Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

Bảo hiểm phi nhân thọ tại Phú Thọ.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (292.83 KB, 51 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Trong lịch sử hình thành và phát triển ngành Bảo hiểm Việt Nam, có lẽ chưa
bao giờ cạnh tranh lại diễn ra gay gắt như hiện nay. Cùng với hoạt động kinh doanh
của nhiều công ty bảo hiểm có mặt trên thị trường địa bàn tỉnh Phú thọ, sự xuất hiện
của các văn phòng đại diện của các công ty bảo hiểm nhân thọ như Pjico, Bảo
Minh… lại đang báo hiệu một giai đoạn "đua sức đua tài" mới của các doanh nghiệp
kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ tại Phú Thọ.
Nằm trên địa bàn tỉnh tỉnh Phú Thọ công ty bảo hiểm Phú Thọ là doanh
nghiệp Nhà nước duy nhất kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ. Trong những năm
gần đây, Công ty phải đương đầu với sức ép cạnh tranh rất lớn từ các đối thủ cạnh
tranh như công ty bảo hiểm phi nhân thọ 100% vốn nước ngoài, Pjico,hay Bảo
Minh,… giờ đây lại bị đe doạ cạnh tranh mạnh mẽ hơn bởi những công ty Bảo hiểm
phi nhân thọ sẽ thành lập trong tương lai. Phú Thọ chắc chắn sẽ bị chia sẻ thành
nhiều phần hơn trong khi khai thác hợp đồng mới gặp rất nhiều khó khăn.
Trước tình hình đó, để tồn tại và phát triển, một vấn đề có tính chất "sống
còn" đối với Công ty là nâng cao hiệu quả khai thác Bảo hiểm phi nhân thọ.
Với mong muốn góp phần xây dựng một bảo hiểm phi nhân thọ Phú Thọ
đứng vững trong cạnh tranh, trong quá trình thực tập tại Công ty em mạnh dạn chọn
đề tài: "Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả khai thác của đại
lý bảo hiểm Phú Thọ" cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề được bố cục thành 3 chương:
Chương I: Khái quát chung về bảo hiểm phi nhân thọ
Chương II: Thực trạng hoạt động khai thác của đại lý bảo hiểm tại Công ty
bảo hiểm Phú Thọ
Chương III: Kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả khai thác của đại
lý bảo hiểm Phú Thọ.
Trang 1
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ
VÀ ĐẠI LÝ BẢO HIỂM
I. TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ


1. Sự cần thiết về tác dụng của Bảo hiểm phi nhân thọ
Bảo hiểm phi nhân thọ là sự cam kết giữa người tham gia bảo hiểm với người
bảo hiểm mà trong đó, người bảo hiểm sẽ trả cho người tham gia hoặc người thụ
hưởng quyền lợi bảo hiểm một số tiền nhất định khi có các sự kiện đã định trước
xảy ra, còn người tham gia phải nộp phí bảo hiểm đầy đủ, đúng hạn.
Trong cuộc sống sinh hoạt cũng nhưu hoạt động sản xuất kinh doanh hàng
ngày dù đã luôn luôn chú ý ngăn ngừa và đề phòng nhưng con người vẫn có nguy cơ
gặp phải những rủi ro bất ngờ xảy ra. Các rủi ro đó do nhiều nguyên nhân, ví dụ
như:
- Các rủi ro do môi trường thiên nhiên: Bão, lụt, động đất, rét, hạn, sương
muối, dịch bệnh v.v..
- Các rủi ro xảy ra do sự tiến bộ và phát triển của khoa học và kỹ thuật. Khoa
học và kỹ thuật phát triển, một mặt thúc đẩy sản xuất và tạo điều kiện thuận lợi cho
cuộc sống của con người: nhưng mặt khác cũng gây ra nhiều tai nạn bất ngờ như tai
nạn ô tô, hàng không, tai nạn lao động v.v..
- Các rủi ro do môi trường xã hội: Đây cũng là một trong những nguyên nhân
gây ra rủi ro cho con người. Chẳng hạn, nếu xã hội tổ chức quản lý chặt chẽ - mọi
người làm việc và sống theo pháp luật thì sẽ không xảy ra hiện tượng thất nghiệp,
trộm cắp; nếu làm tốt cong tác chăm sóc sức khoẻ sẽ hạn chế được các rủi ro không
đáng có như hoả hoạn, bạo lực, v v...
Bất kể do nguyên nhân gì, khi rủi ro xảy ra thường đem lại cho con người
những khó khăn trong cuộc sống như mất việc hoặc giảm thu nhập, phá hoại nhiều
tài sản, làm ngưng trệ sản xuất và kinh doanh của tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân,
v.v.. làm ảnh hưởng đến đời sống kinh tế - xã hội nói chung.
Để đối phó với các rủi ro, con người đã có nhiều biện pháp khác nhau nhằm
kiểm soát cũng như khắc phục hậu quả do rủi ro gây nên. Hiện nay, theo quan điểm
Trang 2
của các nhà quản lý rủi ro, có hai nhóm biện pháp đối phó với rủi ro và hậu quả do
rủi ro gây ra - đó là nhóm các biện pháp kiểm soát rủi ro và nhóm các biện pháp tài
trợ rủi ro.

+ Nhóm các biện pháp kiểm soát rủi ro bao gồm các hiện tượng tránh né rủi
ro, ngăn ngừa tổn thất, giảm thiếu rủi ro. Các biện pháp này thường được sử dụng
để ngăn chặn hoặc giảm thiểu khả năng xảy ra rủi ro.
- Tránh né được rủi ro là biện pháp được sử dụng thường xuyên trong cuộc
sống. Mỗi người, mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh đều lựa chọn những biện pháp
thích hợp để né tránh rủi ro có thể xảy ra, tức loại trừ cơ hội dẫn đến tổn thất. Chẳng
hạn, để tránh các tai nạn giao thông người ta hạn chế việc đi lại; để tránh các tai nạn
lao động người ta chọn những nghề không nguy hiểm… Tránh né rủi ro chỉ với
những rủi ro có thể né tránh được. Nhưng trong cuộc sống có rất nhiều rủi ro bất
ngờ không thể né tránh được.
- Ngăn ngừa tổn thất: Các biện pháp ngăn ngừa tổn thất đưa ra các hành động
làm giảm tổn thất hoặc giảm mức thiệt hại do tổn thất gây ra. Ví dụ, để giảm thiểu
các tai nạn lao động, người ta tổ chức các khóa học nâng cao trình độ của người lao
động hay nâng cao chất lượng các hoạt động đảm bảo an toàn lao động; đề phòng
chống hoả hoạn người ta thực hiện tốt việc phòng cháy chữa cháy.
- Giảm thiểu tổn thất: người ta có thể giảm thiểu tổn thất thông qua các biện
pháp làm giảm giá trị thiệt hại khi tổn thất đã xảy ra. Ví dụ, như khi có hoả hoạn, để
giảm thiểu tổn thất, người ta cố gắng cứu các tài sản còn dùng được; hay trong một
tai nạn giao thông; để giảm thiểu các thiệt hại về người và của người ta đưa ra ngay
những người bị thương đến nơi cấp cứu và điều trị.
Mặc dù các biện pháp kiểm soát rủi ro rất có hiệu quả trong việc ngăn chặn
hoặc giảm thiểu rủi ro nhưng khi rủi ro đã xảy ra, người ta không thể lường hết
được hậu quả.
+ Nhóm các biện pháp tài trợ rủi ro bao gồm các biện pháp chấp nhận rủi ro
và bảo hiểm. Đây là các biện pháp được sử dụng trước khi rủi ro xảy ra với mục
đích khắc phục các hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra nếu có.
+ Chấp nhận rủi ro: Đây là hình thức mà người gặp phải tổn thất tự chấp nhận
khoản tổn thất đó. Một trường hợp điển hình của chấp nhận rủi ro là tự bảo hiểm.
Trang 3
Có rất nhiều cách thức khác nhau trong biện pháp chấp nhận rủi ro, tuy nhiên có thể

