Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

thực tế cách mạng việt nam và sự đúng đắn của mối quan hệ biện chứng vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.16 KB, 20 trang )

Mục lục:
Đặt vấn đề.
I.Giới thiệu Hồ Chí Minh và tư tưởng Hồ Chí Minh:
1. Hồ Chí Minh từ một chiến sĩ yêu nước, đấu tranh vì độc lập dân tộc
thành một chiến sĩ cộng sản, vận động biện chứng vấn đề dân tộc và vấn đề giai
cấp - sự phát triển trong con người HCM.
2.Khái niệm, điều kiện lịch sử, nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh
II.Biện chứng vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
1.Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh:
2.Vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh:
3.Mối quan hệ biện chứng hai vấn đề trên
4.Thực tế cách mạng Việt Nam và sự đúng đắn của mối quan hệ biện
chứng vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp.
III. Kết luận
1
BÀI LUẬN
Trước năm 1930, có rất nhiều phong trào yêu nước như Cần Vương, khởi
nghĩa Yên Thế, Đông du, Duy tân… chống thực dân Pháp đã diễn ra nhưng đều
thất bại vì không có đường lối đấu tranh đúng đắn. Chỉ đến khi chủ nghĩa Mac-
Lênin được truyền bá vào nước ta, đường lối Cách mạng được Hồ Chí Minh xác
định, Đảng Cộng sản tập hợp, lãnh đạo toàn dân trong mặt trận dân tộc thống
nhất chống giặc ngoại xâm, xây dựng xã hội mới thì Cách Mạng nước ta mới thu
được thành quả như mong đợi: giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà, xây
dựng Tổ quốc giàu mạnh… Sự khác biệt cơ bản dẫn tới sự thành công của Cách
mạng tháng Tám-1945 chính là sự lãnh đạo của Đảng đã huy động được sức
mạnh đoàn kết của toàn dân tộc. Chính nhận thức đúng đắn mối quan hệ biện
chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh là
nguyên nhân quan trọng nhất đưa đến thành công này.
I. Giới thiệu Hồ Chí Minh và tư tưởng Hồ Chí Minh:
1. Hồ Chí Minh từ một chiến sĩ yêu nước, đấu tranh vì độc lập dân tộc thành


một chiến sĩ cộng sản, vận động biện chứng vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp -
sự phát triển trong con người HCM.
Chủ tịch Hồ Chí Minh (tên lúc nhỏ là Nguyễn Sinh Cung, tên khi đi học là
Nguyễn Tất Thành, trong nhiều năm hoạt động cách mạng trước đây lấy tên là
Nguyễn Ái Quốc, và còn nhiều tên khác nữa), sinh ngày 19-5-1890 ở quê ngoại
là làng Hoàng Trù (quê nội là làng Sen), xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh
Nghệ An và mất ngày 2-9-1969 tại Hà Nội. Cụ thân sinh là quan phó bảng
Nguyễn Sinh Sắc, một nhà nho yêu nước, có tư tưởng tiến bộ, thân dân; mẫu
thân là bà Hoàng Thị Loan, con gái một nhà Nho, là một phụ nữ giàu đức hi
sinh cho chồng cho con; chị là bà Nguyễn Thị Thanh và anh là ông Nguyễn Sinh
Khiêm (tự là Tất Đạt) đều tham gia chống Pháp và bị tù đày.
Cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh là một quá trình biện chứng liên tục, một
sự vân động từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa xã hội, đem chủ nghĩa xã hội
2
về giác ngộ quần chúng nhân dân, vạch ra con đường đúng đắn giải phóng dân
tộc, dương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội.
Lòng yêu nước, yêu nhân dân hình thành rất sớm trong con người Hồ Chí Minh.
Sinh ra trong một gia đình nho giáo giàu truyền thống, những tư tưởng của quan
phó bảng Nguyễn Sinh Sắc ảnh hưởng rất nhiều tới các con. Tận mắt chứng kiến
cuộc sống lầm than của nhân dân trong vùng, những lam lũ nhọc nhằn của mẹ,
những trăn trở của những nhà Nho yêu nước thường đến bàn bác cùng cha cậu
bé Nguyễn Sinh Cung đã sớm có mong muốn giúp dân cưú nước. Tháng 9 năm
1907, Người vào học tại trường Quốc học Huế, ngay khi còn đi học, Bác đã hòa
mình vào những phong trào đấu tranh của nhân dân. Cuối tháng 5 năm 1908,
Bác tham gia phong trào chống thuế của nhân dân Trung Kỳ, Người bị triều
đình phong kiến phản động và bọn thực dân gây sức ép đuổi học. Những năm
tháng đi học, được tiếp xúc với văn hóa Pháp, Bác ấn tượng với “ tự do, bình
đẳng, bác ái” mà người Pháp vẫn nói, Người muốn đi sang Pháp tìm hiểu những
giá trị thực sự của nó và những tiến bộ khác về giúp xây dựng nước nhà. Ngày 5
tháng 6 năm 1911, từ Bến Nhà Rồng, ông lấy tên Văn Ba, lên đường sang Pháp

