Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

giải pháp tăng cường thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của tỉnh hải dương đến năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (382.77 KB, 74 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
DANH MỤC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ
Bảng 2.1 Kết quả thực hiện các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp giai đoạn 2006-2010 của tỉnh
Hải Dương 26 -
Bảng 2.2: Vốn FDI tại tỉnh Hải Dương được cấp giấy phép từ 2001 đến 2009. (chỉ tính
các dự án có hiệu lực) 28 -
Bảng 2.3 Cơ cấu FDI theo hình thức đầu tư tại Hải Dương 31 -
Bảng 2.4 Tình hình thực hiện vốn FDI của Hải Dương giai đoạn 2001-2009 32 -
Bảng 2.5 Các khu công nghiệp được quy hoạch tại Hải Dương 34 -
Bảng 2.6 Đóng góp của DN đầu tư nước ngoài vào kim ngạch xuất khẩu của tỉnh giai
đoạn 2001-2009 42 -
Bảng 2.7 Vốn đầu tư ở Hải Dương giai đoạn 2001-2008 44 -
Bảng 2.8 Chỉ số phát triển tổng sản phẩm trong tỉnh giai đoạn 2001-2008 45 -
Hình 1.1 Đóng góp của khu vực FDI trong GDP và cơ cấu kinh tế theo khu vực ngành
của Việt Nam 10 -
Hình 2.1 Các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài điển hình vào Hải Dương (tính đến hết
12/2009) 29 -
Hình 2.2 Cơ cấu kinh tế Hải Dương năm 2000 40 -
Hình 2.3 Cơ cấu kinh tế Hải Dương năm 2005 40 -
Hình 2.4 Cơ cấu kinh tế Hải Dương năm 2009 41 -
Nguyễn Thị Xuân – Kinh tế phát triển 48B
1
Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Xu hướng quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới là kết quả của quá trình phân công lao
động xã hội mạnh mẽ và rộng khắp trên phạm vi toàn thế giới đã lôi kéo tất cả những
nước và vùng lãnh thổ từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới. Trong xu thế đó,
chính sách đóng cửa biệt lập với thế giới là không thể tồn tại được. Nó chỉ làm kìm hãm
quá trình phát triển của xã hội, của quốc gia đó. Một quốc gia khó có thể tách biệt khỏi
thế giới vì những thành tựu của khoa học và kinh tế đã kéo con người xích lại gần nhau
hơn và dưới tác động quốc tế buộc các nước phải mở cửa, giao lưu với các nước trên thế


giới.
Mặt khác trong xu hướng mở cửa, các nước đặc biệt là các nước đang phát triển (trong
đó có Việt Nam) đều muốn thu hút được nhiều nguồn lực từ bên ngoài để phát triển kinh
tế nhất là nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI (Foreign Direct Investment): vì thế
các nước đều muốn tạo ra những điều kiện hết sức ưu đãi để thu hút được nhiều nguồn
vốn về nước mình. Hơn nữa, nước ta lại là nước có xuất phát điểm thấp, kỹ thuật lạc hậu,
năng suất lao động thấp, tích lũy nội bộ thấp… Trước tình hình đó, Việt Nam đã tạo
nhiều giải pháp nhằm thu hút nhiều nguồn vốn khác nhau đặc biệt là nguồn FDI. Tháng
12 năm 1987, đã ban hành luật đầu tư nước ngoài và từ đó đến nay đã thu hút được trên
80 vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, trong đó có các tập đoàn lớn như: Sony, Honda,
Ford…Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển của nền
kinh tế nước ta như: giải quyết vấn đề về vốn, công nghệ, nâng cao trình độ quản lý…
Kinh tế Hải Dương càng ngày có những bước tiến triển trên con đường hội nhập nền
kinh tế thế giới trong đó không thể không nhắc tới vai trò của thành phần kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của thành phần kinh tế này thường cao hơn
so với thành phần kinh tế khác và nó góp phần nâng cao tốc độ tăng trưởng của cả nền
kinh tế tỉnh. Nó đã góp phần vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hóa- hiện đại hóa đất nước, tạo công ăn việc làm cho người lao động, có tác động lan tỏa
Nguyễn Thị Xuân – Kinh tế phát triển 48B
2
Chuyên đề tốt nghiệp
tích cực tới các ngành kinh tế khác…
Nhận thấy nguồn vốn đầu tư nước ngoài có tầm quan trọng cũng như sự đóng góp to
lớn của nó vào sự phát triển kinh tế xã hội của nước ta nói chung và của tỉnh Hải Dương
nói riêng trong các năm qua, do vậy em chọn đề tài: “ Giải pháp tăng cường thu hút
nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của tỉnh Hải Dương đến năm 2015 ”. Bài viết
mang cái nhìn tổng quan về thực trạng thu hút nguồn vốn FDI của tỉnh Hải Dương nhằm
đưa ra những thành tựu đã đạt được và các vấn đề còn tồn tại trong việc sử dụng nguồn
vốn này. Dựa vào cơ sở đó nhằm đưa ra các giải pháp để ngày càng thu hút được nguồn
vốn FDI đầu tư vào tỉnh và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn này, đồng thời tận

dụng tối đa tác động tích cực của nó vào phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
Bài viết gồm có 3 phần chính:
Chương I: Cơ sở lý luận về FDI
Chương II: Đánh giá về thu hút FDI tại Hải Dương trong giai đoạn 2000-2009
Chương III: Giải pháp tăng cường thu hút FDI tại Hải Dương đến năm 2015
Được sự giúp đỡ nhiệt tình của PGS.TS Nguyễn Ngọc Sơn và các anh chị tại phòng
Kinh tế đối ngoại, Sở Kế hoạch và Đầu tư Hải Dương em đã hoàn thành chuyên đề thực
tập tốt nghiệp. Do khối lượng kiến thức có hạn nên bài viết còn nhiều khiếm khuyết, em
mong được sự quan tâm và góp ý của thầy cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN
Nguyễn Thị Xuân – Kinh tế phát triển 48B
3
Chuyên đề tốt nghiệp
I. Cơ sở lý luận
1. Khái niệm và đặc điểm của FDI
1.1 Khái niệm
Trong lịch sử thế giới đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã tồn tại từ rất lâu, ngay từ
thời tiền tư bản. Chủ yếu là đầu tư vốn sang các nước đang phát triển để khai thác đồn
điền nhằm cung cấp nguyên liệu cho những nước ở chính quốc. Từ sau chiến tranh thế
giới hai FDI đã có sự thay đổi hướng đầu tư của các nước phát triển và hoạt động này
diễn ra thường xuyên hơn giữa các quốc gia. Ngày nay, FDI trở thành một trong tất yếu
kinh tế trong điều kiện quốc tế hóa sản xuất và lưu thông. Không có một quốc gia nào, dù
lớn hay nhỏ, dù phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa lại
không cần đến nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và tất cả đều có đó là nguồn lực
quốc tế quan trọng cần khai thác để hòa nhập vào cộng đồng quốc tế. Ngay cả các quốc
gia có tiềm lực kinh tế mạnh như Mỹ, Nhật, dưới tác động của khoa học công nghệ hiện
nay cũng không thể tự mình giải quyết được các vấn đề kinh tế, xã hội đã, đang và sẽ tiếp
tục đặt ra. Chỉ có con đường hợp tác trong đó có FDI là loại hình đầu tư, hợp tác có hiệu

