Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

CHỦ NGHĨA XÃ HỘI, GIAI ĐOẠN ĐẦU CỦA HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI CỘNG SẢN CHỦ NGHĨA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.75 KB, 19 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

TIỂU LUẬN:
ĐỀ TÀI 16: CHƯƠNG 3: MỤC 1.1. CHỦ NGHĨA XÃ HỘI, GIAI ĐOẠN
ĐẦU CỦA HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI CỘNG SẢN CHỦ NGHĨA

Họ và tên: Bùi Đỗ Ngọc Khánh
MSSV: 1850080012
Lớp: K38- Chủ nghĩa xã hội khoa học

Hà Nội – 2021


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................1
NỘI DUNG...............................................................................................................2
1. Điều kiện đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong cách mạng xã
hội chủ nghĩa.........................................................................................................2
2. Liên hệ tới Đảng Cộng sản Việt Nam................................................................5
2.1. Những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch nhằm hạ thấp uy tín,
xóa bỏ vai trị lãnh đạo của Đảng......................................................................5
2.2. Những điều kiện đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
và là tất yếu khách quan của lịch sử..................................................................7
3. Một số đề xuất nhằm củng cố các điều kiện khẳng định vai trò lãnh đạo của
Đảng....................................................................................................................13
KẾT LUẬN.............................................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................17


MỞ ĐẦU


Kể từ khi được thành lập vào ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
trải qua hành trình hơn 90 năm lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Trong
những năm tháng chiến tranh hay ngay cả khi đã giành được độc lập, thống nhất
nước nhà, toàn thể cán bộ Đảng viên trong Đảng vẫn luôn ra sức phấn đấu, học tập
và rèn luyện bản thân, xứng đáng là đội tiên phong và đại biểu trung thành của giai
cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Là Đảng duy
nhất cầm quyền, mỗi cán bộ đảng viên trong đảng luôn thấm nhuần đạo đức cách
mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư, ln gắn bó mật thiết với nhân
dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân
dân về những quyết định của mình.
Trong thế kỉ XX, khi mà đất nước giành được độc lập và thống nhất thì tại
Việt Nam đã xuất hiện rất nhiều đảng phái và các tổ chức chính trị khác nhau. Song
đến cuối cùng, chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam còn tồn tại và phát triển, trở thành
lực lượng lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta. Sau đó, khi
đất nước ta hồn tồn được giải phóng, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục lãnh đạo
nhân dân Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới, phát triển đất nước. Như vậy, có
thể nói rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đã thể hiện được vai trò lãnh đạo rất rõ nét
và bền vững của mình, dù cho vai trị đó đã trải qua nhiều thách thức, nhiều biến
động của thời đại.
Thực tế đã chứng minh, vai trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết
định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Bởi lẽ. trong những hoàn cảnh lịch sử
ngặt nghèo nhất, bản lĩnh, trí tuệ và năng lực lãnh đạo của người Đảng viên, của tổ
chức Đảng, đường lối và sách lược đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam đã trở
thành lá cờ duy nhất có thể quy tụ được sức mạnh đại đồn kết tồn dân tộc. Chính
nhờ có sức mạnh ấy mà đất nước ta, dân tộc ta có thể vượt qua những hồn cảnh
khó khăn mà lịch sử đem lại. Tuy nhiên, trong bối cảnh đất nước đã được hịa bình
1


như ngày nay, có rất nhiều thế lực thù địch vì những mục tiêu khác nhau đã đưa ra

những luận điệu sai trái, cơng kích nhắm vào Đảng, cho rằng Đảng “độc quyền”,
“không phát huy tự do dân chủ” và yêu cầu Việt Nam thực hiện chế độ đa Đảng
giống như các quốc gia tư bản chủ nghĩa. Đây là một thực trạng hết sức nguy hiểm
mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải đối mặt. Chính vì vậy, vấn đề cấp thiết đặt
ra là chúng ta cần khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng để làm cơ sở phản bác các
luận điệu sai lệch đó. Chính vì vậy, em đã lựa chọn đề tài: “Điều kiện đảm bảo vai
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong cách mạng xã hội chủ nghĩa và liên hệ
với Đảng Cộng sản Việt Nam” cho bài tiểu luận của mình.
NỘI DUNG
1. Điều kiện đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong cách mạng xã
hội chủ nghĩa
Đảng Cộng sản cầm quyền là một trong những nội dung quan trọng được
các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin đề cập. Nghiên cứu lịch sử đương
đại, C. Mác và Ph. Ăngghen chỉ ra rằng, trong các xã hội có giai cấp và đấu tranh
giai cấp, giai cấp nào giành được quyền lực nhà nước sẽ trở thành giai cấp thống trị
và thực hiện vai trò lãnh đạo đối với xã hội. Kế thừa những di sản tư tưởng, quan
điểm cơ bản đó trong điều kiện mới, V.I. Lê-nin đã phát triển và có những luận
điểm sâu sắc về vấn đề cầm quyền của Đảng Cộng sản. Ngay sau cách mạng
Tháng Mười, V.I. Lê-nin khẳng định, ở nước Nga chỉ có một đảng cầm quyền duy
nhất đang lãnh đạo, đó là Đảng Bơn-sê-vích của giai cấp cơng nhân Nga: “Về
ngun tắc, Đảng Cộng sản phải giữ vai trò lãnh đạo, đó là điều khơng cịn phải
nghi ngờ gì nữa”. Bởi Đảng Cộng sản là đội tiên phong giác ngộ có tổ chức, và là
tổ chức chặt chẽ nhất của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động, chỉ có Đảng
Cộng sản mới có đủ phẩm chất chính trị và năng lực, xứng đáng là người lãnh đạo
xã hội mới sau giai đoạn tồn tại của chủ nghĩa tư bản. V.I. Lê-nin cũng chỉ rõ:
“Đảng Cộng sản Nga cầm quyền tức là Đảng không chỉ lãnh đạo Nhà nước mà là
2