với nghề phụ bếp trên tàu Đô đốc Latouche-Tréville, bắt đầu những ngày bôn ba
tìm đường cứu nước. Bác đã nhận ra mâu thuẫn giữa lời nói “tự do, bình đẳng,
bác ái” của thực dân Pháp và hành động thực dân của chúng. Đi tới đâu, khắp
châu Âu, châu Mỹ, châu Á, châu Phi Bác đều chứng kiến cuộc sống khổ cực lầm
than của nhân dân lao động, hoà mình tham gia lao động và đấu tranh trực tiếp
trong hàng ngũ giai cấp công nhân, Bác kết luận trên đời chỉ có hai loại người,
đó là những người bóc lột và những người bị bóc lột. Cuối năm 1917, Người trở
lại nước Pháp, ngày 19 tháng 6 năm 1919, thay mặt Hội những người An Nam
yêu nước, Nguyễn Tất Thành đã mang tới Hội nghị Hòa bình Versailles bản Yêu
sách của nhân dân An Nam gồm 8 điểm với hai nội dung chính là đòi sự bình
đẳng về mặt pháp lý cho người dân An Nam và quyền tự do dân chủ tối thiểu
cho người dân An Nam, kêu gọi lãnh đạo các nước Đồng Minh áp dụng các lý
tưởng của Tổng thống Wilson cho các lãnh thổ thuộc địa của Pháp ở Đông Nam
3
Á. Nhưng bản yêu sách không được chấp nhận, chủ nghĩa Wilson chỉ là trò bịt
bợm, Bác kết luận chỉ có đấu tranh bằng con đường bạo lực mới có thể giành
độc lập. Tháng Bảy năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc Luận cương về vấn đề dân
tộc và thuộc địa của Lenin, trong đó có đưa ra những vấn đề chiến lược, tiến bộ
về dân tộc, thuộc địa như khẳng định quyền tự do, độc lập tự chủ về mọi mặt của
các dân tộc trong đó có các dân tộc thuộc địa, nhân dân các nước chính quốc
phải giúp đỡ các dân tộc thuộc địa trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, nhiệm vụ
đấu tranh của các dân tộc thuộc địa không chỉ là đấu tranh chống các lực lượng
ngoại xâm mà còn phải chống lại các lực lượng phản động trong nước, sau khi
hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc, các dân tộc thuộc địa có thể lựa chọn
con đường xây dựng CNXH, bỏ qua CNTB, Liên Xô sẽ trở thành thành trì của
nền hoà bình thế giới và Quốc tế Cộng sản trở thành bộ tham mưu chiến đấu của
các phong trào đấu tranh quốc tế. Nhận thấy những quan điểm đúng đắn, tiến bộ
và phù hợp với tình hình đấu tranh của dân tộc mình trong bản sơ thảo trên
Nguyễn Ái Quốc đã đứng hoàn toàn về phía Quốc tế Cộng sản. Người tìm hiểu,
khảo sát cuộc cách mạng tháng Mười Nga, tự học và tìm đến với chủ nghĩa

Mác-Lênin. Người tham dự Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp tại Tours
(từ 25 đến 30 tháng 12 năm 1920) với tư cách là đại biểu Đông Dương của Đảng
Xã hội Pháp, bỏ phiếu tán thành đảng Xã hội Pháp ra nhập Quốc tế cộng sản và
trở thành một trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện này
đánh dấu bước chuyển biến quan trọng, Nguyễn Ái Quốc từ chủ nghĩa yêu nước
đến chủ nghĩa Mác-Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, từ người
yêu nước trở thành nười cộng sản. Người khẳng định “muốn cứu nước, giải
phóng dân tộc không còn con đường nào khác là con đường cách mạng vô sản”.
Ngày 3-2-1930, Người chủ tọa Hội nghị thành lập Đảng họp tại Cửu Long (gần
Hương Cảng). Hội nghị đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt,
Điều lệ Đảng do chính Người soạn thảo.
Năm 1941, Người về nước, triệu tập Hội nghị lần thứ 8 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, quyết định đường lối, tổ chức lực
4
lượng vũ trang giải phóng, lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa từng phần và chuẩn bị
tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
Cách mạng Tháng Tám (1945) thắng lợi. Quốc hội khóa I đã bầu Người làm
Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1946).
Cùng với Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo toàn Đảng, toàn
quân, toàn dân Việt Nam đánh tan quân xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ bảo vệ và phát triển những thành quả của Cách mạng Tháng Tám, giữ vững
độc lập tự do của Tổ quốc, thống nhất đất nước, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã
hội.
Người là tấm gương sáng của tinh thần yêu nước, ý thức và đạo đức cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, lãnh tụ
kính yêu của giai cấp công nhân và của cả dân tộc Việt Nam, một chiến sĩ xuất
sắc, một nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế và phong trào
giải phóng dân tộc.
2. Khái niệm, điều kiện lịch sử xã hội, nguồn gốc hình thành tư tưởng
HCM:

a. Khái niệm:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn để cơ bản của Cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân đến cách mạng XHCN, là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát
triển chủ nghĩa Mác Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, đồng thời là sự kết
tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp và con người.
b.Điều kiện lịch sử xã hội hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh:
● Tình hình trong nước:
Nguyễn Tất Thành sinh ra và lớn lên trong một bối cảnh lịch sử, xã hội
phức tạp. Từ năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, triều đình nhà
Nguyễn nhu nhược dần dâng nước ta cho Pháp. Đến những năm 1890, thực dân
Pháp bắt đầu khai thác thuộc địa lần thứ nhất, khi chiến tranh thế giới thứ nhất
5
nổ ra, chúng lại càng tăng cường bóc lột tận xương tuỷ nhân dân ta, xã hội Việt
Nam biến đổi sâu sắc từ phong kiến đến phong kiến nửa thuộc địa, ngoài các
giai cấp nông dân, địa chủ, tiểu thủ công và thương nghiệp còn xuất hiện các
giai cấp tư sản, tiểu tư sản, công nhân và trí thức. Xã hội tồn tại hai mâu thuẫn
cơ bản là mâu thuẫn giữa toàn dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và
tay sai, mâu thuẫn thứ hai là giữa nông dân Việt Nam với giai cấp địa chủ phong
kiến. Để giải quyết những mâu thuẫn khách quan đó, nhiều sĩ phu yêu nước đã
đứng lên tập hợp lực lượng chống lại thực dân Pháp xâm lược nhưng cuối cùng
đều thất bại vì không tìm được lối đi đúng đắn để đoàn kết toàn dân đánh giặc,
nước ta trong tình trạng khủng hoảng đường lối “tình hình đen tối như không có
đường ra”. Chính điều đó đã thúc đẩy Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh ra đi tìm
đường cứu nước mới cho dân tộc, lòng yêu nước là động lực, giải phóng dân tộc
là mục tiêu hành động của Người.
●Bối cảnh thế giới:
Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, chủ nghĩa tư bản từ cạnh tranh nhanh
chóng chuyển sang độc quyền, lực lượng sản xuất phát triển cao mâu thuẫn với

