1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Mỗi hình thái kinh tế - xã hội có phương thức sản xuất đặc thù của nó. Và
sự thay thế của các phương thức sản xuất khác nhau chính là cơ sở của sự thay
thế của các hình thái kinh tế - xã hội nối tiếp nhau. Sự thay thế của một hình thái
kinh - tế xã hội này bằng hình thái kinh tế - xã hội khác thường được thực hiện
thông qua một cuộc cách mạng xã hội. Nguyên nhân sâu xa của cuộc cách mạng
đó chính là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Mâu thuẫn
này sớm muộn cũng sẽ giải quyết nhằm xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập
quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Quy luật về sự phù của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất đã chỉ ra rằng, sự kết hợp đúng đắn giữa các yếu tố cấu thành
quan hệ sản xuất, các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, giữa quan hệ sản xuất
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ đem lại những phương thức liên
kết có hiệu quả giữa người lao động và tư liệu sản xuất, thúc đẩy sản xuất phát
triển, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và xã hội ổn định.
Muốn phát triển sản xuất ở nước ta hiện nay, chúng ta không chỉ phát triển
lực lượng sản xuất, phát triển sức sản xuất mà phải xây dựng, hoàn thiện từng
bước quan hệ sản xuất “có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và quan hệ sản xuất tiên tiến phù hợp” [14, tr.70]. Đây là nền tảng lý
luận khoa học được Đảng và Nhà nước ta vận dụng một cách sáng tạo và trí tuệ
vào khai thác mọi tiềm năng nội lực và ngoại lực để xây dựng chủ nghĩa xã hội,
phát triển xã hội một cách toàn diện trên tất cả các mặt kinh tế - xã hội - văn hóa
trở thành động lực thúc đẩy quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong q trình đổi mới, Đảng ta đã khơng ngừng vận dụng và phát triển lý
luận về phương thức sản xuất vào thực tiễn xây dựng đất nước và đã đem lại
2
những thành tựu to lớn về kinh tế, chính trị và xã hội trong công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Hiện nay, đứng trước xu thế của thế giới là tồn cầu hóa, hợp tác
hóa, khu vực hóa đang diễn ra mạnh mẽ, làm bộc lộ mâu thuẫn giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất. Đây là mâu thuẫn nội tại bên trong của quá trình phát
triển, chính vì vậy mà chúng ta khơng ngừng cải cách kinh tế để tìm ra bước đi
phù hợp để đáp ứng nhu cầu của lực lượng sản xuất trong thời đại ngày nay.
Đứng trước những thách thức và cơ hội đó, Đảng ta đã đưa ra những kế
sách quan trọng để nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trong những năm
tiếp theo. Phải tiếp tục đổi mới toàn diện, mạnh mẽ với chất lượng và hiệu quả
cao hơn, đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hóa gắn với phát triển nền kinh tế
tri thức, phát triển nền kinh tế thị trường gắn với công bằng xã hội, xây dựng một
nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, đảm bảo vững chắc an ninh quốc phòng,
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã vạch ra các đột phá chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội ở Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020 đó là:
Thứ nhất, hồn thiện thể chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng
tâm là tạo lập mơi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính.
Thứ hai, phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất
lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc
dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa
học, công nghệ.
Thứ ba, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số cơng trình
hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội với ba đột phá chiến lược đã thể hiện
được Đảng ta đã có tầm nhìn chiến lược trong việc giải quyết các vấn đề cơ bản của
cách mạng Việt Nam đồng thời khẳng định và kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, phấn đấu đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Toàn Đảng,
toàn dân phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi
3
mới tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại.
Từ lý luận và thực tiễn trên, tôi chọn đề tài: “Lý luận về phương thức
sản xuất với các đột phá chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam từ
2010 - 2020” làm luận văn Thạc sĩ Triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu và tính mới của đề tài.
Cho đến nay, đã có nhiều cơng trình bàn về lý luận về phương thức sản
xuất, trong đó có một số cơng trình liên quan trực tiếp đến đề tài như sau:
“Để cho khoa học nhanh chóng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp ở
nước ta” của GS.TS. Nguyễn Trọng Chuẩn (Tạp chí Triết học số 2 - 1994);
“Tồn cầu hóa kinh tế và nền kinh tế tri thức” của PGS.TS. Hồng Chí Bảo
(Tạp chí Triết học, số 6 - 2001); “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ
sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và phát triển kinh tế tri thức”
của TS. Nguyễn Văn Sơn (Tạp chí Triết học, số 9 (196), tháng 9 - 2007); “Xây
dựng và phát triển con người, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực con người
trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay” của PGS.TS. Nguyễn Thế Kiệt
(Tạp chí Triết học, số 6 - 2008); “Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Thừa Thiên Huế (Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Tuấn Ngọc bảo vệ tại trường
Đại học Khoa học Huế, 2008); “Phát triển giáo dục và đào tạo - một động lực
để phát triển kinh tế tri thức ở nước ta hiện nay” của TS. Nguyễn Văn Hịa (Tạp
chí Triết học số 4 - 2009); “Một số rào cản đối với việc phát huy tính sáng tạo
của con người Việt Nam trong yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế” của PGS.TS.
