Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

TIỂU LUẬN CHỦ NGHĨA MAC LENIN VỀ HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI CỘNG SẢN CHỦ NGHĨA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.37 KB, 20 trang )

TIỂU LUẬN CHỦ NGHĨA MAC-LENIN
VỀ HÌNH THÁI KINH TẾ – XÃ HỘI
CỘNG SẢN CHỦ NGHI

Nguyễn Ngọc Hoa Trâm
Lê Nguyễn Bảo Ngọc
Hứa Quốc Bảo
Phan Thị Huy Hoàng
Võ Trịnh Tùng Minh
Huỳnh Quốc Mạnh

1


MỤC LỤC
Mở bài…………………………………………………………………………….3
Khái niệm……………………………………………………………....................3
Xu thế tất yếu của sự ra đời hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa………3
Các giai đoạn phát triển của hình thái kinh tế - xã hội CSCN…………………....6
a. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội……………………………………………...6

Đặc điểm, nội dung tính chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội…….8
Nội dung kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của thời kỳ quá độ lên CNXH…
10
b.

Chủ

nghĩa




hội…………………………………………………………...12
c.

Giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa ………..16

Kết luận……………………………………………………………………….…18
Việt Nam với sự lựa chọn quá độ lên XHCN, bỏ qua thời kỳ TBCN…………...19

2


1. Mở bài
Trên cơ sở vận dụng học thuyết hình thái kinh tế xã hội, lý luận về đấu tranh giai
cấp và cách mạng xã hội, C.Mác và Ph.Ăngghen tập trung nghiên cứu hình thái kinh
tế xã hội tư bản chủ nghĩa từ đó đưa ra dự báo về sự ra đời của hình thái kinh tế xã hội
Cộng sản chủ nghĩa.
2. Khái niệm
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử (hay
còn gọi là chủ nghĩa duy vật biện chứng về xã hội) dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn
lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với
một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, và với một kiến trúc thượng tầng tương
ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất đó. Nó chính là các xã hội cụ thể
được tạo thành từ sự thống nhất biện chứng giữa các mặt trong đời sống xã hội và tồn
tại trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử: Cộng sản nguyên thủy, chiếm hửu nô lệ,
phong kiến, tư bản chủ nghĩa, và Cộng sản chủ nghĩa
Chủ nghĩa cộng sản: Chỉ một chế độ xã hội mà ở đó con người được giải phóng
triệt để khỏi ách áp bức bất công, con người được phát triển toàn diện, của cải làm ra
dồi dào, con người lao động một cách tự nguyện, tự giác, làm theo năng lực hưởng

theo nhu cầu . Là xã hội mà ở đó khơng còn giai cấp và nhà nước .
3 Xu thế tất yếu của sự ra đời hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
Trong tác phẩm của mình đặc biệt là trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng
sản, Chống Đuy-Rinh, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định sự ra đời của chủ nghĩa tư
bản là một giai đoạn phát triển mới của nhân loại, ông viết: “ Giai cấp tư sản, trong
quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ đã tạo ra những lực lượng sản xuất
nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của các thế hệ trước kia gộp lại “. Nhưng
mặt khác C.Mác và Ph.Ănggen cũng chỉ ra rằng: Trong xã hội đối kháng giai cấp đó
con người càng chinh phục, cải tạo thiên nhiên thì tình trạng người áp bức, bóc lột
người càng được mở rộng. Sự phát triển về kinh tế - xã hội dưới chủ nghĩa tư bản càng
gia tăng thì sự suy đồi về đạo đức, về lối sống con người , sự nghèo khổ của giai cấp
công nhân, nguy cơ mất việc làm của giai cấp công nhân càng lớn.