quả.
Có nhiều quan điểm khác nhau về nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Dưới đây là
một số quan điểm về FDI :
Theo Diminik Salavatore trong cuốn Internationnal Economic 1995 : đầu tư trực tiếp
nước ngoài là đầu tư thực vào các nhà máy, các hàng hóa, đầu tư đất đai, hàng tồn kho
mà ở đó quyền quản lý và tư bản cùng tồn tại và nhà đầu tư giữ quyền quản lý sử dụng
vốn đầu tư đó.
Theo quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) : đầu tư trực tiếp nước ngoài là số vốn đầu tư được
thực hiện để thu lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động ở nền kinh tế khác với
nền kinh tế của nhà đầu tư. Mục đích của nhà đầu tư là giành được tiếng nói có hiệu quả
trong quản lý DN đó.
Nguyễn Thị Xuân – Kinh tế phát triển 48B
4
Chuyên đề tốt nghiệp
Theo tổ chức thương mại thế giới (WTO) : đầu tư trực tiếp nước ngoài xảy ra khi một
nhà đầu tư từ một nước (chủ đầu tư) có được một tài sản ở nước khác (nước nhận đầu tư)
cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các
công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó
quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư
thường hay đựoc gọi là "công ty mẹ" và các tài sản được gọi là "công ty con'' hay chi
nhánh công ty.
Tóm lại, FDI là một trong các hình thức đầu tư quốc tế mà các nhà đầu tư (tư nhân, có
thể có chính phủ tham gia đầu tư) ở nước ngoài bỏ vốn (tiền, công nghệ, chuyên gia )
của họ vào lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ, để trực tiếp hoặc cùng vời nước sở tại (nước
nhận đầu tư) điều hành đối tượng bỏ vốn đầu tư, hưởng lợi nhuận và cùng chia sẻ rủi ro.
1.2 Đặc điểm của FDI
FDI là một bộ phận của đầu tư nước ngoài, phạm vi hoạt động ra khỏi lãnh thổ của
quốc gia đó. Do đó, trong quá trình hoạt động các nhà đầu tư phải tuân thủ các quy định
pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư và FDI mang các đặc điểm sau :
Thứ nhất, nhà đầu tư cần phải tuân theo các quy định, tôn trọng văn hóa, phong tục tập

quán và pháp luật của chính nước sở tại. Tuy nhiên khác với nguồn vốn viện trợ phát
triển chính thức (ODA) là FDI không chịu bất kỳ sự ràng buộc nào về chính trị giữa hai
quốc gia (giữa quốc gia đi đầu tư và quốc gia tiếp nhận đầu tư) với nhau. Thực chất nó
chỉ đơn thuần là hoạt động bỏ vốn đầu tư và thu lợi nhuận của nhà đầu tư, chỉ chịu sự
ràng buộc về mặt kinh tế, không chịu ràng buộc về chính trị.
Thứ hai, FDI là hình thức đầu tư bằng vốn của Chính phủ, doanh nghiệp hoặc tư nhân
nước ngoài. Nhà đầu tư sẽ trực tiếp quản lý, tham gia vào quá trình hoạt động sản xuất tại
nước tiếp nhận đầu tư. Ngoài ra thì nhà đầu tư hoàn toàn chịu trách nhiệm về hiệu quả
sản xuất kinh doanh của mình. Lợi nhuận của nhà đầu tư thu được sẽ phụ thuộc vào khả
năng sản xuất kinh doanh của lĩnh vực được đầu tư. Thông thường, lợi nhuận này sẽ
không ổn định.
Nguyễn Thị Xuân – Kinh tế phát triển 48B
5
Chuyên đề tốt nghiệp
Thứ ba, quyền quản lý, lợi nhuận được hưởng và trách nhiệm của nhà đầu tư được
tuân theo tỷ lệ góp vốn. Nghĩa là, nhà đầu tư nào có tỷ lệ vốn góp cao thì nhà đầu tư đó sẽ
nắm quyền quản lý. Do vậy thông qua tỷ lệ này, nhiều lĩnh vực kinh doanh không muốn
nhà đầu tư nắm quyền hạn chính thì phải quy định tỷ lệ đóng góp tối đa cho nhà đầu tư
đó. Khi đó, nắm quyền chính trong quản lý là các nhà đầu tư trong nước chứ không phải
là nhà đầu tư nước ngoài, đó là để thực hiện mục tiêu chính trị khác.
Thứ tư, mục tiêu chính luôn được các nhà đầu tư quan tâm đó là lợi nhuận. Do vậy,
nguồn vốn FDI sẽ tập trung nhiều ở các ngành, lĩnh vực mang lại tỷ suất lợi nhuận cao.
Các nhà đầu tư thường đầu tư vào các lĩnh vực mới tại nước sở tại (nhưng là lĩnh vực cũ
của nước đầu tư ) để tìm kiếm thị trường mới hoặc dựa trên những lợi thế về chi phí rẻ
của nước tiếp nhận đầu tư như : chi phí nhân công, chi phí tài nguyên…để thu được lợi
nhuận cao nhất có thể.
Thứ năm, tồn tại hai chiều trong hoạt động đầu tư nước ngoài, nghĩa là một nước, quốc
gia có thể tiếp nhận đầu tư từ nước khác nhưng đồng thời cũng có thể đầu tư sang nước
khác. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nó khác với nguồn vốn viện trợ, nguồn vốn
viện trợ thường từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển, nhưng FDI thì có

thể từ nước đang phát triển sang các nước phát triển và ngược lại. Tại sao lại có như
vậy ? Bởi các nước có kinh tế phát triển cũng chưa thể giải quyết được hết các vấn đề
kinh tế-xã hội. Còn có nhiều lĩnh vực mà các nhà đầu tư không muốn tham gia do tỷ suất
lợi nhuận thấp (so với nước đó nhưng tỷ suất này vẫn cao hơn sơ với các nước đang phát
triển). Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho dòng vốn FDI chảy vào các nước phát
triển.
2. Các hình thức của FDI
Đầu tư FDI tồn tại dưới nhiều hình thức, song có những hình thức chủ yếu sau đây :
Một là hợp đồng hợp tác kinh doanh : là văn bản ký kết giữa hai hoặc nhiều bên (gọi
là bên hợp doanh) quy định rõ trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên
Nguyễn Thị Xuân – Kinh tế phát triển 48B
6
Chuyên đề tốt nghiệp
để tiến hành đầu tư sản xuất kinh doanh ở nước tiếp nhận đầu tư mà không thành lập một
pháp nhân. Hình thức đầu tư này xuất hiện sớm ở Việt Nam và là hình thức đầu tư nước
ngoài dễ thực hiện và có ưu thế lớn trong việc phối hợp sản phẩm. Các sản phẩm có kỹ
thuật cao đòi hỏi phải có sự kết hợp thế mạnh của nhiều công ty của nhiều quốc gia khác
nhau. Đây cũng thể hiện xu hướng hợp tác sản xuất kinh doanh của sự phân công lao
động chuyên môn hoá sản xuất trên phạm vi quốc tế.
Hai là doanh nghiệp liên doanh : là loại hình DN do hai bên hoặc các bên nước ngoài
hợp tác với nước tiếp nhận đầu tư cùng góp vốn, cùng kinh doanh, cùng hưởng lợi và
cùng chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ vốn góp. DN liên doanh được thành lập theo hình thức công
ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư.
Thông qua hợp tác liên doanh với các đối tác Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài tranh
thủ được sự hỗ trợ và những kinh nghiệm của các đối tác Việt Nam trên thị trường mà họ
chưa quen biết trong quá trình kinh doanh của họ tại Việt Nam. Mặt khác, do môi trường
đầu tư của Việt Nam còn có nhiều bất chắc nên các nhà đầu tư không muốn gánh chịu rủi
ro mà muốn các đối tác Việt Nam cùng chia sẻ với họ nếu có. Liên doanh với đối tác bản
địa, các nhà đầu tư yên tâm hơn trong kinh doanh hơn vì họ đã có một người bạn đồng
hành, nếu có khó khăn lien quan tới pháp luật trong quá trình sản xuất kinh doanh, họ