Nguyễn Văn Hịa (Tạp chí Triết học số 2 - 2010); “Mối quan hệ giữa phát triển
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, với xây dựng hoàn thiện từng bước
quan hệ sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” của GS.TS. Nguyễn
Hùng Hậu (Kỷ yếu hội thảo, tháng 8 - 2011); “Quan điểm của Đại hội XI về xây
4
dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của GS.TS. Đỗ Thế Tùng (Kỷ
yếu hội thảo, tháng 8 - 2011); “Quan điểm đại hội XI của Đảng về phát triển
kinh tế thị trường ở nước ta” của PGS.TS. Lưu Đạt Thuyết (Tạp chí Lý luận
Chính trị (8 - 2011); “Vị trí, vai trị của tri thức trong q trình đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa theo tinh thần Đại hội XI của Đảng” của PGS.TS. Nguyễn
Khánh Bật (Tạp chí Cộng sản, số 828 (tháng 10 - 2011); “Về khái niệm lực lượng
sản xuất và trình độ của lực lượng sản xuất” của Thạc sĩ. Nguyễn Đức Luận (Tạp
chí Triết học số11 - 2011); “Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam gắn với
phát triển kinh tế tri thức hiện nay” (Luận văn Thạc sĩ của Đoàn Thị Cẩm Vân,
bảo vệ tại trường Đại học Khoa học Huế năm 2011); “Phát triển kết cấu hạ tầng
giao thông ở Việt Nam” của Nguyễn Hồng Sơn (Tạp chí Cộng sản, số 830 (tháng
12 - 2011); “Về các mối quan hệ lớn cần được giải quyết tốt trong quá trình đổi
mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta” của GS.TS. Nguyễn Phú Trọng (Nxb
Chính trị quốc gia - sự thật, Hà Nội, 2011); “Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng
khoa học - công nghệ đáp ứng u cầu cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước”
của Nguyễn Qn (Tạp chí Cộng sản, số 836, (tháng 6 - 2012); “Hình thành nền
giáo dục nhân văn - công nghệ, thực học, thực nghiệp, phát triển giá trị từ người
học” của GS.TS. Phạm Minh Hạc (Tạp chí Cộng sản, số 838, (tháng 8 - 2012);
“Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao góp phần phát triển bền vững Việt
Nam” của GS.TS. Chu Văn Cấp (Tạp chí Cộng sản, số 839, (tháng 9 - 2012);
“Xác định đúng mục tiêu giáo dục để thực hiện đổi mới căn bản và toàn diện
nền giáo dục Việt Nam” của Nguyễn Minh Thuyết, Hồng Hồ Bình (Tạp chí
Cộng sản, số 839, (tháng 9 - 2012); “Phát triển nguồn nhân lực:Cần sự gắn kết
trong chiến lược quy hoạch và chính sách” của PGS.TS. Nguyễn Cúc (Tạp chí
Cộng sản, số 69, (tháng 9 - 2012); “Đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục,
5
đào tạo theo nghị quyết đại hội XI của Đảng” của PGS.TS. Nguyễn Duy Bắc (Tạp
chí Cộng sản số 840, (tháng 10 - 2012); “Bế mạc Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khoá XI” của Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng (Tạp chí
Lý luận Chính trị, số 1 - 2012).
Những cơng trình nghiên cứu trên đã nghiên cứu những khía cạnh khác
nhau của mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
cũng như vai trò cơ sở lý luận của quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong thực tiễn đổi mới của đất
nước, trong quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn liền với nền kinh tế tri
thức. Trên cơ sở kế thừa và tiếp thu có chọn lọc các tác phẩm, cơng trình khoa
học trên, đề tài “Lý luận về phương thức sản xuất với các đột phá chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam từ 2010 - 2020” sẽ làm sáng tỏ, hoàn chỉnh
hơn những vấn đề cơ bản trong q trình thực hiện.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
Mục đích của luận văn là phân tích làm rõ lý luận về phương thức sản xuất
là cơ sở khoa học để Đảng ta vạch ra và tổ chức thực hiện thắng lợi các đột phá
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam từ 2010 - 2020. Để đạt được
mục đích này, nhiệm vụ của luận văn sẽ là:
- Phân tích và làm sáng tỏ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về phương
thức sản xuất.
- Trên cơ sở mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất là cơ sở lý luận khoa học để thực hiện thắng lợi các đột phá chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam từ 2010 - 2020.
- Làm rõ những định hướng và giải pháp để đẩy mạnh quá trình thực hiện
các đột phá chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam từ 2010 - 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Từ mục đích và nhiệm vụ của đề tài đã quy định đối tượng và phạm vi
nghiên cứu:
6
Vận dụng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất với các đột phá chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội ở Việt Nam từ 2010 - 2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
Luận văn được thực hiện trên cơ sở những nguyên lý, những quan điểm cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà
nước về quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất, về việc tiếp tục hoàn thiện thể chế nền kinh tế thị trường,
về đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với nền kinh tế tri
thức, về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh, về đổi mới hệ thống chính trị,
phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, về nguồn lực con người. Trong đó xác định ba khâu đột phá: Hoàn
thiện thể chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập mơi
trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính. Phát triển nhanh nguồn
nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao gắn kết với phát triển và ứng
dụng khoa học và công nghệ. Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ với
cơng trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị. Đó là
những chiến lược cơ bản tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Phương pháp duy vật với phương pháp duy vật lịch sử cũng như vận dụng
tổng hợp các nguyên tắc, phương pháp luận của triết học Mác - Lênin, kết hợp
các phương pháp lơgíc và lịch sử, phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê…nhằm
làm sáng tỏ lý luận về phương thức sản xuất là cơ sở khoa học trong quá trình
thực hiện các khâu đột phá chiến lược ở Việt Nam từ 2010 - 2020.
