Đề 2:
I.Câu hỏi
1.Phân biệt hàng hóa sức lao động và hàng hóa thông thường?
2.Hãy cho biết quan điểm của CN Mác – Lênin về vấn đề dân tộc? Đảng và Nhà
nước ta đã làm gì để tăng cường, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc?
II.Trả lời:
1.a. Để phân biệt hàng hóa sức lao động và hàng hóa thông thường, đầu tiên ta
tìm hiểu các khái niệm :
*Hàng hóa thông thường: là sản phẩm của lao động, nó có thể thỏa mãn những
nhu cầu nhất định nào đó của con người thông qua trao đổi, mua bán.
*Hàng hóa sức lao động:
- Sức lao động: “toàn bộ các thể lực và trí lực ở trong thân thể một con người,
trong nhân cách sinh động của con người, thể lực vừ trí lực mà con người phải
làm cho hoạt động để sản xuất ra những vật có ích” (C.Mác)
- 2 điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa:
+ Người có sức lao động phải được tự do về thân thể.
+Người lao động bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất.
b.Phân biệt:
- Giống nhau:
+ Đều là hàng hóa, được đem ra mua bán trên thị trường, chịu tác động của thị
trường như cung, cầu ,…
+ Đều có 2 thuộc tính giá trị và giá trị sử dụng.
- Khác nhau:
1
Tiêu chí so sánh Hàng hóa sức lao động Hàng hóa thông thường
-Phương thức tồn tại
-Giá trị
-Giá cả
-Giá trị sử dụng
-Quan hệ giữa người
mua - người bán
-Quan hệ mua - bán
-Ý nghĩa
-Gắn liền với con người.
- Chứa đựng cả yếu tố vật chất,
tinh thần và lịch sử. Được đo
gián tiếp bằng giá trị của những
tư liệu sinh hoạt cần thiết để tái
sản xuất ra sức lao động.
- Nhỏ hơn giá trị.
-Giá trị sử dụng đặc biệt: tạo ra
giá trị mới lớn hơn giá trị của
bản thân nó, đó chính là giá trị
thặng dư.
-Người mua có quyền sử dụng,
không có quyền sở hữu, người
bán phải phục tùng người mua.
-Quan hệ mua bán đặc biệt: mua
bán chịu, thường không ngang
giá và mua bán có thời hạn.
- Là nguồn gốc của giá trị thặng
dư
=> Là một hàng hóa đặc biệt.
-Không gắn liền với con
người.
-Chỉ thuần túy là yếu tố vật
chất. Được đo trực tiếp bằng
thời gian lao động xã hội cần
thiết.
-Có thể tương đương với giá
trị.
-Giá trị sử dụng thông thường.
-Người mua và người bán
hoàn toàn độc lập với nhau.
-Ngang giá, mua đứt – bán
đứt.
-Biểu hiện của của cải.
2.a. Quan điểm của CN Mác – Lênin về vấn đề dân tộc:
* Khái niệm dân tộc:
-Thứ nhất, khái niệm dân tộc để chỉ cộng đồng người cụ thể nào đó có những
mối liên hệ chặt chẽ, bền vững, có sinh hoạt kinh tế chung, có ngôn ngữ chung
của cộng đồng trong sinh hoạt văn hóa có những nét đặc thù so với những cộng
đồng khác; xuất hiện sau cộng đồng bộ lạc; có sự kế thừa và phát triển hơn
những nhân tố tộc người ở cộng đồng bộ lạc, bộ tộc và thể hiện thành ý thức tự
giác của các thành viên trong cộng đồng đó.
-Thứ hai, khái niệm dân tộc dùng để chỉ một cộng đồng người ổn định, bền vững
hợp thành nhân dân của 1 quốc gia, có lãnh thổ chung, có nền kinh tế thống
2
nhất, quốc ngữ chung, có truyền thống văn hóa, truyền thống đấu tranh chung
trong quá trình dựng nước và giữ nước.
=> Khái niệm dân tộc và khái niệm quốc gia có sự gắn bó chặt chẽ với nhau.
*Sơ lược quan điểm Mác – Lênin về vấn đề dân tộc:
- Dân tộc là vấn đề rộng lớn, bao gồm những quan hệ về chính trị, kinh tế, lãnh
thổ, pháp lí, tư tưởng và văn hóa giữa các dân tộc, các nhóm dân tộc và bộ tộc.