quan hệ sản xuất TBCN. Chủ nghĩa tư bản bộc lộ rõ bản chất bóc lột, chúng
không chỉ bóc lột nhân dân lao động trong nước mà còn không ngừng xâm lược
mở rộng thuộc địa, các nước tư bản liên minh với nhau đặt ra yêu cầu mới là sự
đoàn kết các nước thuộc địa, nhân dân lao động thế giới cùng đấu tranh chống
kẻ thù chung. Vấn để dân tộc trở thành vấn đề quốc tế rộng lớn.
Trên thế giới diễn ra các cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa và cách mạng của giai cấp vô sản toàn cầu.
Cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi mở ra một thời đại quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, cổ vũ phong trào cách mạng thế giới.
Như vậy, trong bối cảnh thời đại, việc giải quyết hai vấn đề giải phóng
dân tộc và giải phóng giai cấp là hai xu hướng chủ đạo.
● Quê hương và gia đình:
6
Hồ Chí Minh sinh trưởng trong một gia đình nhà nho yêu nước, gần gũi
với nhân dân. Tư tưởng yêu nước, thân dân tiến bộ, chủ trương lấy nhân dân làm
hậu thuẫn cho mọi cải cách chính trị của cha ảnh hưởng sâu sắc tới tư tưởng của
Bác. Mẹ Người là bà Hoàng Thị Loan, một người phụ nữ nông thôn giàu đức hi
sinh cho chồng cho con. Vùng quê Nghệ Tĩnh đã khó khăn lại càng xơ xác dưới
sự bóc lột của thực dân phong kiến nhưng lại thuần hậu và giàu truyền thống
yêu nước, đấu tranh cho dân tộc. Chính thực tế quê hương cho Người nhận thức
sự bản chất bóc lột của đế quốc, phong kiến với nhân dân thuộc địa, hình thành
lòng yêu dân, yêu nước, thôi thúc Người đi tìm đường cứu nước cứu dân.
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn
đề dân tộc và vấn đề giai cấp luôn có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại
lẫn nhau. Hồ Chí Minh đi từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa vô sản, dùng con
đường cách mạng vô sản để giải phóng dân tộc, xây dựng Tổ Quốc xã hội chủ
nghĩa. Vì những lý do trên nên sự biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai
cấp là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tư tưởng Hồ Chí Minh.
II. Biện chứng vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
1. Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh:

a. Quan điểm của Mác, Ăngghen, Lênin về vấn đề dân tộc :
- Mác, Ăngghen nêu các quan điểm cơ bản có tính chất phương pháp luận
về vấn đề này, đó là nguồn gốc, bản chất của vấn đề dân tộc, những quan hệ cơ
bản của dân tộc, thái độ của giai cấp công nhân và Đảng của giai cấp công nhân
với vấn đề dân tộc.
- Lênin phát triển vấn đề dân tộc thành hệ thống lý luận toàn diện, gồm
các nội dung sau:Quá trình hình thành dân tộc ở các nước và vấn đề về các dân
tộc thuộc địa gồm hai xu hướng phát triển khách quan của vấn đề dân tộc, xây
dựng cương lĩnh dân tộc và từ đó tạo cơ sở hoạch định đường lối chính sách dân
tộc của Đảng cộng sản, của giai cấp trong thời đại đế quốc chủ nghĩa. Xu hướng
thứ nhất là sự thức tỉnh của ý thức dân tộc, của phong trào đấu tranh chống áp
bức dân tộc sẽ dẫn tới việc thành lập các quốc gia dân tộc. Xu hướng thứ hai là
7
xu hướng liên kết dân tộc, việc tăng cường, phát triển mối quan hệ giữa các dân
tộc sẽ dẫn tới vịêc phá huỷ hàng rào ngăn cách dân tộc, thiết lập sự thống nhất
quốc tế, của đời sống kinh tế, chính trị, khoa học … nói chung. Xây dựng cương
lĩnh dân tộc gồm các vấn đề cơ bản là các dân tộc hoàn toàn bình đẳng, có quyền
tự quyết, đoàn kết giai cấp công nhân giữa các dân tộc. Lênin khẳng định CNTB
và chủ nghĩa tư sản dân tộc không thể giải quyết được vấn đề dân tộc mà chỉ làm
cho mối xung đột dân tộc ngày càng tăng lên. Chỉ có cách mạng vô sản và
CNXH mới có thể thực hiện sự bình đẳng dân tộc, xây dựng tình hữu nghị giữa
các dân tộc, làm cho các dân tộc ngày càng xích lại gần nhau. Từ đó, Lênin yêu
cầu các Đảng cộng sản: Phải kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện của Chủ
nghĩa dân tộc tư sản, Chủ nghĩa sôvanh, Để giành thắng lợi cho Chủ nghĩa quốc
tế vô sản.
b. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc:
Dựa trên quan điểm về vấn đề dân tộc của Mac, Engel và Lênin kết hợp
với chủ nghĩa yêu nước, tình hình thực tế ở Việt Nam và các nước thuộc địa
khác, Hồ Chí Minh đã hình thành những luận điểm khoa học, tiến bộ, đúng đắn
về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc. Người nhận định thực chất