lãnh đạo cả xã hội”. Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho

công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công. Buông lỏng hoặc hạ thấp vai trò
lãnh đạo của Đảng là sai lầm từ nguyên tắc, là thủ tiêu sức mạnh của nhà nước và
hệ thống chính trị, để cho chủ nghĩa cơ hội nổi dậy “cướp chính quyền”.
Để đảm bảo vai trị lãnh đạo của Đảng trong cách mạng xã hội chủ nghĩa cần
căn cứ vào hai yếu tố là cơ sở thực tiễn và cơ sở lý luận. Về cơ sở lý luận, như Các
Mác đã từng chỉ ra: “Lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật
chất, nhưng lý luận cũng có thể trở thành lực lượng vật chất một khi nó thâm nhập
vào quần chúng". Luận thuyết đó, được Lê nin nâng lên ở tầm cao mới: "Chỉ đảng
nào được một lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm trịn vai trò
chiến sĩ tiên phong", và Lênin coi "Chủ nghĩa Mác là lý luận của phong trào giải
phóng của giai cấp vô sản". Khi đảng cầm quyền, đảng là lực lượng lãnh đạo hệ
thống chính trị và là một bộ phận của hệ thống đó. Trong hệ thống chính trị xã hội
XHCN chỉ có đảng cộng sản mới có đủ năng lực, trí tuệ, phẩm chất chính trị là
người lãnh đạo tồn xã hội. Lênin viết: ... chỉ có đội tiên phong của giai cấp vô sản
mới “đủ sức nắm chính quyền và dắt dẫn tồn dân tiến lên chủ nghĩa xã hội, đủ sức
lãnh đạo và tổ chức một chế độ mới, đủ sức làm thầy, làm người dẫn đường, làm
lãnh tụ của tất cả những người lao động và những người bị bóc lột để giúp họ tổ
chức đời sống xã hội của họ, mà không cần đến giai cấp tư sản và chống lại giai
cấp tư sản”. Lênin nhấn mạnh, về nguyên tắc đảng cộng sản phải giữ vai trị lãnh
đạo và khơng ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo đối với tồn xã hội, đó là điều
khơng cịn phải nghi ngờ gì nữa.
Muốn giữ vững vị trí cầm quyền, Đảng phải tỏ rõ vai trị lãnh đạo trong xây
dựng cương lĩnh, đường lối chính trị; đồng thời, xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh. Công việc đường lối là ở nơi Đảng nhưng mấu chốt thực hiện là ở đảng viên
(ở con người). Đảng muốn mạnh, phải có đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng thực
sự tiên phong, gương mẫu, tiêu biểu trong phong trào và trong mọi hoàn cảnh.
3