- Dân tộc là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài của lịch sử.
- Cùng với vấn đề giai cấp, vấn đề dân tộc luôn là 1 nội dung quan trọng có ý
nghĩa chiến lược của cách mạng XHCN, vấn đề dân tộc là 1 bộ phận của những
vấn đề chung về cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản. Do đó, giải quyết
vấn đề dân tộc phải gắn với cách mạng vô sản và trên cơ sở của cách mạng
XHCN.
- Hình thức cộng cùng tiền dân tộc như: thị tộc, bộ tộc, bộ lạc. Sự phát triển của
CNTB dẫn đến sự ra đời của dân tộc TBCN. TBCN bước sang giai đoạn đế quốc
chủ nghĩa, các nước đế quốc thi hành chính sách vũ trang xâm lược, cướp bóc,
nô dịch các dân tộc nhỏ, từ đó xuất hiện vấn đề dân tộc thuộc địa. Mác và
Ăngghen nêu lên quan điểm cơ bản có tính chất phương pháp luận để nhận thức
và giải quyết vấn đề nguồn gốc, bản chất của dân tộc, những quan hệ cơ bản của
dân tộc, thái độ của giai cấp công nhân và Đảng về vấn đề dân tộc.
Lê-nin vừa phát triển quan điểm này thành hệ thống lí luận toàn diện và sâu
sắc về dân tộc, làm cơ sở cho cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng CS về
vấn đề dân tộc. Sự phát triển của vấn đề dân tộc, theo Lê-nin có 2 xu hướng
trong điều kiện của CNTB:
+ Do sự chín muồi của ý thức dân tộc, sự thức tỉnh về quyền sống của mình, các
cộng đồng dân cư muốn tách ra để thành lập các quốc gia, dân tộc độc lập. Xu
hướng này biểu hiện thành phong trào đấu tranh chống áp bức dân tộc để tiến tới
thành lập các quốc gia dân tộc độc lập,và có tác động nổi bật trong giai đoạn đầu
của CNTB.
+Các dân tộc ở từng quốc gia, kể cả các dân tộc ở nhiều quốc gia muốn liên hiệp
lại với nhau. Sự phát triển của lực lượng sản xuất, của giao lưu kinh tế, văn hóa
trong CNTB đã tạo nên mối liên hệ quốc gia về quốc tế mở rộng giứa các dân
tộc, xóa bỏ sự biệt lập, khép kín, thúc đẩy các dân tộc khép lại gần nhau.
3
Khi nghiên cứu về dân tộc, quan hệ dân tộc và những xu hướng phát triển của
nó, CN Mác-Lênin khẳng định rẳng, chỉ trong điều kiện của CNXH, khi tình
trạng áp bức giai cấp, tình trạng người bóc lột người bị thủ tiêu thì tình trạng áp
bức dân tộc cũng bị xóa bỏ.
Và khi XHCN xuất hiện, sự vận động của 2 xu hướng trên không còn gặp nhiều
khó khăn, trở ngại như ở điều kiện CN đế quốc nữa mà chúng sẽ phát huy tác
dụng cùng chiều, bổ sung, hỗ trợ cho nhau và diễn ra trong từng dân tộc, trong
cả cộng đồng quốc gia.
Với những cơ sở trên Lê-nin đã nêu ra “Cương lĩnh dân tộc” với 3 nội dung cơ
bản: các dân tộc hoàn toàn bình đẳng; các dân tộc được quyền tự quyết; liên hiệp
công nhân tất cả các dân tộc. Đây được coi là cương lĩnh dân tộc của CN Mác-
Lênin.
b. Đảng và Nhà nước ta đề ra các biện pháp tăng cường, củng cố khối đại đoàn
kết toàn dân tộc:
Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết nói chung và đoàn kết trong
Đảng nói riêng giữ vị trí vô cùng quan trọng. Đại đoàn kết là sức mạnh vô địch
để làm nên mọi thắng lợi. Để thực hiện đoàn kết toàn dân, phải có Đảng tiên
phong lãnh đạo và Đảng muốn đoàn kết được toàn dân trước hết phải đoàn kết
từ trong Đảng, phải tăng cường niềm tin của dân đối với Đảng và Nhà nước.