phân chia làm hai nhóm: chấp nhận rủi ro thụ động và chấp nhận rủi ro chủ động.
Trong chấp nhận rủi ro thụ động, người gặp tổn thất không có sự chuẩn bị trước và
họ có thể phải vay mượn để khắc phục hậu quả tổn thất. Đối với chấp nhận rủi ro
chủ động, người ta lập ra quĩ dự trữ dự phòng và quỹ này được sử dụng để bù đắp
tổn thất do rủi ro gây ra. Tuy nhiên, việc này dẫn đến việc nguồn vốn không được sử
dụng một cách tối ưu hoặc nếu đi vay thì sẽ bị động và còn gặp phải các vấn đề gia
tăng về lãi suất…
- Bảo hiểm: Đây là một phần quan trọng trong các chương trình quản lý rủi ro
của các tổ chức cũng như cá nhân. Theo quan điểm của các nhà quản lý rủi ro, bảo
hiểm là sự chuyển giao rủi ro trên cơ sở hợp đồng. Theo quan điểm xã hội, bảo hiểm
không chỉ là chuyển giao rủi ro mà còn là sự giảm rủi ro do việc tập trung một số
lớn các rủi ro cho phép có thể tiên đoán về các tổn thất khi chúng xảy ra. Bảo hiểm
là công cụ đối phó với hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra, có hiệu quả nhất. Như vậy,
bảo hiểm ra đời là đòi hỏi khách quan của cuộc sống, của hoạt động sản xuất kinh
doanh.
Do đòi hỏi về sự tự chủ và sự an toàn về tài chính cũng như các nhu cầu của
con người, hoạt động bảo hiểm ngày càng phát triển và khôn thể thiếu đối với mỗi
cá nhân, doanh nghiệp và mỗi quốc gia. Ngày nay, sự giao lưu kinh tế, văn hoá giữa
các quốc gia càng phát triển thì bảo hiểm cũng ngày càng mở rộng.
Vì vậy, khái niệm "bảo hiểm" trở nên gần gũi, gắn bó với con người, với các
đơn vị sản xuất kinh doanh. Có được quan hệ đó vì bảo hiểm đã mang lại lợi ích
kinh tế xã hội thiết thực cho mọi thành viên, mọi đơnvị có tham gia bảo hiểm.
Tác dụng đó được thể hiện:
- Người tham gia bảo hiểm (cá nhân hay tổ chức) được trợ cấp, bồi thường
những thiệt hại thực tế do rủi ro, bất ngờ gây ra thuộc phạm vi bảo hiểm. Nhờ đó họ
nhanh chóng ổn định kinh tế, khôi phục đời sống và sản xuất kinh doanh…
- Nhờ có bảo hiểm những người tham gia đóng góp một số phí tạo thành
nguồn quỹ bảo hiểm lớn ngoài chi trả hay bồi thường còn là nguồn vốn để đầu tư
phát triển kinh tế…
Trang 4

- Bảo hiểm, nhất là bảo hiểm thương mại còn đóng góp tích luỹ cho ngân
sách…
- Bảo hiểm cùng với người tham gia bảo hiểm thực hiện các biện pháp để
phòng ngừa tai nạn xảy ra nhằm giảm bớt và hạn chế hậu quả thiệt hại.
- Bảo hiểm là chỗ dựa tinh thần cho mọi người, mọi tổ chức; giúp họ yên tâm
trong cuộc sống, trong sinh hoạt sản xuất kinh doanh; bảo hiểm thể hiện tính cộng
đồng, tương trợ, nhân văn sâu sắc.
- Bảo hiểm còn góp phần thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế giữa các nước,
nhất là thông qua hoạt động tái bảo hiểm v.v..
- Cuối cùng, hoạt động bảo hiểm thu hút một số lao động nhất định, góp phần
giảm bớt tình trạng thất nghiệp cho xã hội (theo thống kê, bảo hiểm các nước thu
hút 1% lực lượng lao động xã hội).
2. Các loại hình bảo hiểm phi nhân thọ
Để không ngừng phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của đất nước,
bảo hiểm phi nhân thọ đã luôn chú trọng phát triển các nghiệp vụ nhằm đa dạng hoá
sản phẩm Bảo hiểm, đáp ứng được nhu cầu da dạng và phong phú của con người.
Hiện nay nếu căn cứ vào đối tượng bảo hiểm phi nhân thọ được chia làm 3 loại:
- Bảo hiểm tài sản
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự
- Bảo hiểm con người phi nhân thọ.
2.1. Bảo hiểm tài sản
Đây là loại bảo hiểm mà đối tượng bảo hiểm là tài sản (cố định hay lưu động)
của người được bảo hiểm. Ví dụ như: Bảo hiểm cho thiệt hại vật chất xe cơ giới,
bảo hiểm cho hàng hoá của các chủ hàng trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu,
bảo hiểm tài sản của ông chủ nhà trong bảo hiểm trộm cắp.
Các bảo hiểm về tài sản đều có một số đặc điểm chung sau:
a) Áp dụng nguyên tắc bồi thường khi thanh toán chi trả bảo hiểm. Số tiền
bồi thường mà bên được bảo hiểm nhận được trong mọi trường hợp không được
vượt quá thiệt hại thực tế trong sự cố bảo hiểm. Ví dụ, một chủ xe máy tham gia bảo
hiểm cho toàn bộ chiếc xe của mình trị giá 20 triệu đồng. Trong một vụ tai nạn, xe

Trang 5
bị hư hỏng giá trị thiệt hại là 8 triệu đồng, số tiền bồi thường mà chủ xe nhận được
trong bất kỳ trường hợp nào cũng chỉ là 8 triệu đồng.
b) Áp dụng nguyên tắc thế quyền hợp pháp khi xuất hiện người thứ ba có lỗi
và do đó có trách nhiệm đối với thiệt hại của người được bảo hiểm. Theo nguyên tắc
này, sau khi trả tiền bồi thường, người bảo hiểm sẽ được hưởng các quyền và hành
động của người bảo hiểm để thực hiện việc truy đòi trách nhiệm của người thứ ba
có lỗi. Nguyên tắc thế quyền hợp pháp nhằm đảm bảo quyền lợi của người bảo
hiểm, chống lại hành vi rũ bỏ trách nhiệm của người thứ ba có lỗi, đồng thời đảm
bảo cả nguyên tắc bồi thường.
Lấy lại ví dụ trên, trong vụ tai nạn lỗi một phần là của xe ô tô đi ngược chiều
(70%). Lúc này, thiệt hại 8 triệu đồng của chủ xe máy sẽ được truy cứu rách nhiệm
5,6 triệu đồng của ông chủ xe ô tô (70% x 8 tr.đ = 5,6 triệu đồng). Sau khi bồi
thường 8 triệu đồng theo hợp đồng bảo hiểm vật chất xe cho chủ xe máy, công ty
bảo hiểm được thay quyền của chủ xe máy này truy đòi trách nhiệm 5,6 triệu đồng
đối với chủ xe ô tô. Nguyên tắc thế quyền được áp dụng, và người được bảo hiểm
trong ví dụ này (chủ xe máy) cũng không thể nhận số tiền bồi thường vượt quá 8
triệu đồng thiệt hại, như vậy nguyên tắc bồi thường được đảm bảo.
Tuy nhiên, có một số ngoại lệ khi áp dụng nguyên tắc thế quyền hợp pháp, đó
là khi người thứ ba gây lỗi là trẻ em, hoặc là con cái, vợ chồng, cha mẹ… của
người được bảo hiểm.
c) Bảo hiểm trùng: Trong bảo hiểm tài sản, nếu một đối tượng bảo hiểm đồng
thời được bảo đảm bằng nhiều hợp đồng bảo hiểm cho cùng một rủi ro với những
người bảo hiểm khác nhau, những hợp đồng bảo hiểm này có điều kiện bảo hiểm
giống nhau, thời hạn bảo hiểm trùng nhau, và tổng số tiền bảo hiểm từ tất cả những
hợp đồng này lớn hơn giá trị bảo hiểm của đối tượng bảo hiểm đó thì gọi là bảo
hiểm trung.
Trong trường hợp có bảo hiểm trung, tuỳ thuộc vào nguyên nhân xảy ra để
giải quyết. Thông thường, bảo hiểm trung liên quan đến sự gian lận của bên tham
gia bảo hiểm nhằm trục lợi bảo hiểm. Do đó, về nguyên tắc chung, công ty bảo