3


C.Mác và Ph.Ăngghen đã phân tích một cách khoa học phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa và chỉ rõ mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất ngày càng xã hội hóa cao với quan hệ sản xuất
dựa trên sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất dẫn tới sự kìm hãm lực
lượng sản xuất. Nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất tất yếu đòi hỏi phải thay thế
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp để thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển. Tính mâu thuẫn gay gắt trong lĩnh vực kinh tế được biểu
hiện trên lĩnh vực chính trị xã hội là mâu thuẫn giai cấp công nhân, nhân dân lao động
với giai cấp tư sản. Sự phát triển của cuộc đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn tới chuyên
chính vơ sản và sự xác lập hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. C.Mác và
Ph.Ăngghen dự báo sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa từ
những nước tư bản phát triển, nhưng căn cứ vào những điều kiện thực tế cuối thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX, V.I.Lênin đã dự báo sự xuất hiện của hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa ở các nước có trình độ phát triển trung bình và những dân tộc

thuộc địa. Tuy nhiên, theo chủ nghĩa Mác - Lênin để hình thái kinh tế - xã hội Cộng
sản chủ nghĩa xuất hiện ở các nước tiền tư bản, phải có những điều kiện nhất định là :
Thứ nhất, do chính sách xâm lược của chủ nghĩa tư bản đối với các nước thuộc
địa trên thế giới, ở các quốc gia này phải xuất hiện những mâu thuẫn mới: mâu thuẫn
giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân; mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc xâm
lược với các quốc gia dân tộc bị xâm lược; mâu thuẫn giữa các nước tư bản đế quốc tư
bản với nhau; mâu thuẫn giữa địa chủ và nông dân, tư sản và nông dân các nước thuộc
địa…và đặc biệt là mâu thuẫn chủ yếu giữa một bên chủ nghĩa đế quốc xâm lược cùng
bọn phong kiến tay sai, tư sản phản động một bên là cả dân tộc gồm: cơng nhân nơng
dân, trí thức và những lực lượng yêu nước khác.
Thứ hai, có sự tác động toàn cầu của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế,
hệ tư tưởng Mác - Lênin, đặc biệt là những luận điểm về chủ nghĩa đế quốc và các dân
tộc bị áp bức…, làm thức tỉnh nhiều dân tộc, dấy lên phong trào yêu nước, giành độc
lập dân tộc, trong đó có Việt Nam. Như vậy, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa khi ra đời ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển trung bình và các nước chưa
qua chủ nghĩa tư bản không phải là ngẫu nhiên mà dựa vào những điều kiện lịch sử
nhất định.

4


Tính mâu thuẫn gay gắt trong lĩnh vực kinh tế của chủ nghĩa tư bản biểu hiện
trên lĩnh vực chính trị - xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân, nhân dân lao
động với giai cấp tư sản ngày càng trở nên quyết liệt. Qua thực tiễn cuộc đấu tranh đã
khiến cho giai cấp công nhân hiểu rằng, muốn giành thắng lợi phải tiếp thu chủ nghĩa
xã hội khoa học hình thành chính đảng của giai cấp mình. Khi đảng cộng sản ra đời,
toàn bộ hoạt động của đảng đều hướng vào lật đổ nhà nước của giai cấp tư sản, xác lập
nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Việc thiết lập nhà nước này là
sự mở đầu của hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Như vậy, một mặt chủ nghĩa Mác-Lênin xem sự ra đời chủ nghĩa Cộng sản là kết