cũng giải quyết dễ dàng hơn.
Ba là doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài : là DN thuộc sở hữu của nhà đầu tư
nước ngoài (tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài) do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại
nước sở tại,trên cơ chế hoạt động tự quản lý, tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất
kinh doanh. Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo hình thức
của công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân. Hình thức này ở giai đoạn đầu
chưa có nhiều, nhưng xu hướng hiện nay thì các dự án đầu tư theo hình thức này ngày
càng mạnh mẽ.Và đang có hiện tượng chuyển đổi từ hợp đồng hợp tác kinh doanh sang
doanh nghiệp 100% có vốn đầu tư nước ngoài.
Ngoài những hình thức đầu tư nêu trên, còn một vài hình thức đầu tư 100% vốn nước
ngoài khác như BOT (xây dựng- kinh doanh- chuyển giao), BTO (xây dựng – chuyển
Nguyễn Thị Xuân – Kinh tế phát triển 48B
7
Chuyên đề tốt nghiệp
giao – kinh doanh), BT (xây dựng – chuyển giao)
3. Các nhân tố ảnh hưởng tới việc thu hút nguồn vốn FDI
Trong quá trình sử dụng FDI có nhiều nhân tố khác nhau tác động lên nó. Có nhiều
nhân tố giúp tăng hiệu quả sử dụng nhưng cũng có những nhân tố làm kìm hãm hiệu quả
hoạt động của nguồn vốn này. Bao gồm :
3.1 Vị trí địa lý và các điều kiện tự nhiên của nước tiếp nhận đầu tư.
Vị trí địa lý bao gồm: các yếu tố về tự nhiên, địa hình, khí hậu, nguồn tài nguyên khoáng
sản, đất đai. Vị trí địa lý có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả hoạt động và lĩnh vực đầu tư. Nó
quyết định đến cơ cấu nguồn vốn đối với từng thành phần kinh tế và số lượng ngành nghề
sản xuất, quyết định tới cơ cấu ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh của các nhà đầu tư . Vị
trí địa lý thuận lợi sẽ giúp cho việc giao lưu, trao đổi hàng hoá giữa trong và ngoài nước
diễn ra một cách tích cực hơn, giảm bớt được chi phí sản xuất cho nhà sản xuất và do đó
làm tăng khoản lợi nhuận thu được của nhà đầu tư. Đi kèm cùng với yếu tố vị trí địa lý,
nhà đầu tư nước ngoài cũng luôn quan tâm tới điều kiện tự nhiên của nước tiếp nhận đầu
tư. Bởi vì điều kiện tự nhiên là tác động khách quan vào quá trình sản xuất, chúng ta chỉ
có thể hạn chế tác động đó chứ không thể làm thay đổi tác động đó. Do đó cần hiểu rõ

điều kiện tự nhiên để nắm bắt được tác động tích cực để tận dụng và tác động tiêu cực để
phòng tránh, giảm thiểu tới mức tối đa độ rủi ro do điều kiện tự nhiên mang lại (nhất là
các ngành phụ thuộc lớn vào điều kiện tự nhiên như : ngành trồng trọt, nuôi trồng thuỷ
sản ).
3.2 Môi trường kinh tế vĩ mô
Môi trường kinh tế vĩ mô bao gồm các yếu tố: lạm phát, thất nghiệp, khủng hoảng…
có thể nói rằng một môi trường ổn định và lành mạnh là một trong những nhân tố quan
trọng nhất để các nhà đầu tư phân tích, đánh giá thị trường và ra các quyết định đầu tư.
Đây là điều kiện chi phối mạnh mẽ ý định và hành vi của nhà đầu tư nước ngoài. Một
nước có môi trường vĩ mô ổn định có tác động tích cực và lan tỏa trong phát triển kinh tế
xã hội. Thông thường nguồn vốn đầu tư thường ổn định và có xu hướng gia tăng, hiệu
Nguyễn Thị Xuân – Kinh tế phát triển 48B
8
Chuyên đề tốt nghiệp
quả sản xuất cao hơn mang lại lợi ích nhiều hơn không chỉ đối với nhà đầu tư mà còn đối
với nền kinh tế nước sở tại. Tuy nhiên, nếu môi trường vĩ mô không ổn định, thường
xuyên phải đối mặt với tình trạng lạm phát, khủng hoảng và thất nghiệp, sẽ tạo ra tâm lý
không tốt cho các nhà đầu tư về quyết định đầu tư và kinh doanh của mình. Nhà đầu tư
sẽ e ngại, thậm chí sẽ không dám đầu tư vào nước có môi trường kinh tế vĩ mô không tốt.
Do đó, làm cho lượng vốn FDI giảm dần và hiệu quả hoạt động kinh doanh giảm sút.
3.3 Nguồn lực phục vụ cho các dự án dược đầu tư
Nguồn lực phục vụ cho việc triển khai các dự án đầu tư bao gồm: lực lượng lao động,
tài chính, tài nguyên thiên nhiên…tác động trực tiếp đến quá trình sử dụng nguồn vốn
FDI.
Quy mô, giá cả và chất lượng lao động vừa là nhân tố để thu hút vừa là nhân tố sử dụng
hiệu quả nguồn vốn FDI. Bởi con người là chủ thể của các quan hệ xã hội, là “yếu tố
động” tác động lên tư liệu sản xuất, cải tạo tư liệu lao động nâng cao sự phát triển của tư
liệu lao động lên tầm cao mới, tiến bộ hơn. Vì lẽ đó, lao động ở nước sở tại được các nhà
đầu tư hết sức quan tâm. Một quốc gia có đội ngũ lao động dồi dào, có trình độ cao
thường thu hút một lượng lớn các nhà đầu tư nước ngoài. Một đội ngũ lao động có trình

độ thấp, kỷ luật lao động không tốt thì dù giá nhân công có rẻ các nhà đầu tư vẫn phải cân
nhắc ra quyết định đầu tư, bởi lẽ hiệu quả và năng suất lao động của doanh nghiệp sẽ bị
ảnh hưởng. Vì vậy, nước tiếp nhận đầu tư phải chủ động, tích cực nâng cao trình độ dân
trí của người lao động thông qua các chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo nhằm để
không chỉ đáp ứng nhu cầu lao động cho nhà ĐTNN mà còn tiến tới chủ động nắm bắt
khoa học-công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến để có thể tự mình đứng vững xây dựng và
quản lý xã hội trong tương lai.
Đầu tư không chỉ hướng tới nguồn lao động mà còn hướng tới các nguồn lực khác
trong nền kinh tế như cơ sở hạ tầng, nguồn tài nguyên, tài chính Các hoạt động của nhà
đầu tư sẽ diễn ra một cách dễ dàng hơn khi nước sở tại có một hệ thống cơ sở hạ tầng
như: điện, nước, hệ thống giao thông, xử lý chất thải …phục vụ cho phát triển kinh tế xã
Nguyễn Thị Xuân – Kinh tế phát triển 48B
9
Chuyên đề tốt nghiệp
hội. Nếu một quốc gia vững mạnh về tài chính, giàu tài nguyên thiên nhiên là điều kiện
tốt để các nhà đầu tư tham gia đầu tư hoạt động sản xuất kinh doanh của họ.
3.4 Các điều kiện về chính trị - xã hội khác
Những điều kiện chính trị khác bao gồm các yếu tố về an ninh quốc phòng, môi
trường pháp lý, phong tục tập quán, chính sách phát triển kinh tế-xã hội Ở Việt Nam sự
tồn tại của một đảng duy nhất với quan diểm nhất quán tạo ra sự ổn định về tâm lý cho
các nhà đầu tư, họ không phải chịu áp lực nhiều trong việc thay đổi cơ chế hoạt động của
bộ máy chính quyền. Không vấp phải sự tranh đấu giữa các chính đảng gây bất ổn chính
trị. Sự ổn định về pháp lý giúp cho các doanh nghiệp hoạt động một cách suôn sẻ. Sự ổn
định trong chính sách pháp luật có tác động mạnh tới quá trình sản xuất, sự phát triển của
doanh nghiệp, đến cơ cấu sản phẩm, khối lượng sản phẩm của doanh nghiệp. Đồng thời
phong tục tập quán có tác động mạnh tới sản phẩm tiêu dùng, cơ cấu của doanh nghiệp.
Khi nhà đầu tư hiểu đúng được thói quen sinh sống, tập quán của người dân thì sẽ đưa ra
các chính sách phát triển và đầu tư đúng hướng, đồng thời tạo được mối quan hệ tốt với
người dân. Địa phương có phong tục ổn định, lành mạnh, không có những thủ tụ, luật lệ
hà khắc, có sự thông thoáng trong quan niệm sống sẽ góp phần tạo thuận lợi cho các nhà