hiểm có thể huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm nếu phát hiện thấy gian lận. Ngược lại, nếu
Trang 6
các công ty bảo hiểm chấp nhận bồi thường thì lúc này, trách nhiệm của mỗi công ty
đối với tổn thất sẽ được phân chia theo tỷ lệ trách nhiệm mà họ đảm nhận. Cụ thể:
= x
Trên thực tế, một trong số các công ty bảo hiểm đã cấp hợp đồng cho đối
tượng được bảo hiểm trùng này có thể sẽ đứng ra bồi thường theo số thiệt hại thực
tế, sau đó sẽ đòi lại các công ty khác phần trách nhiệm của họ.
d) Một số chế độ bồi thường bảo hiểm áp dụng trong bảo hiểm tài sản
- Chế độ bảo hiểm theo nguyên tắc trách nhiệm vượt giới hạn (theo mức miễn
thường):
Người bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm đối với những tổn thất mà giá trị thiệt
hại thực tế vượt quá một mức đã thoả thuận (mức miễn thường). Miễn thường là
một hình thức từ chối bồi thường của công ty bảo hiểm dựa trên một số tiền quy
định. Có hai loại miễn thường: Miễn thường có khấu trừ và miễn thường không
khấu trừ.
Trong chế độ bảo hiểm miễn thường có khấu trừ tổn thất được bồi thường
phải đảm bảo yêu cầu lớn hơn mức miễn thường quy định nhưng khi bồi thường sẽ
bị trừ đi mức miễn giảm này.
= -
Chế độ bảo hiểm miễn thường không khấu trừ bảo đảm chi trả cho những tổn
thất vượt quá mức miễn thường nhưng số tiền bồi thường không bị khấu trừ theo
mức miễn thường:
=
Chế độ miễn thường được áp dụng nhằm loại trừ các hao hụt tự nhiên thương
mại thường phát sinh trong quá trình chuyên chở đối với một số loại hàng hoá đặc
biệt ra khỏi trách nhiệm của người bảo hiểm. Tránh cho người bảo hiểm phải bồi
thường những tổn thất quá nhỏ so với giá trị bảo hiểm đồng thời dành một tỷ lệ
không bồi thường để bên được bảo hiểm cùng chịu trách nhiệm và có ý thức hơn
trong đề phòng hạn chế rủi ro.

- Chế độ bảo hiểm theo tỷ lệ
Trang 7
Có hai loại bảo hiểm được áp dụng: Tỷ lệ số tiền bảo hiểm/giá trị bảo hiểm
(STBH/GTBH) và tỷ lệ số phí đã nộp. Tỷ lệ STBH/STBH được áp dụng trong các
trường hợp bảo hiểm dưới giá trị:
= x
Còn trong trường hợp có sự khai báo có sự khai báo không chính xác rủi ro,
bên bảo hiểm thường áp dụng tỷ lệ thứ hai để thanh toán nếu chấp nhận bồi thường:
= x
- Chế độ bảo hiểm theo rủi ro đầu tiên:
Số tiền bồi thường bảo hiểm được trả sẽ dựa vào số tiền bảo hiểm được thoả
thuận , tức là:
Số tiền bồi thường ≤ số tiền bảo hiểm
2.2. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự
Bên cạnh các nghiệp vụ bảo hiểm tài sản còn có các nghiệp vụ bảo hiểm trách
nhiệm dân sự như : bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới ,bảo hiểm TNDS của chủ
lao động , Bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm , bảo hiểm trách nhiệm công cộng, …
Theo luật dân sự , trách nhiệm dân sự của một chủ thể ( như chủ tài sản, chủ doanh
nghiệp, chủ nghề nghiệp…) được hiểu là trách nhiệm phải bồi thường các thiệt hại
về tài sản, về con người… gây ra cho người khác do lỗi của người chủ đó. Trách
nhiệm dân sự bao gồm trach nhiệm dân sự trong hợp đồng và trách nhiệm dân sự
ngoài hợp đồng. Thông thường các dịch vụ bảo hiểm cung cấp sự bảo đảm cho
các trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng.
Vì đối tượng được bảo hiểm là phần trách nhiệm dân sự phát sinh của người
được bảo hiểm đối với người bị thiệt hại (một người thứ ba khác) nên trong loại bảo
hiểm này người được bảo hiểm là người có trách nhiệm dân sự cần được bảo đảm
và cũng thường là người tham gia bảo hiểm. Còn người thụ hưởng quyền lợi bảo
hiểm lại là những người thứ ba khác. Người thứ ba trong bảo hiểm trách nhiệm dân
sự là những người có tính mạng, tài sản bị thiệt hại trong sự cố bảo hiểm và được
quyền nhận bồi thường từ người bảo hiểm với tư cách là người thụ hưởng. Người

thứ ba có quan hệ về mặt trách nhiệm dân sự với người được bảo hiểm nhưng chỉ có
mối quan hệ gián tiếp với người bảo hiểm.
Trang 8
Cần chú ý trong một số nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự, người thụ
hưởng có thể xác định cụ thể hơn tên gọi của nghiệp vụ. Ví dụ, đó là người lao động
gặp tai nạn lao động trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ lao dộng đối với người
lao động.
Mặc dù, đối tượng được bảo hiểm của loại bảo hiểm này là một khái niệm
trừu trượng khi hợp đồng được ký kết. Tuy vậy, trách nhiệm bồi thường của bảo
hiểm vẫn căn cứ vào các thiệt hại thực tế xảy ra cho người thứ ba. Vì vậy, bảo hiểm
trách nhiệm dân sự cũng được coi là bảo hiểm thiệt hại như bảo hiểm tài sản và
cũng áp dụng một số nguyên tắc như: nguyên tắc bồi thường, nguyên tắc thế quyền
hợp pháp.
2.3. Bảo hiểm con người phi nhân thọ
Mặc dù cũng là loại hình bảo hiểm con người, nhưng bảo hiểm con người phi
nhân thọ trong BHTM có những đặc điểm chủ yếu sau đây:
- Hậu quả của những rủi ro mang tính chất thiệt hại vì rủi ro bảo hiểm ở
đây là tai nạn, bệnh tật, ốm đau thai sản liên quan đến thân thể và sức
khoẻ của con người. Những rủi ro ở đây khác với 2 sự kiện “sống” và
“chết” trong bảo hiểm nhân thọ và vì thế tính chất rủi ro được bộc lộ
khá rõ còn tính chất tiết kiệm không được thể hiện.
- Người được bảo hiểm thường được quy địn trong một khoảng tuổi nào
đó, các công ty bảo hiểm không chấp nhận bảo hiểm cho những có độ
tuổi quá thấp hoặc quá cao tình trạng rủi ro diễn biến phức tạp, xác suất
rủi ro cao, việc kiểm soát và quản lý rủi ro rất khó thực hiện. Chẳng hạn
ở nước ta, các công ty bảo hiểm không chấp nhận bảo hiểm cho những
em bé dưới 12 tháng tuổi và những người trên 65 tuổi. Nhưng ở nước
Anh lại quy định khác, những đứa trẻ dưới 3 tuổi và những người trên
65 tuổi không được các công ty bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm.
- So với bảo hiểm nhân thọ, thời hạn bảo hiểm con người phi nhân thọ