6. Ý nghĩa khoa học và đóng góp của đề tài.
Từ lý luận về phương thức sản xuất luận văn sẽ làm rõ những căn cứ khoa
học và thực tiễn trong việc thực hiện ba đột phá chiến lược phát triển kinh tế - xã
7
hội ở Việt Nam từ 2010 - 2020; đưa ra những định hướng và giải pháp nhằm
thực hiện thắng lợi các đột phá chiến lược đó.
7. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm có 2 chương 6 tiết.
8
CHƯƠNG 1
PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT VỚI CÁC ĐỘT PHÁ CHIẾN LƯỢC
PHÁT TRIỂN PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT Ở NƯỚC TA
TỪ 2010 - 2020
1.1. Phương thức sản xuất và quy luật vận động của nó.
1.1.1. Khái niệm phương thức sản xuất.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, sản xuất vật chất là q
trình con người sử dụng cơng cụ lao động tác động vào giới tự nhiên để cải biến
các dạng vật chất của giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất thỏa mãm nhu
cầu tồn tại, phát triển của con người. Sản xuất vật chất là lực lượng chủ yếu và là
động lực cơ bản thúc đẩy lịch sử phát triển, xã hội tiến lên, là cơ sở của sự tồn
tại, phát triển của con người và xã hội lồi người. Xã hội khơng thể thỏa mãn
nhu cầu của mình bằng cái có sẵn trong giới tự nhiên, để duy trì đời sống của
mình con người phải tiến hành sản xuất của cải vật chất. Chính trong quá trình
này con người đã từng bước làm biến đổi tự nhiên, biến đổi xã hội và biến đổi
chính bản thân mình. Sự phát triển của sản xuất vật chất quyết định sự biến đổi,
phát triển các mặt của đời sống xã hội. Vì vậy, khi nghiên cứu các hiện tượng xã
hội người ta thường bắt đầu từ việc nghiên cứu cách thức sản xuất ra của cải vật
chất của xã hội thích ứng với nó trong giai đoạn đó.
Với tính cách là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương thức
sản xuất là cách thức mà con người làm ra của cải vật chất trong một giai đoạn
lịch sử nhất định, theo cách đó con người có những quan hệ nhất định với tự
nhiên và với nhau trong sản xuất.
Lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử phát triển của các phương
thức sản xuất kế tiếp nhau. Sự thay đổi về phương thức sản xuất bao giờ cũng là
sự thay đổi có tính chất cách mạng. Lịch sử đã chứng tỏ rằng, sản xuất của xã
hội không ngừng phát triển từ thấp đến cao, từ trình độ sản xuất này đến trình độ
9
sản xuất khác. Vì vậy, mỗi khi sản xuất phát triển đến một giai đoạn mới làm
cho cách thức sản xuất của con người cũng biến đổi cùng với sự biến đổi to lớn
về trình độ của người lao động và công cụ sản xuất. Phương thức sản xuất vừa là
hạt nhân, vừa là nhân tố quyết định tính chất, kết cấu của xã hội, quyết định sự
vận động, phát triển của xã hội. Do đó mà ta có thể dựa vào phương thức đặc
trưng của mỗi thời đại lịch sử để phân biệt các thời đại kinh tế khác nhau, hiểu
thời đại kinh tế đó thuộc về hình thái kinh tế - xã hội nào. C.Mác viết: “Những
thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ
chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào” [39, tr.269].
Phương thức sản xuất là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở trình độ
nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng, sự vận động, phát triển của phương
thức sản xuất do tác động qua lại một cách biện chứng giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất.
Lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất là toàn bộ các lực lượng được con người sử dụng trong
q trình sản xuất ra của cải vật chất. Nó bao gồm người lao động với một thể
lực, tri thức, kỷ năng lao động nhất định và tư liệu sản xuất trước hết là cơng cụ
lao động. Trong q trình sản xuất, sức lao động của con người kết hợp với tư
liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động tạo thành lực lượng sản xuất. Lực
lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong q
trình sản xuất. Nó thể hiện năng lực hoạt động thực tiễn của con người trong quá
trình sản xuất ra của cải vật chất để bảo đảm cho sự sinh tồn và phát triển của
con người và xã hội loài người.
