Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

vai trò của yếu tố vốn với tăng trưởng và phát triển kinh tế. quan điểm của việt nam về huy động và sử dụng vốn đầu tư. thế nào là nợ nước ngoài, các giải pháp chống nguy cơ vỡ nợ ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.7 KB, 31 trang )


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 2
1. Lý luận chung về yếu tố vốn và vai trò của yếu tố vốn đối với tăng
trưởng và phát triển kinh tế 3
1.1. Tổng quan về yếu tố vốn 3
1.1.1. Vốn sản xuất: 3
1.1.2. Vốn đầu tư 3
1.2. Vai trò của yếu tố vốn đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế 4
2. Quan điểm của Việt Nam về huy động và sử dụng vốn đầu tư 6
2.1. Vấn đề huy động vốn đầu tư 7
2.1.1. Định hướng và giải pháp thu hút vốn đầu tư 7
2.1.1.1. Đối với nguồn vốn đầu tư trong nước: 7
2.1.1.2. Đối với vốn đầu tư nước ngoài: 8
2.1.1.3. Các giải pháp thu hút 12
2.1.2. Thực trạng huy động vốn đầu tư ở Việt Nam 16
2.1.2.1. Tiết kiệm trong nước: 17
2.1.2.2.Tiết kiệm ngoài nước : 18
2.2. Vấn để sử dụng. 19
2.2.1. Nguồn vốn trong nước. 19
2.2.2. Nguồn vốn nước ngoài 21
3. Nợ nước ngoài 25
3.1. Khái niệm và tác động của nợ nước ngoài 25
3.2. Tình trạng nợ nước ngoài ở một số quốc gia 27
KẾT LUẬN 30
TÀI LIỆU THAM KHẢO 31
1

LỜI MỞ ĐẦU
Vốn là nhân tố hết sức quan trọng để tăng trưởng và phát triển kinh tế. Vốn
sản xuất (K) và vốn đầu tư (I) là hai bộ phận của vốn, nó tác động đến đầu vào và


đầu ra của tăng trưởng.
Với vai trò như vậy, tất cả các quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng đều
có quan điểm thu hút và sử dụng vốn riêng của mình.
Cũng từ nhu cầu về vốn mà tất các các nước trên thế giới, từ các nước phát
triển đến những nước kém phát triển đều phải đi vay nợ. Khi một quốc gia vay nợ
và không có khả năng trả nợ sẽ dẫn đến tình trạng vỡ nợ. Đây là một hiện tượng đã
và đang xảy ra trên thế giới. Việt Nam, với các chỉ số đang ở trong ngưỡng an toàn
nhưng không phải là không có nguy cơ vỡ nợ, việc tìm hiểu một số giải pháp để
tránh vỡ nợ là hết sức cần thiết.
Vì lý do như vậy mà nhóm G9 quyết định làm đề tài: “Vai trò của yếu tố vốn
với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Quan điểm của Việt Nam về huy động và
sử dụng vốn đầu tư. Thế nào là nợ nước ngoài, các giải pháp chống nguy cơ vỡ
nợ ở Việt Nam”.
Bài viết của chúng em phân tích mặt tích cực về tác động của việc thu hút và
sử dụng vốn ở Việt Nam. Bài làm của chúng em còn nhiều thiết sót vì vậy chúng
em rất mong nhận được sự góp ý của thầy giáo.
Chúng em xin cảm ơn thầy giáo.

2

1. Lý luận chung về yếu tố vốn và vai trò của yếu tố vốn đối với tăng trưởng và
phát triển kinh tế.
1.1. Tổng quan về yếu tố vốn
1.1.1. Vốn sản xuất:
Khái niệm vốn được bắt nguồn từ quan niệm về tài sản quốc gia. Tài sản quốc
gia bao gồm: tài nguyên thiên nhiên của đất nước; các loại tài sản được sản xuất ra
và nguồn vốn con người. Trong đó tài sản được sản xuất ra là toàn bộ của cải vật
chất do lao động sáng tạo của con người được tích lũy lại qua thời gian theo tiến
trình lịch sử phát triển của đất nước.
Theo cách phân loại của Liên hợp quốc, tài sản được sản xuất ra lại chia thành

9 loại:
(1)- Công xưởng, nhà máy
(2)- Trụ sở cơ quan, trang thiết bị văn phòng.
(3)- Máy móc thiết bị, phương tiện vận tải.
(4)- Cơ sở hạ tầng.
(5)- Tồn kho của tất cả các loại hàng hóa.
(6)- Các công trình công cộng.
(7)- Các công trình kiến trúc.
(8)- Nhà ở.
(9)- Các cơ sở quân sự.
Dựa vào chức năng tham gia vào quá trình hoạt động kinh tế, 9 loại tài sản
trên được chia thành 2 nhóm:
- Nhóm thứ nhất gồm 5 loại đầu, những tài sản này được sử dụng làm phương
tiện trực tiếp phục vụ quá trình sản xuất và được gọi là tài sản sản xuất.
- Nhóm thứ hai gồm 4 loại cuối, đều có tính chất chung là không tham gia trực
tiếp vào quá trình sản xuất, nên được gọi là tài sản phi sản xuất. Như vậy, vốn
sản xuất là giá trị của những tài sản được sử dụng làm phương tiện trực tiếp phục
vụ cho quá trình sản xuất và dịch vụ, bao gồm vốn cố định và vốn lưu động.
1.1.2. Vốn đầu tư
Vốn đầu tư được chia làm hai loại: vốn đầu tư sản xuất và vốn đầu tư phi sản
xuất.
Vốn đầu tư sản xuất là toàn bộ các khoản chi phí nhằm duy trì hoặc gia tăng
mức vốn sản xuất và được chia thành vốn đầu tư vào tài sản cố định và vốn đầu tư
vào tài sản lưu động. Vốn đầu tư vào tài sản cố định lại được chia thành vốn đầu tư
cơ bản và vốn đầu tư sữa chữa lớn. Vốn đầu tư cơ bản làm tăng khối lượng thực thể
của tài sản cố định, bảo đảm bù đắp số tài sản bị hao mòn và tăng thêm phần xây
lắp dở dang. Còn vốn sữa chữa lớn không làm tăng khối lượng thực thể của tài sản,
do đó nó không có trong thành phần của vốn đầu tư cơ bản.
3


Hoạt động đầu tư cho sản xuất là việc sử dụng vốn đầu tư để phục hồi năng
lực sản xuất cũ và tạo thêm năng lực sản xuất mới, đó là quá trình tái sản xuất của
loại tài sản sản xuất. Thông qua hoạt động đầu tư, vốn đầu tư trở thành vốn sản
xuất.
Lý do có hoạt động đầu tư:
• Bù đắp lại giá trị hao mòn trong quá trình sản xuất, thực hiện tái sản xuất
giản đơn.
• Mở rộng năng lực sản xuất.
• Do hao mòn vô hình .
Các hình thức đầu tư:
+ Đầu tư trực tiếp là hình thức chủ đầu tư trực tiếp tham gia vào toàn bộ quá
trình đầu tư cũng như việc thụ hưởng kết quả của hoạt động đầu tư.
+ Đầu tư gián tiếp: chủ đầu tư không tham gia trực tiếp vào việc đầu tư mà
chỉ nhận lợi tức từ việc đầu tư.
1.2. Vai trò của yếu tố vốn đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Sự tác động của vốn đầu tư và vốn sản xuất đến tăng trưởng kinh tế không
phải là quá trình riêng lẻ mà nó là sự kết hợp, đan xen lẫn nhau, tác động liên tục
vào nền kinh tế.
Vốn sản xuất là yếu tố vật chất đầu vào quan trọng có tác động trực tiếp đến
tăng trưởng kinh tế. Ở những nước đang phát triển sự đóng góp của yếu tố vốn sản
xuất vào tăng trưởng kinh tế thường chiếm tỷ trọng cao nhất. Đó là sự thể hiện của
tính chất tăng trưởng theo chiều rộng.
Đối với vốn đầu tư; theo mô hình Harrod – Domar đã cho rằng, đầu ra của bất
kỳ đơn vị kinh tế nào, dù là một công ty, một ngành hay toàn bộ nền kinh tế sẽ phụ
thuộc vào tổng số vốn đầu tư cho đơn vị đó.
Chúng ta có: g = s / k
Trong đó: g : tốc độ tăng trưởng
s : tỷ lệ tiết kiệm
k : hệ số ICOR
Hệ số ICOR nói lên rằng, vốn sản xuất được đầu tư dưới dạng nhà máy, trang

thiết bị là yếu tố cơ bản của tăng trưởng, các khoản tiết kiệm của dân cư và các
công ty chính là nguồn gốc cơ bản của vốn đầu tư.
Đầu tư có thể tác động lớn đối với tổng cầu, nó tác động tới sản lượng và công
ăn, việc làm. Khi đầu tư tăng lên, có nghĩa là nhu cầu về chi tiêu để mua sắm máy
móc thiết bị, phương tiện vận tải, vật liệu… tăng lên. Và do vậy nó làm cho đường
tổng cầu chuyển dịch.
4

Hình 1: Tác động của vốn đầu tư đến tăng trưởng kinh tế
P
P
1
P
0
Q
0
Q
1
Q
Nếu như nền kinh tế, với đường tổng cầu AD
0
đang cân bằng tại điểm E
0
thì
dưới tác động của tăng đầu tư sẽ làm dịch chuyển đường tổng cầu sang phải, vào vị
trí AD
1
, thiết lập điểm cân bằng mới tại E
1
. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc làm

cho mức sản lượng tăng từ Y
0
đến Y
1
và mức giá tăng từ P
0
đến P
1.
Đầu tư sẽ dẫn đến tăng vốn sản xuất, nghĩa là có thêm các nhà máy, thiết bị,
phương tiện mới đưa vào sản xuất, làm tăng khả năng sản xuất của nền kinh tế. Và
sự thay đổi này tác động làm cho đường tổng cung dịch chuyển.
Hình 2: Tác động của vốn sản xuất đến tăng trưởng kinh tế
P
5
AD
1
AS
AD
0

E
1

E
0







Y
0
Y
1
Y
Nếu như nền kinh tế, với đường tổng cung AS
0
đang cân bằng tại điểm E
0
thì
dưới tác động của tăng vốn sản xuất sẽ làm dịch chuyển đường tổng cung sang
phải, vòa vị trí AS
1
, thiết lập điểm cân bằng mới tại E
1
. Điều đó cũng đồng nghĩa
với việc làm cho mức sản lượng tăng từ Y
0
đến Y
1
và mức giá giảm từ P
0
xuống P
1
.