- Đoàn kết phải đặt trên cơ sở thống nhất nhận thức về quan điểm, đường lối của
Đảng, nhiệm vụ của đảng viên.
- Thực hiện nghiêm các nguyên tắc, quy định của Đảng - cơ sở bảo đảm cho
đoàn kết thống nhất trong Đảng.
- Đoàn kết trong Đảng để không ngừng góp phần củng cố tình đoàn kết trong
phong trào cách mạng thế giới một cách có nguyên tắc.
Chỉ có thực hiện tốt điều đó mới thực sự góp phần làm cho Đảng trong sạch,
vững mạnh, tạo nên sức mạnh mới của Đảng lãnh đạo thành công sựnghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
Ngoài ra,để củng cố và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân thì vấn đề dân tộc
và tôn giáo cũng là một trong những nhân tố cơ bản quan trọng và nhạy cảm.
Nhất là vấn đề tôn giáo, cần chính sách mềm dẻo, linh hoạt. Đại hội X của Đảng
tiếp tục khẳng định: "Đồng bào các tôn giáo là bộ phận quan trọng của khối đại
đoàn kết dân tộc. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự
4
do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo của công dân, quyền sinh hoạt tôn
giáo bình thường theo pháp luật. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác
nhau, đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Phát huy những
giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Động viên, giúp đỡ đồng bào
theo đạo và các chức sắc tôn giáo sống "tốt đời, đẹp đạo". Các tổ chức tôn giáo
hợp pháp hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ. Thực hiện tốt các
chương trình phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, văn hoá của
đồng bào các tôn giáo. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công
tác tôn giáo. Đấu tranh ngăn chặn các hoạt động mê tín dị đoan, các hành vi lợi
dụng tín ngưỡng, tôn giáo làm phương hại đến lợi ích chung của đất nước, vi
phạm quyền tự do tôn giáo của công dân" .
Công tác dân tộc và việc thực hiện chính sách dân tộc luôn được Đảng và
Nhà nước quan tâm, đó là vấn đề chiến lược lâu dài và cũng là nhiệm vụ cấp
bách. Hệ thống quản lý nhà nước về lĩnh vực công tác dân tộc ngày càng được
kiện toàn, mở rộng và nâng cao. Trong những năm qua, nhiều chủ trương, chính
sách đầu tư phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi,
vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn đã được triển khai thực hiện. Đời
sống của đồng bào các dân tộc đã được cải thiện đáng kể. Cùng với sự phát triển
kinh tế- xã hội, đội ngũ cán bộ, trí thức là người dân tộc cũng được tăng lên.
Khối đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừng được củng cố và tăng cường, an
ninh chính trị vùng dân tộc được giữ vững.
Đảng và Nhà nước ta còn khởi xướng nhiều cuộc vận động khác
nhau.Thông qua Ban công tác Mặt trận, nòng cốt là các tổ chức thành viên như
Hội Phụ nữ, Đoàn thanh niên, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh, Hội Người
cao tuổi MTTQ Việt Nam thường xuyên đi sâu, đi sát , lắng nghe tâm tư,
nguyện vọng của nhân dân, vận động, giúp đỡ các hội viên, đoàn viên gặp khó
khăn về đời sống; tín chấp cho vay vốn để phát triển sản xuất, xóa đói, giảm
nghèo.
*Khởi xướng và chủ trì phối hợp nhiều cuộc vận động:
MTTQ Việt Nam đã khởi xướng và chủ trì phối hợp nhiều cuộc vận động,
nhiều phong trào rộng lớn và lâu dài mang tính toàn dân, toàn quốc, nổi bật
trong những năm gần đây là cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa ở khu dân cư và Ngày vì người nghèo. Đây là hai cuộc vận động
lớn và trở thành điểm sáng trong phong trào thi đua yêu nước nói chung và có
tác dụng rõ rệt vào việc nâng cao vai trò của MTTQ trong giai đoạn mới.