Theo C.Mác, ngoài bản thân sự lao động thì cịn những yếu tố giản đơn của
lao động, con người khơng thể thực hiện được q trình sản xuất vật chất nếu
khơng có một dây chuyền sản xuất. Đó là sự liên kết, thống nhất hữu cơ giữa
người lao động với một thể lực, tri thức, kỹ năng lao động nhất định và đối
tượng lao động, tư liệu lao động - những yếu tố tạo thành tư liệu sản xuất. Có
10
nghĩa là để tiến hành sản xuất vật chất, con người khơng chỉ cần đến những sức
mạnh vốn có thuộc về thân thể họ, sức mạnh của cái đầu, cái chân, cái tay mà
còn cần những vật để dẫn truyền hoạt động của họ đến đối tượng lao động, cần
“Con người sử dụng những thuộc tính cơ học, lý học, hóa học của các vật, để tùy
theo mục đích của mình, dùng những vật đó với tư cách là những cơng cụ tác
động vào các vật khác” [39, tr.268].
Tóm lại, lực lượng sản xuất bao gồm tư liệu sản xuất và người lao động với
trình độ tri thức, kỹ năng, kinh nghiệm sản xuất và thói quen lao động. Tư liệu sản
xuất được cấu thành từ hai bộ phận đó là đối tượng lao động và tư liệu lao động.
Đối tượng lao động là một bộ phận không thể thiếu trong q trình sản xuất
vật chất, đó là một bộ phận của giới tự nhiên mà lao động của con người tác
động vào bằng công cụ lao động nhằm biến đổi nó theo mục đích của mình. Đối
tượng lao động có hai loại, loại thứ nhất là những cái mà tự nhiên dâng hiến cho
con người, những loại đã có sẵn trong tự nhiên như các khoáng sản, đất, đá, thủy
sản. Đây là đối tượng lao động liên quan đến các nghành cơng nghiệp khai
khống. Loại thứ hai, là đã qua chế biến, nghĩa là đã có sự tác động của lao động
trước đó như sợi, dệt, bơng...Loại này là đối tượng của các nghành công nghiệp
chế biến.
Tư liệu lao động “là một vật, hay là toàn bộ những vật mà con người đặt ở
giữa họ và đối tượng lao động, và được họ dùng làm vật truyền dẫn hoạt động
của họ vào đối tượng ấy” [39, tr.268]. Theo C.Mác, “nhờ những tư liệu lao động,
sự hoạt động của con người làm cho đối tượng lao động phải biến đổi theo một
mục đích đã định trước” [39, tr.271]. Theo nghĩa này thì tư liệu được coi là vật
dẫn truyền hoạt động của người lao động vào đối tượng lao động. Đối tượng lao
động và tư liệu lao động là những yếu tố vật chất của quá trình lao động sản xuất
hợp thành tư liệu sản xuất. Tư liệu lao động gồm bộ phận trực tiếp tác động vào
đối tượng lao động theo mục đích của con người, tức là cơng cụ lao động, như
các máy móc để sản xuất, và bộ phận trực tiếp hay gián tiếp cho quá trình sản
11
xuất như nhà kho, sân bay, đường xa, phương tiện giao thông. Trong tư liệu lao
động, công cụ lao động là một yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất, đóng vai trị
quyết định trong tư liệu sản xuất, nó chính là tiêu chí cơ bản thể hiện trình độ
chinh phục tự nhiên của con người. Khơng có cơng cụ lao động con người không
thể tác động vào tự nhiên để tạo ra của cải vật chất cho xã hội, ngược lại, tư liệu
lao động chỉ trở thành lực lượng tích cực cải biến đối tượng lao động khi chúng
kết hợp với lao động sống.
Công cụ lao động với nhiệm vụ là dẫn truyền sự tác động của con người với
đối tượng lao động để tạo ra của cải vật chất. Do vậy, công cụ lao động là chỉ số
để hiển thị mức độ văn minh của loài người và khả năng chinh phục tự nhiên, là
dấu hiệu vạch rõ những quan hệ xã hội trong đó lao động được tiến hành. Khơng
có cơng cụ lao động con người không thể tác động vào tự nhiên để tạo ra của cải
vật chất cho xã hội, ngược lại, tư liệu lao động chỉ trở thành lực lượng tích cực
cải biến đối tượng lao động khi chúng kết hợp với lao động sống.
Trong tư liệu sản xuất, cịn có một bộ phận là vật chuyễn dẫn, là những
điều kiện sản xuất chung được gọi là kết cấu hạ tầng (như đường sá, cầu cống,
bến bãi, nhà kho, thông tin...). Trong quá trình phát triển, hệ thống kết cấu hạ
tầng ngày trở nên quan trọng và có vai trị quyết định đối với tồn bộ q trình
sản xuất và sức sản xuất của nền sản xuất xã hội.
Kết cấu hạ tầng là đường dẫn của sự phát triển kinh tế - xã hội, là điều kiện
để phân bổ lực lượng sản xuất, thúc đẩy lưu thơng hàng hóa. Một hệ thống kết
cấu hạ tầng phát triển đồng bộ sẽ mở rộng không gian phát triển, kết nối các
vùng kinh tế, làm tăng tính hiệu quả nhờ quy mơ. Trong những năm qua, chúng
ta đã huy động nhiều nguồn lực để xây dựng kết cấu hạ tầng, góp phần quan
trọng vào phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo trên các vùng miền của
đất nước. Đại hội XI đã chỉ rõ: “Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ với
một số cơng trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị
lớn” [29, tr.95].