Vốn đầu tư và vốn sản xuất được coi là yếu tố quan trọng của quá trình sản
xuất. Vốn sản xuất vừa là yếu tố đầu vào, vừa là sản phẩm đầu ra của quá trình sản
xuất. Vốn đầu tư không chỉ là cơ sở để tạo ra vốn sản xuất, tăng năng lực sản xuất

của các doanh nghiệp và của nền kinh tế, mà còn là điều kiện để nâng cao trình độ
khoa học công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, góp phần tăng trưởng theo chiều
sâu.
2. Quan điểm của Việt Nam về huy động và sử dụng vốn đầu tư.
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VIII khẳng định chủ trương của
Đảng trong giai đoạn 1996-2000 là: ”Tiếp tục phương châm huy động nguồn vốn
trong và ngoài nước để đầu tư phát triển, trong đó vốn trong nước có ý nghĩa quyết
định, vốn ngoài nước có ý nghĩa quan trọng, kết hợp tiềm năng sức mạnh bên trong
với khả năng có thể tranh thủ ở bên ngoài. Về lâu dài phải huy động tối đa nguồn
vốn trong nước để chiếm tỷ lệ cao trong đầu tư (tối đa 50%). Tuy nhiên, trong
những năm đầu của thời kỳ công nghiệp hoá đòi hỏi nguồn vốn lớn, mà vốn trong
nước còn hạn hẹp nên phải huy động thêm nguồn vốn bên ngoài cho nhu cầu đầu tư
phát triển, trên nguyên tắc đảm bảo hiệu quả kinh tế và trả được nợ”.
6
A
D

















A
S
0


























E
0









AS
1
E
1


Đại hội IX của Đảng Cộng Sản Việt Nam (2001) đã đề ra chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội 10 năm 2001 – 2010. Mục tiêu cụ thể của chiến lược là đưa GDP
năm 2010 lên ít nhất gấp đôi năm 2001; ổn định kinh tế vĩ mô; cán cân thanh toán
quốc tế lành mạnh và tăng dự trữ ngoại tệ; bội chi ngân sách, lạm phát, nợ nước
ngoài được kiểm soát trong giới hạn an toàn và tác động tích cực đến tăng trưởng.
Để đạt được các mục tiêu của chiến lược, tích lũy nội bộ ít nhất phải đạt trên 30%.
Trong phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 –
2005 xác định tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 7.5%, dự kiến tỷ lệ đầu tư
so với GDP khoảng 31 – 32% tương đương 59 – 61 tỷ USD, trong đó nguồn vốn
trong nước chiểm 2/3.
2.1. Vấn đề huy động vốn đầu tư.
2.1.1. Định hướng và giải pháp thu hút vốn đầu tư.
2.1.1.1. Đối với nguồn vốn đầu tư trong nước:

Được hình thành từ tiết kiệm trong nước bao gồm: Tiết kiệm của Chính phủ,
tiết kiệm của các doanh nghiệp và tiết kiệm của các hộ gia đình.
Thống nhất với chiến lược phát triển của nước ta, nguồn vốn trong nước
được xác định là nguồn chủ đạo cho các hoạt động phát triển. Vì vậy cần có các
biện pháp huy động và sử dụng nguồn vốn này một cách hiệu quả.

Ttiết kiệm của chính phủ:
Ở đây, tiết kiệm của chính phủ chỉ giới hạn trong phạm vi tiết kiệm của
NSNN. Về nguyên tắc, tiết kiệm của chính phủ = Thu NS – chi NS.
Thu NS của Chính phủ chủ yếu là các khoản thuế, phí và lệ phí.
Chi NS bao gồm chi đầu tư phát triển, chi thường xuyên và chi trả nợ.
Để tăng tiết kiệm của CP, có 2 hướng giải pháp đó là tăng thu NS và giảm chi
NS.
Ở nước ta, trong các nguồn thu NS, thuế chiếm tỷ trọng cao nhất. Vì vậy,
chúng ta sẽ xét một số giải pháp để tăng nguồn thu từ thuế.
Đó là phải mở rộng, nuôi dưỡng và phát triển diện thu thuế. Cụ thể, phải phát
triển các doanh nghiệp trong nước, tạo cơ hội kinh doanh tốt, tạo cơ hội bỏ vốn cho
các nhà đầu tư, xây dựng các sắc thuế mới phù hợp với điều kiện sản xuất kinh
doanh trong nước; nghiên cứu xây dựng các mức thuế suất phù hợp, tùy thuộc vào
các sắc thuế khác nhau; nâng cao hiệu quả, hiệu suất của ngành thuế, công tác thu
thuế và quản lý thuế.
Biện pháp giảm chi NS: vì các khoản chi đầu tư phát triển là các khoản chi để
thúc đẩy tăng trưởng do vậy không nên và cũng rất khó để giảm chi, tương tự như
vậy, chi trả nợ là khoản chi bắt buộc, không thể không chi. Xu hướng giảm chi ngân
sách hiện nay đó là giảm chi thường xuyên bằng cách: giảm biên chế, cải cách hành
chính nhà nước theo hướng tái cơ cấu bộ máy hành chính công và thực hiện hợp lý
hóa các khâu lương, thưởng.

Tiết kiệm của doanh nghiệp.
Tiết kiệm của DN chủ yếu từ lợi nhuận và khấu hao.

7

DN gồm có DN nhà nước và DN ngoài quốc doanh.
Để tăng lợi nhuận cho các DNNN, cần tăng cường công tác quản lý, thực hiện
sáp nhập, tái cơ cấu DNNN, giải thể các doanh nghiệp kém hay hoạt động không
hiệu quả, hoàn thiện cơ chế quản lý đối với DN.
Đối với DNTN, cần tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các DN phát
triển như thiết lập hành lang pháp lý, tạo sân chơi bình đẳng giữa DNNN và DNTN,
nâng cao hiệu quả hoạt động của các trung gian tài chính, đưa ra các chính sách
khuyến khích khu vực kinh tế ngoài quốc doanh như ưu đãi về thuế, ưu đãi về
ngành nghề kinh doanh, cơ chế hợp tác…
Để tăng nguồn khấu hao, có thể cho phép thực hiện chính sách khấu hao
nhanh, nâng cao khả năng tích lũy, tạo điều kiện để đổi mới công nghệ…

Tiết kiệm của các hộ gia đình.
Đây là một nguồn rất lớn, cần có các chính sách để huy động tiết kiệm của dân
cư vào tái đầu tư như tăng lãi suất huy động…
2.1.1.2. Đối với vốn đầu tư nước ngoài:
Vốn đầu tư nước ngoài ở nước ta bao gồm các nguồn chính: Vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI), nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA), nguồn vốn
của các tổ chức phi Chính phủ (NGO) và nguồn vốn tín dụng thương mại.
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc huy động vốn nước ngoài
được thể hiện trong các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc, Nghị quyết Hội nghị
Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Trong giai đoạn 1991-1995, Đại hội đại biểu
toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VII đã xác định nhiệm vụ huy động
vốn nước ngoài như sau: ”Tranh thủ mọi khả năng và dùng nhiều hình thức thu hút
vốn nước ngoài; tranh thủ viện trợ và vay dài hạn lãi suất thấp. Các doanh nghiệp
trong nước có thể vay vốn nước ngoài để tự đầu tư với điều kiện đảm bảo chắc
chắn việc trả nợ, tranh thủ công nghệ tiên tiến.”
Đây là nguồn bổ trợ quan trọng, giúp bù đắp các hố thâm hụt tiết kiệm – đầu

tư, thâm hụt ngân sách và thâm hụt cán cân thương mại.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI.
Các định hướng:
i Định hướng ngành:
Trên cơ sở chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất nước đến năm 2010 và
định hướng trở thành nước công nghiệp vào năm 2020 cần ưu tiên thu hút ĐTNN
vào các ngành có tác động lớn trên các phương diện như: thúc đẩy chuyển giao
công nghệ nhất là công nghệ cao, công nghệ nguồn; gia tăng xuất khẩu; tạo việc
làm; phát triển công nghiệp phụ trợ; các dự án sản xuất các sản phẩm, dịch vụ có
sức cạnh tranh; các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng.
Một số định hướng cụ thể:
• Ngành Công nghiệp-Xây dựng:
- Các ngành đặc biệt khuyến khích đầu tư gồm công nghệ thông tin, điện tử, vi
điện tử, công nghệ sinh học…; chú trọng công nghệ nguồn từ các nước công nghiệp
8

phát triển như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản; hết sức coi trọng thu hút FDI gắn với nghiên
cứu phát triển và chuyển giao công nghệ.
- Công nghiệp phụ trợ: Khuyến khích thu hút FDI vào ngành công nghiệp phụ
trợ nhằm giảm chi phí đầu vào về nguyên-phụ liệu của các ngành công nghiệp, góp
phần nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm sản xuất trong nước. Để thúc đẩy
phát triển ngành công nghiệp phụ trợ, cần tạo điều kiện để các dự án sản xuất lắp
ráp các sản phẩm công nghiệp nhanh chóng mở rộng quy mô và thị trường tiêu thụ.
• Ngành Dịch vụ:
- Ngành dịch vụ còn dư địa lớn để đầu tư phát triển góp phần quan trọng trong
nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế. Từng bước mở cửa các lĩnh vực dịch vụ theo
các cam kết quốc tế, tạo động lực thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển như
dịch vụ ngân hàng, tài chính; dịch vụ vận tải, bưu chính-viễn thông, y tế, văn hoá,
giáo dục, đào tạo và các lĩnh vực dịch vụ khác.
- Với định hướng trên, tiến hành xem xét, giảm bớt các lĩnh vực, ngành nghề