đầu tư trong việc sản xuất kinh doanh.
Ngoài ra, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, những chính sách được sử
dụng đối với FDI cũng ảnh hưởng không nhỏ tới việc thu hút nguồn vốn FDI. Kế hoạch
phát triển kinh tế -xã hội quy định mức độ tham gia của các doanh nghiệp đầu tư nước
ngoài. Kế hoạch hóa phát triển kinh tế- xã hội của quốc gia xác định rõ các mục tiêu mà
quốc gia đó cần đạt được, vươn tới trong một giai đoạn nhất định. Nó sẽ quyết định việc
sử dụng các nguồn lực của nền kinh tế, nó quyết định vai trò của từng thành phần kinh tế
từ đó quy định được mức độ tham gia của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Tùy thuộc vào lĩnh vực ưu tiên của mỗi quốc gia và mỗi địa phương mà có chính sách ưu
tiên đối với các nhà đầu tư để thu hút họ vào những lĩnh vực phát huy thế mạnh của địa
phương, của quốc gia mình. Nếu các chính sách đó thuận lợi thì giúp cho hoạt động sản
xuất của các nhà đầu tư đạt hiệu quả cao và các nhà đầu tư cũng dễ dàng hơn trong việc
Nguyễn Thị Xuân – Kinh tế phát triển 48B
10
Chuyên đề tốt nghiệp
ra quyết định đầu tư.
II. Vai trò của FDI đối với phát triển kinh tế-xã hội
FDI có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của quốc gia, bao gồm cả
nước tiếp nhận đầu tư và cả nước đi đầu tư. Đối với nước tiếp nhận đầu tư (trong đó có
Việt Nam) FDI trong những năm qua đã có vai trò tích cực trong quá trình đẩy mạnh
công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước. Nó góp phần vào làm tăng trưởng kinh tế, thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng nguồn thu ngân sách, giảm thâm hụt cán cân thương
mại… Đồng thời thực hiện các mục tiêu xã hội như: giải quyết bài toán việc làm, nâng
cao mức thu nhập của người dân từ đó dẫn đến sự tiếp cận với các dịch vụ y tế, giáo dục,
chăm sóc sức khỏe…Nhưng bên cạnh những tác động tích cực mà nguồn vốn FDI tác
động tới nền kinh tế thì cũng có không ít tác động tiêu cực nếu chúng ta không có nhìn
nhận đúng đắn về nguồn vốn này.
1. Với phát triển kinh tế
Trước tiên FDI góp phần giải quyết tình trạng thiếu vốn của các nước tiếp nhận đầu
tư. Hầu hết các nước có thu nhập thấp đều rơi vào cái ‘vòng luẩn quẩn’. Thu nhập thấp

thì tiết kiệm thấp dẫn đến đầu tư thấp, đầu tư thấp lại dẫn đến thu nhập thấp. Bên cạnh
đó, trong điều kiện khoa học thế giới phát triển như giai đoạn hiện nay, việc đầu tư mua,
đổi mới công nghệ sản xuất đang là vấn đề cấp thiết. Nhưng muốn ‘chạy đua’ công nghệ
trong quá trình sản xuất như vậy thì cần có nguồn vốn lớn, mà thực tế nguồn vốn trong
nước không đáp ứng đủ vì kinh tế phát triển yếu, tích lũy nội bộ không cao. Chính vì vậy
mà nguồn vốn FDI thực sự là cần thiết để giải bài toán thiếu vốn của các nước đang phát
triển trong đó có Việt Nam. Từ khi phát hành bộ luật đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt
Nam phần nào thoát khỏi tình trạng thiếu hụt vốn đầu tư dần nâng cấp các cơ sở sản xuất
kinh doanh. Nhờ nguồn vốn này các nước tiếp nhận có thể tiến hành các hoạt động đầu tư
vào các lĩnh vực mới, mở rộng hoạt động sản xuất mà trước đây chưa có điều kiện phát
triển.
Hai là, thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
Nguyễn Thị Xuân – Kinh tế phát triển 48B
11
Chuyên đề tốt nghiệp
hoá - hiện đại hoá đất nước. Tranh thủ vốn và kỹ thuật của nước ngoài, các nước đang
phát triển muốn thực hiện mục tiêu quan trọng hàng đầu là đẩy mạnh phát triển kinh tế.
Đây cũng là điểm nút để các nước đang phát triển thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn của sự
nghèo đói. Thật vậy, mức tăng trưởng ở các nước đang phát triển thường do nhân tố tăng
đầu tư, nhờ đó các nhân tố khác như tổng số vốn lao động được sử dụng cũng tăng,
nhưng mức tăng của lao động nhỏ hơn mức tăng của sản lượng, do đó năng suất lao động
tăng. Năng suất lao động là yếu tố có vai trò quyết định để tăng tỷ trọng của ngành trong
nền kinh tế. Tỷ trọng của ngành thay đổi tức là cơ cấu kinh tế đã được thay đổi. Và sự
thay đổi này theo xu thế chung của các nước đang phát triển, đó là tăng tỷ trọng của
ngành sử dụng nhiều vốn, giảm tỷ trọng của ngành sử dụng nhiều lao động. Trong những
năm gần đây Việt Nam đã đạt được những thành tích đáng kể trong tăng trưởng và phát
triển kinh tế.
Hình 1.1 Đóng góp của khu vực FDI trong GDP và cơ cấu kinh tế theo khu
vực ngành của Việt Nam
Nhìn vào hình 1.1 có thể nhận thấy, cùng với mức đóng góp của khu vực FDI

trong kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng của khu vực công nghiệp. Kết quả
này thể hiện tăng hiệu quả và chất lượng phát triển kinh tế do năng suất lao động của khu
Nguyễn Thị Xuân – Kinh tế phát triển 48B
12
Chuyên đề tốt nghiệp
vực công nghiệp cao góp phần tăng năng suất chung của toàn bộ nền kinh tế Việt Nam.
Trong suốt hai thập kỷ qua, khu vực có vốn FDI chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong
GDP. Năm 2007, khu vực FDI đóng góp 13,26% trong GDP (giá so sánh 1994) so với tỷ
lệ 3,76% năm 1991. Bên cạnh đó, khu vực có vốn FDI luôn dẫn đầu về tốc độ tăng giá trị
gia tăng so với khu vực kinh tế khác và là khu vực phát triển năng động nhất. Tốc độ tăng
giá trị gia tăng của khu vực này luôn cao hơn mức trung bình của cả nước. Mức đóng góp
của khu vực FDI vào GDP của Việt Nam ngày càng cao đã tạo ra sự thay đổi trong cơ
cấu ngành, tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp trong GDP có xu hướng giảm dần và tỷ trọng
công nghiệp ( nhất là công nghiệp chế biến ) và dịch vụ có xu hướng tăng dần ( hình 1.1)
Ba là, thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ. Có thể nói công nghệ là yếu tố quyết
định tốc độ tăng trưởng và sự phát triển của mọi quốc gia, đối với các nước đang phát
triển thì vai trò này càng được khẳng định rõ. Bởi vậy, tăng cường khả năng công nghệ
luôn là một trong những mục tiêu ưu tiên phát triển hàng đầu của mọi quốc gia. Tuy
nhiên, để thực hiện mục tiêu này đòi hỏi không chỉ cần nhiều vốn mà còn phải có một
trình độ phát triển của khoa học -kỹ thuật. Đầu tư nước ngoài (đặc biệt là FDI) được coi
là nguồn vốn quan trọng để phát triển khả năng công nghệ của nước nhận đầu tư. Vai trò
này thể hiện qua hai khía cạnh chính là chuyển giao công nghệ sẵn có từ bên ngoài vào
và sự phát triển khả năng công nghệ của các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng của nước chủ
nhà. Đây là những mục tiêu quan trọng được nước chủ nhà mong đợi từ các nhà đầu tư
nước ngoài.
Chuyển giao công nghệ thông qua con đường FDI thường được thực hiện thông qua
các công ty xuyên quốc gia (TNC), dưới hình thức chuyển giao trong nội bộ các chi
nhánh của một TNC và chuyển giao giữa các chi nhánh của các TNC. Phần lớn công
nghệ được chuyển giao giữa các chi nhánh của các TNC sang nước tiếp nhận đầu tư (nhất
là các nước đang phát triển được thông qua các doang nghiệp 100% vốn nước ngoài và