vấn đề dân tộc thuộc địa là vấn đề đấu tranh giải phóng dân tộc. Đó là đấu tranh
chống lại sự áp bức bóc lột của chủ nghĩa thực dân giải phóng dân tộc, xác lập
quyền độc lập, tự quyết và xây dựng nhà nước dân tộc độc lập.Ba nội dung lớn
trong vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập tự do là quyền
thiêng liêng, bất khả xâm phạm của các dân tộc; chủ nghĩa dân tộc là một động
lực lớn của đất nước; kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế.
Đầu tiên và trên hết, Người khẳng định độc lập, tự do là quyền thiêng
liêng bất khả xâm phạm của các dân tộc “tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh
ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự
do”(Tuyên ngôn độc lập-1945). Độc lập, tự do, hoà bình và thống nhất đất nước
là khát vọng cháy bỏng của người dân mất nước. Bởi, mất nước là mất tất cả.
8
Chính vì vậy mà “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Độc lập cho dân tộc, tự
do cho nhân dân trở thành mục tiêu hàng đầu của cuộc đời hoạt động Hồ Chí
Minh và tiến trình cách mạng Việt Nam. Khi trả lời câu hỏi của nữ đồng chí
Rôdơ, thư ký Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp, 29/12/1920: Tại sao
đồng chí lại bỏ phiếu cho Quốc tế III? Hồ Chí Minh trả lời: “Quốc tế III rất chú
ý đến vấn đề thuộc địa… Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy
là tất cả những điều tôi muốn, tất cả những điều tôi hiểu.”
Độc lập tự do trong tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập tự do thực sự, gắn
liền với chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Năm 1945, đứng trước thời
cơ mới của cách mạng nước ta, khi nói chuyện với đồng chí Võ Nguyên Giáp,
Hồ Chí Minh khẳng định: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù phải đốt cháy cả
dãy Trường Sơn cũng phải cương quyết giành cho được độc lập.” Độc lập dân
tộc gắn liền với quyền tự quyết dân tộc. Trong bản tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí
Minh phát biểu “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực
đã trở thành một nước tự do và độc lập. Toàn bộ dân tộc Việt Nam quyết đem tất
cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập
ấy”. Năm 1966, khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng

không quân và hải quân, Hồ Chí Minh kêu gọi: “Chiến tranh có thể kéo dài 5
năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành
phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ!
Không có gì quý hơn độc lập tự do.” Độc lập, tự do gắn liền với việc đảm bảo
cuộc sống hoà bình, ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Bởi có độc lập, có tự
do mà nhân dân vẫn đói khổ, thì nền độc lập tự do ấy cũng chẳng có ý nghĩa gì.
Người nói: “tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước tôi
được độc lâp, dân tôi được tự do, đồng bào tôi ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai
cũng được học hành…”
Hồ Chí Minh coi mục tiêu đấu tranh vì độc lập của Tổ quốc, tự do của
đồng bào là lẽ sống của mình. Quyền độc lập dân tộc không tách rời quyền con
người và độc lập là điều kiện tiên quyết để mang lại hạnh phúc cho mọi người
9
dân của đất nước mình, để dân tộc Việt Nam được quyền sống bình đẳng với các
dân tộc khác trên thế.
Thứ hai, chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước, nhất là với
các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập. Quan điểm của quốc tế cộng sản là
chủ nghĩa dân tộc mâu thuẫn với chủ nghĩa quốc tế. Nhưng Hồ Chí Minh luôn
khẳng định chủ nghĩa dân tộc là chủ nghĩa dân tộc chân chính dựa trên cơ sở
khái quát dựa trên tinh thần đoàn kết dân tộc và ý chí độc lập, khát vọng tự do.
Nó hoàn toàn khác biệt , đối lập với chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và chủ nghĩa
Xovanh. Nó hoàn toàn thống nhất với chủ nghĩa quốc tế. Có hai cơ sở khẳng
định chủ nghĩa dân tộc là động lực to lớn với nước ta. Thứ nhất là từ truyền
thống văn hoá dân tộc, lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, lòng yêu nước
của nhân dân ta. Thứ hai là vận dụng phương pháp biện chứng khoa học của chủ
nghĩa Mac- Lênin phân tích cấu trúc xã hội Việt Nam, sự vận động của xã hội từ
đó khái quát thành chủ nghĩa dân tộc.
Thứ ba, kết hợp chắt chẽ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp, độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước gắn liền với chủ nghĩa quốc
tế. Cả Mac, Engel và Lênin đều nhấn mạnh vai trò giải phóng giai cấp, vấn đề