kinh doanh có điều kiện đối với ĐTNN có tính tới các yếu tố hội nhập và toàn cầu
hóa theo lộ trình “mở cửa”; tạo bước đột phá trong thu hút ĐTNN bằng việc xem
xét đẩy sớm lộ trình mở cửa đối với một số lĩnh vực dịch vụ, khuyến khích sự tham
gia của khu vực tư nhân vào phát triển hạ tầng. Cụ thể là:
+ Khuyến khích mạnh vốn ĐTNN vào các ngành du lịch, y tế, giáo dục-đào
tạo. Mở cửa theo lộ trình các lĩnh vực dịch vụ “nhạy cảm” như ngân hàng, tài chính,
vận tải, viễn thông, bán buôn và bán lẻ và văn hoá.
+ Khuyến khích ĐTNN tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật bằng các
phương thức thích hợp gồm BOT, BT để xây dựng cảng biển, cảng hàng không,
đường cao tốc, đường sắt, viễn thông, cấp nước, thoát nước… nhằm góp phần nâng
cấp hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật đáp ứng được yêu cầu tăng trưởng nhanh của
nền kinh tế.
• Ngành Nông-Lâm-Ngư nghiệp:
- Khuyến khích các dự án đầu tư về công nghệ sinh học để tạo ra các giống
cây, con có năng suất, chất lượng cao đưa vào sản xuất đáp ứng nhu cầu trong nước
và xuất khẩu.
- Khuyến khích dự án đầu tư cho công nghệ chế biến thực phẩm, bảo quản sau
thu hoạch để nâng giá trị sản phẩm, tạo ra thị trường tiêu thụ nông sản ổn định, đặc
biệt xuất khẩu.
- Khuyến khích FDI tham gia đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ
nông, lâm nghiệp như các công trình thủy lợi, sản xuất phân bón, thuốc bảo vệ thực
vật, hệ thống giao thông nội đồng
(ii) Định hướng vùng:
Trong những năm tới, dự báo vốn FDI vẫn sẽ tập trung chủ yếu vào những
địa phương có điều kiện thuận lợi về địa lý-tự nhiên, nhất là các vùng kinh tế trọng
điểm. Để tăng cường thu hút ĐTNN tại những vùng có điều kiện kinh tế xã hội còn
khó khăn, thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng, bên cạnh
những ưu đãi đối với FDI tại các vùng đó đòi hỏi phải tăng cường đầu tư xây dựng
nhanh cơ sở hạ tầng kỹ thuật, đường giao thông, điện, nước ở các vùng kinh tế khó
9


khăn bằng nguồn vốn nhà nước, vốn ODA và nguồn vốn tư nhân. Tập trung thu hút
đầu tư vào các khu kinh tế, Khu Công nghiệp đã được Chính phủ phê duyệt (như
Chu Lai, Nhơn Hội…) góp phần đẩy nhanh việc thu hẹp khỏang cách phát triển
giữa các vùng.
(iii) Định hướng đối tác:
Chú trọng thu hút FDI từ các tập đoàn đa quốc gia (TNCs):
FDI trên thế giới chủ yếu là vốn của TNCs; hoạt động của các công ty này có
tác động quan trọng đối với những nước tiếp nhận vốn FDI. Do đó việc thu hút các
TNCs được khuyến khích cả hai hướng: Thực hiện những dự án lớn, công nghệ cao
hướng vào xuất khẩu; tạo điều kiện để một số TNCs xây dựng các Trung tâm
nghiên cứu, phát triển, vườn ươm công nghệ gắn với đào tạo nguồn nhân lực.
• Ba đối tác chính : Hoa kỳ, Nhật Bản, EU.
• Một số đối tác truyền thống: Đài loan, Hàn quốc, Singapore.
Nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA)
Theo Kế họach phát triển kinh tế -xã hội 5 năm 2006 - 2010, đến năm 2010,
GDP bình quân đầu người của Việt Nam đạt khoảng 1.050 USD. Do vậy, tỷ trọng
nguồn vốn ODA có điều kiện ưu đãi cao trong tổng vốn ODA thời kỳ sau năm 2010
sẽ giảm xuống.
Chính phủ xác định đây là giai đoạn cần triển khai công tác nghiên cứu việc sử
dụng các khoản vay mới có điều kiện kém ưu đãi hơn như:điều chỉnh hướng sử
dụng vốn ODA, tập trung chủ yếu cho các lĩnh vực ưu tiên có khả năng thu hồi vốn
nhanh và đảm bảo trả vốn vay một cách bền vững.
Đặc biệt, sẽ mở rộng các đối tượng thụ hưởng ODA, kể cả các thành phần
kinh tế tư nhân.
Để thu hút ODA hiệu quả trong giai đoạn tới, Thủ tướng yêu cầu các Bộ,
ngành, địa phương quản lý nguồn vốn đầu tư công một cách minh bạch và có trách
nhiệm.
Nguồn vốn của các tổ chức phi Chính phủ. (NGO)
Nguồn vốn của các tổ chức NGO thường nhỏ và là viện trợ không hoàn lại.

Hiện nay, loại viện trợ này được thực hiện nhiều bằng các chương trình phát triển
dài hạn, có sự hỗ trợ của các chuyên gia thường trú. Đây cũng là một nguồn chúng
ta cần thu hút.
Giải pháp để thu hút nguồn vốn này thường là về mặt chính trị và nâng cao
hiệu quả sử dụng.
Gần đây còn xuất hiện thêm nguồn vốn đầu tư gián tiếp từ nước ngoài
(FII):
Đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong những năm gần đây đã bắt
đầu nhận được quan tâm và chú ý của các định chế tài chính, quỹ đầu tư nước ngoài
trên khắp thế giới. Từ 1987 đến nay chúng ta chỉ tập trung mọi nỗ lực trong việc thu
hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Tuy nhiên, theo kinh nghiệm của các nước
10

trong khu vực, đến giai đoạn nào đó của nền kinh tế, nền kinh tế đó vừa tạo điều
kiện vừa có nhu cầu đối với việc thu hút đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII). Và Việt
Nam chúng ta đang bước vào giai đoạn này, giai đoạn cần và có thể thu hút FII.
Tuy nhiên để làm được điều ấy, chúng ta phải nỗ lực rất nhiều, trong đó trước
tiên là phải tạo ra khung pháp lý cần thiết vì hiện nay chúng ta chưa có luật quy
định cụ thể cho việc thu hút FII. Về mặt cơ chế mà nói, chúng ta cũng chưa có cơ
chế sẵn sàng. Thị trường chứng khoán Việt Nam còn nhỏ bé so với các nước xung
quanh và ngay cả chính với nhu cầu của chúng ta. Một thị trường chứng khoán phát
triển ổn định và lành mạnh là điều chúng ta phải quan tâm khi có khung pháp lý cần
thiết.
Chúng ta cũng phải nghĩ đến vấn đề tranh chấp và xử lý tranh chấp. Đây cũng
là một vấn đề mà luật chúng ta đã có nhưng vẫn còn thiếu cơ chế cụ thể. Do luật
còn thiếu cụ thể nên cơ chế xử lý tranh chấp còn chưa rõ ràng. Trong Luật doanh
nghiệp và Luật đầu tư chung vừa được Quốc hội thông qua đã có những tiến bộ có
những rõ nét về xử lý tranh chấp, nhưng cần được cụ thể càng sớm càng tốt bởi các
nhà đầu tư gián tiếp họ rất nhạy cảm và nhạy cảm hơn các nhà đầu tư FDI đối với
mọi sự cố mà có thể xảy ra, vì nó đe đoạ đến hiệu quả đầu tư của họ.

Trong Luật đầu tư chung có quy định “không hạn chế tỷ lệ nắm giữ của nhà
đầu tư nước ngoài ở những lĩnh vực mà không có điều kiện”, đây là một bước tiến
nhảy vọt và những tiến bộ này đang được các nhà đầu tư FII theo dõi rất chặt chẽ,
góp phần mạnh mẽ thu hút FII. Tuy nhiên, việc các nhà đầu tư gián tiếp băn khoăn
khi bỏ vốn vào Việt Nam là việc mang vốn ra có dễ không? Và khi mang vốn ra thì
phải tuân thủ những quy định gì, theo những quy chế như thế nào? Sự băn khoăn
của các nhà đầu tư cũng chính là những việc là chúng ta cần phải làm để đón tiếp
các nguồn đầu tư gián tiếp.
Theo Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài được
phép chuyển lợi nhuận ra nước ngoài trong khi đang hoạt động cũng như khi chấm
dứt dự án đầu tư. Sau những thủ tục thanh lý theo luật định thì nhà đầu tư nước
ngoài có quyền mang cả vốn lẫn lãi của mình ra.
Tuy nhiên, đối với các nhà đầu tư gián tiếp thì hơi phức tạp hơn, bởi vì một lý
do nào đó các đầu tư gián tiếp phải chấm dứt dự án đầu tư của mình và muốn thu
hồi vốn thì họ phải tìm kiếm đối tác để chuyển nhượng hoặc bán lại dự án do mình
đã và đang đầu tư. Để làm được điều này, ngoài những nghị định hướng dẫn cụ thể
về quy chế đặc thù đối với đầu tư gián tiếp (hiện luật của chúng ta chưa có nghị
định hướng dẫn cụ thể nào cho quy chế này), thì thị trường vốn chúng ta phải phát
triển mạnh, đủ để có người mua - người bán và cần có nhiều công cụ chuyển
nhượng vốn tinh vi hơn.
Là thành phố trọng điểm kinh tế của cả nước, Tp.HCM đã đạt được mức tăng
trưởng 11.8% trong năm qua so với mức tăng trưởng chung của cả nước là 7,4%.
Để thu hút FII, về phần mình, việc làm trước mắt của Tp.HCM là giới thiệu những
lĩnh vực mà các nhà đầu tư quan tâm và có thể bỏ tiền vào; tạo điều kiện thuận lợi
hơn cho các quỹ đầu tư đang hoạt động ở Việt Nam; mở cửa những lĩnh vực mà
hiện nay họ đang quan tâm như bất động sản Mặt khác, thành phố đang và sẽ kiến
11

nghị với Chính phủ mở cửa thêm một số lĩnh vực mà các nhà đầu tư quan tâm, đồng
thời tạo điều kiện tối đa cho thị trường vốn phát triển”