ngắn hơn và thường là 1 năm như: Bảo hiểm tai nạn 24/24, bảo hiểm trợ
cấp nằm viện phẫu thuật... Thậm chí có nghiệp vụ, thời hạn bảo hiểm
chỉ trong vòng vài ngày, phí bảo hiểm thường được nộp 1 lần khi ký kết
hợp đồng bảo hiểm.
Trang 9
- Các nghiệp vụ bảo hiểm con người phi nhân thọ thường được triển khai
kết hợp với các nghiệp vụ bảo hiểm khác trong cùng một hợp đồng bảo
hiểm. Chẳng hạn: bảo hiểm tai nạn được lồng ghép trong bảo hiểm nhân
thọ hỗn hợp, bảo hiểm tai nạn lái phụ xe được triển khai kết hợp với bảo
hiểm trách nhiệm dân sự và bảo hiểm vật chất thân xe trong trường hợp
đồng bảo hiểm xe cơ giới v.v.... Việc triển khai kết hợp náy sẽ làm cho
chi phí khai thác, chi phí quản lý.... của công ty bảo hiểm giảm đi từ đó
có điều kiện giảm phí bảo hiểm.
- Ở hầu hết các nước trên thế giới, trong giai đoạn đầu của sự phát triển
ngành bảo hiểm con người phi nhân thọ được triển khai, vừa rút kinh
nghiệm, đến khi điều kiện kinh tế - xã hội đã chín muồi mới tổ chức
triển khai bảo hiểm nhân thọ. Chính vì vậy, bảo hiểm con người phi
nhân thọ được coi là loại hình bảo hiểm bổ sung hữu hiệu nhất cho các
loại hình BHXH, BHYT. Ở Việt Nam, hầu hết các nghiệp vụ bảo hiểm
con người phi nhân thọ đều ra đời trong những năm cuối thập kỷ 80 và
đầu thập kỷ 90,mãi đến năm 1996 mới tổ chức triển khai bảo hiểm nhân
thọ.
2.3.1. Các nghiệp vụ bảo hiểm con người phi nhân thọ
Bảo hiểm con người phi nhân thọ được triển khai rất đa dạng và linh hoạt tùy
theo tình hình cụ thể ở từng nước và ngay trong phạm vi một nước, cũng có sự khác
nhau giữa các thời kỳ, giữa các công ty bảo hiểm về một số nội dung cơ bản như:
phạm vi bảo hiểm, phí bảo hiểm và số tiền bảo hiểm, thủ tục trả tiền bảo hiểm v.v....
Điều này cũng thật dễ hiểu vì BHTM là hoạt động mang tính kinh doanh vì mục tiêu
lợi nhuận. Tuy nhiên trong quá trình ký kết hợp đồng hoặc triển khai một sản phẩm
mới đều phải tuân thủ khung pháp lý của mỗi nước. Vì thế nội dung của phần này

chỉ xin được đề cập đến một số nghiệp vụ chủ yếu mang tính phổ biến.
2.3.2 Bảo hiểm tai nạn con người 24/24.
Bảo hiểm tai nạn cong người 24/24 là một nghiệp vụ của BHTM mà ở đây, nhà
bảo hiểm sẽ chi trả số tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm (hay người được
hưởng quyền lợi bảo hiểm) khi người được bảo hiểm bị tai nạn thuộc phạm vị bảo
Trang 10
hiểm đổi lại người được bảo hiểm (hay người tham gia bảo hiểm) phải nộp phí bảo
hiểm khi họ ký kết hợp đồng.
2.3.3. Bảo hiểm tai nạn hành khách
Đã trở thành quy luật , khi nền kinh tế - xã hội ngay càng phát triển, nhu cầu đi
lại của nhân dân ngày càng tăng và lưu lượng hành khách tham gai giao thông ngày
càng lớn. Kéo theo đó là số lượng các loại phương tiện tham gia giao thông cũng
ngày càng gia tăng và hết sức đa dạng, phong phú. Mặc dù các loại phương tiện
tham gia giao thông ngày càng được cải tiến và hiện đại, cơ sở hạ tầng giao thông
ngày càng được mở rộng, nâng cấp và hoàn thiện, song tai nạn giao thông vẫn ngày
một gia tăng đã làm ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng và tình trạng sức khoẻ của
mọi hành khách. Theo số liệu thống kê trên thế giới, hàng năm có hơn 70% lượng
hành khách tham gia giao thông đều là những người chủ chốt trong trong gia đình,
cơ quan và doanh nghiệp, mỗi khi tai nạn giao thông không may đối với họ đã làm
ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của mỗi gia đình, người dân, cơ quan, doanh
nghiệp và toàn xã hội. Vì thế, bảo hiểm tai nạn hành khách ra đời là hết sức cần thiết
mà ở nhiều nước trên thế giới đã được triển khai dưới hình thức bắt buộc.
2.3.4. Bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật.
Các rủi ro ốm đau, bệnh tật phải nằm viện điều trị hoặc phẫu thuật thường ít
người tránh khỏi. Khi tình trạng này diễn ra đã làm phát sinh các chi phí điều trị và
phẫu thuật, đồng thời còn làm người bệnh phải ngừng lao động hoặc mất khả năng
lao động. Trong khi đó, chi phí cho các dịch vụ khám chữa bệnh, điều trị và phẫu
thuật có xu hướng ngày càng tăng do kỹ thuật và phương tiện chẩn đoán của ngành
y tế ngày càng tinh xảo và hiện đại, do các loại thuốc đặc trị ngày càng được sử
dụng phổ biến. Để đối phó với tình hình này, nhiều người đã tìm đến bảo hiểm trợ

cấp nằm viện phẫu thuật. Thực chất đây là loại hình bảo hiểm sức khoẻ, nhưng có
phạm vi hẹp hơn, song nó đã mang lại lợi ích to lớn cho con người.
2.3.5. Bảo hiểm học sinh
Bảo hiểm trẻ em và bảo hiểm sinh viên đại học là những nghiệp vụ được
nhiều nước trên thế giới áp dụng. Đây là những nghiệp vụ bảo hiểm hỗn hợp cả “tai
nạn" và "ốm đau, bệnh tật". Còn bảo hiểm học sinh thực chất là sự kết hợp giữa 2
nghiệp vụ, song thực tế triển khai ở nước ta lại tỏ ra rất phù hợp và có hiệu quả.
Trang 11
II. ĐẠI LÝ BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ
1. Sự cần thiết và vai trò của đại lý khai thác bảo hiểm
1.1. Khái niệm
Theo thuật ngữ pháp lý, đại lý là người làm việc một người khác trên cơ sở
hợp đồng đại lý.
Theo thuật ngữ bảo hiểm, đại lý bảo hiểm là người làm việc cho doanh
nghiệp bảo hiểm, thay mặt doanh nghiệp bán cho các sản phẩm bảo hiểm cho người
mua.
Theo Luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam thì "ĐLBH là tổ chức, cá nhân
được doanh nghiệp bảo hiểm uỷ quyền trên cơ sở hợp đồng ĐLBH để thực hiện
hoạt động đại lý bảo hiểm theo quy định của Luật này và các quy định khác của
pháp luật có liên quan" (Điều 84, chương IV).
Hoạt động đại lý là phương thức bán bảo hiểm theo đó đại lý chịu trách
nhiệm thu xếp việc ký kết các hợp đồng bảo hiểm giữa doanh nghiệp bảo hiểm và
người mua bảo hiểm theo uỷ quyền của doanh nghiệp bảo hiểm trên cơ sở hợp đồng
đại lý để được hưởng hoa hồng bảo hiểm.
Đại lý bảo hiểm là những người hoặc tổ chức trung gian giữa doanh nghiệp
bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm, đại diện cho doanh nghiệp và hoạt động vì
quyền lợi của doanh nghiệp bảo hiểm. Đại lý có thể là các tổ chức ngân hàng hay
luật sư. Những tổ chức này làm đại lý bảo hiểm rất thuận lợi do có sự tiếp xúc với
nhiều khách hàng; đồng thời bảo hiểm là một dịch vụ bổ sung cho khách hàng của
họ. Đại lý có thể là một cá nhân hoạt động chuyên trách hoặc bán chuyên trách.