12
Trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học đóng vai trị ngày
càng to lớn. Khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, nó vừa là
nghành sản xuất riêng, vừa thâm nhập vào các yếu tố cấu thành lực lượng sản
xuất, thẩm thấu vào cả những yếu tố của quan hệ sản xuất, nâng cao trình độ
người lao động, cải tiến cơng cụ lao động, cải tạo đối tượng lao động và phương
tiện sản xuất. Có thể nói: Khoa học và cơng nghệ hiện đại là đặc trưng cho lực
lượng sản xuất hiện đại.
Trong điều kiện hiện nay, khi mà cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
phát triển như vũ bão trong xu thế tồn cầu hóa kinh tế. Tri thức khoa học ngày
càng được vật chất hóa đã trở thành các yếu tố của lực lượng sản xuất, được kết
tinh vào mọi yếu tố của lực lượng sản xuất. Đại hội XI Đảng đã chỉ rõ: “Phát
triển khoa học và công nghệ thực sự là động lực then chốt của quá trình phát
triển nhanh và bền vững” [14, tr. 132].
Trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất, các yếu tố của lực lượng sản
xuất khơng tách rời nhau, chúng có quan hệ tác động hỗ trợ nhau để cùng tồn tại
và phát triển. Cùng với q trình tích lũy kinh nghiệm, với những phát minh và
sáng chế kỹ thuật của con người công cụ lao động không ngừng được cải tiến và
hồn thiện. Cơng cụ lao động là hiện thực hóa tư duy của con người, kinh
nghiệm và kỹ năng của người lao động nó biến đổi theo cùng với sự thay đổi của
cơng cụ sản xuất. Chính sự cải biến và hồn thiện khơng ngừng của cơng cụ lao
động đã làm biến đổi toàn bộ tư liệu lao động. Trong mối quan hệ trên người lao
động ln giữ vị trí trung tâm và có vai trị quyết định. Trong q trình sản xuất
thì con người là chủ thể tích cực, là yếu tố hàng đầu tạo ra và sử dụng các
phương tiện, công cụ sản xuất tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra
những vật phẩm vật chất thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Lênin viết:
“Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao
động” [29, tr.430].
13
Ngày nay, sự phát triển của lực lượng sản xuất cũng như việc nâng cao
năng suất lao động không chỉ dừng lại ở các tham số về số lượng, mà điều quan
trọng là ở các tham số về chất lượng. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
ngày càng được đặc trưng bởi sự tương tác nhạy cảm, có hiệu quả và bền chặt
của con người và tự nhiên. Vì vậy, trong lao động sản xuất địi hỏi con người
phát triển cao về trí tuệ, khỏe mạnh về thể chất, giàu có về tinh thần, trong sáng
về đạo đức. Con người là chủ thể quyết định mọi quá trình vận động và phát
triển lịch sử bởi khơng có con người, khơng có q trình sản xuất và khơng có
lực lượng sản xuất. Nguồn nhân lực mà đất nước ta đang hướng tới đó là tổng
thể các yếu tố trí lực, kỹ năng làm việc, thái độ và phong cách làm việc. Đồng
thời, phát triển lực lượng sản xuất thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước là phát triển nguồn nhân lực - lực lượng sản xuất cơ bản của đất nước, yếu
tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế.
Như vậy, lực lượng sản xuất là nội dung vật chất của tồn bộ q trình sản
xuất, là năng lực sản xuất của một xã hội, thể hiện năng lực của con người trong
việc tác động vào tự nhiên để tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Suy đến cùng thì
sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định đến sự hình thành, phát triển và
thay thế nhau của các hình thái kinh tế - xã hội. Từ cơ sở lý luận khoa học đó
đến thực tiễn xây dựng Việt Nam thành một nước xã hội chủ nghĩa vững mạnh,
phồn vinh và hạnh phúc.
Nghị quyết XI Đảng ta xác định:
Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục quốc
dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng
dụng khoa học, công nghệ và xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng
bộ, với một số cơng trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông
và hạ tầng đô thị lớn [27, tr.95].
14
Đây là hai khâu đột phá chiến lược nhằm phát triển lực lượng sản xuất hiện
đại góp phần xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa của nước ta hiện nay.
Quan hệ sản xuất
Để tiến hành sản xuất vật chất con người phải quan hệ với tự nhiên, mối
quan hệ đó được biểu hiện dưới dạng lực lượng sản xuất, đây được coi là nhân tố
cơ bản, tất yếu tạo thành nội dung vật chất của quá trình sản xuất. Tuy nhiên, con
người chỉ có tiến hành sản xuất có hiệu quả khi con người thực hiện tốt mối quan
hệ song phương giữa con người với tự nhiên và giữa con người với nhau. Chỉ có
con người hợp sức lại với nhau, liên kết với nhau tạo nên một sức mạnh để chinh
phục được giới tự nhiên vô cùng phong phú và phức tạp.
Trong sự sản xuất ra đời sống của chính mình, con người dù muốn hay
khơng cũng phải duy trì, thực hiện những quan hệ nhất định với nhau. Quan hệ
giữa những con người với nhau trong quá trình sản xuất và những quan hệ này
mang tính tất yếu và khơng phụ thuộc vào ý muốn của người khác được gọi là
quan hệ sản xuất.