giai cấp. Mac và Engel luôn khẳng định vai trò của vấn đề giai cấp với vấn đề
dân tộc, coi vấn đề dân tộc là một bộ phận của vấn đề giai cấp, điều này phù hợp
với thực tế châu Âu khi mâu thuẫn giai cấp trong xã hội đặc biệt sâu sắc. Lênin
khẳng định sự nghiệp đấu tranh của giai cấp vô sản của các nước chính quốc
muốn thành công phải liên kết chặt chẽ với sự nghiệp cách mạng dân tộc của các
nước thuộc địa nhưng sự nghiệp cách mạng của vô sản chính quốc có vai trò
quyết định. Khác với Mac, Engel và Lênin, theo Hồ Chí Minh sự nghiệp cách
mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa do giai cấp công nhân thuộc địa
lãnh đạo dựa trên hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản và thực hiện khối liên minh công nông, thực hiện mục tiêu lý
tưởng là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Thực tế ở Việt Nam, vấn
đề dân tộc là vấn đề trên hết và trước hết. Giải phóng dân tộc là tiền đề giải
10
phóng giai cấp, lợi ích giai cấp ở các nước thuộc địa lệ thuộc vào vận mệnh dân
tộc. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đây chính là nguyện vọng của
dân tộc và xu thế phát triển của thời đại. Bên cạnh đó, độc lập dân tộc mình
đồng thời phải tôn trọng độc lập dân tộc khác
Người cho rằng phải thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc và đoàn
kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Hồ
Chí Minh đã nhấn mạnh: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Giarai hay
Êđê, Xơđăng hay Bana… đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt.
Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, nó đói giúp nhau.” Không
chỉ với người Việt ở trong nước, Bác còn cho rằng phải đoàn kết, thương yêu
người Việt Nam sống ở nước ngoài và thân thiện với người nước ngoài sống ở
Việt Nam. “trong mấy triệu người Việt Nam có người thế này, người thế khác,
nhưng thế này hay thế khác đều là dòng dõi của tổ tiên ta, vậy nên ta phải khoan
dung đại độ, ta phải nhận rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít nhiều
lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường ta phải dùng tình thân
ái mà cảm hoá họ, có như vậy mới thành đoàn kết, có đại đoàn kết thì tương lai
chắc chắn sẽ vẻ vang”.

2. Vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh:
a. Vấn đề giai cấp trong chủ nghĩa Mac- Lênin:
Theo Mac, vấn đề giai cấp và giải quyết vấn đề mâu thuẫn giai cấp là
động lực của sự phát triển xã hội. Trong xã hội tư bản tồn tại mâu thuẫn chủ yếu
và sâu sắc nhất đó là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản. Giai cấp
vô sản bị giai cấp tư sản bóc lột, bị bần cùng hoá, nhưng lại là giai cấp tiến bộ
trong xã hội. Cuộc cách mạng của giai cấp vô sản sẽ đồng loạt nổ ra và giành
thắng lợi, phá vỡ quan hệ sản xuất TBCN, xoá bỏ quan hệ người bóc lột người,
thiết lập xã hội xã hội chủ nghĩa với lực lượng sản xuất phát triển ở trình độ cao,
mọi người đều tự do lao động, tự do phát triển, công bằng, ấm lo, hạnh phúc.
Theo Lênin, vấn đề giai cấp cũng là vấn đề chủ chốt nhất, có ý nghĩa quan
trọng nhất. Ông khẳng định chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh nhanh chóng
11
chuyển thành chủ nghĩa tư bản độc quyền, các nước đế quốc không chỉ bóc lột
nhân dân lao động trong nước mà còn không ngừng chiến tranh xâm lược và bóc
lột nhân dân thuộc địa. Chủ nghĩa đế quốc, thực dân trở thành hệ thống thế giới,
vừa cạnh tranh lại vừa cấu kết nhau đàn áp phong trào đấu tranh của các lực
lượng bị bóc lột. Do đó yêu cầu tất yếu trong sự nghiệp đấu tranh chống kẻ thù
chung là chủ nghĩa tư bản đó là “vô sản các nước đoàn kết lại”. Cách mạng
tháng Mười Nga thắng lợi, có thể cách mạng vô sản không nổ ra đồng loạt như
Mac nói nhưng Liên Xô đã nêu cao ngọn cờ xã hội chủ nghĩa, là thành trì của
hoà bình thế giới, giúp đỡ nhân dân lao động các nước khác đấu tranh. Lênin
cho rằng: trong sự nghiệp chống lại chủ nghĩa đế quốc, sự nghiệp cách mạng của
vô sản chính quốc có vai trò quyết định.
b. Vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh:
Cả Mac và Lênin đều nhấn mạnh vai trò của giải phóng giai cấp. Hai ông
đã đúng với thực tiễn đấu tranh của các nước châu Âu, nơi mà vấn đề mâu thuẫn
giai cấp đặc biệt sâu sắc. Nhưng “châu Âu không phải là cả thế giới”(H.C.M),
với tình hình thực tế ở Việt Nam, Hồ Chí Minh dựa trên những phương pháp
phân tích khoa học của chủ nghĩa Mac đã nhận ra những vấn đề khác biệt về tính

giai cấp trong xã hội Việt Nam, từ đó có những đánh giá, nhận định khách quan,
chính xác xu hướng vận động của xã hội nước ta và đặc thù chung của vấn đề
đấu tranh giai cấp nước ta.
Trong xã hội Việt Nam có nhiều giai cấp gồm có nông dân, công nhân, tri
thức, tiểu tư sản, địa chủ và tư sản. Nhưng Việt Nam vốn là một nước nông
nghiệp lạc hậu, lực lượng sản xuất phát triển thấp kém nên sự phân hoá trong cơ
cấu kinh tế không mạnh, mâu thuẫn lợi ích giữa các tầng lớp xã hội không lớn,
sự phân hoá trong cơ cấu xã hội không sâu sắc.
Các giai cấp trong xã hội Việt Nam tuy có sự khác biệt về lợi ích nhưng
họ đều chung một cảnh ngộ là người dân mất nước, đều chịu sự đô hộ của thực
dân và đều có nguyện vọng giải phóng đất nước.
12
Do những đặc điểm khác biệt trong vấn đề giai cấp ở các nước chính quốc
và các nước thuộc địa và theo tình hình thực tế của Việt Nam, Hồ Chí Minh đã
chủ trương “phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế Cộng sản,
khi chủ nghĩa dân tộc của họ dành thắng lợi thì nó sẽ trở thành chủ nghĩa quốc
tế”.
3. Mối quan hệ biện chứng 2 vấn đề trên:
a. Cách mạng giải phóng dân tộc phải tiến hành bằng cách mạng vô sản
thì mới thành công và triệt để
Trước khi Hồ Chí Minh tìm ra con đường giải phóng dân tộc là làm cách
mạng vô sản thì đã có các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp liên tục nổ
ra, nhưng đều thất bại. Nguyên nhân quan trọng nhất là do bế tắc về đường lối,
mặc dù các bậc lãnh tụ của những phong trào ấy rất yêu nước và dành trọn tâm
huyết cho sự nghiệp cứu nước nhưng do họ không nhận thức được lực lượng
tiến bộ đại biểu cho một phương thức sản xuất mới của thời đại lúc này là giai
cấp công nhân nên những phong trào ấy không phản ánh đúng xu thế vận động
của lịch sử, do đó không thể đem lại kết quả. Trong hải ngoại huyết thư, Phan
Bội Châu đã kêu gọi mười loại người đoàn kết nhưng trong đó thiếu đi hai lực
lượng cơ bản nhất là nông dân và công nhân. Chỉ khi Hồ Chí Minh và các đồng