doanh nghiệp liên doanh mà bên nhà nước nắm phần lớn cổ phần dưới các hạng mục chủ
yếu như tiến bộ công nghệ, sản phẩm công nghệ, công nghệ marketing Mặt khác, trong
quá trình sử dụng các công nghệ nước ngoài (nhất là ở các doanh nghiệp liên doanh) các
Nguyễn Thị Xuân – Kinh tế phát triển 48B
13
Chuyên đề tốt nghiệp
doanh nghiệp trong nước học được cách thiết kế, chế tạo từ công nghệ gốc, sau đó cải
biến cho phù hợp với điều kiện của nước mình. Đây là một trong những tác động tích cực
quan trọng của FDI đối với việc phát triển công nghệ ở các nước đang phát triển.
Bốn là, tác động lan tỏa của ĐTNN đến các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế.
Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp ĐTNN được nâng cao qua số lượng các doanh
nghiệp tăng vốn đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất. Đồng thời, có tác động lan tỏa đến các
thành phần khác của nền kinh tế thông qua sự liên kết giữa doanh nghiệp có vốn ĐTNN
với các doanh nghiệp trong nước, công nghệ và năng lực kinh doanh được chuyển giao từ
doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Sự lan tỏa này có thể theo hàng dọc giữa các doanh nghiệp
trong ngành dọc hoặc theo hàng ngang giữa các doanh nghiệp hoạt động cùng ngành. Mặt
khác, các doanh nghiệp ĐTNN cũng tạo động lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong
nước nhằm thích ứng trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Năm là, góp phần cải thiện cán cân thương mại, huy động khối lượng ngoại tệ lớn cho
phát triển kinh tế. FDI có vai trò quan trọng trong việc nâng cao sản lượng xuất khẩu và
nhờ đó cải thiện được cán cân thanh toán. Xuất khẩu là một biện pháp quan trọng trong
tăng trưởng kinh tế, đối với các nước đang phát triển thì cán cân xuất nhập khẩu luôn
trong tình trạng thâm hụt, tức là giá trị hàng nhập khẩu lớn hơn giá trị hàng xuất khẩu.
FDI đã góp phần hạn chế tình trạng thâm hụt.
Sáu là, tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước. FDI làm tăng nguồn thu cho ngân
sách thông qua những khoản thu từ thuế. Ta thấy cơ cấu nguồn thu ngân sách nhà nước
bao gồm: thu từ kinh tế nhà nước, kinh tế ngoài nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài và các nguồn thu khác. Dòng vốn FDI hiện nay có xu hướng ngày càng gia tăng,
kéo theo tỷ trọng kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài gia tăng và do đó cơ cấu nguồn thu
của ngân sách nhà nước cũng có những biến đổi nhất định. Nguồn thu từ các thành phần

kinh tế Nhà nước có xu hướng giảm, kinh tế đầu tư nước ngoài có xu hướng tăng. Nhưng
tổng thu của ngân sách nhà nước tăng lên, giúp thực hiện các khoản chi của ngân sách
nhằm bảo đảm cho sự hoạt động của bộ máy nhà nước và thực hiện các nhiệm vụ xã hội
khác.
Nguyễn Thị Xuân – Kinh tế phát triển 48B
14
Chuyên đề tốt nghiệp
2. Với phát triển xã hội
Ngoài vai trò đóng góp vào phát triển kinh tế thì FDI cũng có vai trò quan trọng trong
phát triển các lĩnh vực xã hội. Điều đó được thể hiện:
FDI góp phần giải quyết việc làm và cải thiện đời sống của người dân lao động.
Nguồn nhân lực có ảnh hưởng trực tiếp tới các hoạt động sản xuất, các vấn đề xã hội và
mức tiêu dùng của dân cư. Việc cải thiện chất lượng cuộc sống thông qua đầu tư vào các
lĩnh vực: sức khoẻ, dinh dưỡng, giáo dục, đào tạo nghề nghiệp và kỹ năng quản lý sẽ tăng
hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực, nâng cao được năng suất lao độngvà các yếu tố sản
xuất khác, nhờ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, tạo việc làm không chỉ tăng thu
nhập cho người lao động mà còn góp phần tích cực giải quyết các vấn đề xã hội. Đây là
những yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến tốc độ tăng trưởng. FDI ảnh hưởng trực tiếp đến
cơ hội tạo ra việc làm thông qua vệc cung cấp việc làm trong các hãng có vốn đầu tư
nước ngoài. FDI còn tạo ra những cơ hội việc làm trong các tổ chức khác khi nhà đầu tư
nước ngoài mua hàng hoá dịch vụ sản xuất trong nước, hoặc thuê họ thông qua các hoạt
động gia công chế biến. Thực tiễn ở một số nước cho thấy FDI đã đóng góp tích cực tạo
ra việc làm trong các ngành sử dụng nhiều lao động như ngành may mặc, điện tử, chế
biến. Thông qua khoản trợ giúp tài chính hoặc mở lớp đào tạo dạy nghề, FDI còn góp
phần quan trọng với phát triển giáo dục nước nhà trong các lĩnh vực giáo dục đại cương,
dạy nghề, nâng cao năng lực quản lý. Nhiều nhà đầu tư đã đóng góp vào quỹ phát triển
giáo dục phổ thông, cung cấp một số thiết bị giảng dạy cho các cơ sở giáo dục của nước
đầu tư, tổ chức các chương trình phổ nhiều lao động được đi đào tạo ở nước ngoài). Đồng
thời FDI thông qua đó nâng cao năng lực quản lý của nước sở tại theo nhiều hình thức
như các khoá học chính quy, không chính quy và học thông qua làm.

Tóm lại, FDI đem lại lợi ích về tạo công ăn việc làm. Đây là một tác động kép: tạo
thêm việc làm cũng có nghĩa là tăng thêm thu nhập cho người lao động, từ đó tạo điều
kiện tăng tích luỹ trong nước. Tuy nhiên, sự đóng góp của FDI đối với việc làm trong
nước nhận đầu tư phụ thuộc rất nhiều vào chính sách và khả năng kỹ thuật của nước đó.
Nguyễn Thị Xuân – Kinh tế phát triển 48B
15
Chuyên đề tốt nghiệp
Bên cạnh đó, FDI góp phần thực hiện các vấn đề môi trường, cải thiện môi trường
nước nhận đầu tư. Khi thực hiện các hoạt động đầu tư tại nước sở tại thì các nhà đầu tư
thường mang những công nghệ cao hơn công nghệ ở nước đó để thực hiện hoạt động đầu
tư. Đây là yếu tố quan trọng trong việc bảo vệ môi trường. Bởi công nghệ cao gần tương
đồng với công nghệ ‘sạch’, công nghệ cao giúp giảm thiểu được lượng khí thải, chất thải,
giảm ô nhiễm môi trường. Thông thường các DN có vốn ĐTNN tuân thủ các tiêu chuẩn
môi trường Việt Nam và có kết quả tốt hơn so với số đông các DN trong nước vì có khả
năng tài chính và khả năng tiếp cận với các kỹ năng quản lý môi trường. ĐTNN đã tác
động tích cực tới kết quả môi trường của bạn hàng cung cấp đầu vào và các công ty vệ
tinh thông qua việc hỗ trợ, tư vấn về hệ thống quản lý môi trường hoặc các giải pháp xử
lý môi trường. Thông qua các đối tác liên doanh, các đối tác Việt Nam có thể học hỏi,
được hỗ trợ và tư vấn để cải thiện kết quả môi trường.
3. Tác động tiêu cực của FDI
FDI có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội của nước nhận đầu
tư nhưng FDI cũng có mặt trái của nó.
Thứ nhất, FDI làm tăng sự lệ thuộc của nước sở tại vào nước ngoài về vốn, công nghệ và
mạng lưới thị trường tiêu thụ sản phẩm. Những nước tiếp nhận đầu tư thường là các nước
có trình độ công nghệ thấp, lạc hậu. Trong khi đó các nhà ĐTNN lại ở các nước đang
phát triển và sử dụng công nghệ hiện đại nhằm tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao,
khả năng cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường của sản phẩm lớn nên hầu hết công nghệ
sản xuất đều là nhập khẩu và đôi khi còn phải nhập khẩu hoàn toàn nguyên liệu. Bởi vậy,
việc những nước tiếp nhận đầu tư ngày càng phụ thuộc sâu vào đầu tư nước ngoài là điều
không thể tránh khỏi. Do đó các quốc gia đang phát triển phải nhận thức được vấn đề này