quả tất yếu của sự vận động và phát triển của xã hội loài người, là quá trình “lịch sử tự
nhiên”, mặt khác cũng khẳng định hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa ra đời
là kết quả hoạt động tự giác của giai cấp công nhân, bằng hành động đấu tranh cách
mạng của giai cấp này bởi vì chế độ tư bản chủ nghĩa khơng tự nó sụp đổ.
Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ,
lực lượng sản xuất của chủ nghĩa tư bản có tính xã hội hóa cao đã mang tính chất toàn
cầu ngày càng mâu thuẩn với quan hệ sản xuất tư nhân tư bản chủ nghĩa. Nhưng sở
hữu nhà nước trong chủ nghĩa tư bản, thực chất chỉ là giai cấp tư sản lợi dụng nhà
nước, nhân dân nhà nước để nắm tư liệu sản xuất. Do vậy mâu thuẩn đối kháng trong
kinh tế và trong lĩnh vực xã hội không hề suy giảm. Mâu thuẩn đó chỉ có thể giải quyết
bằng một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, thiết lập hình thái kinh tế - xã hội chủ
nghĩa nhằm mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
“Mác đặt vấn đề chủ nghĩa cộng sản giống như một nhà tự nhiên học đặt, chẳng
hạn, vấn đề tiến hóa của một giống sinh vật mới, một khi đã biết nguồn gốc của nó”
nhưng cũng khẳng định hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa ra đời là kết quả
hoạt động tự giác của giai cấp công nhân, bằng hành động đấu tranh cách mạng của
giai cấp này, bởi vì thế chế độ tư bản chủ nghĩa khơng tự nó sụp đổ. Ngày nay chủ
nghĩa tư bản đã lỗi thời, nhưng giai cấp tư sản vẫn kiên quyết bảo vệ chế độ tư hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa bằng mọi thủ đoạn, mọi phương tiện chúng có trong tay.
Trong khi nhấn mạnh vai trị tích cực của nhân tố chủ quan trong tiến trình cách
mạng xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xác lập chế độ mới xã hội chủ nghĩa, các nhà
sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học cũng cương quyết đấu tranh chống lại khuynh

5


hướng cách mạng phiêu lưu, khơng tính đến trình độ phát triển của hiện thực cách
mạng, không xem xét tới trình độ giác ngộ của nhân dân, thiếu sự chuẩn bị chu đáo.
.4. Các giai đoạn phát triển của hình thái kinh tế - xã hội CSCN
Dựa trên quan điểm khoa học, cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất, C.Mác và

Ph.Ăngghen không chỉ phân chia lịch sử phát triển xã hội loài người thành các hình
thái kinh tế - xã hội mà cịn chia hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa thành
các giai đoạn khác nhau. Theo các ơng, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
phát triển từ thấp đến cao, từ giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa lên xã hội CSCN.
Giai đoạn cao của chủ nghĩa Cộng sản là giai đoạn xã hội Cộng sản chủ nghĩa. Ở
giai đoạn này con người khơng cịn lệ thuộc một cách phiến diện và cứng nhắc vào
phân công lao động xã hội, đồng thời lao động của thời lao động trong giai đoạn này
không chỉ là phương tiện kiếm sống mà nó trở thành nhu cầu số một của con người
như những nhu cầu thiết yếu khác. Khi đó con người thực hiện nguyên tắc phân phối
“làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”.
Trong tác phẩm “Chủ nghĩa Mác về vấn đề nhà nước”, trên cơ sở diễn đạt tư
tưởng của C.Mác, V.I.Lênin đã chia hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa thành
ba thời kỳ: “Những cơn đau đẻ kéo dài” (thời kỳ quá độ); Giai đoạn đầu của xã hội
cộng sản chủ nghĩa (chủ nghĩa xã hội); Giai đoạn cao của xã hội cộng sản chủ nghĩa
(chủ nghĩa cộng sản).
Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa có thể chia thành ba thời kỳ:
a. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Tính tất yếu của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên lên chủ nghĩa xã hội
Để chuyển từ thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội mà chủ
nghĩa xã hội phát triển trên cơ sở vật chất - kỹ thuật của nó, cần trải qua một thời kỳ
quá độ nhất định, là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc trên toàn bộ các mặt của đời
sống xã hội, tạo ra những tiền đề vật chất và tinh thần cần thiết để hình thành một xã
hội mà trong đó những nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa xã hội sẽ được thực hiện.
Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là do:
Một là, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội khác nhau về bản chất, dựa trên chế
độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Chủ nghĩa tư bản được xây dựng trên cơ sở