Đại lý bảo hiểm hoạt động tại văn phòng hoặc đi đến từng nhà, từng doanh
nghiệp để bán bảo hiểm, thu phí bảo hiểm và đàm phán những thay đổi về nhu cầu
bảo hiểm của khách hàng thực tế và tiềm năng.
Luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam quy định về điều kiện hoạt động đại lý
bảo hiểm như sau:
a) Cá nhân hoạt động đại lý bảo hiểm phải có đủ các điều kiện sau đây:
- Là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam
- Từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ
Trang 12
- Có chứng chỉ đào tạo đại lý bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm hoặc Hiệp
hội bảo hiểm Việt Nam cấp.
b) Tổ chức hoạt động đại lý bảo hiểm phải có đủ các điều kiện sau đây:
- Là tổ chức được thành lập và hoạt động hợp pháp
- Nhân viên trong tổ chức đại lý trực tiếp thực hiện hoạt động đại lý bảo hiểm
phải có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 điều này.
c) Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đang phải chấp hành
hình phạt tù hoặc bị Toà án tước quyền hành nghề vi phạm các tội theo quy định của
pháp luật không được ký kết hoạt động đại lý bảo hiểm". (Điều 80, mục 1, chương
IV).
Ngoài ra, doanh nghiệp bảo hiểm có thể quy định bổ sung các chỉ tiêu khác
để đảm bảo chất lượng và ràng buộc trách nhiệm của đại lý. Ví dụ, quy định về kinh
nghiệm hoặc sự thành công và ổn định trong các công việc cũ, bằng cấp, hình dáng,
khả năng giao tiếp, thái độ tích cực, tiền ký quỹ, thời gian học việc.. doanh nghiệp
bảo hiểm có thể không cho phép nhân viên của doanh nghiệp làm đại lý cho chính
mình; hoặc không cho phép tổ chức và cá nhân được đồng thời làm đại lý cho doanh
nghiệp bảo hiểm khác nếu không được sự chấp thuận của doanh nghiệp bảo hiểm
mà đại lý đang làm việc…
1.2. Phân loại đại lý bảo hiểm
Đại lý được phân loại theo các tiêu thức sau:
Căn cứ vào tư cách pháp lý, có hai loại đại lý là cá nhân và tổ chức. Cách

phân loại này giúp doanh nghiệp bảo hiểm quản lý tốt lực lượng bán hàng của mình,
đặc biệt là khâu tuyển dụng đại lý.
Căn cứ theo loại hình bảo hiểm và tính chất rủi ro, có hai loại đại lý là đại lý
bảo hiểm nhân thọ và đại lý bảo hiểm phi nhân thọ.
- Đại lý bảo hiểm nhân thọ: là người được doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ
uỷ quyền thực hiện các hoạt động liên quan đến công việc khai thác bảo hiểm nhân
thọ, thu phí bảo hiểm và các hoạt động khác trong khuôn khổ về quyền và trách
nhiệm của đại lý được nêu trong hợp đồng đại lý.
- Đại lý bảo hiểm phi nhân thọ: là tổ chức hoặc cá nhân được doanh nghiệp
bảo hiểm phi nhân thọ uỷ quyền thực hiện các hoạt động liên quan đến công việc
Trang 13
khai thác bảo hiểm phi nhân thọ, thu phí bảo hiểm và các hoạt động khác trong
khuôn khổ về quyền và trách nhiệm của đại lý được nêu trong hợp đồng đại lý.
Do đặc điểm hoạt động kinh doanh bảo hiểm, cách phân loại này rất cần thiết
và được sử dụng phổ biến trên thị trường bảo hiểm vì nó đáp ứng được yêu cầu về
marketing bảo hiểm, nhất là trong chính sách phân phối, đồng thời giúp hoạt động
quản lý đại lý đạt hiệu quả cao.
So với đại lý bảo hiểm phi nhân thọ thì đại lý bảo hiểm nhân thọ có số lượng
đông hơn, công tác quản lý đại lý phức tạp hơn, nhất là khâu tuyển dụng, đào tạo và
quản lý. Đồng thời, đại lý bảo hiểm nhân thọ được hưởng quyền lợi nhiều hơn do
tính phức tạp của công việc và tính ổn định cao hơn…
Ngoài ra, còn có một số tiêu thức phân loại đại lý khác như: Căn cứ vào thư
bổ nhiệm, có đại lý giới thiệu dịchvụ và đại lý thu phí. Căn cứ theo trình độ chuyên
môn, có đại lý học việc và đại lý chính thức. Căn cứ theo phạm vi hoạt động của đại
lý, có đại lý phụ thuộc và đại lý độc lập…
Đối với đại lý bảo hiểm nhân thọ, có nhiều cách phân loại: Căn cứ theo phạm
vi quyền hạn, có đại lý toàn quyền, tổng đại lý và đại lý uỷ quyền. Căn cứ theo thời
gian hoạt động, có đại lý chuyên nghiệp và đại lý bán chuyên nghiệp. Căn cứ theo
nhiệm vụ chủ yếu, có đại lý chuyên khai thác và đai lý chuyên thu… Việc phân loại
này giúp doanh nghiệp bảo hiểm quản lý tốt mạng lưới đại lý và nâng cao hiệu quả

hoạt động kinh doanh.
2. Vai trò của đại lý bảo hiểm
- Đối với doanh nghiệp bảo hiểm: Đại lý là lực lượng tiếp thị có hiệu quả
nhất, giúp doanh nghiệp bán sản phẩm. Thông qua bán hàng, đại lý giải thích cho
khách hàng tiềm năng những điều họ chưa biết hoặc chưa rõ về sản phẩm cũng như
thương hiệu của doanh nghiệp bảo hiểm.
Đại lý cũng là người trực tiếp nhận các thông tin phản hồi về sản phẩm bảo
hiểm từ phía khách hàng. Vì vậy những ý kiến họ đóng góp với doanh nghiệp bảo
hiểm về các vấn đề chính sách sản phẩm, phát hàh và quản lý hợp đồng… rất có giá
trị thực tế, giúp doanh nghiệp bảo hiểm nghiên cứu, điều chỉnh kịp thời để nâng cao
tính cạnh tranh.
Trang 14
- Đối với khách hàng: Đại lý là người trực tiếp tiếp xúc với khách hàng. Thay
vì người mua phải tự tìm hiểu về bảo hiểm thì đại lý sẽ làm công việc này. Như vậy,
sẽ giúp khách hàng tiết kiệm thời gian về tiền của.
- Đối với xã hội: Đại lý là người cung cấp dịch vụ cho xã hội, mang đến sự
đảm bảo cho mỗi cá nhân, tổ chức và gia đình và sự yên tâm cho những người có
trách nhiệm trong gia đình. Do vậy, xét trên một khía cạnh nào đó, đại lý bảo hiểm
còn góp phần đảm bảo an toàn cho xã hội.
3. Các nhiệm vụ chính của đại lý bảo hiểm
a. Tư vấn cho khách hàng ký hợp đồng bảo hiểm
Sau khi xác định được nhu cầu của khách hàng thì giới thiệu, đưa ra các
nghiệp vụ bảo hiểm thích hợp, và giới thiệu luôn về công ty, doanh nghiệp bảo hiểm
của mình như: khả nưng tài chính trách nhiệm vị thế, uy tín, địa chỉ, các vấn đề có
liên quan. Sau đó giải thích rõ quyền lợi và nghĩa vụ của khách hàng khi tham gia
loại hình bảo hiểm. Khi được sự đồng ý của khách hàng tham gia bảo hiểm thì
hướng dẫn họ các thủ tục và đánh giá những rủi ro ban đầu để kê khai trung thực về
các yếu tố cần thiết. Khi chấp nhận bảo hểm đồng thời thu phí bảo hiểm, cấp giấy
chứng nhận bảo hiểm (đơn bảo hiểm) và theo dõi.
b. Theo dõi giúp đỡ khách hàng và tái tục hợp đồng bảo hiểm

