việc tạo cơ sở tiền đề để tiến lên chủ
nghĩa xã hội.
6
Để tiến lên chủ nghĩa xã hội đòi hỏi độc lập dân tộc phải đi đôi với tự do
hạnh phúc của nhân dân. Theo Hồ Chí Minh "nếu nước được độc lập mà người
dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập chẳng có ý nghĩa gì".
+ Chủ nghĩa xã hội là con đường bảo vệ và phát triển thành quả của độc
lập dân tộc
Độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội thể hiện mối quan hệ giữa mục
tiêu trước mắt và mục tiêu lâu dài. Theo lôgíc của sự phát triển, hai mục tiêu ấy
quan hệ chặt chẽ với nhau. Không thể đi đến mục tiêu cuối cùng nếu không thực
hiện được mục tiêu trước mắt. Chỉ thực hiện được mục tiêu cuối cùng mới bảo
vệ và phát triển được những thành quả của mục tiêu trước mắt. Vì vậy, nếu độc
lập dân tộc tạo cơ sở, tiền đề để đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tốt nhất để
giữ vững và phát triển lên một tầm cao mới - thành quả của độc lập dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là làm cho dân giàu, nước mạnh, ai
cũng có công ăn, việc làm, được ăn no, mặc ấm, được học hành, các dân tộc
trong nước bình đẳng đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau. Về mặt phân phối sản phẩm
lao động thì chủ nghĩa xã hội là ai làm nhiều hưởng nhiều, ai làm ít hưởng ít, ai có
sức lao động mà không làm thì không hưởng, những người già, đau yếu, tàn tật và
trẻ em thì xã hội và cộng đồng có trách nhiệm chăm sóc nuôi dưỡng. Trong chủ
nghĩa xã hội, văn hóa, khoa học kỹ thuật, chính trị và kinh tế, đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân được quan tâm và ngày một nâng cao. Về mặt đối ngoại,
chủ nghĩa xã hội là hòa bình, hữu nghị, làm bạn với tất cả các nước. Chủ nghĩa xã
hội với những đặc trưng đó không chỉ bảo vệ những thành quả của độc lập dân tộc
mà cơ bản tạo nên sự phát triển mới vế chất. Hồ Chí Minh khẳng định chỉ có chủ

nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới bảo đảm cho một nền độc lập dân tộc chân
chính, mới giải phóng các dân tộc một cách thực sự, hoàn toàn.
Hồ Chí Minh cho rằng cách mạng, cả cách mạng giải phóng dân tộc và
cách mạng xã hội chủ nghĩa là việc khó, là cuộc đấu tranh gay go, ác liệt, lâu
dài. Giành độc lập dân tộc đã khó, xây dựng chủ nghĩa xã hội còn khó khăn hơn.
7
Hồ Chí Minh so sánh: thắng đế quốc phong kiến là tương đối dễ, thắng bần cùng
lạc hậu khó khăn hơn. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Đánh đổ giai cấp địch đã khó,
đấu tranh xây dựng chủ nghĩa xã hội còn gian khổ, khó khăn hơn nhiều". Từ
những khó khăn gian khổ ấy, Hồ Chí Minh luôn đòi hỏi Đảng, Nhà nước và mỗi
người dân phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
2. Sự thể hiện trên thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
xuất hiện từ năm 1920, khi Người bắt gặp chủ nghĩa Mác-Lênin, và nó được thể
hiện rõ nét từ năm 1930. Sự thể hiện tư tưởng của Người về độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội có thể phân thành 3 thời kỳ chủ yếu.
+ Thời kỳ 1930 - 1945
Tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh
thời kỳ này thể hiện rõ trong những Văn kiện do Hồ Chí Minh soạn thảo được
Hội nghị hợp nhất thông qua. Chánh cương vắn tắt của Đảng chỉ rõ Đảng chủ
trương "làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
xã hội cộng sản". Hồ Chí Minh khẳng định sự nghiệp giải phóng dân tộc ở Việt
Nam được thực hiện bằng con đường cách mạng vô sản: "Muốn cứu nước và
giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản".
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh điều đó có ý nghĩa là:
Đối tượng của cuộc đấu tranh là thực dân đế quốc và bọn tay sai chống lại
độc lập dân tộc.
Ở trong nước lực lượng cách mạng bao gồm công nông là gốc và tất cả
những ai có lòng yêu nước, thương nòi.