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người được hình thành một
cách tất yếu, khách quan trong sản xuất vật chất. Đây được coi là quan hệ cơ bản
nhất để quyết định tất cả các quan hệ xã hội khác. Thơng qua quan hệ sản xuất
chúng ta có thể phân biệt được các chế độ xã hội trong các nấc thang phát triển
của lịch sử loài người, bởi mỗi kiểu quan hệ sản xuất chính là biểu hiện bản chất
kinh tế cho một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Thực tế lịch sử đã chứng
minh, không có một cá nhân nào có thể tự đáp ứng đầy đủ nhu cầu của bản thân
cũng như không thể lao động một cách độc lập tuyệt đối để sản xuất vật chất mà
phải liên kết lại với nhau, phân công lao động và trao đổi sản phẩm cho nhau. Từ
đó hình thành các quan hệ xã hội, điều chỉnh và chi phối hoạt động, hành vi của
con người, chỉ trong tồn bộ các mối quan hệ đó, con người mới bộc lộ tồn bộ
bản chất của mình.
15
C.Mác cho rằng:
Người ta chỉ sản xuất được bằng cách hợp tác với nhau một cách nào
đó và trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được người ta phải
có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau, và chỉ có trong
phạm vi những mối liên hệ và quan hệ xã hội đó thì mới có được sự
tác động của họ vào giới tự nhiên tức là việc sản xuất [33, tr.552].
Quan hệ sản xuất được biểu hiện trên ba mặt đó là: quan hệ sở hữu đối với
tư liệu sản xuất, đây là đặc trưng cơ bản của phương thức sản xuất quy định vị trí
của từng tập đồn người, từng giai cấp trong hệ thống sản xuất; quan hệ trong tổ
chức quản lý sản xuất, quy định đến quy mô, tốc độ, hiệu quả và xu hướng của
mỗi nền sản xuất; quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động là chất xúc tác,
kích thích thúc đẩy hoặc kìm hãm tốc độ của sản xuất. Ba yếu tố trên của quan
hệ sản xuất hoạt động trong mối liên hệ và tác động lẫn nhau rất mật thiết, tạo
thành một cơ cấu, một hệ thống quan hệ sản xuất - quan hệ kinh tế xã hội.
Trong quan hệ sản xuất thì quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất là quan
hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, đặc trưng cho quan hệ sản xuất trong từng xã hội.
Nó quyết định mục đích của sản xuất và toàn bộ cơ chế điều tiết của nền sản xuất
xã hội. Trong mối quan hệ giữa quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất với lợi
ích kinh tế thì quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất là cái bên trong, được biểu
hiện ra bên ngồi thơng qua lợi ích. Lợi ích kinh tế là biểu hiện gần gũi nhất của
quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất. Bởi vì, lợi ích kinh tế của mỗi người,
mỗi tập đoàn người, mỗi giai cấp cũng như vai trò của họ trong một hệ thống sản
xuất vật chất được quy định trước hết do mối quan hệ của họ đối với việc chiếm
hữu tư liệu sản xuất. Trong xã hội, giai cấp nào nắm quyền sở hữu tư liệu sản
xuất chủ yếu, thì giai cấp đó nắm quyền chi phối xã hội đồng thời nắm quyền xã
hội và ngược lại giai cấp nào không nắm được tư liệu sản xuất chủ yếu của xã
hội thì buộc phải bán sức lao động làm thuê. Vì thế, vấn đề sở hữu về tư liệu sản
xuất được Đảng ta quan tâm và là vấn đề cơ bản trong đường lối, chính sách
nhằm hồn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
16
Trong lịch sử lồi người đã có hai hình thức sở hữu đối với tư liệu sản xuất
đó là sở hữu công cộng và sở hữu tư nhân.
Sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất là loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu
sản xuất thuộc về mọi thành viên của mỗi cộng đồng. Mọi người bình đẳng với
nhau trong tổ chức lao động và trong phân phối sản phẩm. Do tư liệu sản xuất là tài
sản chung của cả cộng đồng nên các quan hệ xã hội trong sản xuất vật chất và trong
đời sống xã hội nói chung, trở thành quan hệ hợp tác, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau.
Sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu
chỉ nằm trong tay một số ít người nên của cải không thuộc về số đông mà thuộc
về số ít người đó. Các quan hệ xã hội, do vậy trở thành bất bình đẳng, giữa quan
hệ thống trị và bị trị. Đối kháng xã hội trong các xã hội tồn tại chế độ tư hữu
tiềm ẩn khả năng trở thành đối kháng gay gắt. Đỉnh cao của loại hình sở hữu này
là sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Người sở hữu về tư liệu sản xuất thì khơng
lao động, cịn người lao động thì khơng được quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và
xã hội vận động trong hai cực đối lập ấy.