chí của Người tập hợp, lãnh đạo đông đảo quần chúng làm cách mạng thì mới
thành công.
Nghiên cứu các cuộc cách mạng dân chủ tư sản Mỹ (1776); Pháp (1789),
Nguyễn Ái Quốc nhận thấy các cuộc cách mạng này tuy nêu khẩu hiệu ''tự do'',
''bình đẳng'', nhưng không đưa lại tự do, bình đẳng thực sự cho quần chúng lao
động. Người viết: Tiếng là cộng hoà, dân chủ kì thực trong thì nó bóc lột công
nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Tuy khâm phục các cuộc cách mạng ấy,
nhưng Nguyên Ái Quốc cho rằng đó là cách mạng chưa đến nơi, làm cách mạng
xong mà dân vẫn đói khổ thì cách mạng đấy không có ý nghĩa.
Sau khi đọc ''Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về dân tộc và thuộc địa”
của V.I. Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã thấy rõ hơn con đường đúng đắn mà cách
13
mạng Việt Nam sẽ trải qua. Người khẳng định: ''Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao
động trên thế giới khỏi ách nô lệ''; rằng: ''Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc
không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản''. Kết luận trên đây
của Nguyễn Ái Quốc là sự khẳng định một hướng đi mới, nguyên tắc chiến lược
mới, mục tiêu và giải pháp hoàn toàn mới, khác về căn bản so với các lãnh tụ
của các phong trào yêu nước trước đó ở Việt Nam; đưa cách mạng giải phóng
dân tộc vào quỹ đạo của cách mạng vô sản. Vì vậy, con đường phát triển tất yếu
của cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng XHCN.
Người chỉ rõ: ''Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng
xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn''.
b. giải phóng dân tộc là điều kiện cần để giải quyết vấn đề giai cấp:
Do chủ nghĩa đế quốc trở thành hệ thống thế giới, tư bản độc quyền bên
cạnh việc cạnh tranh nhau phân chia thuộc địa còn bắt tay nhau đàn áp phong
trào đấu tranh của nhân dân lao động cả trong nước và thuộc địa “chủ nghĩa đế
quốc là con đỉa hai vòi”, một vòi nó hút máu nhân dân lao động trong nước, vòi
kia nó hút máu nhân dân các nước thuộc địa. Yêu cầu tất yếu là nhân dân bị áp
bức phải đoàn kết lại chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc thực dân thì mới

có thể giành thắng lợi, Lênin kêu gọi “vô sản các nước đoàn kết lại”, Hồ Chí
Minh viết cách mạng vô sản ở các nước chính quốc và ở các nước thuộc địa
“như hai cánh của một con chim”. Vì vậy muốn giải quyết vấn đề giai cấp ở các
nước chính quốc thì cần phải cắt đứt vòi hút máu các nước thuộc địa của con đỉa
đế quốc, cũng như muốn bay được, bay cao thì hai cánh của con chim phải phối
hợp nhịp nhàng vậy.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã đấu
tranh và chỉ đạo giải quyết mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc và giải phóng
giai cấp, bền bỉ chống các quan điểm không đúng về vấn đề dân tộc và thuộc
địa, đã phát triển lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc. Ngay từ khi hoạt
động trong phong trào công nhân ở Pháp, Người đã nhận thấy một hố sâu ngăn
14
cách giữa giai cấp công nhân và nhân dân lao động ''chính quốc'' với giai cấp
công nhân và nhân dân lao động thuộc địa đó là chủ nghĩa sô-vanh nước lớn và
chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi đối với các dân tộc bị thống trị. Trong Đại hội Tua,
thành lập Đảng Cộng sản Pháp (1920), Nguyễn Ái Quốc đã kêu gọi những
người xã hội ủng hộ phong trào giải phóng ở các thuộc địa và lên án phái nghị
viện đi theo đường lối cơ hội của Đệ nhị quốc tế, từ chối yêu cầu giải phóng của
các dân tộc thuộc địa. Trong nhiều tham luận tại các Đại hội quốc tế và các bài
viết, Nguyễn Ái Quốc đã bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, phê bình một cách kiên
quyết và chân thành những sai lầm, khuyết điểm của các Đảng Cộng sản chính
quốc tuy thừa nhận 21 điều kiện của Quốc tế cộng sản, trong đó Điều 8 quy định
các Đảng Cộng sản ở chính quốc phải ủng hộ và hoạt động một cách thiết thực
giúp đỡ phong trào giải phóng dân tộc; nhưng trên thực tế hoạt động rất ít, do
không nhận thức đúng tầm quan trọng của vấn đề thuộc địa.
Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay từ khi mới thành lập, trong
''Chính cương vắn tắt'' do Nguyên Ái Quốc khởi thảo đã khẳng định: ''Chủ
trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản''. Như vậy, bước đầu tiên của cách mạng Việt Nam là làm cách mạng
tư sản dân quyền, tức là chống thực dân Pháp, giải phóng dân tộc vì theo phân