Ngoài việc nắm vững lý luận, trung thành tuyệt đối với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên còn phải là tấm gương giỏi và tiêu biểu
trong thực tiễn. Hiện nay, suy cho cùng sự thắng thế của một đảng cầm quyền
không phải chỉ ở chỗ số đơng đảng viên mà chính là ở năng lực, trí tuệ và phẩm
chất cách mạng của Đảng ấy. Toàn Đảng phải là khối thống nhất về tư tưởng và là
một lực lượng mạnh mẽ về hành động. Đảng viên phải tiên phong đi trước nhân
dân, nói đi đơi với làm, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn: "Trước mặt
quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ "cộng sản" mà ta được họ yêu mến.
Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân
dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước". Trên thực tế, chỉ khi nào
và ở đâu, đội ngũ cán bộ, đảng viên có tâm, có đức, có trí, dũng, có tinh thần dân
chủ, sáng tạo, tiêu biểu cho trí tuệ, lương tâm, danh dự của dân tộc, đạo đức, văn
minh của tồn xã hội thì lúc đó, ở đó tổ chức của Đảng mới mạnh, mới thực sự làm
tròn vai trị người lãnh đạo. Ngược lại, thì suy yếu, dẫn đến suy thối về tư tưởng
chính trị, đạo đức lối sống và ắt sẽ đe dọa đến sự tồn vong của Đảng và của chế độ.
[1]
Thứ hai, về cơ sở thực tiễn. Muốn giữ vững vị trí cầm quyền, Đảng phải tỏ
rõ vai trò lãnh đạo trong xây dựng cương lĩnh, đường lối chính trị; đồng thời, xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Công việc đường lối là ở nơi Đảng nhưng mấu
chốt thực hiện là ở đảng viên (ở con người). Đảng muốn mạnh, phải có đội ngũ cán
bộ, đảng viên của Đảng thực sự tiên phong, gương mẫu, tiêu biểu trong phong trào
và trong mọi hoàn cảnh. Ngoài việc nắm vững lý luận, trung thành tuyệt đối với
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên còn phải là
tấm gương giỏi và tiêu biểu trong thực tiễn.
Trong điều kiện hiện nay, sự thắng thế của một đảng cầm quyền không phải
chỉ ở chỗ số đơng đảng viên mà chính là ở năng lực, trí tuệ và phẩm chất cách
mạng của Đảng ấy. Toàn Đảng phải là khối thống nhất về tư tưởng và là một lực
4


lượng mạnh mẽ về hành động. Đảng viên phải tiên phong đi trước nhân dân, nói đi

đơi với làm, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn: “Trước mặt quần chúng,
không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng
chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình
phải làm mực thước cho người ta bắt chước”.
Trên thực tế, chỉ khi nào và ở đâu, đội ngũ cán bộ, đảng viên có tâm, có đức,
có trí, dũng và có tinh thần dân chủ, sáng tạo, tiêu biểu cho trí tuệ, lương tâm, danh
dự của dân tộc, đạo đức, văn minh của toàn xã hội thì lúc đó, ở đó tổ chức của
Đảng mới mạnh, mới thực sự làm tròn vai trò người lãnh đạo. Ngược lại, thì suy
yếu, dẫn đến ngày càng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống và ắt sẽ đe
dọa đến sự tồn vong của Đảng và của chế độ.
2. Liên hệ tới Đảng Cộng sản Việt Nam
2.1. Những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch nhằm hạ thấp uy tín,
xóa bỏ vai trị lãnh đạo của Đảng
Trước những bước tiến không ngừng của cách mạng Việt Nam mà tiêu biểu
là việc chúng ta đã đánh thắng thực dân – đế quốc xâm lược, đưa đất nước bước
sang trang mới. Về cơ bản, những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch có
thể được tóm tắt trong các nội dung sau:
Về chính trị, chúng cho rằng “Ở Việt Nam, công nghiệp chưa phát triển, số
lượng, chất lượng công nhân giai cấp công nhân bị hạn chế. Đảng Cộng sản Việt
Nam không thể gọi là Đảng của giai cấp cơng nhân được, nó có rất ít tính cơng
nhân mà mang đậm tính nơng dân, chịu ảnh hưởng nặng nề của chủ nghĩa phong
kiến”. Vì thế, “giai cấp cơng nhân và Đảng Cộng sản không thể lãnh đạo, xây dựng
được chủ nghĩa xã hội đích thực ở Việt Nam”. “Đảng khơng nên giữ vai trị lãnh
đạo chính trị, khơng nên và khơng thể lãnh đạo tuyệt đối”. Chúng xuyên tạc Đảng
ta đã sai lầm về chính trị khi “vội vàng xóa bỏ” đảng Dân chủ và đảng Xã hội, “tạo
điều kiện cho Đảng Cộng sản độc đốn, chun quyền, bóp nghẹt tự do, dân chủ”.
5