Về lực lượng cách mạng ngoài nước trong thời kỳ này, Hồ Chí Minh nhấn
mạnh sự ủng hộ của Quốc tế Cộng sản, Liên bang cộng hòa xã hội chủ nghĩa xô
8
viết, giai cấp công nhân và nhân dân lao động chính quốc, các dân tộc thuộc địa
và phụ thuộc.
Nhân tố quyết định thắng lợi của cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc là sự
lãnh đạo của Đảng theo chủ nghĩa Mác-Lênin.
+ Thời kỳ 1945 - 1954
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở thời kỳ này được thể hiện ở
những chủ trương, đường lối chiến lược do Hồ Chí Minh khởi xướng "vừa
kháng chiến, vừa kiến quốc", "kháng chiến đi đôi với kiến quốc", "kháng chiến
hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến".
Kháng chiến tức là bảo vệ nền độc lập dân tộc, chống sự xâm lược lần thứ
hai của thực dân Pháp theo phương châm trường kỳ kháng chiến nhất định thắng
lợi.
Kiến quốc theo Hồ Chí Minh là xây dựng, củng cố Nhà nước dân chủ nhân
dân đầu tiên ở Đông Nam Á, xây dựng đời sống mới, xây dựng những cơ sở đầu
tiên của chủ nghĩa xã hội.
+ Thời kỳ 1954 - 1969
Ở thời kỳ này độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng
Hồ Chí Minh thể hiện qua chủ trương: một Đảng Cộng sản lãnh đạo thực hiện
đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược ở hai miền: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, tiến tới thống
nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một sáng tạo lý luận
của Hồ Chí Minh.
Ngày 2-9-1969, Hồ Chí Minh qua đời. Theo chỉ dẫn của Người, nhân dân
ta đã đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào. Với chiến dịch lịch sử mang tên Hồ
Chí Minh, mục tiêu của thời kỳ này được hoàn thành vào ngày 30-4-1975.
9
Thật vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh đã làm sáng tỏ mối quan hệ hữu cơ giữa

giải phóng dân tộc với chủ nghĩa xã hội, đặt nền tảng cho bước chuyển biến từ
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Đây là tư tưởng lớn thể hiện tính quy luật của sự phát triển lịch sử xã hội Việt
Nam. Chỉ có hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc mới có điều kiện tiến lên
CNXH và chỉ có làm cách mạng xã hội chủ nghĩa mới giữ vững những thành
quả do sự nghiệp giải phóng dân tộc mang lại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là tổng hợp
những quan điểm chiến lược có ý nghĩa chỉ đạo lớn về chính trị và lý luận, về
nhận thức và hành động của toàn Đảng, toàn dân trong toàn bộ tiến trình cách
mạng Việt Nam.
III/ TINH THẦN ĐỘC LẬP TỰ CHỦ, TỰ LỰC TỰ CƯỜNG, ĐỔI MỚI
VÀ SÁNG TẠO:
Từ khi ra đi tìm đường cứu nước, ngay đầu những năm 20 của thế kỷ XX,
trên đất Pháp, Người đã nói "Tổ tiên đã treo bao tấm gương đạo đức và dũng
cảm, chí khí và tự tôn"
(2)
; về sau Người lại khẳng định Việt Nam là "một dân tộc
đã tự cường, tự lập"
(3)
.
Hơn sáu mươi năm hoạt động cách mạng sôi nổi và sáng tạo, Người đã tiếp
thụ chủ nghĩa Mác - Lê-nin kết hợp với truyền thống yêu nước Việt Nam, tinh
thần độc lập, tự chủ, tự lực tự cường dân tộc, tìm thấy con đường cứu nước và
giải phóng dân tộc duy nhất đúng đắn là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội. Con đường đó đã được vạch ra từ mùa xuân năm 1930, trong những văn
kiện do Người soạn thảo được Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản thông qua,
trở thành Cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Với Cương lĩnh đó, những nét lớn
trong Tư tưởng Hồ Chí Minh đã hình thành và con đường cứu nước của Việt
Nam đã được khẳng định. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự
thể hiện rõ nét nhất tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của Tư tưởng Hồ Chí