2.1.1.3. Các giải pháp thu hút.
Về môi trường pháp lý:
- Tiếp tục rà soát pháp luật, chính sách để sửa đổi, điều chỉnh hoặc loại bỏ các
điều kiện không phù hợp cam kết WTO của Việt Nam và có giải pháp đảm bảo
quyền lợi của nhà đầu tư. Theo dõi, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư và
doanh nghiệp để kịp thời phát hiện và xử lý các vướng mắc phát sinh.
- Xây dựng văn bản hướng dẫn các địa phương và doanh nghiệp về lộ trình
cam kết mở cửa về ĐTNN làm cơ sở xem xét cấp giấy chứng nhận đầu tư.
- Ban hành Thông tư hướng dẫn một số nội dung chưa rõ ràng, cụ thể tại Nghị
định số 108/2006/ NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư.
- Nghiên cứu xây dựng cơ chế huy động vốn đầu tư cơ sở hạ tầng các KKT và
Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về đầu tư đồng bộ cơ sở hạ tầng KCN. Tổ chức
triển khai Nghị định quy định về KCN, KCX, KKT sau khi được ban hành.
- Ban hành các ưu đãi khuyến khích đầu tư đối với các dự án xây dựng các
công trình phúc lợi (nhà ở, bệnh viện, trường học, văn hoá, thể thao) cho người lao
động làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu
kinh tế, đảm bảo sự tương thích với các luật pháp hiện hành.
- Chấn chỉnh tình trạng ban hành và áp dụng các ưu đãi, hỗ trợ đầu tư trái với
quy định của pháp luật. Tăng cường tập huấn, phổ biến nội dung và lộ trình thực
hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam.
- Nghiên cứu, đề xuất chính sách vận động, thu hút đầu tư đối với các tập đoàn
đa quốc gia cũng như chính sách riêng đối với từng tập đoàn và mỗi nước thành
viên EU, Hoa Kỳ. Về công tác quản lý nhà nước:
- Tập trung vào việc đẩy mạnh vốn giải ngân, giảm khoảng cách giữa vốn
đăng ký và vốn thực hiện :
+ Phối hợp hỗ trợ, thúc đẩy nhanh việc giải ngân vốn đăng ký của các dự án
đã được cấp GCNĐT, đặc biệt chú trọng đến công tác thúc đẩy triển khai các dự án
quy mô vốn đầu tư lớn được cấp GCNĐT trong vài năm gần đây bằng cách tạo điều
kiện thuận lợi về thủ tục hành chính, về giải phóng mặt bằng .v.v. giúp cho các dự
án này triển khai nhanh chóng.

+ Thường xuyên phối hợp với địa phương hỗ trợ giải quyết về luật pháp, chính
sách, vướng mắc của các doanh nghiệp trong việc hình thành và hoạt động. Đồng
thời, có kế hoạch nắm bắt cụ thể tình hình triển khai của các dự án ĐTNN có quy
mô vốn đầu tư lớn (từ khi hình thành dự án đến khi hoạt động)
- Nghiên cứu xây dựng, củng cố hệ thống quản lý thông tin ĐTNN, tiến đến
dần kết nối các đầu mối quản lý đầu tư trong cả nước địa phương để đảm bảo tốt
chính sách hậu kiểm.
- Theo dõi, đôn đốc các Bộ, ngành, địa phương triển khai các biện pháp nêu tại
Chỉ thị số 15/2007/CT-TTG ngày 22/6/2007 của Thủ tướng Chính phủ về một số
giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy ĐTNN vào Việt Nam để báo cáo Thủ tướng
Chính phủ.
12

- Tăng cường cơ chế phối hợp quản lý ĐTNN giữa Trung ương với địa
phương và các Bộ, ngành liên quan.
- Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, kiểm soát sau cấp phép
nhằm hướng dẫn việc thực hiện đúng pháp luật và ngăn chặn các vi phạm pháp luật.
Tiếp tục rà soát các dự án để có hình thức xử lý phù hợp, hỗ trợ dự án nhanh chóng
triển khai sau khi được cấp Giấy chứng nhận đầu tư. Thực hiện việc thu hồi Giấy
chứng nhận đầu tư đối với các dự án không triển khai đúng tiến độ cam kết để dành
quỹ đất cho các dự án mới. Chủ trì tổ chức các đoàn kiểm tra tình hình triển khai
quy hoạch đầu tư, quy hoạch KCN, KKT và tình hình sử dụng vốn hỗ trợ ngân sách
đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng KCN, KKT.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến rộng rãi các cam kết song phương
và đa phương mà Việt Nam đã ký kết cho cơ quan quản lý nhà nước các cấp và các
doanh nghiệp nhằm chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
- Tổ chức hướng dẫn các địa phương xây dựng Đề án quy hoạch phát triển
KCN và phối hợp với các đơn vị nghiên cứu phương án điều chỉnh Quy hoạch phát
triển các KCN cả nước với biện pháp bảo vệ môi trường.
- Phối hợp với các đơn vị, cơ quan theo dõi, giải quyết kịp thời các vấn đề

đình công, bãi công của công nhân trong KCN, đặc biệt là trong các doanh nghiệp
sử dụng nhiều lao động và các doanh nghiệp có vốn ĐTNN.
Về thủ tục hành chính:
Tiếp tục tập trung hoàn thiện cơ chế ‘liên thông-một cửa’ ở các cơ quan cấp
giấy chứng nhận đầu tư và quản lý đầu tư.
Tăng cường năng lực quản lý ĐTNN của các cơ quan chức năng và cơ chế
phối hợp, giám sát và kiểm tra hoạt động đầu tư; giải quyết kịp thời các thủ tục về
đất đai, thuế, xuất nhập khẩu, hải quan, nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động ĐTNN,
qua đó tăng thêm sức hấp dẫn của môi trường đầu tư Việt Nam.
Nâng cao trình độ toàn diện của đội ngũ cán bộ, công chức nhằm đảm bảo
thực hiện nhiệm vụ theo quy định tại Luật Đầu tư và quy định mới về phân cấp
quản lý ĐTNN.
Về kết cấu hạ tầng:
- Tiếp tục huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước, trong đó ban hành
quy chế khuyến khích tư nhân, đầu tư nâng cấp các công trình giao thông, cảng
biển, dịch vụ viễn thông, cung cấp điện nước, phấn đấu không để xảy ra tình trạng
thiếu điện cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Mở rộng hình thức cho thuê cảng biển, mở rộng đối tượng cho phép đầu tư
dịch vụ cảng biển, đặc biệt dịch vụ hậu cần (logistic) để tăng cường năng lực cạnh
tranh của hệ thống cảng biển Việt Nam; kêu gọi vốn đầu tư các cảng lớn của các
khu vực kinh tế như hệ thống cảng Hiệp Phước-Thị Vải, Lạch Huyện.v.v.
- Tập trung thu hút vốn đầu tư vào một số dự án thuộc lĩnh vực bưu chính-viễn
thông và công nghệ thông tin để phát triển các dịch vụ mới và phát triển hạ tầng
mạng.
- Đẩy mạnh đầu tư vào các lĩnh vực (văn hóa-y tế-giáo dục, bưu chính-viễn
thông, hàng hải, hàng không) đã cam kết khi gia nhập WTO. Xem xét việc ban hành
13

một số giải pháp mở cửa sớm hơn mức độ cam kết đối với một số lĩnh vực dịch vụ
mà nước ta có nhu cầu,

Về lao động, đào tạo nguồn nhân lực:
- Thực hiện các giải pháp nhằm đưa Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ
luật Lao động vào thực tế cuộc sống để ngăn ngừa tình trạng đình công bất hợp
pháp, lành mạnh hóa quan hệ lao động, bao gồm: (i) Tiếp tục hoàn thiện luật pháp,
chính sách về lao động, tiền lương phù hợp trong tình hình mới; tăng cường công
tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về lao động đối với người sử dụng
lao động nhằm đảm bảo điều kiện làm việc và đời sống cho người lao động; (ii)
Nâng cao hiểu biết pháp luật về lao động thông qua phổ biến, tuyên truyền và giáo
dục pháp luật cho người lao động, người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp
có vốn ĐTNN để đảm bảo chính sách, pháp luật về lao động và tiền lương được
thực hiện đầy đủ, nghiêm túc.
- Triển khai các chương trình, dự án hỗ trợ người lao động làm việc trong các
KCN, nhất là về nhà ở và điều kiện sinh hoạt của người lao động.
- Tiếp tục tăng cường công tác đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực để đáp
ứng nhu cầu phát triển trong giai đoạn mới, kể cả về cán bộ quản lý các cấp và cán
bộ kỹ thuật.
- Phối hợp với các cơ quan tăng cường giám sát, hướng dẫn triển khai Nghị
định số 03/2006/NĐ-CP ngày 6/1/2006 về quy định mức lương tối thiểu đối với lao
động Việt Nam làm việc cho các doanh nghiệp ĐTNN, cơ quan, tổ chức nước
ngoài, tổ chức quốc tế và cá nhân người nước ngoài tại Việt Nam, tháo gỡ những
khó khăn cho doanh nghiệp và địa phương trong quá trình triển khai.
- Nghiên cứu điều chỉnh chuyển dịch cơ cấu lao động theo tốc độ chuyển dịch
cơ cấu kinh tế.
Về xúc tiến đầu tư:
- Tăng cường phối hợp hoạt động XTĐT giữa trung ương và địa phương. Các
Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh tiếp tục rà soát, cập nhật bổ sung danh mục
kêu gọi đầu tư phù hợp với nhu cầu đầu tư phát triển và quy hoạch phát triển ngành,
địa phương.
- Nhanh chóng ban hành Quy chế phối hợp và triển khai các bộ phận XTĐT ở
một số địa bàn trọng điểm. Đổi mới phương thức XTĐT, chuyển mạnh sang hình