và giải quyết nó bằng cách nâng cao năng lực phát triển của chính mình theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh trong nước.
Thứ hai, nước tiếp nhận đầu tư có nguy cơ trở thành bãi rác thải công nghiệp của những
nước phát triển. Một thực tế là, kỹ thuật mới, công nghệ hiện đại chuyển giao cho các
Nguyễn Thị Xuân – Kinh tế phát triển 48B
16
Chuyên đề tốt nghiệp
công ty 100% vốn nước ngoài, trong khi công nghệ hạng hai, hạng ba thấp hơn lại được
chuyển giao cho các nước tiếp nhận đầu tư thông qua hình thức liên doanh hoặc bán bản
quyền. Hơn nữa, do trình độ yếu kém của nước sở tại nên công nghệ thường được đánh
giá cao hơn mức bình thường. Mặc dù thiết bị, công nghệ đó có khi hiện đại hơn so với
thiết bị công nghệ đang sử dụng của nước sở tại nhưng nguy cơ trở thành bãi rác thải
công nghiệp của các nước phát triển là điều có thể nhìn thấy được trong tương lai. Vấn đề
đặt ra là phải làm sao để nắm được công nghệ “gốc’, thanh lọc và làm trong sạch đội ngũ
cán bộ, nâng cao trình độ thẩm định dự án; đa dạng hóa nguồn ĐTNN ngay trong từng
ngành công nghiệp và qua đó chọn lọc được kỹ thuật tối ưu, nâng cao khả năng tiếp cận
công nghệ của các nước chủ nhà.
Thứ ba, không phải nhà đầu tư nào cũng đầu tư để thu lợi nhuận, trong số họ không ít cá
nhân, tổ chức dưới danh nghĩa tiến hành hợp tác kinh doanh nhưng thực tế lại thực hiện
các mục tiêu chính trị. Họ lợi dụng FDI để can thiệp bất lợi vào nền chính trị của nước
chủ nhà, hoạt động tình báo, gây rối an ninh chính trị. Trong thế giới đa cực và sự phát
triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, các hoạt động tình báo diễn ra
ngày càng tinh vi hơn, đòi hỏi các quốc gia phải luôn tỉnh táo trong quan hệ đối ngoại.
Thứ tư, xuất hiện nguy cơ rửa tiền. Theo cảnh báo của WB thì Việt Nam (một trong các
nước tiếp nhận lượng lớn nguồn vốn FDI) sẽ bị các tổ chức rửa tiền quốc tế chọn làm
mục tiêu vì hệ thống thanh tra, giám sát, hệ thống kế toán và tìm hiểu khách hàng ở nước
ta còn kém phát triển, mức độ sử dụng tiền mặt và các luồng chuyển tiền không chính
thức còn cao. Bên cạnh đó, Việt Nam đang trên con đường mở cửa kinh tế và được đánh
giá là nền kinh tế có tính chất mở hàng đầu thế giới. Việc kiểm soát lỏng lẻo các dòng
tiền vào ra đã tạo điều kiện thuận lợi để tội phạm thực hiện hoạt động rửa tiền. Nguồn

vốn FDI có thể là một kênh thuận lợi cho việc tổ chức hoạt động rửa tiền. Các tổ chức phi
pháp có thể tiến hành đầu tư vào nước ta với hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài nhưng thực chất không phải để hoạt động mà nhằm hợp pháp hóa các khoản tiền
bất hợp pháp.
Nguyễn Thị Xuân – Kinh tế phát triển 48B
17
Chuyên đề tốt nghiệp
Ngoài một số tác động tiêu cực trên còn có một số những hạn chế do FDI mang lại: Các
doanh nghiệp có vốn ĐTNN thu hút một số lượng lớn lao động có trình độ tay nghề cao,
các cán bộ chuyên môn trẻ có năng lực, đồng thời với quy mô công ty lớn, nhiều vốn đã
và đang gây khó khăn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Mặc khác, các doanh nghiệp
nước ngoài lạm dụng quá đáng sức lao động của công nhân, tạo chênh lệch thu nhập giữa
các tầng lớp dân cư dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo sâu sắc, là nguyên nhân gây nên tệ
nạn xã hội và xung đột xã hội.
III. Kinh nghiệm thu hút FDI của một số địa phương
Kể từ khi có luật đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam thì các địa phương đã thực
sự coi kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế. Các
đại phương đã dần khai thác các hoạt động đầu tư nước ngoài vào thực hiện mục tiêu
tăng trưởng và phát triển kinh tế. Ở tại mỗi địa phương đã có những chính sách và biện
pháp riêng để khai thác thế mạnh của thành phần kinh tế này, cũng như tận dụng và phát
huy thế mạnh của địa phương đó trong phát triển kinh tế-xã hội của địa phương.
1. Thu hút FDI của tỉnh Bắc Ninh
Tỉnh Bắc Ninh, nằm liền kề Thủ đô Hà Nội có vị trí địa kinh tế thuận lợi chính là yếu tố
quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội và giao lưu với các vùng kinh tế trọng điểm trong
nước, khu vực và quốc tế. Với mục tiêu phấn đấu đến năm 2015 tỉnh Bắc Ninh cơ bản
trở thành một tỉnh công nghiệp, Bắc Ninh chủ trương thu hút các nguồn vốn đầu tư trong
đó nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong các nguồn vốn quan trọng. Với
chủ trương như vậy, trong giai đoạn 2001-2009, tỉnh Bắc Ninh đã ban hành các chính
sách ưu đãi khuyến khích đầu tư nhằm thu hút nhiều hơn nữa các nhà đầu tư vào tìm hiểu
cơ hội đầu tư tại tỉnh Bắc Ninh. Điển hình là một số chính sách sau :

Thứ nhất, tỉnh Bắc Ninh đã áp dụng, thực hiện cơ chế “một cửa” trong việc giải quyết
các thủ tục hành chính. Theo ông Ngô Sĩ Bích, Phó Giám đốc Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh
Bắc Ninh, quy trình "một cửa" với những trợ giúp tối đa từ các cơ quan quản lý địa
phương là nguyên nhân của thành công trong việc thu hút đầu tư nước ngoài tại Bắc
Nguyễn Thị Xuân – Kinh tế phát triển 48B
18
Chuyên đề tốt nghiệp
Ninh. Cơ chế “một cửa” trong hoạt động cấp giấy phép đầu tư cho lĩnh vực đầu tư trực
tiếp nước ngoài, giải quyết các thủ tục hành chính sau cấp phép đầu tư, tạo điều kiện cho
nhà đầu tư với thời gian nhanh nhất có thể triển khai dự án, đi vào hoạt động sản xuất
kinh doanh; tạo môi trường đầu tư thông thoáng và thuận tiện.
Thứ hai, đẩy nhanh công tác xây dựng các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế
xuất, phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Tạo cơ sở hạ tầng cho các nhà đầu tư
khi tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh tại tỉnh được thuận lợi.
Thứ ba, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các doanh nghiệp khác. Nâng cao chất lượng đào tạo,
đẩy nhanh tiến độ đầu tư các dự án đã được phê duyệt; Tạo điều kiện thu hút các trường
dạy nghề, cao đẳng, đại học đầu tư tại Bắc Ninh; Thực hiện hỗ trợ đào tạo nghề từ nguồn
ngân sách tỉnh.
Với những chính sách sử dụng hiện nay như vậy thì Bắc Ninh đã có những bước đầu
thu được những thành công nhất định. Tỉnh đã xây dựng được nhiều khu công nghiệp,
khu chế xuất, cụm công nghiệp trong đó điển hình có 2 khu công nghiệp lớn là Tiên Sơn
và Quế Võ. Tỉnh cũng đã thu hút được nhiều nhà đầu tư tham gia vào đầu tư tại tỉnh với
các dự án đầu tư có quy mô lớn. Điển hình là dự án đầu tư của Canon tại Bắc Ninh với
nguồn vốn đầu tư hơn 100 triệu USD, khi đi vào hoạt động sẽ có trị giá xuất khẩu hàng
năm lên tới 1,6 tỷ USD. Đây là một bước đột phá mới của một tỉnh đồng bằng Bắc Bộ
trong công tác thu hút đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó nguồn vốn FDI còn đóng góp vào
việc thực hiện giải quyết việc làm cho người lao động và các vấn đề xã hội khác trên địa
bàn tỉnh.
Tuy nhiên, một thực tế ở Bắc Ninh cũng như tồn tai ở nhiều địa phương khác đó là tình