10
Minh. Trong khi giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin trên nhiều vấn đề quan
trọng, đặc biệt là lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên chủ nghĩa
xã hội ở các nước thuộc địa và phụ thuộc. Từ những năm 20 của thế kỷ trước,
trong khi nghiên cứu chủ nghĩa Mác, Hồ Chí Minh đã nêu rõ rằng ở phương
Đông có những đặc điểm khác với phương Tây mà thời mình Mác chưa có điều
kiện nghiên cứu, đồng thời mỗi dân tộc lại có những đặc điểm riêng.
Trong Điều lệ tạm thời của Hội Liên hiệp công nhân quốc tế năm 1864 do Mác
khởi thảo, một tư tưởng cơ bản được nêu lên là: "Sự giải phóng của giai cấp
công nhân phải do bản thân giai cấp công nhân tự giành lấy"
(4)
. Hơn sáu mươi
năm sau, trong Tuyên ngôn của Hội Liên hiệp thuộc địa, Hồ Chí Minh viết:
"Vận dụng công thức của Các Mác, chúng tôi xin nói với anh em rằng, công
cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân
anh em"
(5)
. Người vạch rõ tính chủ động của cách mạng thuộc địa đối với cách
mạng chính quốc: "Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát và áp
bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lòng tham không
đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong
những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể
giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng
hoàn toàn"
(6)
. Người đã chỉ ra để mỗi người Việt Nam hiểu rằng ta phải tự lực,
chủ động làm cách mạng giải phóng mình, không nên chỉ trông chờ "công nông
Pháp cách mệnh thành công thì nhân dân Việt Nam sẽ được tự do" mà cần chủ
động "An Nam dân tộc cách mệnh thành công, thì tư bản Pháp yếu, tư bản Pháp

yếu thì công nông Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng dễ". Chính những luận
điểm sáng tạo, mới mẻ đó đã dẫn Hồ Chí Minh đến những quyết định lịch sử.
Tháng 8-1945, khi thời cơ xuất hiện, Người ra lời kêu gọi "Giờ quyết định cho
vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy, đem sức ta mà
tự giải phóng cho ta"
(7)
. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của
11
tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường và sáng tạo của Tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Trong những năm kháng chiến chống xâm lược, Hồ Chí Minh luôn nêu cao
tinh thần "dựa vào sức mình là chính". Nếu như trong đấu tranh giành chính
quyền, Người đòi hỏi phải "đem sức ta mà tự giải phóng cho ta thì những năm
kháng chiến chống xâm lược, tư tưởng ấy của Người là "Dân ta phải giữ nước
ta". Khi miền bắc bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người chỉ rõ:
"Trước đây, nhân dân ta đã nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, trường kỳ kháng
chiến, thì ngày nay chúng ta càng phải nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, cần
kiệm xây dựng nước nhà"
(8)
.
Nhân dân Việt Nam và tất cả những người yêu chuộng hòa bình trên thế
giới đều biết đến câu nói mang tính thời đại của Hồ Chí Minh: "Không có gì quý
hơn độc lập, tự do". Người nhấn mạnh: "Mỗi một người dân phải hiểu: có tự lập
mới độc lập, có tự cường mới tự do"
(9)
.
Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn, độc
lập tự chủ không có nghĩa là biệt lập, đứng một mình. Ngay từ năm 1947, Người
đã chủ trương: "Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với
một ai"

(10)
. Người đề cao việc học tập, tiếp thu sáng tạo kinh nghiệm của các
đảng anh em, đồng thời phê phán mọi sự sao chép, giáo điều.
IV/ LIÊN HỆ VỚI THỰC TIỄN VIỆT NAM:
Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ đất nước cũng đang đứng trước những cơ hội và thách thức
to lớn đòi hỏi chúng ta phải chủ động đón lấy và sáng suốt vượt qua. Để làm
được điều đó chúng ta cần nghiên cứu, vận dụng tư tưởng của Người về mối
quan hệ giữa dân tộc với giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội nhằm tạo ra những nguồn lực mới, đưa sự nghiệp đổi mới vững
bước tiến lên , giành những thắng lợi mới.
12
Trước hết, trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng đều phải đặc biệt coi trọng và
giữ vững độc lập dân tộc. Lịch sử đấu tranh dựng nước và giữa nước của ông
cha ta từ ngàn xưa cũng như sự nghiệp giải phóng dân tộc do Đảng cộng sảnViệt
Nam đứng đầu là Hồ Chí Minh khới xướng từ 1930 đến nay được ghi lại bằng
máu và nước mắt. Thế mới thấy được ý nghĩa của độc lập dân tộc, mới thấu hiểu
được tư tưởng bất hủ “Không có gì quí hơn độc lập tự do” của Hồ Chí Minh.
Trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, không một quốc
gia nào có thể phát triển mà không gắn với những mối quan hệ đa dạng và đa
phương với các quốc gia khác trong cộng đồng quốc tế. Việt Nam cũng nằm
trong xu thế ấy. Ngoài những lợi ích hiển nhiên, hơn bao giờ hết, nước ta đang
đứng trước rất nhiều nguy cơ có ảnh hưởng trực tiếp đến độc lập dân tộc. Đó là
những nguy cơ lệ thuộc vào nước ngoài về kinh tế, chính trị, nguy cơ phai nhạt
bản sắc văn hoá dân tộc, tiếp thu một nền văn hoá lai căng phi bẳn sắc. Bên cạnh
những nguy cơ mang tính hệ quả của toàn cầu hoá và tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế, chúng ta còn phải đối mặt với âm mưu diễn biến hoà bình. Các thế lực
thù địch trong và ngoài nước đang núp dưới những chiêu bài tự do, dân chủ,
nhân quyền, dân tộc tôn giáo để chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta ( Sự
biến Tây Nguyên 2/2001 và 4/2004). Trước những nguy cơ ấy, Đảng và Nhà