Chúng kêu gào: “Từ bỏ độc quyền lãnh đạo là vấn đề căn bản vì đó là then chốt

của chế độ dân chủ. Đảng cho mình cái quyền đứng trên dân tộc, cái đó khơng ai
chịu chấp nhận”; địi “xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng”.
Về tư tưởng, chúng cho rằng “Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác Lênin làm nền tảng tư tưởng là sai lầm”, vì rằng “chủ nghĩa Mác - Lênin là ngoại
lai, bắt nguồn từ phương Tây, nên khơng cịn phù hợp với Việt Nam”; rằng “Học
thuyết Mác là sản phẩm của thế kỷ XIX, do vậy, đem đặt nó trong bối cảnh thế kỷ
XXI nếu khơng lạc hậu, thì cũng chẳng thể là khoa học”; “chủ nghĩa Mác đã đóng
góp khá nhiều cho lịch sử, đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử rồi, nó khơng cịn phù
hợp với thời đại ngày nay”; v.v.
Đối với tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng cho rằng, Hồ Chí Minh là nhà “dân
tộc chủ nghĩa chứ khơng phải là nhà mác-xít”; “khơng thể lấy tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng” vì khơng phù hợp với điều kiện mới của kinh tế thị trường và
hội nhập quốc tế. Đảng Cộng sản Việt Nam đề cao tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh, là để “an dân” chứ thực chất khơng theo Hồ Chí Minh.
Về phương diện tổ chức, chúng tập trung đánh vào các nguyên tắc tổ chức
sinh hoạt Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ. Chúng cho rằng, nguyên tắc
tập trung dân chủ đã lỗi thời, nó chỉ thích hợp với hoạt động của Đảng khi chưa
giành được chính quyền, cịn hoạt động bí mật hoặc lãnh đạo trong chiến tranh;
thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên nhân gây ra độc đốn, chun
quyền trong Đảng và trong xã hội, khơng có nhân đạo. Chúng cịn cho rằng, trong
Đảng có nhiều phe phái: phe cải cách và phe bảo thủ; trong Đảng cịn có các nhóm
lợi ích…
Về đạo đức, chúng bịa đặt, bơi nhọ, nói xấu cán bộ Đảng và Nhà nước, đánh
vào sinh hoạt, đạo đức, lối sống các đồng chí lãnh đạo; tung ra nhiều chuyện giật
gân trong sinh hoạt của lãnh đạo. Chúng cho rằng, Đảng và đảng viên ngày càng
suy thối, biến chất; tham nhũng, tham ơ, lãng phí là căn bệnh trầm kha khơng thể
6


chữa trị được. Từ đó chúng suy diễn thành “Đảng tham nhũng”, “Nhà nước tham
nhũng”... Thực chất, những “lập luận” trên là thủ đoạn dọn đường cho sự hình

thành tư tưởng đa ngun chính trị, đa đảng đối lập hịng vơ hiệu hóa vai trị lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2.2. Những điều kiện đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và
là tất yếu khách quan của lịch sử
Thứ nhất, thực tế lịch sử đã chứng minh, sau khi lãnh đạo nhân dân giành
được những thành tựu vĩ đại trong Cách mạng Tháng Tám, trong các cuộc kháng
chiến giành lại độc lập, thống nhất cho non sông đất nước, Đảng ta tiếp tục lãnh
đạo đất nước trong thời kỳ mới - thời kỳ cả nước thống nhất cùng đi lên chủ nghĩa
xã hội. Đất nước chuyển sang giai đoạn mới, vừa có hịa bình vừa có chiến tranh;
vừa phải đối phó với kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của chủ nghĩa đế quốc và
bọn phản động quốc tế, vừa chống lại sự bao vây, cấm vận và cơ lập tứ phía. Sau
thất bại về quân sự trong cuộc chiến tranh Việt Nam, Mỹ tiếp tục chống phá cách
mạng Việt Nam bằng chiến lược “Diễn biến hịa bình”. Mỹ đã lợi dụng triệt để sự
bất đồng trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, tiến hành cấm vận, bao vây, cơ lập hịng
làm suy yếu Việt Nam, tạo ra dòng người Việt Nam di tản ra nước ngoài, phần lớn
sang Mỹ. Mỹ ngăn cản Việt Nam gia nhập Liên Hợp Quốc, không chịu thực thực
điều khoản 21 của Hiệp định Paris về trách nhiệm của Mỹ trong việc hàn gắn vết
thương chiến tranh do Mỹ gây ra ở Việt Nam, phong tỏa tài khoản liên quan đến
Việt Nam ở nước ngồi, gây khó khăn cho việc phát triển kinh tế của Việt Nam.
Cuối năm 1977 Quốc hội Mỹ thông qua luật cấm vận viện trợ cho Việt Nam. Đầu
năm 1979, Mỹ vận động hầu hết các nước trong nghị viện châu Âu đình chỉ viện
trợ kinh tế và siết chặt cấm vận đối với nước ta. Cùng với đó, Mỹ đã thơng qua đội
ngũ phản động của chế độ ngụy quân, ngụy quyền cũ và bọn phàn động đội lốt tôn
giáo ở miền Nam Việt Nam để hỗ trợ cho các hoạt động khiêu khích, phá hoại, tác
động tâm lý lôi kéo người dân gây bạo loạn phản cách mạng ở Việt Nam.
7


Cùng với vòng vây bao vây cấm vận, sau chiến tranh Việt Nam, Việt Nam và
Campuchia xuất hiện nhiều mâu thuẫn. Tranh chấp và xung đột biên giới xảy ra