Các hợp đồng bảo hiểm có thời hạn ngắn, dài tuỳ thuộc vào người tham gia
bảo hiểm theo các loạ hình bảo hiểm khác nhau. Nhưng khi cấp đơn bảo hiểm xong
còn phải tiếp tục quan hệ giao tiếp, theo dõi khách hàng để nhằm giúp đỡ khách
hàng khi cần thiết và từ mối quan hệ thường xuyên này káhch hàng sẽ giới thiệu
giúp đại lý bảo hiểm mở mang thêm các khách hàng khác, cũng như giúp công ty
bảo hiểm phát triển. Đại lý nhận thông tin hai chiều từ khách hàng - đại lý - Công ty
bảo hiểm sẽ giúp các hợp đồng bảo hiểm đạt kết quả trong theo dõi phuc vụ đồng
thời tạo sự tin cậy và uy tín cho việc tái tục hợp đồng khi đến thời gian đáo hạn.
c. Chấp hành các nội quy và quy định của công ty bảo hiểm
Bảo hiểm là một nghề kinh doanh dịch vụ đặc biệt do vậy nội quy, quy định
quản lý về nghiệp vụ, quản lý về tài chính đòi hỏi mỗi đại lý phải thực hiện nghiêm
túc như: Thu nộp phí bảo hiểm, hoá đơn, giấy chứng nhận bảo hiểm phải thực hiện
nộp đúng đủ, đúng địa điểm thời gian quy định, việc quản lý hoá đơn ấn chỉ bảo
Trang 15
hiểm đúng nguyên tắc, hoá đơn thu phí cấp giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc đơn bảo
hiểm không để hư hỏng mất mát. Thực hiện đầy đủ việc báo cáo thống kê nghiệp vụ
tài chính theo quy định.
d. Tham gia đầy đủ các buổi tập huấn nghiệp vụ
Việc tham gia này là để giúp cho đại lý nắm được các thông tin trang bị kiến
thức mới về nghiệp vụ, các kinh nghiệm trong quản lý mới của công ty để góp phần
nâng cao trình độ năng lực khai thác và các nghiệp vụ khác của đại lý. Đặc biệt tăng
cường khả năng giao tiếp mở rộng các khách hàng.
4. Quyền lợi của đại lý bảo hiểm
a. Đại lý được đào tạo cơ bản và nâng cao theo các chương trình đào tạo bảo
hiểm cấp 1 và đào tạo các khoá học cao hơn: Đại lý cấp 2, đào tạo về quản lý đại lý,
đào tạo về marketing.
b. Được hưởng chế độ hỗ trợ trong thời gian học nghề và các chế độ phúc lợi.
Thời gian học nghề thường là 3 tháng hoặc ngắn hơn. Đại lý sẽ được hưởng trợ cấp
học nghề trong thời gian học nghề. Trong thời gian học nghề nếu đại lý thực tập đi
khai thác bảo hiểm đem lại doanh thu cho công ty thì được hưởng nguyên 100% hoa

hồng các nghiệp vụ theo quy định của Bộ Tài chính.
c. Được xem xét khen thưởng khi có thành tích trong quá trình khai thác:
Bằng hiện vật hoặc các giấy khen, bằng khen các cấp, được hưởng chế độ tham
quan, nghỉ mát du lịch…
d. Được thăng tiến trong nghề nghiệp: Phụ thuộc vào khả năng phấn đấu và
tinh thần trách nhiệm của cá nhân đại lý thì được bổ nhiệm vào các chức vụ lãnh
đạo đại lý: Tổ trưởng, tổ phó, trưởng phòng hoặc phó trưởng phòng đại lý.
e. Được tham gia sinh hoạt vào các tổ chức đoàn thể như: Đoàn thanh niên,
công đoàn, nữ công và tham gia các sinh hoạt văn hoá văn nghệ, thể dục thể thao.
f. Được hưởng một số các quyền lợi khác như: Chủ động quyết định trong
các công việc bảo hiểm mà mình được giao, có thu nhập không bị giới hạn.
III. PHÂN BIỆT GIỮA ĐẠI LÝ BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ VỚI ĐẠI LÝ
BẢO HIỂM NHÂN THỌ
Dựa vào tính đặc trưng cơ bản của bảo hiểm phi nhân thọ và bảo hiểm nhân
thọ mà đại lý bảo hiểm phi nhân thọ và đại lý bảo hiểm nhân thọ cũng có những
Trang 16
hình thức hoạt động, tiếp xúc khách hàng thu phí bảo hiểm, theo dõi, thụ lý hồ sơ
giải quyết bồi thường cũng có khác nhau.
- Đại lý bảo hiểm nhân thọ: một loại hình bảo hiểm qua đó Công ty bảo hiểm
cam kết sẽ trả một số tiền theo thoả thuận ghi trong hợp đồng, khi có sự kiện bảo
hiểm như quy định trong hợp đồng xảy ra liên quan đến sinh mạng và sức khoẻ con
người như sống đến thời hạn nhất định, ốm đau, thương tật, nằm viện, chi phí chăm
sóc, chết do mọi nguyên nhân. Hoạt động của đại lý chủ yếu là hoạt động cá nhân
riêng lẻ. Phí bảo hiểm theo tháng, quý, năm, 1 vài năm… hoặc cả hợp đồng bảo
hiểm. Phí bảo hiểm nhân thọ không thay đổi trong suốt quá trình của hợp đồng bảo
hiểm còn hiệu lực. Các hợp đồng bảo hiểm còn hiệu lực. Các hợp đồng bảo hiểm
nhân thọ là dài hạn, trung hạn… không có ngắn hạn: 1 vài ngày, vài tháng, 1 năm…
Nên khách hàng phải có tài chính ổn định thường xuyên. Đồng thời khi tham gia
loại hình bảo hiểm này người ta có thể hiểu được như là một hình thức tiết kiệm
tiền, có lãi, và được bảo hiểm theo một số điều khoản cam kết, kết thúc hợp đồng sẽ