6



chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, dựa trên áp bức, bóc lột và bất
công. Chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất,
không cịn tình trạng áp bức, bóc lột. Muốn có xã hội như vậy cần phải có thời kỳ lịch
sử nhất định.
Hai là, chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên nền đại cơng nghiệp có trình độ cao.
Quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản đã tạo ra cơ sở vật chất kỷ thuật nhất định
cho chủ nghĩa xã hội. Muốn có cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội cần phải
có thời gian để tổ chức lại, sắp xếp, cải tạo nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa thành
cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
Ba là, các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự phát nảy sinh từ chủ
nghĩa tư bản, cần phải có thời gian xây dựng và cải tạo quan hệ xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là cơng việc mới mẻ, khó khăn
phức tạp và địi hỏi phải có thời gian để giai cấp cơng nhân có thể làm quen với những
việc đó.
VD: Thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa ở Việt Nam.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là con đường phát
triển của các nước không phải từ nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa sẵn có mà từ nền
sản xuất lạc hậu, quy mô nhỏ là chủ yếu đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là thời kỳ mà nhà
nước xã hội chủ nghĩa cùng với giai cấp công nhân và nhân dân lao động đảm đương
nhiệm vụ phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tương ứng làm cơ sở hiện
thực cho chủ nghĩa xã hội.
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa chỉ có nghĩa
là trong lịch sử nước ta sẽ khơng có một giai đoạn nào trong đó giai cấp tư sản nắm
chính quyền và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa giữ địa vị thống trị trong nền kinh tế
quốc dân. Nhưng để tạo lập cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nhà nước
cách mạng phải giải quyết những vấn đề phức tạp, trong đó có nhiều vấn đề mà giai
cấp tư sản đã từng làm ở những nước đã trải qua chủ nghĩa tư bản, như chuyển nền
kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hóa, tích lũy vốn, hợp tác lao động, cách mạng kỹ

tḥt và cơng nghiệp hóa nền kinh tế quốc dân, ứng dụng công nghệ mới, hoàn thiện

7


quản lý kinh tế - xã hội...tham gia vào quá trình trên có nhiều thành phần kinh tế, kể cả
kinh tế tư bản tư nhân, được phát triển ở mọi lĩnh vực mà nhà nước khơng cấm.
Do đó, nước ta quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là chọn con đường phát
triển "rút ngắn" lên CNXH. Về mặt chính trị, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua
việc xác lập sự thống trị của giai cấp tư sản, của kiến trúc thượng tầng TBCN. Về kinh
tế, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua sự thống trị của quan hệ sản xuất TBCN,
nhưng phải tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư
bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, phát triển nhanh lực lượng sản xuất,
xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Đặc điểm, nội dung tính chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sự tồn tại của xã hội cũ đan
xen với những nhân tố mới của chủ nghĩa xã hội trong mối quan hệ vừa thống nhất
vừa đấu tranh với nhau trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội như: chính trị, kinh tế,
văn hoá, tư tưởng…và phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trên lĩnh vực kinh tế: là sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần trong hệ thống
kinh tế quốc dân thống nhất, vận động theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế
có nhiều thành phần (VD: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài, kinh tế tư bản nhà nước), được xác lập trên cơ sở khách quan
của sự tồn tại nhiều loại hình sở hữu (VD: sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu
chung, sở hữu tư nhân, sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, sở hữu
của tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề
nghiệp), về tư liệu sản xuất với những hình thức tổ chức kinh tế đa dạng, đan xen hỗn
hợp với nhau, nhiều hình thức phân phối thu nhập khác nhau (VD: phân phối theo lao
động, phân phối theo vốn và tài sản, phân phối ngoài thù lao lao động thông qua các
quỹ phúc lợi khác).

VD: Đặc điểm cơ bản của thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
Việt Nam vốn là một nước nghèo lại bị chiến tranh tàn phá rất nặng nề.
Trên thế giới cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đang phát triển như
vũ bão và toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ. Vì vậy việc mở rộng quan hệ
kinh tế quốc tế trở thành tất yếu.