liên tục trong các năm 1977 và 1978 và đạt đỉnh điểm trong năm 1979 khi Việt
Nam chính thức mở cuộc chiến tranh phản kích ở biên giới Tây Nam, sau đó là
đánh sâu vào lãnh thổ Campuchia để xóa bỏ hồn tồn chế độ Khơ me Đỏ. Cịn ở
phía bắc, thực hiện một phần trong thỏa thuận với Mỹ, ngày 17 tháng 2 năm 1979,
Trung Quốc đưa quân tấn công Việt Nam trên toàn tuyến biên giới giữa hai nước,
buộc quân đội Việt Nam phải nghênh chiến trên cả 2 mặt trận. Khó khăn chồng
chất khó khăn.
Kinh nghiệm lãnh đạo đất nước xây dựng CNXH được tích lũy trong những
năm lãnh đạo miền Bắc xây dựng CNXH trong điều kiện đất nước có chiến tranh
trước đây tuy rất quý báu, nhưng chừng đó là chưa đủ cho việc lãnh đạo, tổ chức
xây dựng và quản lý phát triển đất nước trong điều kiện mới với quy mơ và tầm
vóc mới. Mọi việc dường như phải làm lại từ đầu, để xây dựng xã hội xã hội chủ
nghĩa (XHCN) ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, vừa mới giành được độc lập
và vừa bước ra khỏi các cuộc chiến tranh tàn khốc kéo dài 30 năm.
Chưa hết, CNXH hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu lâm vào khủng hoảng và
sụp đổ đã giáng một đòn mạnh vào hệ thống XHCN làm nó tan rã. Đất nước rơi
vào một cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng chưa từng có và đang đứng
trước nguy cơ của sự sụp đổ. Trong hoàn cảnh lịch sử ngặt nghèo ấy, bản lĩnh, trí
tuệ và năng lực lãnh đạo của Đảng được phát huy và thể hiện trong điều kiện thực
tiễn mới. “Đổi mới hay là chết” đó khơng chỉ là khẩu hiệu mà còn là mệnh lệnh
của những con tim và khối óc có đủ sự nhiệt huyết và sự tỉnh táo để đưa đất nước
thoát khỏi sự hiểm nguy.
Trớ trêu thay, trong những lúc đất nước khó khăn và lâm nguy như vậy, đã
khơng có một lực lượng nào, một tổ chức nào đồng lòng cùng chung tay gánh vác
trách nhiệm trước non sông, đất nước, dân tộc và nhân dân. Trái lại, chỉ thấy nhưng
8


tiếng kêu la, ốn thán, những điều chỉ trích, gây chia rẽ phân tâm, làm ngã lịng
người từ phía các thế lực thù địch và cơ hội... Lúc đó, chỉ có Đảng Cộng sản Việt

Nam vẫn trên dưới một lịng, vận dụng hết tâm huyết, tài năng của mỗi cá nhân để
tìm ra con đường đúng đắn, đưa đất nước thốt khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hơi.
Và Đảng Cộng sản Việt Nam đã làm được điều đó với việc khởi xướng công cuộc
Đổi Mới. Trải qua 30 năm Đổi Mới, Việt Nam đã vươn lên từ một quốc gia nghèo
đói, kém phát triển trở thành quốc gia đang phát triển, có thu nhập trung bình. Năm
2019, GDP nước ta tăng 7,02% - mức tăng trưởng cao nhất trong giai đoạn 2015 –
2020. Bước sang năm 2020, dù cho nền kinh tế bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch
Covid-19, Việt Nam vẫn là một trong những quốc gia hiếm hoi có tăng trưởng
dương trong khu vực và trên thế giới. Theo Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng tại lễ kỷ
niệm 75 năm thành lập Bộ KH và ĐT ngày 31-12-2020, năm 2020, quy mô nền
kinh tế Việt Nam đạt khoảng 343 tỷ USD, đứng trong tốp 40 nền kinh tế lớn nhất
thế giới và đứng thứ tư ASEAN; GDP bình quân đầu người đạt 3.521 USD đứng
thứ 6 ASEAN.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch bước đầu theo hướng hiện đại; giảm dần ở khu
vực nông nghiệp, gia tăng khu vực dịch vụ và công nghiệp. Cơ cấu kinh tế năm
2019 cũng có những chuyển biến tích cực với tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp
và thủy sản giảm xuống 13,96% GDP, so với mức 14,68% của năm 2018. Tỷ trọng
của khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 34,49%; tỷ trọng khu vực dịch vụ
chiếm 41,64%. Kinh tế vĩ mô ổn định vững chắc hơn, lạm phát được kiểm soát ở
mức thấp, các cân đối lớn của nền kinh tế được cải thiện đáng kể. Chất lượng tăng
trưởng được cải thiện; Hiệu quả đầu tư và năng suất lao động được nâng lên rõ rệt.
Việc ứng dụng tối đa khoa học công nghệ, nhất là công nghệ cao, đã tạo các tiền đề
để có thể bước đầu chuyển sang xây dựng kinh tế tri thức. Đặc biệt, mặc dù chuyển
trọng tâm phát triển sang công nghiệp và dịch vụ, thế nhưng nông nghiệp Việt Nam
vẫn được quan tâm đầu tư nhằm đáp ứng nhu cầu của người dân trong nước và
9


phục vụ xuất khẩu. Việc áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp
công nghệ cao đã tạo ra nhiều sản phẩm nông nghiệp chất lượng, đáp ứng được u