nhận được tiền của mình đóng góp vào. Đại lý bảo hiểm nhân thọ sẽ thu phí định
kỳ: tháng, quý, năm… ổn định theo thoả thuận đã cam kết.
Nhưng đại lý bảo hiểm phi nhân thọ có tính chất hoạt động khác hơn: vì bán
sản phẩm bảo hiểm là vô hình người mua không dễ gì cảm nhận được sản phẩm
mình định mua như: chất lượng, độ bền… yêu cầu đại lý có tính chuyên nghiệp cao,
gây lòng tin. Hợp đồng bảo hiểm cam kết chỉ khi nào xảy ra sự kiện bảo hiểm thì
khách hàng mới được hưởng quyền lợi bảo hiểm. Còn không xảy ra thì không được
hưởng.
Phí bảo hiểm phi nhân thọ được tính theo thời hạn bảo hiểm thường là 1 năm,
1 vài ngày, từng chuyến hàng. Đối tượng tham gia bảo hiểm có thể là tổ chức, cá
nhân. Phí có thể thay đổi không cố định, có thể thay đổi của các năm tiếp theo như
có sự thay đổi các điều kiện bảo hiểm, phụ thuộc vào mức độ rủi ro. Nếu người
tham gia bảo hiểm giới hạn phạm vi bảo hiểm vào 1 vài rủi ro không tham gia bảo
hiểm thì bảo hiểm sẽ xem xét giảm bớt phí và ngược lại, nếu mở rộng phạm vi bảo
hiểm thêm một số rủi ro phụ khác thì phí bảo hiểm sẽ tăng lên.
Các nghiệp vụ bảo hiểm khác như: tài sản, trách nhiệm dân sự giữa người bảo
hiểm - người được bảo hiểm và đối với người thứ ba có liên quan tới rủi ro bảo
Trang 17
hiểm thì đều có mối quan hệ về quyền lợi và trách nhiệm bồi thường những thiệt
hại.
Trang 18
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC CỦA ĐẠI LÝ BẢO HIỂM TẠI
CÔNG TY BẢO HIỂM PHÚ THỌ
I. VÀI NÉT VỀ CÔNG TY BẢO HIỂM PHÚ THỌ
1. Lịch sử hình thành Công ty bảo hiểm Phú Thọ
Công ty bảo hiểm Phú Thọ thành lập vào cuối năm 1980, bắt đầu hoạt động
năm 1981 thực hiện các nhiệm vụ kinh doanh trên lĩnh vực Bảo hiểm nhằm góp
phần vào sự phát triển kinh tế xã hội ở địa phương.
Với hơn 25 năm hoạt động Bảo hiểm Phú Thọ đã đạt được những kết quả

như sau:
1.1. Phát triển nghiệp vụ đáp ứng nhu cầu Bảo hiểm của đời sống và sản
phẩm, phục vụ công cuộc đổi mới của đất nước
Từ khi mới thành lập Công ty Bảo hiểm Phú Thọ tiến hành 2 nghiệp vụ bảo
hiểm là Bảo hiểm tai nạn hành khách đi lại trên các phương tiện vận tải công cộng
và Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3 với doanh
thu còn rất nhỏ bé, khả năng tài chính còn chưa vững chắc, tầm phục vụ còn hạn
hẹp. Đến những năm gần đây, khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, các
doanh nghiệp Nhà nước được giao vốn, tự chủ về tài chính, đầu tư nước ngoài vào
Việt Nam gia tăng, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện, Bảo Việt Phú
Thọ đã phát triển thêm nhiều loại hình Bảo hiểm mới, phục vụ nhu cầu của sản xuất
và đời sống của nhân dân.
Cuối năm 1996 Bảo Việt Phú Thọ bắt đầu đưa các loại hình bảo hiểm nhân
thọ lần đầu tiên phục vụ nhu cầu Bảo hiểm của nhân dân. Đến nay Bảo hiểm nhân
thọ đã phát triển nhanh chóng và được nhiều người dân trong tỉnh quan tâm, tham
gia.
Cùng với việc thực hiện nhiệm vụ kinh doanh, bảo toàn và phát triển vốn nhà
nước, Bảo Việt còn tiến hành một số nghiệp vụ nhằm thực hiện nhiệm vụ chính trị
của nhà nước như: Bảo hiểm cây lúa, cây công nghhiệp, vật nuôi, bảo hiểm lao động
cho người nông dân, bảo hiểm học sinh…
Trang 19
Đến năm 2000 cùng với chủ trương của Tổng Công ty và sự phát triển lớn
mạnh, Công ty Bảo hiểm Phú Thọ đã tách ra thành hai Công ty; Công ty bảo hiểm
Nhân Thọ hoạt động trên lĩnh vực nhân thọ và Công ty Bảo hiểm Phú Thọ hoạt
dộng trên lĩnh vực phi nhân thọ.
Đến nay Bảo Việt Phú Thọ tiến hành trên các nghiệp vụ Bảo hiểm thuộc hầu
hết các lĩnh vực khác nhau như: Bảo hiểm tài sản, bảo hiểm con người và bảo hiểm
trách nhiệm.
1.2. Các nghiệp vụ bảo hiểm chính
Bao gồm:

- Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu và vận chuyển nội địa
- Bảo hiểm thân tàu (tàu biển, tàu sông, tàu đánh cá)
- Bảo hiểm trách nhiệm các chủ xe cơ giới và thân xe
- Bảo hiểm thuỷ thủ thuyền viên
- Bảo hiểm tai nạn hành khách
- Bảo hiểm tai nạn lái xe và phụ xe và người ngồi trên xe
- Bảo hiểm tai nạn khách du lịch
- Bảo hiểm tai nạn con người kết hợp 03 điều kiện : A, B,C
- Bảo hiểm toàn diện học sinh
- Bảo hiểm cho người đình sản
- Bảo hiểm xây dựng lắp đặt
- Bảo hiểm hoả hoạn và rủi ro đặc biệt
- Bảo hiểm trách nhiệm của người sử dụng lao động
- Các loại bảo hiểm khác.
Tóm lại: Mọi nhu cầu bảo hiểm của các tầng lớp dân cư, các thành phần kinh
tế, các chủ đầu tư nước ngoài đề được Bảo Việt Phú Thọ đáp ứng bằng các hình
thức bảo hiểm thích hợp góp phần quan trọng vào việc phát triển thị trường bảo
hiểm ở Việt Nam.
1.3. Cung cấp nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế, mang lại hiệu quả kinh tế
cao
Từ các quỹ dự phòng Bảo hiểm tạm thời nhàn rỗi, Bảo Việt đã đầu tư trở lại
cho nền kinh tế hàng ngàn tỷ đồng mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Trang 20
Xác định tầm quan trọng của hoạt động đầu tư đối với một Công ty Bảo
hiểm, Bảo Việt Phú Thọ đã chú trọng củng cố hoạt động đầu tư, lựa chọn hình thức
và biện pháp đầu tư thích hợp đem lại hiệu quả kinh tế và đảm bảo an toàn. Bảo
Việt thường xuyên tham gia đấu thầu trái phiếu kho bạc Nhà nước, cho các tổ chức
tài chính và doanh nghiệp vay theo quy định của Nhà nước, tham gia góp vốn hợp
đồng, hợp tác kinh doanh…
Việc tham gia liên doanh và cổ phần với 11 công ty thuộc các lĩnh vực khác