thức vận động đầu tư theo dự án và đối tác trọng điểm, tiếp cận và vận động các
công ty, tập đoàn lớn có thực lực về tài chính- công nghệ cao đầu tư vào Việt Nam.
Tổ chức hiệu quả các hội thảo XTĐT ở trong và ngoài nước. Nâng cao chất lượng
trang thông tin điện tử về ĐTNN bằng một số ngôn ngữ (các thứ tiếng : Anh, Nhật,
Hàn, Trung và Nga) đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư.
- Triển khai đúng tiến độ việc thực hiện Quy chế xây dựng và thực hiện
Chương trình XTĐT quốc gia giai đoạn 2007-2010 để có thể bắt đầu thi hành từ
ngày 01/01/2998 theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
- Tăng cường các đoàn vận động XTĐT tại một số địa bàn trọgn điểm (Nhật
Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, EU và Hoa Kỳ) để kêu gọi đầu tư vào các dự án lớn,
quan trọng. Chủ động tiếp cận và hỗ trợ các nhà đầu tư tiềm năng có nhu cầu đầu tư
vào Việt Nam.
14

Một số vấn đề khác:
- Tiếp tục xây dựng chương trình thực hiện Sáng kiến chung Việt Nam-Nhật
Bản giai đoạn III một cách hiệu quả; cũng như Cơ chế hợp tác giữa Bộ Kế hoạch và
Đầu tư (Việt Nam) và Cơ quan Phát triển kinh tế- EDB (Singapore) phù hợp với
tình hình mới.
- Tiếp tục kiện toàn bộ máy tổ chức, nhân sự quản lý hoạt động ĐTNN các cấp
đáp ứng nhu cầu tình hình mới. Đồng thời, đẩy mạnh công tác chống tham nhũng,
thực hành tiết kiệm và chống lãng phí.
- Duy trì cơ chế đối thoại thường xuyên giữa lãnh đạo Chính phủ, các bộ,
ngành với các nhà đầu tư nhằm phát hiện và xử lý kịp thời các khó khăn, vướng
mắc của các dự án đang hoạt động, đảm bảo các dự án hoạt động có hiệu quả, đúng
tiến độ và nhằm tiếp tục củng cố lòng tin của các nhà đầu tư đối với môi trường đầu
tư kinh doanh tại Việt Nam, tạo hiệu ứng lan tỏa và tác động tích cực tới nhà đầu tư
mới. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan nhà nước với các hiệp hội doanh
nghiệp thông qua các hoạt động của Nhóm M & D, Diễn đàn Doanh nghiệp Việt
Nam

- Kiến nghị việc bổ sung vốn đối ứng của bên Việt Nam trong dự án JICA về
‘Tăng cường năng lực điều hành hoạt động ĐTNN của Cục ĐTNN’ để đẩy nhanh
việc triển khai phục vụ công tác thu thập thông tin FDI và quản lý hoạt động XTĐT
trong bối cảnh mới.
15

2.1.2. Thực trạng huy động vốn đầu tư ở Việt Nam
Các chỉ tiêu chính của Việt Nam
Chỉ tiêu 2006 2007 2008E 2009E
Tăng trưởng GDP (%) 8,2 8,5 8,0 8,5
Chỉ số sản xuất công nghiệp (%) 17,0 17,1 16,8 17,2
Tỷ lệ thất nghiệp (% khu vực thành phố) 4,8 4,6 4,5 4,5
Chỉ số giá tiêu dùng (%) 7,5 12,6 12,6 9,0
Cán cân thương mại (tỷ USD) -5,1 -14,2 -16,0 -17,6
Xuất khẩu (tỷ USD) 39,8 48,5 59,2 72,3
Nhập khẩu (tỷ USD) 44,9 62,7 75,2 89,9
Nợ nước ngoài (tỷ USD) 19,2 22,4 24,8 26,8
% tỷ lệ nợ nước ngoài so với GDP 31,5 31,6 30,5 30,2
Dự trữ, bao gồm vàng (tỷ USD) 11,5 21,6 22,1 22,7
Tăng trưởng tín dụng (%) 25,4 53,9 30,0 30,0
Lãi suất ngắn hạn (%-3 tháng) 7,9 8,9 9,0 8,5
Nguồn: WB - GSO,SBV,IMF / Ghi chú: E là ước tính.
VỐN ĐẦU TƯ TOÀN XÃ HỘI CHO PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ
(Theo nguồn vốn)
Đơn vị: Tỷ đồng
STT Chỉ tiêu 2006
Ước thực hiện Kế hoạch
2007 2008
1 Tổng vốn ĐTPT toàn xã hội 398,900 461,900 567,300
Tr. đó: + Vốn NSNN 86,400 97,000 98,130

+ Vốn tín dụng đầu tư 34,900 40,300 45,000
+ Vốn của DNNN 61,600 62,700 85,000
+ Vốn đầu tư trực tiếp NN 65,600 74,100 96,000
+ Vốn dân cư và tư nhân 133,900 160,000 195,000
+ Vốn huy động khác 16,500 27,800 48,170
2 Cơ cấu vốn ĐTPT XH 100% 100% 100%
Tr.đó: + Vốn NSNN 21.7% 21.0% 17.3%
+ Vốn tín dụng đầu tư 8.7% 8.7% 7.9%
+ Vốn của DNNN 15.4% 13.6% 15.0%
16

+ Vốn đầu tư trực tiếp NN 16.4% 16.0% 16.9%
+ Vốn dân cư và tư nhân 33.6% 34.6% 34.4%
+ Vốn huy động khác 4.1% 6.0% 8.5%
3 Vốn ĐTPT XH so GDP 41.0% 40.4% 42.0%
Tr.đó: + Vốn NSNN 8.9% 8.5% 7.3%
+ Vốn tín dụng đầu tư 3.6% 3.5% 3.4%
+ Vốn của DNNN 6.3% 5.5% 6.4%
+ Vốn đầu tư trực tiếp NN 6.7% 6.5% 7.2%
+ Vốn dân cư và tư nhân 13.8% 14.0% 14.6%
+ Vốn huy động khác 1.7% 2.4% 3.6%

Đây là bảng số liệu cho thấy các khoản chi tiêu của Việt Nam qua các năm
qua. Có thể thấy rằng, trong năm 2007, nền kinh tế nước ta đạt mức tăng trưởng cao
nhất trong vòng 10 năm qua ( 8,48%), tạo khả năng hoàn thành nhiều chỉ tiêu chủ
yếu của kế hoạch 5 năm 2006-2010 ngay trong năm 2008. Các cân đối kinh tế vĩ mô
cơ bản được bảo đảm. Tổng thu ngân sách nhà nước vượt kế hoạch đề ra, tỷ lệ huy
động từ thuế và phí vào ngân sách nhà nước đạt 23,4% GDP. Cán cân thanh toán
quốc tế có thặng dư khá, dự trữ ngoại tệ tăng từ gần 12 tuần nhập khẩu vào cuối
năm 2006 lên gần 20 tuần nhập khẩu vào cuối năm 2007, đáp ứng được các nhu cầu

về ngoại tệ và bình ổn thị trường ngoại hối. Nợ của Chính phủ và nợ nước ngoài của
quốc gia tiếp tục được duy trì ở mức an toàn. Đầu tư phát triển của nền kinh tế tăng
mạnh, nhiều công trình hạ tầng và cơ sở sản xuất được đưa vào sử dụng, tạo tiền đề
quan trọng để phát triển đất nước trong các năm tiếp theo. Tổng số vốn đầu tư toàn
xã hội năm 2007 ước đạt khoảng 464,5 nghìn tỷ đồng, bằng 40,6% GDP, tăng
16,4% so với năm 2006; trong đó, nguồn vốn của Nhà nước tăng 17,5%, vốn hỗ trợ
phát triển chính thức (ODA) tăng 12%, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng
17,1%, vốn đầu tư dân doanh tăng 19,5%. Thị trường chứng khoán phát triển khá
nhanh, đang trở thành một kênh huy động vốn đầu tư dài hạn quan trọng trong nền
kinh tế. Chính phủ đã thực hiện nhiều biện pháp để bảo đảm cho thị trường tài chính
phát triển nhanh và bền vững.
2.1.2.1. Tiết kiệm trong nước:
a. Tiết kiệm của chính phủ:
Việt Nam luôn coi nguồn vốn đầu tư trong nước là chủ đạo, vốn đầu tư nước
ngoài chỉ giữ vai trò bổ trợ quan trọng. Do đó, trong nhiều năm qua, việc huy động
vốn trong nước đã có nhiều khởi sắc. Cụ thể như, tổng số vốn đầu tư toàn xã hội
năm 2007 ước đạt khoảng 464,5 nghìn tỷ đồng, bằng 40,6 % GDP, tăng 16,4 % so
với năm 2006, trong đó nguồn vốn nhà nước tăng 17,5 %. Tổng thu ngân sách nhà
nước vượt kế hoạch đề ra, tỷ lệ huy động từ thuế và phí vào ngân sách nhà nước đạt
23,4 % GDP.
b. Tiết kiệm của các doanh nghiệp :
17