V.Lênin đã khẳng định:
Để thực sự giải phóng giai cấp cơng nhân, cần phải có cuộc cách mạng
xã hội, xuất phát một cách tự nhiên từ toàn bộ sự phát triển của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tức là phải thủ tiêu chế độ tư
hữu về tư liệu sản xuất, chuyển các tư liệu đó thành sở hữu cơng cộng
và thay thế nền sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa bằng việc tổ chức
sản xuất sản phẩm theo lối xã hội chủ nghĩa do toàn thể xã hội tiến
hành để đảm bảo phúc lợi đầy đủ và sự phát triển tự do và toàn diện
của tất cả mọi thành viên trong xã hội [30, tr.518].
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và qua thực tiễn đổi mới đất
nước. Đại hội XI của Đảng đã thông qua Cương lĩnh mới (bổ sung, phát triển
năm 2011); trong đó xác định xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng
có đặc trưng nổi bật về kinh tế là: “Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực
17
lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp” [14, tr.70]. Đây
chính là định hướng cơ bản của Đảng về lựa chọn chế độ sở hữu phù hợp với
tình hình đất nước trong giai đoạn hiện nay. Đảng đã đưa ra quan điểm: Phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân
phối. Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức
kinh tế đa dạng ngày càng phát triển.
Trong hệ thống các quan hệ sản xuất, các quan hệ về mặt tổ chức, quản lý
sản xuất là các quan hệ có khả năng quyết định một cách trực tiếp quy mô, tốc
độ, hiệu quả và xu hướng của mỗi nền sản xuất cụ thể. Bằng cách nắm bắt các
nhân tố xác định của một nền sản xuất, điều khiển và tổ chức cách thức vận động
của các nhân tố đó, các quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất có khả năng đẩy
nhanh hoặc kìm hãm các quá trình khách quan của sản xuất.
Các quan hệ về mặt tổ chức và quản lý sản xuất ln ln có xu hướng
thích ứng với kiểu quan hệ sở hữu thống trị của mỗi nền sản xuất cụ thể. Do vậy,
việc sử dụng hợp lý các quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất sẽ cho phép tồn bộ
hệ thống quan hệ sản xuất có khả năng vươn tới tối ưu. Trong trường hợp ngược
lại, các quan hệ quản lý và tổ chức có thể làm biến dạng quan hệ sở hữu, ảnh
hưởng tiêu cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội.
Trong chủ nghĩa xã hội, mọi cơng dân đều bình đẳng đối với tư liệu sản
xuất, Nhà nước xã hội chủ nghĩa - Nhà nước của dân, do dân và vì dân, phát huy
tính tích cực và sức sáng tạo của nhân dân, làm cho mọi công dân thực sự tham
gia vào quá trình quản lý kinh tế, người lao động được đặt vào trong các mối
quan hệ về sở hữu và quản lý một cách trực tiếp, đồng thời có cơ chế đảm bảo
hiệu quả quyền lực đó của nhân dân.
Bên cạnh các quan hệ về mặt tổ chức - quản lý, trong hệ thống các quan hệ
sản xuất, các quan hệ về mặt phân phối sản phẩm lao động cũng là những nhân
tố có ý nghĩa hết sức to lớn đối với sự vận động của toàn bộ nền kinh tế - xã hội.
18
Mặc dù bị phụ thuộc vào các quan hệ sở hữu và vào trình độ tổ chức quản lý
sản xuất, song do có khả năng kích thích trực tiếp vào lợi ích của con người, nên
các quan hệ phân phối sản phẩm là “chất xúc tác” của các quá trình kinh tế - xã hội.
Quan hệ phân phối có thể thúc đẩy tốc độ và nhịp điệu của sự sản xuất và có khả
năng kìm hãm sản xuất, kìm hãm sự phát triển của xã hội. Cho nên, cần phải có
cơ chế phân phối một cách hợp lý trong điều kiện phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần của nước ta hiện nay.
Hiện nay, để phù hợp với quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
việc giải quyết tốt quan hệ phân phối, thực hiện đa dạng các loại hình phân phối sẽ
giúp chúng ta hồn thiện được quan hệ sản xuất có tính chất và trình độ phù hợp
với sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại. Chúng ta sẽ chuyển từ cơ chế
bao cấp sang cơ chế phân phối sản phẩm theo lao động và kết hợp các cách thức
phân phối cũng như thực hiện phân phối ngang bằng thông qua mua - bán, trao
đổi sản phẩm theo cơ chế cung - cầu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chũ
nghĩa “Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh
tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông
qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội” [14, tr.74]. Cơ chế phân phối này sẽ
tạo động lực cho các doanh nghiệp và các chủ thể nâng cao hoạt động sản xuất
kinh doanh thúc đẩy cho nền kinh tế phát triển theo hướng bền vững.
Tóm lại, quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình
sản xuất vật chất, quan hệ sản xuất nó bao gồm ba mặt cơ bản: Quan hệ sở hữu
về tư liệu sản xuất; quan hệ tổ chức, quản lý; quan hệ phân phối sản phẩm.
Trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất có vai trị quyết định với các quan
hệ khác, quan hệ tổ chức, quản lý, quan hệ phân phối sản phẩm cũng có sự tác
động trở lại, chúng có thể củng cố, phát triển quan hệ sở hữu, cũng có thể làm
xói mịn, biến dạng quan hệ sở hữu. Do đó, khơng được tuyệt đối hóa một quan
hệ nào mà phải thấy được mối quan hệ biện chứng và tính đồng bộ trong quan hệ
sản xuất.