cầu xuất khẩu vào các thị trường khó tính nhất. Qua đó làm giàu cho người nơng
dân, cũng như tăng cường vị thế của sản phẩm Việt Nam trên trường quốc tế.
Từ một nền kinh tế nông nghiệp, lạc hậu, quy mô nhỏ bé, với GDP chỉ 14 tỷ
USD và GDP bình quân đầu người chỉ khoảng 250 USD trong những năm đầu đổi
mới, Việt Nam đã thoát khỏi tình trạng đói nghèo, chuyển sang thực hiện và đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Năm 2019, Việt Nam đã có quan hệ
chính thức với 189/193 quốc gia của Liên hợp quốc (so với 11 nước năm 1954); có
quan hệ kinh tế - thương mại và đầu tư với trên 224 nước và vùng lãnh thổ trên
toàn thế giới; Đến năm 2020, Việt Nam đã ký 15 Hiệp định FTA (năm 2020 Việt
Nam đã phê chuẩn và triển khai có hiệu quả EVFTA; tham gia ký Hiệp định Đối
tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) và ký FTA Việt Nam - Anh), đang đàm phán
hai FTA; có 16 đối tác chiến lược, 11 đối tác chiến lược toàn diện; tham gia hơn
500 hiệp định song phương và đa phương trên nhiều lĩnh vực; có 71 nước đã công
nhận Việt Nam là một nền kinh tế thị trường…
Thực tiễn lịch sử đó đã cho thấy một lần nữa, Đảng Cộng sản Việt Nam là
lực lượng lãnh đạo xứng đáng và tin cậy của dân tộc và nhân dân Việt Nam; lịch sử
và nhân dân Việt Nam lại một lần nữa tin tưởng trao cho Đảng sứ mệnh lãnh đạo
dân tộc, dẫn dắt giống nòi tiến bước cùng thời đại. Đó là sự thật hiển nhiên khơng
phải bàn cãi. [2]
Thứ hai, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội là chính
danh, hợp hiến và hợp pháp. Điều này được thể hiện xuyên suốt qua các bản Hiến
pháp của nước Cộng Hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam từ năm 1946 cho tới nay,
phù hợp với bối cảnh đất nước ta trong cả quá khứ hiện tại và tương lai. Như vậy,
vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội được xây dựng trên cơ sở
pháp lý đồng bộ (hệ thống các văn bản pháp luật) và đồng thuận (điều lệ, quy định)
10


của các tổ chức có liên quan, khơng phải do Cương lĩnh, Điều lệ Đảng "đơn
phương" quy định. Đây là một yếu tố quan trọng bảo đảm tính chính danh đầy đủ

được quy định tại Hiến pháp và Điều lệ Đảng, điều lệ các tổ chức chính trị - xã hội
và tổ chức xã hội nghề nghiệp về mối quan hệ của Đảng với các tổ chức khác ở
Việt Nam. Các bản Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1980, năm
1992 và năm 2013 đều có 1 điều quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam… là lực
lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” [2], là phù hợp với xu hướng chung của thế
giới hiện nay, không phải là cá biệt.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung,
phát triển năm 2011) khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền,
lãnh đạo Nhà nước và xã hội Việt Nam” [2]. Điều lệ Đảng quy định: “Đảng Cộng
sản Việt Nam là Đảng cầm quyền… Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là
một bộ phận của hệ thống ấy”.
Như vậy, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội được xây
dựng trên cơ sở pháp lý đồng bộ (hệ thống các văn bản pháp luật) và đồng thuận
(điều lệ, quy định) của các tổ chức có liên quan, không phải do Cương lĩnh, Điều lệ
Đảng “đơn phương” quy định. Đây là một yếu tố quan trọng bảo đảm tính chính
danh đầy đủ được quy định tại Hiến pháp và Điều lệ Đảng, điều lệ các tổ chức
chính trị - xã hội và tổ chức xã hội nghề nghiệp về mối quan hệ của Đảng với các
tổ chức khác ở Việt Nam.
Thứ ba, Đảng đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp cơng nhân, nhân dân
lao động và của dân tộc. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội
tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao
động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và của dân tộc”. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm
của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu
11


nước. Trên thực tế, Đảng khơng có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc,
phục vụ nhân dân. Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân

chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, khơng cịn người bóc lột người, thực
hiện thành cơng CNXH và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.
Thứ tư, nhân dân Việt Nam đã thừa nhận và ủy quyền Đảng Cộng sản Việt
Nam là đảng duy nhất lãnh đạo, không chấp nhận đa nguyên, đa đảng. Quan hệ
Đảng - dân là mối quan hệ bản chất và máu thịt của Đảng ta. Ngay từ khi ra đời
Đảng luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, được nhân dân
thương yêu, đùm bọc, che chở và xây dựng. Hơn 90 năm đi theo Đảng, dưới sự
lãnh đạo của Đảng, các tầng lớp nhân dân Việt Nam nhận rõ hơn ai hết, ngồi
Đảng Cộng sản Việt Nam, khơng có một lực lượng, một tổ chức nào có thể đại diện
chân chính cho lợi ích của mình. Vì thế, nhân dân tin tưởng ủy thác trao quyền lãnh
đạo cho Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thực tế cách mạng Việt Nam cho thấy, sự lãnh đạo của Đảng đối với đất
nước là sự lựa chọn tất yếu của lịch sử, là ý nguyện của nhân dân. Vì thế, các tầng
lớp nhân dân mong muốn Đảng ln giữ vững vai trị lãnh đạo, không chia sẻ
quyền lực với các lực lượng khác khác trong vai trị cầm quyền của mình. Bởi đó là
nguyên tắc đã được được hiến định và là một kết quả tất yếu của lịch sử cách mạng
Việt Nam, khơng thể thay đổi
Thứ năm, ở Việt Nam, khơng có một lực lượng chính trị nào khác, ngồi
Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng
lãnh đạo đất nước và xã hội.
Tuyệt đại đa số nhân dân mong muốn Đảng tự chỉnh đốn, khắc phục các
khuyết điểm, yếu kém để hoàn thành sứ mệnh của mình là lãnh đạo Nhà nước và
xã hội. Để xứng đáng với sự tin cậy của nhân dân, Đảng đã đẩy mạnh công tác xây
dựng, chỉnh đốn, làm cho Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, làm tròn trách
nhiệm là đội tiên phong, vai trò của Đảng cầm quyền và lãnh đạo sự nghiệp cách
12


mạng trong giai đoạn mới. Đặc biệt, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về “Một số
vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” đã đề ra bốn nhóm giải pháp giải

quyết những vấn đề cấp bách trong cơng tác xây dựng Đảng, trong đó nhóm giải
pháp thư tư nêu rõ việc phát huy vai trò, trách nhiệm của quần chúng nhân dân
trong nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay. [2]
Tóm lại, quan điểm cho rằng “Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết vai trò lịch
sử, khơng cịn đủ khả năng để lãnh đạo đất nước” là quan điểm sai lầm, phản khoa
học, phi thực tế. Quan điểm này dựa trên những lập luận mang tính chủ quan, võ
đoán, thiếu căn cứ khoa học, bất chấp đạo lý và lẽ phải thông thường, phiến diện
và phi lơgic. Nhờ có đường lối đúng đắn, mang đậm tính thực tiễn và phù hợp với
tiến trình lịch sử, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thực hiện được công việc quan trọng
nhất mà mọi đảng phái chính trị đều cần làm, đó là sự thừa nhận và ủng hộ của
nhân dân. Qua thực tế cách mạng, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã
được khẳng định và được nhân dân thừa nhận. Trong những bước ngoặt của lịch
sử, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chứng minh được bản lĩnh của mình, được nhân
dân tin tưởng và ủy quyền Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất lãnh đạo,
không chấp nhận đa nguyên, đa đảng. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
đối với đất nước là sự lựa chọn tất yếu của lịch sử, là ý nguyện của nhân dân. Vì
thế, các tầng lớp nhân dân mong muốn Đảng ln giữ vững vai trị lãnh đạo, không
chia sẻ quyền lực với các lực lượng khác khác trong vai trị cầm quyền của mình.
Bởi đó là nguyên tắc đã được được hiến định và là một kết quả tất yếu của lịch sử
cách mạng Việt Nam, không thể thay đổi.
3. Một số đề xuất nhằm củng cố các điều kiện khẳng định vai trò lãnh đạo của
Đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam đã hoàn thành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước. Giờ đây, lịch sử tiếp tục chọn Đảng Cộng sản Việt Nam là lực
lượng lãnh đạo đất nước ta, nhân dân ta tiến hành công cuộc Đổi mới, đưa đất nước
13


sánh vai với các cường quốc năm châu như mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thực tế đã chứng minh, trong những năm vừa qua, Đảng đã lãnh đạo nhân dân Việt