Nhờ có gia nhập WTO mà thị trường tiêu thụ các sản phẩm của Việt Nam
được mở rộng. Kéo theo đó là thị trường chứng khoán ở Việt Nam được một mùa
bội thu năm 2007. Tính riêng trên thị trường chứng khoán, tổng giá trị vốn hóa thị
trường đến cuối năm 2007 đạt gần 500 nghìn tỉ đồng (sàn Tp. HCM 370 nghìn tỷ
đồng, sàn Hà Nội 130 nghìn tỷ đồng), chiếm 43,8 % GDP ( tính theo giá thực tế
năm 2007), cao hơn rất nhiều so với năm 2006 ( 22,7% GDP ) và năm 2005
(1,21%). Cũng trong năm 2007, hoạt động huy động vốn được xem là một đặc trưng

nổi bật của thị trường chứng khoán Việt Nam với tổng huy động vốn ước đạt
90.000 tỷ đồng thông qua đấu giá, phát hành thêm trên thị trường chính thức, tăng
gấp 3 lần so với tổng mức huy động vốn năm 2006.
Chỉ tính riêng trên địa bàn Hà Nội, trong tháng 5/2008, nguồn vốn huy động
của các tổ chức tín dụng đạt 387.094 tỷ đồng, tăng 2,12 % so với tháng 4 và tăng
4,89 % so với năm 2007. Trong đó tiền gửi của các tổ chức kinh tế tăng 2,2 % so
với tháng 4/2008. Tổng dư nợ cho vay tháng 5/2008 đạt 224.844 tỷ đồng, tăng 1,72
% so với tháng 4 và tăng 17,57 % so với cuối năm 2007. Trong đó, dư nơ ngắn hạn
tăng 1,8 %, dư nợ trung và dài hạn tăng 1,6 % so với tháng 4/2008.
c. Tiết kiệm của dân cư :
Do thị trường chứng khoán phát triển, trở thành kênh đầu tư hấp dẫn hàng đầu,
thu hút rất nhiều nhà đầu tư. Đây là nguyên nhân khiến tiền gửi tiết kiệm vào ngân
hàng của dân cư bị giảm và chảy mạnh qua chứng khoán.
Báo cáo của Bộ Kế Hoạch – Đầu tư cho biết, trong 3 tháng đầu năm 2008,
điểm đáng chú ý nhất trên lĩnh vực huy động vốn và cho vay của nền kinh tế là tiền
gửi VND của dân cư tăng rất thấp, chỉ tăng 6,6 % so với mức tăng 13,2 % của cùng
kỳ năm ngoái. Nguyên nhân của tình trạng này do thời gian qua nhiều doanh nghiệp
đã phát hành cổ phiếu, trái phiếu để tăng vốn và rất nhiều người dân đã dùng tiền
đầu tư vào chứng khoán thay vì gửi vào ngân hàng.
2.1.2.2.Tiết kiệm ngoài nước :
a. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) :
Với việc là thành viên thứ 150 của WTO và việc tiếp tục cải thiện mạnh mẽ
môi trường đầu tư, Việt Nam đã huy động vốn đầu tư FDI tăng mạnh, đạt 20,3 tỷ
USD, tăng 69,1% so với năm 2006. Việt Nam đã chứng tỏ là ngôi sao đang lên ở
khu vực châu Á xét về mức độ thu hút đầu tư.
Năm 2007, tỷ lệ thu hút vốn đầu tư đạt tốc độ kỷ lục đối với cả vốn trong và
ngoài nước, chiếm 40,5% GDP, trong đó đặc biệt phải kể đến kết quả thu hút vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài, năm 2006 là 12,7 tỷ USD và năm 2007 là 20,3 tỷ USD.
Theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ KH-ĐT, trong quý I năm 2008,
các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (ĐTNN) đã góp vốn đầu tư thực hiện trên 1,68

tỷ USD, tăng 24% so với vốn thực hiện của cùng kỳ năm trước. Tính chung cả vốn
cấp mới và tăng thêm trong quý I, cả nước đã thu hút thêm 5,436 tỷ USD vốn FDI,
tăng 31% so với cùng kỳ năm trước.
b. Nguồn vốn đầu tư gián tiếp (FII):
Nước ta đã có những thành công trong thu hút nguồn vốn FDI, nhưng nguồn
vốn FII vẫn còn hạn chế. Sau khủng hoảng năm 1997, nguồn vốn FII vào Việt Nam
18

có xu hướng tăng, nhưng quy mô còn nhỏ và chiếm tỷ lệ thấp so với vốn FDI. Một
số quỹ mới hoạt động tại Việt Nam từ năm 2001 có quy mô vốn bình quân từ 5-20
triệu USD cho một quỹ nhỏ hơn giai đoạn (1991-1997), chiếm 1,2% vốn FDI, tăng
lên 3,7% (2004), tỷ lệ này còn quá thấp so với các nước trong khu vực (tỷ lệ thu hút
FII/FDI trong khoảng 30-40%).
Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy, đầu tư FII vào Việt Nam trong thời gian gần
đây cũng đã tăng rất mạnh. Biểu hiện rõ nhất là việc đầu tư vào thị trường chứng
khoán của các tập đoàn tài chính quốc tế trong thời gian qua đã không ngừng gia
tăng. Đến cuối năm 2006, khoảng trên 2 tỷ USD vốn đầu tư gián tiếp được công bố
thông qua các quỹ đầu tư chính thức.
c. Nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA):
Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa VIII tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX của Đảng tháng 4/2001 về Phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch
phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2001-2005 khẳng định sự cần thiết thu hút và sử
dụng có hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Trong văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X ngày 18 tháng 4 năm 2006 khẳng định: “Tiếp
tục tranh thủ nguồn vốn ODA, đẩy nhanh triến độ giải ngân vốn các công trình, dự
án đã được ký kết; xây dựng chiến lược thu hút và sử dụng vốn ODA, tập trung vào
lĩnh vực kết cấu hạ tầng kỹ thuật ở các trung tâm kinh tế và các vùng có điều kiện
kinh tế xã hội khó khăn”.
d. Nguồn vốn tín dụng thương mại:
Với nguồn tín dụng mới được tiếp cận, hiện VN đang nhận được đồng thời hai

nguồn vốn hỗ trợ từ WB- vốn IDA cho xóa đói giảm nghèo và vốn IBRE cho nước
có thu nhập trung bình.
Việt Nam là một khách hàng lớn của IDA ( Hiệp hội phát triển quốc tế ) kể từ
năm 1993, khi đó tỷ lệ nghèo là 58%. Đến 2004, tỷ lệ nghèo đã giảm xuống dưới
20%. GDP bình quân đầu người cũng tăng nhanh, từ dưới 200 USD/ người năm
1993 đến 835 USD/ người năm 2007.
IBRE (Ngân hàng tái thiết và phát triển) là nguồn tín dụng có lãi suất thấp
nhất, rẻ nhất mà các nước đang phát triển có thể tiếp cận trên thị trường vốn quốc
tế. Các điều khoản vay của IBRE cũng ưu đãi hơn so với các khoản vay tương tự
cho các nước có thu nhập trung bình trên thị trường tài chính.
Hiện nay, có nhiều quốc gia khu vực Châu Á- Thái Bình Dương thời gian qua
đã nhận được hỗ trợ từ IBRE như: Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia,
Indonesia, Thái Lan
2.2. Vấn để sử dụng.
2.2.1. Nguồn vốn trong nước.
Nguồn từ doanh nghiệp và hộ gia đình thường được sử dụng để đầu tư cho các
hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước.
Nguồn vốn của Chính phủ có vai trò đặc biệt quan trọng trong đầu tư xây
dựng cơ bản.
19

Thứ nhất, đầu tư xây dựng cơ bản đã góp phần phát triển nhanh kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nguồn vốn đầu tư của Nhà nước
trong thời gian qua đã tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật và kinh tế
- xã hội ở các vùng, ngành trong cả nước; quan tâm đầu tư kết cấu hạ tầng nông
thôn và nông nghiệp, các vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều khó khăn. Kết cấu hạ
tầng kỹ thuật và kinh tế - xã hội ngày càng được phát triển, hoàn thiện làm thay đổi
diện mạo của nhiều địa phương trong cả nước, một số đô thị mới ra đời; nhiều khu
công nghiệp được hình thành; nhiều sân bay, bến cảng được hiện đại hóa; giao
thông đường bộ (quốc lộ, tỉnh lộ) phát triển mạnh; giao thông nông thôn được cải

thiện; vận tải đường sắt được nâng cấp; bệnh viện, trạm y tế đạt tiêu chuẩn cao hơn;
các trường đại học, cao đẳng, trung học dạy nghề, các trường trung học phổ thông
được xây dựng khang trang hơn; các trường trung học cơ sở, tiểu học ở các vùng, kể
cả các vùng khó khăn đang nhanh chóng được kiên cố hóa
Tốc độ và quy mô tăng đầu tư xây dựng cơ bản đã góp phần quan trọng vào
tốc độ tăng GDP hằng năm, tăng cường tiềm lực nền kinh tế, cải thiện và nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Thứ hai, đầu tư xây dựng cơ bản đã góp phần quan trọng chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng đáng kể năng lực sản xuất
mới.
Trong những năm qua, công tác xây dựng cơ bản đã tập trung vào những mục
tiêu quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội. Các nguồn vốn đầu tư từ ngân sách
nhà nước chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực giao thông, thủy lợi, điện, bưu chính -
viễn thông, nông nghiệp, nông thôn, khoa học và giáo dục - đào tạo, góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp, xây
dựng; tăng dần và cơ cấu lại ngành dịch vụ; giảm dần tỷ trọng ngành nông, lâm,
thủy sản. Trong từng ngành cũng tiếp tục có sự chuyển dịch về cơ cấu. Nhiều dự án,
công trình hoàn thành đi vào sử dụng đã tăng thêm năng lực sản xuất cho nền kinh
tế. Dầu khí, điện lực, bưu chính viễn thông đã trở thành những ngành công
nghiệp, dịch vụ mũi nhọn của đất nước.
Thứ ba, nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ Nhà nước thực sự có vai trò chủ
đạo, dẫn dắt, thu hút và làm cho các nguồn vốn của xã hội được huy động cho đầu
tư phát triển không ngừng tăng nhanh hằng năm và ngày càng đa dạng.
Tỷ trọng nguồn vốn đầu tư của Nhà nước ngày càng tăng. Mặc dù ngân sách
còn hạn hẹp, nhưng Đảng và Nhà nước vẫn dành một phần ngân sách đáng kể cho
đầu tư phát triển, trong đó phần lớn cho đầu tư xây dựng cơ bản. Trong 3 năm
(2001 - 2003), nguồn vốn đầu tư phát triển của Nhà nước nói chung, vốn đầu tư xây
dựng cơ bản nói riêng (bao gồm nhiều nguồn vốn đầu tư khác nhau như: vốn ngân
sách, vốn tín dụng đầu tư Nhà nước, vốn doanh nghiệp nhà nước ) luôn chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội và tăng lên qua các năm. Nguồn vốn