5
Cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư
được đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hơn 100 nghìn khu dân cư trên cả nước,
với các nội dung ngày càng mở rộng và thiết thực, phù hợp tình hình thực tế ở
mỗi địa phương, cơ sở như: phong trào thi đua xóa đói, giảm nghèo, làm nhà
cho người nghèo, đền ơn đáp nghĩa, phòng, chống tội phạm và các tệ nạn xã hội,
chăm lo cho sự nghiệp giáo dục và xây dựng xã hội học tập, bảo vệ môi trường,
bảo đảm trật tự an toàn giao thông; phát huy quyền làm chủ của nhân dân tham
gia xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị ở cơ sở. Qua thực hiện
cuộc vận động, hằng năm công nhận gia đình văn hóa và khu dân cư tiên tiến,
khu dân cư văn hóa càng tăng về số lượng và nâng cao về chất lượng. Ngày hội
đại đoàn kết toàn dân tộc được tổ chức ở hầu hết các khu dân cư nhân dịp kỷ
niệm Ngày thành lập Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam 18-11 hằng năm
với hàng chục triệu người tham dự.
Cuộc vận động Ngày vì người nghèo đã được các tầng lớp nhân dân hưởng
ứng ngày một sôi động và có kết quả rất thiết thực. Quỹ "Vì người nghèo" bốn
cấp từ khi phát động đến nay đã thu được 3.072 tỷ đồng. Từ nguồn Quỹ đã xây
và sửa chữa hơn 955.000 căn nhà Đại đoàn kết. Hiện có 5.931 xã, phường; 306
huyện, thị xã; 17 tỉnh, thành phố được nhận Bằng ghi công đã hoàn thành
chương trình xóa nhà ở dột nát cho người nghèo, đem lại niềm vui cho hàng
triệu người nghèo, niềm vui, niềm tin cho nhân dân cả nước.
*Tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới:
Với chủ đề: "Nâng cao vai trò MTTQ Việt Nam, xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, phát huy dân chủ, góp phần tăng cường đồng thuận xã hội, vì dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", Đại hội VII MTTQ
Việt Nam với tinh thần "Đoàn kết, Dân chủ, Đổi mới và Phát triển", được tổ
chức cuối năm 2009 thành công tốt đẹp. Tại Đại hội, Tổng Bí thư Nông Đức
Mạnh phát biểu ý kiến, khẳng định vị trí, vai trò và nhiệm vụ quan trọng của
MTTQ Việt Nam trong quá trình thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng;
chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tổng Bí thư đề nghị thời gian tới, MTTQ
Việt Nam làm tốt công tác động viên các tầng lớp nhân dân hăng hái tham gia
các phong trào thi đua, các cuộc vận động thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh
tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, phát huy mọi nguồn lực đẩy mạnh
CNH, HĐH, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tổ chức và
hướng dẫn nhân dân phát huy quyền làm chủ, chủ động và tích cực tham gia xây
dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh, nhất là ở cơ sở; củng cố và tăng
cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân
Hiện nay toàn Đảng, toàn dân ta đang nỗ lực phấn đấu để đưa đất nước sớm
thoát khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao hơn nữa đời sống vật chất và tinh
6
thần cho nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại. MTTQ Việt Nam đang ra sức làm tròn
nhiệm vụ nặng nề là tiếp tục củng cố, tăng cường và phát huy sức mạnh khối đại
đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vận động đồng bào trong và
ngoài nước đoàn kết, đồng tâm hiệp lực cùng toàn Đảng, toàn quân và toàn dân
phát huy lòng yêu nước, đồng lòng chung sức thực hiện thắng lợi sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước. Năm 2010, cùng với việc tiếp tục chung sức chung lòng,
cùng Đảng và Nhà nước vượt qua khó khăn thách thức, phòng ngừa lạm phát,
ngăn chặn suy giảm kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và
duy trì tăng trưởng kinh tế; đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, nâng cao
hiệu quả cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu
dân cư và Ngày vì người nghèo; cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng
hàng Việt Nam" bằng những công trình, sản phẩm thiết thực, hướng vào thực
hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của đất nước và địa phương năm
2010, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng, chào mừng
kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, 120 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí
Minh, 65 năm thành lập nước, 80 năm Ngày thành lập Mặt trận Dân tộc Thống
nhất Việt Nam và các ngày lễ lớn của đất nước năm 2010.
Thanks for your attention
7