Nam thực hiện thành công những bước đầu của cơng cuộc đổi mới, đưa nước ta
thốt khỏi tình trạng kém phát triển, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực và
từng bước khẳng định được vị thế của mình trên trường quốc tế. Tuy nhiên, trong
thời đại tới, trước những tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư,
những sự biến động về quan điểm chính trị, sự giao lưu văn hóa quốc tế, Đảng cần
tiếp tục củng cố vai trị lãnh đạo của mình, xây dựng nội bộ trong sạch, vững
mạnh, đoàn kết và trung thành tuyệt đối với tổ quốc, với nhân dân, nỗ lực hết mình
để hồn thành nhiệm vụ mà Đảng, nhà nước và nhân dân giao phó. Do đó, tác giả
xin đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện và tăng cường vai trò lãnh đạo của
Đảng như sau:
Thứ nhất, cần tăng cường xây dựng Đảng về chính trị. Bảo đảm cho chủ
trương, đường lối của Đảng đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện được
bản chất cách mạng và khoa học của giai cấp công nhân; phù hợp với quy luật
khách quan và phản ánh được ý chí, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân.
Thứ hai, mỗi cán bộ đảng viên cần tiếp tục rèn luyện phẩm chất đạo đức
cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân. Mỗi cán bộ, đảng viên không ngừng tu
dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, cần kiệm, liêm chính, chí cơng, vơ tư, thực
sự là một tấm gương về phẩm chất đạo đức, lối sống. Cán bộ cấp trên phải gương
mẫu trước cán bộ cấp dưới, đảng viên và nhân dân. Kiên quyết đấu tranh chống
mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, các biểu hiện cơ hội, vụ lợi, tiêu cực. Nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cả về phẩm chất đạo đức, năng lực lãnh
đạo, chỉ đạo, điều hành, quản lý nhà nước. Có cơ chế loại bỏ, bãi miễn những cán
bộ, cơng chức khơng hồn thành nhiệm vụ. Tiếp tục kiện toàn tổ chức cơ sở đảng
và nâng cao chất lượng cán bộ đảng viên.

14


Thứ ba, cần tiếp tục kiện toàn, đổi mới tổ chức của Đảng và hệ thống chính
trị. Tiếp tục nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để hoàn thiện mơ hình tổ chức

và xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức trong hệ thống chính trị, bảo
đảm bộ máy tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, vai trò
quản lý của Nhà nước và phát huy vai trò trách nhiệm của các tổ chức khác trong
hệ thống chính trị. Khắc phục tình trạng cồng kềnh, kém hiệu lực, hiệu quả của bộ
máy và sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan, tổ chức. Kiện
toàn, nâng cao chất lượng các cơ quan tham mưu và đội ngũ cán bộ làm công tác
tham mưu về tổ chức cán bộ, nhất là ở cấp chiến lược.
Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp uỷ và các tổ chức
đảng, nhất là nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ; nâng cao chất lượng tự phê
bình và phê bình trong sinh hoạt đảng trên tinh thần thương yêu đồng chí. Thật sự
phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng, từ sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt cấp uỷ ở cơ sở
đến sinh hoạt của Ban Bí thư, Bộ Chính trị và Ban chấp hành Trung ương.
KẾT LUẬN
Trong hành trình 75 năm kể từ mùa thu lập quốc năm 1945, Việt Nam đã có
30 năm trải qua hai cuộc chiến tranh vô cùng khốc liệt để đạt được mục tiêu thống
nhất và độc lập dân tộc. Bước sang thế kỉ XXI, dù rằng hậu quả mà chiến tranh để
lại vơ cùng nặng nề thì ngày nay, cả thế giới đã biết đến Việt Nam với một thành
tựu vĩ đại khác, đó là cơng cuộc đổi mới - một bằng chứng về sự thành cơng
chuyển đổi mơ hình kinh tế trong lịch sử đương đại. Tuy vẫn là một nước đang
phát triển, nhưng qua hơn 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Việt Nam đã đạt
được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Vươn mình thốt khỏi hậu quả của chiến tranh và bao vây cấm vận, kinh tế
Việt Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng khá nhanh; sự nghiệp cơng nghiệp hố,
hiện đại hố, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục có
những bước tiến mới. Đặc biệt, trong 10 năm đầu tiên của Đổi Mới, điểm khác biệt
15


dễ nhận thấy nhất trong nền kinh tế Việt Nam chính là đời sống nhân dân đã được
được cải thiện nhanh chóng, đất nước thay da đổi thịt và phát triển nhanh chóng

từng ngày. Những thành cơng đó đã giúp niềm tin của người dân vào Đảng, Chính
phủ ngày càng bền vững đã giúp khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và
tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng an ninh được đảm bảo. Sức
mạnh tổng hợp của quốc gia tăng lên tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi
lên với triển vọng tốt đẹp. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi
mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
đã hình thành trên những nét cơ bản.
Trong bối cảnh đó, việc Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục lãnh đạo nhân dân
Việt Nam trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thực tế hoàn toàn khách
quan, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Đất nước ta khơng cần một chính
Đảng nào khác để làm rối loạn tình hình đất nước mà chỉ cần có một Đảng lãnh
đạo hết mình vì tổ quốc, phụng sự nhân dân.

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Lê Hương Giang, 2020, Vai trò cầm quyền, lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam, Đảng bộ tỉnh Bình Định
2. Viết Liễu (tổng hợp), 2021, Đảng Cộng sản Việt Nam - Nhân tố quyết định mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng
3. TS. Nguyễn Minh Phong - ThS Nguyễn Trần Minh Trí, 2021, Vị thế và cơ đồ
kinh tế Việt Nam, Báo Nhân dân.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (2011).
5. Đảng Cộng sản Việt Nam qua các kỳ Đại hội, />
17




×