đầu tư xây dựng cơ bản từ Nhà nước thực sự giữ vai trò chủ đạo, tạo môi trường để
thu hút mạnh các nguồn vốn khác. Trong khi vốn đầu tư của Nhà nước tiếp tục là
nguồn chủ lực chiếm 54,9%, thì các nguồn vốn khác đã tăng nhanh, vốn đầu tư
nước ngoài chiếm 17,4%; vốn dân cư và tư nhân chiếm 25,7%; vốn huy động khác
chiếm 2%. Tính chung nguồn lực trong xã hội dành cho đầu tư phát triển, đặc biệt
từ năm 2001 đến nay tăng khá.
20

Thứ tư, quản lý nhà nước về đầu tư xây dựng cơ bản có một số mặt tiến bộ
hơn những năm trước.
Việc sửa đổi, bổ sung các quy chế về quản lý đầu tư, xây dựng, đấu thầu đã
tạo khung pháp lý hoàn thiện hơn về đầu tư xây dựng cơ bản. Công tác chỉ đạo, điều
hành, lập và tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch được quan tâm. Cơ chế quản lý
đầu tư được cải tiến một bước theo hướng tăng cường phân công, phân cấp cho các
bộ, ngành và địa phương. Tính công khai, minh bạch, công bằng, hợp lý trong việc
phân bổ vốn đầu tư xây dựng cơ bản theo Luật Ngân sách nhà nước mới đã được
quan tâm hơn.
2.2.2. Nguồn vốn nước ngoài.
- FDI:
Đối với nguồn vốn FDI, khuyến khích vốn FDI vào các ngành du lịch, mở cửa
theo lộ trình các lĩnh vực dịch vụ “nhạy cảm” như ngân hàng, tài chính, vận tải,
viễn thông, bán buôn và y tế, giáo dục, đào tạo. Mở lẻ; Khuyến khích đầu tư trực
tiếp nước ngoài tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật bằng các phương thức
thích hợp gồm BOT, BT để xây dựng cảng biển, cảng hàng không, đường cao tốc,
đường sắt, viễn thông, cấp – thoát nước; Một xu hướng khác là trước đây vốn FDI
thường giới hạn trong hai lĩnh vực nông nghiệp và dệt may, nhưng gần đây đã
hướng đến công nghệ cao (hoạt động của hai công ty Microsoft và Intel thu hút sự
chú ý của thế giới đến Việt Nam như một địa điểm đầu tư vào công nghệ cao).
Quan tâm nhiều hơn đến công tác thu hút các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
có chất lượng, đặc biệt chú trọng thu hút các dự án đầu tư của các tập đoàn đa quốc

gia. Hạn chế việc thu hút các dự án thâm dụng lao động, gia công giá trị gia tăng
thấp và các ngành công nghiệp công nghệ lạc hậu.
Đầu tư nước ngoài đã có sự chuyển dịch tích cực về chất. Đó là sự xuất hiện
các dự án của nhiều tập đoàn kinh tế lớn, của các khu vực đầu tư có tiềm năng như
Liên minh châu Âu (EU), Nhật Bản, Hoa Kỳ, Hàn Quốc và một số nước trong khu
vực có nền công nghiệp phát triển. Một chuyển dịch tích cực nữa là các nhà đầu tư
đã đi vào các lĩnh vực công nghệ cao hay công nghiệp có chất lượng cao, như điện -
điện tử, sản xuất vật liệu, khu du lịch cao cấp…, khác hẳn với trước đây các dự án
chỉ tập trung trong các lĩnh vực sử dụng nhiều lao động như dệt may, da giày…
- ODA
Trong báo cáo tổng quan về tình hình quản lý và thực hiện các dự án ODA tại
Hội nghị quản lý các dự án đầu tư sử dụng vốn ODA cũng đã nêu lên nhu cầu vốn
ODA riêng cho đầu tư cơ bản là rất đáng kể.
21

Bảng 1: Dự kiến nhu cầu vốn ODA trong tổng vốn cho đầu tư cơ bản
Chuyên ngành
Dự kiến vốn đầu tư cơ bản giai
đoạn 2001-2010 (tỷ đồng)
ODA dự kiến
(2001-2010)
Tổng
cộng
% theo
ngành
2001-
2005
2006-
1010
Tỷ đồng

% trong
tổng số
vốn
Đường bộ 121.420 59,2 79.583 41.837 67.998 56,0
Giao
thông
liên tỉnh
Hàng hải 18.357 8,9 8.210 10.147 5.050 27,5
Đường sắt 11.080 5,4 6.144 4.936 2.602 28,5
Đường thuỷ nội địa 3.819 1,9 1.820 1.999 2.340 61,3
Hàng không 9.744 4,7 8.568 1.176
Cộng 164.420 80,1 104325
2
60.095 77930
3
50,4
1

Giao thông đô thị 25.492 12,4 15.055 10.437 17.542 68,8
Giao thông nông thôn 15.315 7,5 9.275 5.940 3.430 22,4
Tổng cộng 205.227 100,0 128.755 76.472 98.962 50,6
Chi thường xuyên 35.000 - - - - -
(1) Không tính phần hàng không
(2) Bao gồm cả 44.800 tỷ đồng Việt Nam cho các dự án đang tiến hành
(3) 1 USD = 16.000 Vnđ
Nguồn: Bộ Kế hoạch và đầu tư
Từ đường lối chính sách hiện nay của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế
- xã hội đã hình thành nên một hệ thống các quan điểm trong công tác thu hút, tiếp
nhận, quản lý và sử dụng ODA. Các quan điểm này đã giúp các cơ quan quản lý nhà
nước về vốn ODA phát huy tốt hiệu quả của nguồn vốn này. Các quan điểm bao

gồm:
Quan điểm 1: Tranh thủ vốn ODA không gắn với các ràng buộc chính trị;
phù hợp với chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại của
Việt Nam
Quan điểm 2: Sử dụng vốn ODA cần phối hợp với các nguồn vốn khác
Quan điểm 3: Sử dụng vốn ODA để phát triển hạ tầng kinh tế xã hội có trọng
tâm, trọng điểm.
Một mục tiêu chung nhất của các nhà tài trợ là sử dụng ODA để tạo môi
trường, tạo điều kiện ban đầu cho nước nhận tài trợ khai thác các nguồn lực khác
nhau trong nước. Đại bộ phận ODA được sử dụng để đầu tư phát triển hạ tầng kinh
tế - xã hội, phát triển nguồn nhân lực và tăng cường thể chế.
Phát triển theo trung tâm và lan tỏa dần là vấn đề có tính quy luật trong phát
triển kinh tế theo không gian. Chính vì vậy, tập trung vốn ODA xây dựng một tổ
hợp hạ tầng kinh tế - xã hội ở các vùng trọng điểm trong một thời gian ngắn, tạo ra
một vùng kinh tế phát triển là phương án tối ưu. Một tổ hợp cơ sở hạ tầng ở đây có
nghĩa là phải đảm bảo cho một vùng kinh tế trọng điểm có cảng, sân bay hiện đại,
liên lạc viễn thông tốt, đường xá và cầu cống thuận tiện, kho tàng và bốc dỡ tốt,
việc cung cấp điện nước được đảm bảo, việc chăm sóc sức khoẻ cho những người
22

làm việc trong vùng phải được lo liệu chu đáo Tóm lại, không nên phân rải vốn
ODA phân tán, mỗi nơi một ít, nơi này có cái cầu, nơi kia có con đường, nơi khác
có cái cảng mà nên tập trung chúng vào một vùng trọng điểm trong một thời gian,
sau đó lại tập trung xây dựng các tổ hợp cơ sở hạ tầng ở những nơi khác.
Mục tiêu trong kế hoạch 1996-2000 là dùng nguồn vốn ODA đầu tư trọng
điểm hệ thống giao thông huyết mạch xuyên suốt đất nước, và nối với các vùng
trong nước, hệ thống bưu chính viễn thông cũng như hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế
- xã hội đồng bộ ở cả ba địa bàn kinh tế trọng điểm. Trong thời kỳ 2000 - 2005 và
tiếp theo cho tới năm 2010, một trong những trọng tâm sử dụng vốn ODA là
xoá đói giảm nghèo.