tích hoàn toàn đúng đắn của Người thì ở Việt Nam, vấn đề dân tộc là vấn đề trên
hết và trước hết, giải phóng dân tộc là tiền đề giải phóng giai cấp (Hội nghị
TW8, 5/1941), lợi ích giai cấp phụ thuộc vận mệnh dân tộc, nếu dân tộc chưa
được độc lập thì giai cấp chưa được tự do, không thể thoát khỏi ách áp bức bóc
lột. Khi làm cách mạng vô sản giải phóng dân tộc xong, quyền quyết định thuộc
về nhân dân thì sẽ tiến hành thổ địa cách mạng đi tới xã hội cộng sản. Như vậy
là, lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng Việt Nam, với Hồ Chí Minh, sự nghiệp
đấu tranh giải phóng dân tộc gắn liền với cách mạng XHCN. Cuộc cách mạng
này kết hợp trong bản thân nó tiến trình của hai sự nghiệp giải phóng: giải
phóng dân tộc khỏi ách nô lệ thực dân và giải phóng giai cấp khỏi ách áp bức
bóc lột. Vấn đề dân tộc được giải quyết trên lập trường của giai cấp công nhân -
15
điều đó phù hợp với xu thế thời đại. Sức mạnh đi tới thắng lợi của cách mạng
Việt Nam chính là mục tiêu dân tộc luôn thống nhất với mục tiêu dân chủ trên
cơ sở định hướng XHCN. Đặc điểm nổi bật của cách mạng Việt Nam là cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân triệt để, tạo tiền đề cho bước chuyển sang thời
kỳ quá độ lên CNXH, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa. Đây là quan điểm hết
sức căn bản của tư tưởng Hồ Chí Minh: chỉ có hoàn thành cách mạng giải phóng
dân tộc mới có điều kiện để tiến lên CNXH và chỉ có cách mạng XHCN mới giữ
vững được thành quả cách mạng giải phóng dân tộc, mới mang lại cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc cho mọi tầng lớp nhân dân, mới có độc lập dân tộc thực sự,
mới có cách mạng triệt để.
c. Vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp đều hướng tới mục tiêu giải phóng
con người, vì con người:
Giải phóng con người, vì con người là mục tiêu hoạt động tối cao của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, “tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho
nước tôi được độc lâp, dân tôi được tự do, đồng bào tôi ai cũng có cơm ăn, áo
mặc, ai cũng được học hành…” Ba giai đoạn của cách mạng VIệt Nam được
người xác định trong chính cương vắn tắt đó là làm cách mạng tư sản dân quyền
để giải phóng nhân dân khỏi áp bức của thực dân, làm thổ địa cách mạng để

nông dân (đại bộ phận quần chúng nhân dân) có ruộng để cày cấy, đi lên xã hội
cộng sản cũng là để con người đạt tới xã hội mơ ước, tốt đẹp, lực lượng sản xuất
phát triển cao, đời sống nhân dân ấm lo hạnh phúc, công bằng bác ái… Sở dĩ
như vậy vì Bác quan niệm: "Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng,
bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người". Bác luôn
tin tưởng vào nhân dân, coi trọng nhân dân “dễ trăm lần không dân cũng chịu,
khó vạn lần dân liệu cũng xong”.
Như vậy, Hồ Chí Minh đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa
Mác - Lênin. Từ đó, Người đã phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước truyền thống
của Việt Nam trong sự thống nhất với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Bởi vậy, trong
16
tư tưởng Hồ Chí Minh, đúng như Ph. Ăng-Ghen đã nói: Những tư tưởng dân tộc
chân chính đồng thời cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính.
4. Thực tế cách mạng Việt Nam và sự đúng đắn của mối quan hệ biện
chứng vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp:
Sự phát triển trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã dẫn tới sự phát triển của
thực tiễn cách mạng Việt Nam, trong sự thúc đẩy lẫn nhau giữa dân tộc và giai
cấp. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp, gắn bó hữu cơ giữa hai quá trình đấu
tranh cách mạng: giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản không phải chỉ là
chứng minh cho sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin, mà còn là sự phát triển
sáng tạo và có giá trị định hướng rất cơ bản. Qua thực tiễn đấu tranh và lãnh đạo
cách mạng Việt Nam, luôn bám sát đặc điểm thực tiễn Việt Nam và tham khảo
kinh nghiệm các nước khác, Hồ Chí Minh đã có những giải pháp đúng đắn, sáng
tạo, đáp ứng đòi hỏi của lịch sử, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin; đó cũng chính là nguồn gốc sức mạnh của cách
mạng nước ta trong suốt bảy thập kỷ qua. Bởi lẽ:
Một là, cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay muốn thành
công triệt để nhất định phải là cách mạng vô sản. Cuộc cách mạng đó phải đưa
vào lực lượng của nhân dân, nòng cốt là liên minh công nông, do chính Đảng
của giai cấp công nhân lãnh đạo.Theo Người, chỉ có phát động cả dân tộc tham