trạng thiếu đất canh tác trong nông nghiệp khi rất nhiều diện tích đất nông nghiệp được
sử dụng để xây dựng các khu công nghiệp, cụm công nghiệp. Phần lớn diện tích đất đưa
vào trong công nghiệp là đất đai màu mỡ trong khi nhiều diện tích đất tại tỉnh chưa được
sử dụng hợp lý, đất dành cho nông nghiệp kém màu mỡ. Ta có thể thấy, đó là do công
Nguyễn Thị Xuân – Kinh tế phát triển 48B
19
Chuyên đề tốt nghiệp
tác quy hoạch đất của tỉnh còn nhiều hạn chế và chưa được hợp lý, ảnh hưởng đến cơ cấu
thu của tỉnh vì tỉnh xuất phát từ ngành nông nghiệp. Ngoài ra, trong quá trình giải quyết
việc làm cho người lao động dễn ra còn chậm, ảnh hưởng lớn tới đời sống của người lao
động.
2. Thu hút FDI tại tỉnh Hưng Yên
Hiện Hưng Yên có 176 dự án FDI đầu tư vào địa bàn trong đó có 78 dự án của các nhà
đầu tư Hàn Quốc. Sở dĩ Hưng Yên là “điểm đến” hấp dẫn của các nhà đầu tư nước ngoài
bởi đây không chỉ là vùng đất có truyền thống văn hóa lâu đời, có thương cảng quốc tế
sầm uất trong lịch sử mà Hưng Yên còn giầu tiềm năng, lợi thế về vị trí địa lý, giao thông
và nguồn nhân lực. Đặc biệt, tới đây một số công trình trọng điểm cấp quốc gia được đầu
tư và đưa vào hoạt động như: đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng, khu Đại học Phố
Hiến… sẽ là động lực quan trọng đưa Hưng Yên lên một vị trí cạnh tranh cao hơn trong
môi trường đầu tư. Tận dụng được lợi thế của mình, tỉnh đã kêu gọi các nhà đầu tư tham
gia vào đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho phát triển kinh tế -xã hội,
đồng thời giảm các áp lực trong trường hợp không có đủ vốn để đầu tư.
Mặt khác trong những năm qua, Hưng Yên đã rất nỗ lực trong việc cải cách thủ tục
hành chính, “trải thảm đỏ” trong thu hút đầu tư, đặc biệt là những dự án có quy mô lớn,
công nghệ sản xuất sạch và hiện đại. Tỉnh đã có những hỗ trợ cần thiết và kịp thời khi
nhà đầu tư gặp khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện liên quan tới các thủ tục
hành chính. Giám sát và yêu cầu các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện
đúng pháp luật Việt Nam cũng như quy định của tỉnh, đặc biệt là việc đóng thuế và chấp
hành các quy định về môi trường, bảo vệ môi trường.
Với các chính sách thực hiện trên thì trong thời gian qua kinh tế có vốn đầu tư nước

ngoài tại Hưng Yên có những thành tựu đáng kể như:
Tỷ lệ vốn thực hiện so với vốn đăng ký luôn được nâng cao, thời gian để các dự án đi
vào hoạt động được rút ngắn. Giá trị gia tăng cao so với các thành phần kinh tế khác,
đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh; tăng nguồn thu cho ngân sách tỉnh; giải
Nguyễn Thị Xuân – Kinh tế phát triển 48B
20
Chuyên đề tốt nghiệp
quyết việc làm cho người lao động, làm giảm tỷ lệ thất nghiệp… Có nhiều dự án đầu tư
có vốn lớn, công nghệ cao góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa-hiện đại hóa
đất nước. Thu nhập bình quân của người lao động được nâng cao, do đó đời sống nhân
dân được cải thiện.
3. Thu hút FDI tại Vĩnh Phúc
Trước đây Vĩnh Phúc được coi là tỉnh thuần nông, cuộc sống chủ yếu dựa vào phát triển
nông nghiệp là chính. Nhưng trong những năm gần đây cùng với sự phát triển của nền
kinh tế cả nước, Vĩnh Phúc đã trở thành điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư, cơ cấu
kinh tế đã có sự thay đổi rõ rệt. Có sự biến đổi một cách nhanh chóng như vậy là do
Vĩnh Phúc đã biết lựa chọn công nghiệp làm ngành kinh tế đòn bảy trong phát triển kinh
tế - xã hội của tỉnh. Và khai thác ngoại lực, thu hút vốn đầu tư nước ngoài để phát triển
công nghiệp là quan điểm chỉ đạo, xuyên suốt trong quá trình phát triển của ngành này.
Xác định được bước đi đúng, Vĩnh Phúc đã trải thảm đỏ cho các nhà đầu tư khi đến
hoạt động tại tỉnh. Trong khi cả nước vẫn chưa thực hiện cải cách hành chính, chưa thực
thi cơ chế "một dấu, một cửa", Vĩnh Phúc đã tiên phong làm được điều này, các nhà đầu
tư khi đến với Vĩnh Phúc đã rút ngắn được 2/3 thời gian theo quy định của Trung ương
khi làm thủ tục xin cấp phép đầu tư.
Bên cạnh sự thông thoáng, nhanh chóng về thủ tục đầu tư, Vĩnh Phúc còn coi "mọi
thành công của tất cả các nhà đầu tư là thành công của tỉnh Vĩnh Phúc và mong
muốn tất cả các nhà đầu tư vào Vĩnh Phúc đều gặt hái được thành quả ". Và chính từ
sự trọng thị đó, các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài đã đến với Vĩnh
Phúc ngày càng nhiều. Họ đến Vĩnh Phúc không chỉ đem theo vốn liếng, kinh nghiệm,
mà điều quan trọng là họ đã đem đến một tư duy mới về quy hoạch tổng thể. Chúng ta

có thể nhìn thấy kết quả của công tác quy hoạch trên 12 cụm công nghiệp ở Vĩnh Phúc
hiện nay.
Đi lên từ ngoại lực là bài học thành công trong phát triển ngành công nghiệp của Vĩnh
Phúc trong 12 năm qua kể từ khi tái lập tỉnh. Bài học này cho thấy nếu biết khai thác tốt
Nguyễn Thị Xuân – Kinh tế phát triển 48B
21
Chuyên đề tốt nghiệp
những tiềm lực bên ngoài, sẽ biến ngoại lực thành nội lực, sẽ rút ngắn được quá trình
tăng trưởng và có thể nói một cách hình ảnh là chúng ta sẽ vươn tay tới sự giàu có của
các quốc gia ngay trong lòng đất nước Việt Nam.
4. Bài học kinh nghiệm cho tỉnh Hải Dương để thu hút nguồn vốn FDI
Qua phân tích các chính sách để thu hút nguồn vốn FDI tại các tỉnh trên ta có thể rút ra
một số bài học kinh nghiệm trong việc thu hút nguồn vốn FDI tại Hải Dương như sau:
Thứ nhất, cần tạo môi trường đầu tư, kinh doanh cạnh tranh bình đẳng, hoàn thiện luật
pháp, cải cách hành chính đi cùng với phát triển kết cấu hạ tầng và nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực. Cải cách hành chính là yếu tố cực kỳ quan trọng tác động đến việc thu
hút đầu tư và làm tăng hiệu quả đầu tư. Việc triển khai thực hiện cải cách thủ tục hành
chính với mô hình “Một cửa”.“Một cửa liên thông” tại các sở, ngành, địa phương đã nâng
cao trách nhiệm cho cán bộ, công chức khi thi hành công vụ, sẽ đem lại những thuận lợi
cho người dân và doanh nghiệp khi xử lý, giải quyết các yêu cầu, đề nghị tại các cơ quan
nhà nước. Nội dung này nếu được thực hiện quyết liệt hơn ở các cơ quan quản lý nhà
nước thì hiệu quả thu hút đầu tư nói chung, thu hút đầu tư nước ngoài nói riêng còn lớn
hơn nhiều.
Thứ hai, việc xây dựng, phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp tập trung từ
việc thu hút nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước của mọi thành phần kinh tế và trong
dân cư có ý nghĩa hết sức quan trọng, khơi dậy mọi tiềm năng, phát huy nội lực, đóng
góp tích cực vào việc thu hút đầu tư và phát triển KTXH tại địa bàn. Bên cạnh đó quan
tâm giải quyết tốt vấn đề đời sống nhân dân vùng giao đất làm khu công nghiệp, cụm
công nghiệp.
Thứ ba, cần có biện pháp hạn chế, giảm thiểu những rủi ro có thể phát sinh khi luồng