19
Hiện nay, nước ta đang tiến hành đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước dưới sự tác động của tồn cầu hóa và hợp tác hóa. Điều
này làm lực lượng sản xuất ở nước ta phát triển nhanh chóng tương ứng với bốn
thành phần kinh tế (kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể, kinh tế có
vốn đầu tư của nước ngồi), gắn với các trình độ phát triển khác nhau của sản
xuất tất yếu khơng thể tồn tại một hình thức sở hữu mà phải đa hình thức sở hữu
(sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân). Các hình thức sở hữu của
nước ta phát triển ngày càng đa dạng địi hỏi phải có nhiều hình thức tổ chức,
quản lý và phân phối khác nhau tùy thuộc vào năng lực, sức lực, trí tuệ của mỗi
người. Do đó, cần phải điều chỉnh quan hệ tổ chức, quản lý và phân phối sao cho
phù hợp với quan hệ sở hữu. Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng
vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, góp phần
ổn định kinh tế vĩ mô. Phát triển mạnh mẽ kinh tế tư nhân trở thành một trong
những động lực của nền kinh tế. Coi trọng việc khuyến khích kinh tế có vốn đầu
tư nước ngồi phát triển theo quy hoạch. Cùng với việc tăng cường vai trò quản
lý của Nhà nước đối với nền kinh tế, phải luôn tôn trọng và phát huy đầy đủ vai
trò của các chủ thể kinh doanh. Chú trọng bảo đảm sự công bằng trong quan hệ
phân phối, nhằm tạo động lực cho sự phát triển của các thành phần kinh tế.
Tóm lại, lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, hai mặt có quan hệ biện
chứng hợp thành phương thức sản xuất. Phương thức sản xuất là sự thống nhất
giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng.
Trong đó lực lượng sản xuất quyết định khả năng sản sinh khối lượng và chất
lượng của cải ảnh hưởng đến đời sống chung của nhân loại, còn quan hệ sản xuất
lại quyết định đến mức sống của từng giai cấp, tầng lớp trong xã hội.
1.1.2. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực
lượng sản xuất.
1.1.2.1. Khái niệm trình độ của lực lượng sản xuất.
Thực tế lịch sử cho thấy, tất cả các hình thái kinh tế - xã hội khơng tự mất
đi, khơng ai có thể làm cho nó mất đi khi lực lượng sản xuất chưa phát triển đến
20
một mức độ nhất định. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến
cao là do việc giải quyết những nhiệm vụ, yêu cầu và những xung đột nảy sinh
trong mỗi giai đoạn phát triển lịch sử - xã hội cụ thể nhất định. Muốn có một
quan hệ sản xuất tiên tiến, thì phải ra sức phát triển lực lượng sản xuất bằng mọi
cách, thiết lập quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất,
tạo mọi điều kiện để giải phóng tối đa sức sản xuất của xã hội. Mặt khác, cũng
không thể thiết lập được quan hệ sản xuất mới cao hơn trong điều kiện lực lượng
sản xuất chưa phát triển. Ph.Ănghen viết: “Giai cấp tư sản khơng thể biến những
tư liệu sản xuất có hạn ấy thành những lực lượng sản xuất hùng mạnh mà không
biến chúng từ chỗ là những tư liệu sản xuất do cá nhân sử dụng thành những tư
liệu sản xuất xã hội chỉ có thể được sử dụng bởi một số đông người” [35, tr.373].
Sự phát triển của lực lượng sản xuất được đánh dấu bằng trình độ của lực
lượng sản xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất được thể hiện ở trình độ tinh
xảo và hiện đại của cơng cụ sản xuất; trình độ chun mơn; nghiệp vụ và kỹ
năng, kỹ xảo của người lao động; trình độ phân công lao động xã hội, tổ chức
quản lý sản xuất và quy mơ của nền sản xuất. Trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất càng cao thì chun mơn hóa và phân cơng lao động càng sâu. C.Mác
nói: “Trình độ phát triển lực lượng sản xuất của một dân tộc biểu hiện lộ ra rõ
nhất ở trình độ phát triển của phân công lao động” [40, tr.30]. Phân công lao
động xã hội nó gắn liền chặt chẽ với cơng cụ sản xuất, khi nền sản xuất mới xuất
hiện thì phân công lao động xã hội cũng phải đạt đến trình độ của nền sản xuất
ấy. Như vậy, lực lượng sản xuất ở mỗi giai đoạn lịch sử có tính chất và trình độ
khác nhau, nhưng khơng thể tách rời với trình độ khoa học, cơng nghệ ngày càng
hiện đại.
Gắn liền với trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của lực lượng sản
xuất. Khái niệm tính chất của lực lượng sản xuất là tính chất của tư liệu sản xuất
và sức lao động. Khi công cụ sản xuất như: búa, rìu, cày, cuốc.. được sử dụng
bởi từng cá nhân riêng biệt để sản xuất ra một sản phẩm cho xã hội, không cần
đến lao động của nhiều người thì lực lượng sản xuất có tính chất cá thể. Như