gia mới biến sức mạnh dân tộc thành lực lượng vô địch. Do đó, Người luôn chủ
chương đại đoàn kết toàn dân tộc trong một mặt trận chung ( Mặt trận Việt
Minh(1941), Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam(1960), Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam(1976)…). Mặt trận dân tộc thống nhất này do chính đảng của giai cấp
công nhân lãnh đạo. Vì Đảng đó thực hiện nguyện vọng của toàn dân, thành lập
vì mục tiêu toàn dân tộc, hoạt động trên cơ sở học thuyết, tư tưởng dân tộc có
hạt nhân là tư tưởng Mac-Lênin, tinh hoa văn hoá nhân loại, đặc biệt là văn hoá
dân tộc, tinh thần dân tộc. Nguyên tắc hoạt động của Đảng là nguyên tắc tập
trung dân chủ, đoàn kết dân tộc, thống nhất trên dưới một lòng, kỷ luật tối cao.
Nhiệm vụ của Đảng là “đoàn kết toàn dân, phụng sự tổ quốc”( HCM). Do đó,
17
Đảng ta là đảng của toàn dân, chính bản chất đó cho phép tập trung sức mạnh
trong một mặt trận dân tộc thống nhất chung, khơi dậy sức mạnh đoàn kết toàn
dân tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng và đại đoàn kết toàn dân tộc là biểu
hiện quan trọng nhất, có ý nghĩa nhất mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân
tộc và vấn đề giai cấp không chỉ trong cách mạng giải phóng dân tộc mà còn
trong toàn bộ tiến trình cách mạng vô sản Việt Nam hiện nay và tương lai.
Hai là, cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giai cấp trong nội bộ dân tộc (mâu
thuẫn địa chủ - nông dân, mâu thuẫn tư sản - vô sản) không tách rời cuộc đấu
tranh giải quyết mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với các thế lực đế quốc xâm
lược. Ở giai đoạn đầu của cách mạng, nhấn mạnh vấn đề dân tộc. ''Nếu không
giải quyết được vấn đề dân tộc, không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân
tộc, thì chẳng những toàn thể dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi
của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được''. ''Chính lập trường
và lợi ích giai cấp công nhân đòi hỏi trước hết phải giải phóng dân tộc''. Ở đây
rõ ràng cái giai cấp được biểu hiện ở cái dân tộc, cái dân tộc được giải quyết
theo lập trường giai cấp công nhân. Sau khi cách mạng giải phóng dân tộc thành
công, quyền lực được trao vào tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Nhà
nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Ba là, cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản ở chính quốc

như ''hai cánh của một con chim'', phải thực hiện sự liên minh giữa vô sản ở
chính quốc với vô sản và nhân dân các nước thuộc địa thì cách mạng mới thắng
lợi. Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa không phụ thuộc một
chiều vào cách mạng vô sản ở chính quốc, mà có thể và phải chủ động tiến lên
giành thắng lợi, thậm chí có thể giành thắng lợi trước, từ đó góp phần tích cực
hỗ trợ cho cách mạng ở các nước tư bản. Thực tế đã chứng minh, cách mạng giải
phóng dân tộc ở Việt Nam đã thành công trước cách mạng vô sản ở Pháp và Mỹ,
phất cao ngọn cờ giải phóng dân tộc ở các thuộc địa khắp năm châu, mở đầu cho
sự sụp đổ của hệ thống thuộc địa thế giới và làm suy yếu chủ nghĩa tư bản.
18
Bốn là, sau khi giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị ngoại bang, khỏi chế
độ thuộc địa, dân tộc vừa được giải phóng phải quá độ lên CNXH và trong bước
quá độ ấy phải tự mình tìm tòi con đường, phương thức riêng phù hợp với tình
hình và đặc điểm đất nước, tránh giáo điều, dập khuôn. Nước ta đã tiến lên chủ
nghĩa xã hội từ một nước phong kiến, bỏ qua giai đoạn TBCN. Quá trình đổi
mới của nước ta sau hai thập kỷ đã gặt hái những thành quả tốt, cải thiện đáng
kể đời sống nhân dân, kiên định con đường Xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, ta đang
thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đã đạt được
những thành công đáng khích lệ.
Trong thực tiễn công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN
hiện nay, việc vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hố Chí Minh về mối
quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp càng có ý nghĩa cực
kỳ quan trọng hết sức cấp thiết, tránh sai lầm nóng vội, chủ quan, duy ý chí, quá
nhấn mạnh vấn đề giai cấp nên đã xem nhẹ vấn đề dân tộc . Thực tiễn đã chỉ ra
rằng, trong bất cứ giai đoạn nào, sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đều phải
kết hợp nhuần nhuyễn lợi ích giai cấp với lợi ích dân tộc. Nền độc lập thật sự
của dân tộc; tự do , hạnh phúc của nhân dân chỉ có thể đạt được một cách bền
vững trong sự nghiệp cách mạng theo mục tiêu, lý tưởng của giai cấp công nhân.
Bởi vậy, ngay từ khi khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng ta đã xác
định rõ: đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu XHCN mà là quan niệm đúng

đắn hơn về CNXH và thực hiện mục tiêu ấy bằng những hình thức; bước đi và
biện pháp phù hợp.
19
IV. Kết luận:
Mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư
tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở quan trọng, có ý nghĩa hết sức to lớn quyết định
những thắng lợi đã đạt được của sự nghiệp Cách mạng giải phóng dân tộc Việt
Nam và cũng là yếu tố quyết định sự thành bại của quá trình cách mạng tiếp
theo. Không chỉ có ý nghĩa thực tiễn to lớn, nó còn mang tính lý luận sâu sắc,
góp phần phát triển kho tàng lý luận chủ nghĩa Mac, Lênin. Với những quan
điểm biện chứng đúng đắn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã không chỉ giúp giải phóng
dân tộc Việt Nam, là anh hùng giải phóng dân tộc mà còn là người khởi xướng
phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa.
Các tài liệu tham khảo:
Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh,
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia,
internet.
20

×