Quan điểm 4: ODA là khoản vay nợ nước ngoài
Văn kiện Đại hội Đảng VIII đã chỉ rõ các dự án sử dụng vốn vay phải có
phương án trả nợ vững chắc, xác định rõ trách nhiệm trả nợ, không được gây thêm
gánh nặng nợ nần không trả được. Đồng thời, khi sử dụng vốn vay của nước ngoài
ta phải tính toán tới khả năng trả nợ trong nước. ODA được coi là khoản nợ quan
trọng nhất của Chính phủ đứng ra vay.
Đối với nước ta, cần phải xem xét hai loại nợ, đó là nợ quốc gia và nợ Chính
phủ:
Nợ quốc gia là các khoản vay nợ nước ngoài cho các hoạt động của Việt Nam
do tất cả các bên (Chính phủ, doanh nghiệp nhà nước, tư nhân trong và ngoài nước)
vay các loại đối tác nước ngoài. Nợ quốc gia có xuất xứ từ tất cả các nguồn vay như
ODA, vay đối ứng FDI, vay thương mại và một số khoản vay khác, kể cả vay theo
cơ chế mua trả chậm.
Nợ Chính phủ bao gồm các khoản Chính phủ vay trực tiếp của nước ngoài
(ODA) hoặc Chính phủ bảo lãnh vay, gánh nặng nợ nần sẽ do ngân sách nhà nước
gánh chịu.
Tất cả các khoản nợ này cuối cùng cũng phải trả cả gốc và lãi theo những lịch
trình khác nhau (vay ngắn hạn một hai năm, trung hạn 5-10 năm và dài hạn 10-20
năm), chính vì vậy quá trình vay trả nợ nước ngoài không được quản lý chặt chẽ thì
có thể gây mất cân đối cho các cân thanh toán quốc tế của đất nước, làm ảnh hưởng
đến ổn định kinh tế vĩ mô.
Nợ chính phủ hiện đang chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng số nợ quốc gia. Kinh
nghiệm quốc tế đã cho chúng ta nhiều bài học quý giá về việc lựa chọn phương thức
và mức độ vay vốn nước ngoài. Tuy nhiên, mỗi nước đều có những điều kiện phát
triển đặc thù, hơn nữa tình hình thế giới lại không ngừng biến đổi
Định hướng sử dụng vốn ODA trong thời kỳ 2006-2010
Với mục tiêu không để Việt Nam tụt hậu so với các nước láng giềng vào năm
2020 thì theo phương án thấp nhất, GDP bình quân đầu người của Việt Nam phải
đạt được mức 3.934 USD vào cuối năm 2010. Theo đánh giá của các nhà kinh tế, để
thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá cho giai đoạn 2000-

2010 với mục tiêu phát triển kinh tế đề ra, Việt Nam có thể cần một lượng vốn dành
cho đầu tư gấp 4 lần giai đoạn 1996-2000.
Để đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững trong thời kỳ 5 năm 2006 -
2010, Chính phủ tiếp tục chủ trương huy động mọi nguồn vốn, trong đó nguồn vốn
23

trong nước có tính chất quyết định, nguồn vốn ODA tiếp tục góp vị trí quan trọng,
tổng nguồn vốn ODA thực hiện dự kiến khoảng 11- 12 tỷ USD trong 5 năm 2006 -
2010, chiếm khoảng 80 % tổng ODA cam kết.
Để đạt được mục tiêu trên, Việt Nam chủ trương tiếp tục đẩy mạnh cả bề rộng
lẫn chiều sâu quan hệ đối tác với các nhà tài trợ.
Việc sử dụng ODA theo hướng lựa chọn giữa các nguồn lực, đặt trọng tâm
vào tính hợp lý và hiệu quả của viện trợ.
Việc sử dụng ODA sẽ định hướng vào các ưu tiên sau:
- Phát triển nông nghiệp và nông thôn gắn với xóa đói giảm nghèo góp phần
thực hiện chương trình tăng trưởng toàn diện và xoá đói giảm nghèo (CPRGS) và
các chương trình xoá đói, giảm nghèo khác.
Trong lĩnh vực này, cần ưu tiên ODA cho các chương trình, dự án hỗ trợ
chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, phát triển ngành nghề để tăng thu nhập cho
người nông dân; phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn (hệ thống thủy lợi, lưới điện
nông thôn, thông tin liên lạc, giao thông nông thôn, cấp nước sinh hoạt, trường học,
trạm xá ) để hỗ trợ sản xuất ổn định và cải thiện đời sống nhân dân; tranh thủ
nguồn vốn ODA để trồng mới, chăm sóc và bảo vệ rừng, phát triển các khu bảo tồn
thiên nhiên, góp phần cải thiện môi trường sinh thái và giảm nhẹ hậu quả thiên tai.
- Đối với hạ tầng kinh tế, cần ưu tiên sử dụng ODA cho giao thông vận tải, cải
thiện điều kiện cấp và thoát nước và vệ sinh môi trường tại các khu đô thị và khu
công nghiệp, phát triển các hệ thống thủy lợi và hệ thống phân phối điện, nhất là
khu vực nông thôn, miền núi.
Trong 5 năm tới, cần tranh thủ ODA để hoàn thiện hệ thống các đường quốc
lộ huyết mạch, các cầu đường bộ trong cả nước, phát triển các tuyến đường trong

khuôn khổ hợp tác tiểu vùng Mêkông mở rộng; hỗ trợ ngành đường sắt để nâng cao
năng lực chạy tàu, tăng cường an toàn và cải tiến chất lượng dịch vụ; đầu tư cải tạo
và xây dựng mới một số sân bay quốc tế; cải thiện vận tải đường sông trên một số
tuyến chính; phát triển một số cảng biển nước sâu, nhất là ở phía Nam.
Sử dụng ODA để phát triển hệ thống thủy lợi ở ba miền, xây dựng đê điều, kể
cả đê biển góp phần phát triển sản xuất, giảm nhẹ thiên tai.
Trong lĩnh vực năng lượng, vốn ODA sử dụng để hỗ trợ phát triển hệ thống
đường dây, trạm biến thế, lưới điện phân phối, chú trọng lưới điện nông thôn, miền
núi, vùng đồng bào dân tộc coi trọng nguồn năng lượng sạch (gió, mặt trời, địa
nhiệt) để hỗ trợ năng lượng cho các vùng sâu, vùng xa, hải đảo.
- Đối với hạ tầng xã hội, ngoài việc sử dụng ODA để tăng cường cơ sở vật
chất, kỹ thuật nhằm nâng cao chất lượng dạy và học ở tất cả các cấp học, cần sử
dụng ODA, kể cả ODA vốn vay để đầu tư xây dựng hoàn chỉnh và đồng bộ một số
trường đại học tại ba miền Bắc, Trung và Nam. Ưu tiên kêu gọi nguồn ODA để tăng
cường trang thiết bị cho các bệnh viện tuyến tỉnh, hỗ trợ thực hiện các chương trình
quốc gia như tiêm chủng mở rộng, chương trình phòng chống sốt rét, chương trình
phòng chống HIV/AIDS, chương trình dân số và phát triển.
Định hướng ODA hỗ trợ thực hiện chương trình nghị sự 21 về phát triển bền
vững, nhất là các dự án góp phần giải quyết một số vấn đề môi trường bức xúc như
xử lý rác thải tại các đô thị, cấp thoát nước và xử lý nước thải
24

- Tranh thủ nguồn vốn ODA để tăng cường năng lực con người, chú trọng ở
cấp cơ sở; tập trung vốn ODA để nâng cao năng lực các trường dạy nghề, qua đó
cải thiện chất lượng đội ngũ công nhân kỹ thuật cung cấp cho khu vực kinh tế tư
nhân. Đẩy mạnh chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý, phát triển thể chế,
nhất là cải cách hành chính; xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, trong đó ưu
tiên giáo dục và thực thi pháp luật.
- Có thể sử dụng ODA cho một số chương trình dự án phát triển công nghiệp
có khả năng hoàn trả vốn vay, tạo ra công ăn, việc làm góp phần xoá đói, giảm

nghèo. Tuy nhiên, cần phải được cân nhắc kỹ nếu sử dụng ODA cho các dự án sản
xuất kinh doanh, do quy định và thủ tục ODA thường kéo dài, làm mất cơ hội đầu
tư. Hơn nữa, nhiều nhà tài trợ cung cấp ODA có ràng buộc làm cho giá công trình
cao, ảnh hưởng tới hiệu quả dự án và khả năng trả nợ vốn vay.
Điều ấn tượng là việc thu hút đầu tư từ nguồn vốn ODA, các nhà tài trợ đã
cam kết tăng hơn 20% so với năm 2006 (4,4 tỷ USD năm 2006 lên 5,4 tỷ USD năm
2007). Các nhà tài trợ cũng đang có sự chuyển dịch tài trợ khi đã đi vào các dự án
lớn. Trước đây, ODA chủ yếu cho các dự án xoá đói giảm nghèo, vệ sinh môi
trường, nhưng hiện đang chuyển hướng sang đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng có
quy mô lớn. Điều này tạo điều kiện cho nước ta khởi công các dự án cơ sở hạ tầng
phục vụ cho sự phát triển lâu dài và bền vững. Chẳng hạn như 3 dự án lớn của Nhật
Bản là đường sắt Bắc – Nam cao tốc, đường bộ Bắc – Nam cao tốc, Khu công nghệ
cao Hoà Lạc, rồi dự án đường xe điện ngầm ở TP.HCM cũng do Nhật Bản tài trợ,
dự án đường xe điện ngầm ở Hà Nội do Pháp và Nhật Bản tài trợ, các dự án khác
như tuyến đường Hà Nội – Lào Cai do Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) đồng
tài trợ với Cơ quan Phát triển Pháp (AFD).
3. Nợ nước ngoài
3.1. Khái niệm và tác động của nợ nước ngoài
Một số khái niệm.
- Theo ngân hàng thế giới: Nợ nước ngoài là tổng số tiền mà một quốc gia có
trách nhiệm và bị rằng buộc phải thanh toán cho các chủ nợ có quyền sở hữu chính
thức đối với khoản tiền đó.
- Theo Việt Nam: vay nợ nước ngoài là các khoản vay ngắn, trung hoặc dài
hạn (có hoặc không có lãi) do Nhà nước Việt Nam, Chính phủ Việt Nam hoặc
doanh nghiệp là pháp nhân của Việt Nam ( kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài) vay của tổ chức tài chính quốc tế, của chính phủ, của ngân hàng nước ngoài
hoặc của tổ chức và cá nhân nước ngoài khác.
Một số khái niệm liên quan đến nợ nước ngoài:
- Nợ nước ngoài có bảo lãnh của Chính phủ: Nghĩa vụ nợ nước ngoài của con
nợ được Chính phủ hoặc một tổ chức thay mặt Chính Phủ đảm bảo nghĩa vụ thanh

toán.
- Nợ nước ngoài của khu vực công: Bao gồm nợ nước ngoài của chính phủ, nợ
nước ngoài (nếu có) của chính quyền cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, nợ
nước ngoài của các doanh nghiệp nhà nước và các tổ chức tài chính, tín dụng nhà
25

×