8


Nước ta có điều kiện để mở rộng quan hệ kinh tế: Nguồn lao động dồi dào, cần
cù, thông minh; nguồn tài nguyên đa dạng, vị trí địa lý thuận; cơ sở vật chất – kỷ thuật
đã được xây dựng.
Đặc trưng của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ là kinh tế nhiều thành phần.
Trên lĩnh vực chính trị: do kết cấu kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội đa dạng, phức tạp nên kết cấu giai cấp xã hội trong thời kỳ này cũng đa dạng, phức
tạp. Thời kỳ này bao gồm: giai cấp cơng nhân, giai cấp nơng dân, tầng lớp trí thức,
những người sản xuất nhỏ, tầng lớp tư sản. Các giai cấp, tầng lớp này vừa hợp tác, vừa
đấu tranh với nhau. Trong một giai cấp, tầng lớp cũng có nhiều bộ phận có trình độ, ý
thức khác nhau, do đó ý thức chính trị của các bộ phận cũng có sự khác nhau.
VD: Đặc điểm cơ bản của thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
Phát triển theo con đường XHCN là phù hợp với quy luật khách quan của lịch sử,
xu thế phát triển của thời đại. Con đường tiến lên XHCN của Việt Nam là bỏ qua thời
kỳ chủ nghĩa tư bản bắt tay vào xây dựng xã hội chủ nghĩa mới tốt đẹp hơn.
Vì: Lịch sử thế giới đã có nhiều trường hợp bỏ qua một hình thái kinh tế - xã hội
lỗi thời để tiến lên hình thái kinh tế - xã hội tiến bộ hơn (tiêu biểu là nước Nga) và Việt
Nam là một trường hợp đặc biệt nhưng vẫn là một hiện tượng phù hợp với quy luật
phát triển lịch sử.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa Việt Nam phát triển theo con đường chủ nghĩa xã
hội không chỉ phù hợp với xu thế của thời đại, mà còn phù hợp với đặc điểm của cách
mạng Việt Nam, đặc điểm tình hình Việt Nam: Chính trị, Kinh tế, Xã hội, Tư tưởng –

văn hóa.
Cách mạng dân tộc, dân chủ diễn ra với mục tiêu dành độc lập, tự do… Tạo tiền
đề làm cho dân lao động thoát khỏi cảnh bần cùng, sống một đời hạnh phúc. Dẫn đến
cách mạng XHCN là sự tiếp tục hợp logic của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ.
Quá độ lên XHCN là xu hướng khách quan của loài người nên cuộc cách mạng
được ủng hộ rất lớn. Trước khi đổi mới, tình hình chính trị nước ta cực kì căng thẳng.
Quan hệ Việt Nam – Campuchia, Việt Nam – Trung Quốc, Mỹ bao vây cô lập, Liên
Xô đang trong thời gian trì trệ.
Trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa - xã hội: là sự tồn tại nhiều tư tưởng và văn hóa
khác nhau. Bên cạnh tư tưởng xã hội chủ nghĩa, tư tưởng Mác - Lênin giữ vai trò

9


thống trị vẫn tồn tại các tư tưởng tư sản, tiểu tư sản, tâm lý tiểu nơng…V.I.Lênin cho
rằng, tính tự phát tiểu tư sản là kẻ thù giấu mặt hết sức nguy hiểm, nguy hiểm hơn cả
bọn phản cách mạng cơng khai. Trên lĩnh vực văn hóa cùng tồn tại văn hóa củ và văn
hóa mới, và chúng thường xuyên đấu tranh nhau.
Vậy, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội về thực chất là thời kỳ diễn ra cuộc đấu
tranh giữa giai cấp tư sản đã bị đánh bại, khơng cịn là giai cấp thống trị và các thế lực
chống phá chủ nghĩa xã hội với giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động.
Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong điều kiện mới là giai cấp công nhân đã cầm
quyền, quản lý tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Cuộc đấu tranh với những nội dung,
hình thức mới, diễn ra trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa tư tưởng, bằng tuyên
truyền vận động là chủ yếu, bằng hành chính và luật pháp.
VD: Đặc điểm cơ bản của thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
Tồn tại nhiều tư tưởng, văn hóa tinh thần khác nhau, có cả sự đối lập nhau. Các
dân tộc đoàn kết bình đẳng cùng tiến bộ, có quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới.
Tương ứng với kinh tế nhiều thành phần với một cơ cấu phức tạp bao gồm nhiều
giai cấp và tầng lớp xã hội; giữa các giai cấp vừa có sự thống nhất vừa có sự đối kháng