nhau như ngân hàng, bảo hiểm, sản xuất, du lịch và dịch vụ… với tổng vốn hàng
chục tỷ đồng đã góp phần bảo đảm an toàn cho hoạt động đầu tư, tăng sức mạnh tài
chính, tăng khả năng tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh của nhiều ngành
kinh tế.
Hoạt động đầu tư tài chính đang thực sự góp phần vào phát triển kinh tế đất
nước mang lại thu nhập lớn và đóng vai trò quan trọng đến sự phát triển của Bảo
hiểm Phú Thọ trong giai đoạn hiện nay.
1.4. Doanh thu tăng nhanh, bồi thường kịp thời góp phần ổn định sản xuất
và đời sống
Liên tục trong những năm trở lại đây ngay cả khi nước ta chịu ảnh hưởng của
khủng hoảng tài chính khu vực châu Á, Công ty Bảo hiểm Phú Thọ vẫn có tốc độ
tăng trưởng cao. Mặc dù có sự cạnh tranh mạnh mẽ của các công ty ngoài hệ thống
Bảo Việt trên thị trường nhưng với việc liên tục phát triển mở rộng các loại hình
Bảo hiểm mới, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, Bảo Việt Phú Thọ đã thu
hút ngày càng đông các đơn vị và cá nhân tham gia bảo hiểm. Doanh thu phí Bảo
hiểm các năm từ 2002 đến 2004 đều tăng từ 6% đến 16% đặc biệt trong năm 2003
doanh thu tăng 25%.
Việc bồi thường cho các đối tượng bảo hiểm không may bị thiên tai, tai nạn
bất ngờ gây thiệt hại đã được giải quyết nhanh chóng, chất lượng phục vụ ngày càng
được nâng cao. Đến nay các thủ tục đòi bồi thường của khách hàng đã được đơn
giản hoá, thời gian giải quyết được rút ngắn (nhất là trong Bảo hiểm học sinh, Bảo
hiểm con người chỉ từ 7 đến 14 ngày.
Trang 21
Trong nhiều năm qua Công ty bảo hiểm Phú Thọ giải quyết bồi thường hàng
chục tỉ đồng cho các thiệt hại thuộc trách nhiệm giải quyết hàng năm bao gồm hàng
trăm vụ thiệt hại về ô tô, hàng chục nghìn vụ thiệt hại về người.
Nhiều đơn vị cơ quan, xí nghiệp nếu không tham gia bảo hiểm sẽ gặp nhiều
khó khăn phục hồi sản xuất. Nhiều cá nhân do có tiền chi trả Bảo hiểm mà đã yên
tâm sớm khắc phục khó khăn ổn định đời sống và sản xuất. Hoạt động bảo hiểm của
Công ty Bảo hiểm Phú Thọ đã giúp cho ngân sách Nhà nước không phải chi nhiều

khoản tiền lớn do thiên tai, tai nạn bất ngờ xảy ra.
Ngoài việc chi bồi thường tổn thất thuộc trách nhiệm bảo hiểm trong nhiều
năm qua Bảo Việt Phú Thọ đã thường xuyên tuyên truyền trên các phương tiện
thông tin đại chúng về việc đề phòng và hạn chế tổn thất, thường xuyên phối hợp
với các ban ngành như ban an toàn giao thông tỉnh, ngành giao thông, ngành giáo
dục, ngành công an, tỉnh đoàn thanh niên… Tổ chức tuyên truyền các biện pháp
phòng ngừa tai nạn đã chi hàng trăm triệu đồng cho công tác phòng ngừa hạn chế tai
nạn. Ngoài ra Công ty bảo hiểm Phú Thọ còn tham gia vào các hoạt động xã hội
khác như "quỹ đền ơn đáp nghĩa", "Quỹ người nghèo", ủng hộ đồng bào bị thiên tai,
lũ lụt.
1.5. Tạo nhiều công ăn việc làm, đời sống cán bộ ổn định và ngày càng
được nâng cao
Cùng với việc không ngừng tăng trưởng và phát triển mọi mặt, đội ngũ cán
bộ công nhân viên của công ty được tăng thêm không ngừng từ buổi đầu mới thành
lập có 3 cán bộ đến nay đội ngũ đã có trên 30 cán bộ công nhân viên và hàng trăm
cán bộ đại lý khai thác bảo hiểm phi nhân thọ, hầu hết chị em còn trẻ độ tuổi bình
quân trên 30, được đào tạo cơ bản, nhiệt tình hăng say trong công việc đang là
những nhân tố nội lực rất quan trọng trong việc phát triển của Bảo Việt Phú Thọ
trong tương lai. Hàng năm đã tạo thêm nhiều việc làm mới với mức thu nhập ngày
càng được nâng cao. Cùng với việc đào tạo giáo dục đội ngũ, đơn vị kiên quyết xử
lý những cán bộ vi phạm kỷ luật.
Cán bộ công chức thường xuyên đào tạo nâng cao trình độ cả trong và ngoài
nước, được tham gia các cuộc hội thảo chuyên đề về lĩnh vực: định phí, giám định
tổn thất, các kiến thức về marketing và quản trị doanh nghiệp.
Trang 22
1.6. Làm tốt nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước
Là doanh nghiệp Nhà nước hoạt động theo Pháp luật trong nhiều năm gần
đây Công ty Bảo hiểm Phú Thọ là đơn vị nộp ngân sách nhà nước đầy đủ với mức
trung bình theo đầu người đạt cao. Công ty bảo hiểm Phú Thọ luôn tìm tòi biện pháp
bảo toàn và phát triển vốn được giao, tài sản và mức nộp ngân sách đều tăng qua các

năm.
Trang 23
2. Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Công ty bảo hiểm Phú Thọ
Trang 24
Công ty bảo hiểm Phú Thọ
Phòng
tổng
hợp
Phòng
Tài
chính
kế toán
Phòng
QLĐL
Phòng
PVKH
số I
Phòng
Bảo
hiểm
PT
Phòng
bảo
hiểm
con
người
Phòng
Bảo
hiểm
cháy kỹ

thuật
Tổng đại lý
TP Việt Trì
Tổ đai lý huyện
Đoan Hùng
Tổ đai lý huyện
Hạ Hoà
Tổ đai lý huyện
Thanh Ba
Tổ đai lý huyện
Cẩm Khê
Tổ đai lý huyện
Yên Lập
Tổ đai lý huyện
TX Phú Thọ
Tổ đai lý huyện
Phù Ninh
Tổ đai lý huyện
Lâm Thao
Tổ đai lý huyện
Tam Nông
Tổ đai lý huyện
Tanh Thuỷ
Tổ đai lý huyện
Thanh Sơn
3. Nhiệm vụ và chức năng của các phòng ban Công ty bảo hiểm Phú Thọ
3.1. Phòng Tổng hợp
a. Chức năng tham mưu cho lãnh đạo công ty và tổ chức thực hiện các mặt
công tác như công tác tổ chức cán bộ, hành chính quản trị, tuyên truyền quảng cáo,
pháp chế thi đua khen thưởng.

b. Các nhiệm vụchính: Công tác tổ chức cán bộ như: Xây dựng mô hình tổ
chức bộ máy hoạt động kinh doanh trình phê duyệt, xây dựng nội quy lao động, nội
quy cơ quan, hợp đồng thoả ước lao động, xây dựng bản quy định chức năng, nhiệm
vụ quy định phân cấp với các phòng ban. Xây dựng kế hoạch tuyển dụng, bố trí cán
bộ phục vụ cho công tác kinh doanh.
Tham mưu cho lãnh đạo về quản lý toàn diện đối với cán bộ thuộc quyền
quản lý theo phân cấp như bổ nhiệm mới, bổ nhiệm lại theo nhiệmkỳ, miễn nhiệm
đối với lãnh đạo các phòng, xếp chuyển chức danh, chuyển ngạch, xếp lương, nâng
lương…
Thực hiện các công việc khác như kế hoạch đào tạo bồi dưỡng cán bộ, quy
hoạch cán bộ.
Thực hiện công tác hành chính quản trị như: Công văn, kho, quỹ, ấn chỉ các
loại…
Công tác tuyên truyền, sáng chế, thi đua khen thưởng.
3.2. Phòng tài chính kế toán
Làm chức năng tham mưu cho lãnh đạo công ty về kế hoạch tài chính hàng
năm như:
- Kế toán thu chi
- Kế toán các loại vốn bằng tiền, nghĩa vụ với nhà nước
- Kế toán vật tư ấn chỉ, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, công đoàn.
- Kế toán các khoản công nợ
Về công tác tài chính của công ty như: Kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản mua
sắm tài sản, kế hoạch kinh doanh của công ty tháng, quý, năm - kiểm tra và giám sát
việc thực hiện các chế độ hoá đơn, ấn chỉ, quản lý thu chi và thực hiện các công việc
khác trong quy định của ngành, cấp trên.
3.3. Phòng quản lý đại lý
Trang 25

×