vốn bên ngoài gia tăng, trong đó có vốn FDI. Cần có ứng xử khéo léo với các dòng vốn
nước ngoài để vừa thu hút được nguồn lực cho phát triển, đồng thời hạn chế được những
rủi ro bất ổn kinh tế vĩ mô không đáng có.
Thứ tư, nâng cao hiệu quả của công tác quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh.
Nguyễn Thị Xuân – Kinh tế phát triển 48B
22
Chuyên đề tốt nghiệp
Và việc lập kế hoạch phát triển phải dựa trên các cơ sở sát thực, thực trạng phát triển của
tỉnh.
Như vậy, qua những phân tích trên chúng ta phần nào hiểu rõ về đặc điểm, vai trò
của nguồn vốn FDI đối với phát triển kinh tế- xã hội của nước tiếp nhận đầu tư nói chung
và tỉnh Hải Dương. Lý thuyết là vậy, nhưng thực tế khi sử dụng nguồn vốn này còn nhiều
vấn đề nan giải. Để nhìn nhận rõ hơn, ta sẽ nghiên cứu thực trạng thu hút FDI của tỉnh
Hải Dương giai đoạn 2001-2009.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG THU HÚT FDI CỦA TỈNH HẢI DƯƠNG GIAI ĐOẠN
2001-2009
I. Tổng quan các nhân tố ảnh hưởng tới thu hút nguồn vốn FDI
1. Môi trường tự nhiên, văn hóa- xã hội
Nguyễn Thị Xuân – Kinh tế phát triển 48B
23
Chuyên đề tốt nghiệp
1.1 Điều kiện tự nhiên
Hải Dương nằm trong địa bàn kinh tế trọng điểm Bắc Bộ,(kinh tế trọng điểm Bắc Bộ
gồm các tỉnh: Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc) tiếp giáp với 6 tỉnh,
thành phố: Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải Phòng, Quảng Ninh, Thái Bình và Hưng Yên. Trên
địa bàn tỉnh có các tuyến đường bộ, đường sắt quan trọng của quốc gia chạy qua như:
đường 5A, 18, 37, đường sắt Hà Nội - Hải Phòng, Bắc Giang - Phả Lại,…; nằm gần cảng
biển Hải Phòng và Cái Lân; hệ thống giao thông đường thuỷ tương đối thuận lợi. Trên
địa bàn tỉnh có một trữ lượng khá lớn một số khoáng sản (đá vôi: 200 triệu tấn; bôxit: 20

vạn tấn; cao lanh: 40 vạn tấn; sét chịu lửa: 8 triệu tấn) phục vụ cho sản xuất công nghiệp.
Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có độ ẩm cao, cho phép phát triển đa dạng
các loại cây trồng, vật nuôi; đặc biệt thích hợp với các loại cây rau, màu thực phẩm; cây
ăn quả như: vải, nhãn, cam, chuối,
1.2 Yếu tố văn hóa- xã hội
Tỉnh có nguồn lao động trẻ, năm 2005 quy mô dân số tỉnh là 1,71 triệu người, số
người trong độ tuổi lao động chiếm 62,2% tổng dân số; năm 2010 ước tính lực lượng lao
động trong độ tuổi chiếm chiếm 65,03% tổng dân số (năm 2005: 62,2%) tương ứng với 1
triệu 112 ngàn người, tăng 48.200 người so với năm 2005. Người Hải Dương có truyền
thống hiếu học, cần cù, sáng tạo. Hải Dương là vùng đất văn hiến, có nhiều di tích lịch
sử, danh thắng nổi tiếng như: Côn Sơn, Kiếp Bạc, Yên Phụ, Kính Chủ và nhiều Lễ hội
truyền thống, tiêu biểu cho nền văn hóa vùng châu thổ sông Hồng tạo ra nét độc đáo
riêng trong phát triển du lịch.
Bên cạnh đó công tác bảo đảm an sinh xã hội luôn được chú trọng. Cấp phát và hỗ trợ
kinh phí cho người nghèo và các đối tượng chính sách được thực hiện kịp thời, đảm bảo
đúng chế độ. Hỗ trợ kinh phí cho 129.789 người nghèo ăn tết với số tiền là 25,4 tỷ đồng;
Tổng doanh số cho vay thực hiện qua ngân hàng chính sách xã hội đạt 638,7 tỷ đồng,
tăng 33,3%. Tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh giảm xuống còn 6,9%. Phát động phong trào, huy
động trên 2 tỷ đồng xây dựng 184 nhà đại đoàn kết cho người nghèo.
Nguyễn Thị Xuân – Kinh tế phát triển 48B
24
Chuyên đề tốt nghiệp
Thực hiện tốt công tác cấp Bảo hiểm y tế khám chữa bệnh miễn phí cho các đối tượng;
Đã có 281.917 lượt người nghèo sử dụng thẻ BHYT để khám, chữa bệnh, với số kinh phí
chi trả là 23,2 tỷ đồng.
Tổ chức đào tạo nghề cho 34 nghìn người, hỗ trợ đào tạo nghề ngắn hạn cho 9.151 nông
dân và người lao động bàn giao đất để phát triển khu, cụm công nghiệp, khu đô thị; Giải
quyết việc làm mới cho 1 vạn 985 ngàn lao động, trong đó: lao động xuất khẩu là 1.500
người (Nguồn: phòng quy hoạch-tổng hợp, sở Kế hoạch-Đầu tư Hải Dương).
2. Môi trường kinh tế

2.1 Cơ sở hạ tầng
Hải Dương có hệ thống cơ sở hạ tầng khá hoàn chỉnh, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh
tế - xã hội của tỉnh phát triển.
Thứ nhất về hệ thống giao thông: gồm đường bộ, đường thuỷ, đường sắt; Phân bố hợp
lý, giao lưu rất thuận lợi tới các tỉnh .
Đường bộ: có 4 tuyến đường quốc lộ qua tỉnh dài 99 km, đều là đường cấp I, cho 4 làn
xe đi lại thuận tiện:
Quốc lộ 5 từ Hà Nội đi thành phố cảng Hải Phòng, chạy ngang qua tỉnh 44 km,
đây là đường giao thông chiến lược; vận chuyển toàn bộ hàng hoá xuất nhập khẩu qua
cảng Hải Phòng và nội địa.
Quốc lộ 18 từ Nội Bài qua Bắc Ninh đến tỉnh Quảng Ninh. Đoạn chạy qua huyện
Chí Linh tỉnh Hải Dương dài 20 km.
Quốc lộ 183, nối quốc lộ 5 với quốc lộ 18, qui mô cấp I đồng bằng
Quốc lộ 37 dài 12,4 km, đây là đường vành đai chiến lược quốc gia, phục vụ trực
tiếp cho khu du lịch Côn Sơn - Kiếp Bạc.
Quốc lộ 38 dài 14 km là đường cấp III đồng bằng.
Đường tỉnh: có 13 tuyến dài 258 là đường nhựa tiêu chuẩn cấp III đồng bằng
Nguyễn Thị Xuân – Kinh tế phát triển 48B
25

×