nước ta phải không ngừng khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh
thần dân tộc, nguồn động lực mạnh mẽ để xây dựng và bảo vệ đất nước. Phát
huy tối đa các nguồn nội lực, bao gồm con người, trí tuệ, truyền thống, đất đai,
tài nguyên,v.v để xây dựng và phát triển kinh tế, đưa đất nước từng bước bắt kịp
các nước phát triển. Đất nước phát triển, nền kinh tế hùng mạnh sẽ góp phần
trực tiếp tạo sức mạnh cho nhân dân ta giữ vững độc lập dân tộc. Độc lập dân
tộc phải được xem là cái bất biến trong sự thiên biến vạn hoá của nền kinh tế thế
giới đang phát triển với xu thế toàn cầu hoá; bản sắc văn hoá Việt Nam cũng
phải được xem là cái bất biến trong sự đa dạng các nền văn hoá thế giới, tiếp thu
nhứng hay, cái đẹp, cái tiên tiến mà vẫn không mất đi cái gốc, cái chất Việt Nam
13
trong mỗi con người. Đó cũng là cách để giữ vững độc lập dân tộc theo đúng
nghĩa của nó.
Độc lập là tài sản thiêng liêng vô giá của cả dân tộc, là cái phải giữ cho dù
mất tất cả, “hy sinh tất cả”. Muốn thực hiện tốt tinh thần bất hủ ấy của Hồ Chí
Minh, ngày nay đường lối của Đảng và Nhà nước ta phải thể hiện rõ sự quan
tâm, không ngừng chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Tiếp thu
và phát huy tinh hoa của dân tộc với truyền thống “lấy dân làm gốc” (Dân vi bản
quốc gia trường thọ), sinh thời Hồ Chí Minh đã không ngừng giáo dục cán bộ,
đảng viên phải luôn luôn có tinh thần “vì dân phục vụ”. Người nói: “ Gốc có
vững cây mới bền, Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân” Chăm lo và không
ngừng nâng cao đời sống cho nhân dân là cách thiết thực nhất để bảo vệ độc lập
dân tộc, vì theo Người, dân như nước, chở thuyền cũng là nước mà lật thuyền
cũng là nước. Dân giàu thì nước mạnh, mà nước mạnh thì độc lập dân tộc còn.
Chủ trương diệt giặc đói và giặc dốt của Người năm 1945 về cơ bản chính là nền
tảng của việc chăm lo và nâng cao đời sống cho người dân về vật chất cũng như
tinh thần. Và suy cho cùng, mục tiêu của độc lập dân tộc, theo quan điểm của
Hồ Chí Minh, là tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân; và dĩ nhiên là dân được
ấm no tự do hạnh phúc sẽ ra sức bảo vệ nền độc lập vốn mang lại những điều tốt
đẹp đó. Như vậy, chăm lo, không ngững nâng cao đời sống nhân dân vừa là mục

tiêu vừa là cách thiết thực nhất để bảo vệ độc lập dân tộc theo đúng tinh thần mà
Hồ Chí Minh đã nêu rõ.
Thấm nhuần tư tưởng của người về vấn đề dân tộc, ta càng phải phát huy
chủ nghĩa dân tộc chân chính, tinh thần tích cực chủ động, sáng tạo và tự lực tự
cường của mọi người dân Việt Nam để góp phần xây dựng và bảo vệ tổ quốc,
bảo vệ nền độc lập dân tộc. Người Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước, tinh
thần đoàn kết cộng đồng, ý chí tự chủ kiên cường, sáng tạo, bất khuất, không
chịu làm nô lệ, không cam phận nghèo hèn. Những phẩm chất tốt đẹp ấy đã
được phát huy cao độ trong hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, đưa
14
đến thắng lợi vĩ đại Điện Biên và Đại thắng mùa xuân 1975, giải phóng MN
thống nhất đất nước, đưa cả nước quá độ lên CNXH. Ngày nay, truyền thống quí
báu ấy, chủ nghĩa dân tộc chân chính cần được tiếp tục khơi dậy mạnh mẽ, biến
nó thành một nguồn nội lực đưa đất nước vượt qua mọi khó khăn thách thức,
vững bước tiến lên cùng bè bạn khắp năm châu.
15

×