nhau về lợi ích cơ bản.
Từ một nền sản xuất nhỏ là phổ biến quá độ lên CNXH không qua chế độ tư bản
chủ nghĩa.
Nội dung kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của thời kỳ quá độ lên CNXH
Trong lĩnh vực kinh tế: Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cần phải sắp
xếp, bố trí lại lực lượng sản xuất hiện có của xã hội, cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây
dựng quan hệ sản xuất mới theo hướng tạo ra sự phát triển cân đối của nền kinh tế, đáp
ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của nhân dân. Quá trình này phải tuân thủ những đòi
hỏi khách quan của quy luật kinh tế, nhất là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Bước phát triển tất yếu là phải cải tạo quan
hệ sản xuất cũ, đồng thời từng bước xây dựng quan hệ sản xuất tư hữu xã hội chủ
nghĩa.
Đối với những nước chưa trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tất yếu phải tiến
hành cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa để tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa
xã hội, đó là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ. Quá trình này địi hỏi phải tn

10


thủ quy luật kinh tế khách quan và tùy thuộc điều kiện lịch sử, bối cảnh cụ thể của mỗi
nước để xác định chiến lược, bước đi và nội dung thích hợp.
Trong lĩnh vực chính trị: Nội dung cơ bản trong lĩnh vực chính trị của thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội là đấu tranh chống lại các thế lực thù địch, chống phá sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng, củng cố nhà nước và nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa ngày càng vững mạnh, đảm bảo quyền làm chủ trong hoạt động kinh tế văn hóa - xã hội của nhân dân lao động; xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội thực sự
là nơi thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động; xây dựng Đảng Cộng sản trong
sạch, vững mạnh ngang tầm nhiệm vụ lịch sử.
VD: Cuộc đấu tranh chống lại các thế lực thù địch ở nước ta chủ yếu là tội phạm
xã hội như buôn bán hàng hóa cấm, tham ơ,…và hiện nay với tinh thần thanh niên
chúng ta đều chung tay góp sức hướng về Trường Sa, Hoàng Sa thân yêu…

Trong lĩnh vực tư tưởng văn hóa xã hội: Nội dung cơ bản trong lĩnh vực tư
tưởng văn hóa xã hội của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thực hiện tuyên truyền
phổ biến những tư tưởng khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin trong
toàn xã hội: khắc phục những tư tưởng và tâm lý có ảnh hưởng tiêu cực đối với tiến
trình xây dựng CNXH; xây dựng nền văn hóa mới XHCN đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp
thu những giá trị tinh hoa của các nền văn hóa trên thế giới.
VD: Những lễ hội quái dị ở Việt Nam ( Đâm trâu, chém lợn) dân tộc Tây
Nguyên, họ sống bằng nương rẫy, không phải cư dân lúa nước. Lễ “Ăn trâu” vì thế gắn
với phong tục tập quán, tơn giáo tín ngưỡng của người Tây Ngun. Với họ, con trâu
không phải là đầu cơ nghiệp như quan niệm của cư dân nền văn minh lúa nước. Con
trâu nuôi chủ yếu để ăn thịt, phục vụ cuộc sống và là vật tế lễ thần linh, trời đất. Xét về
bản chất, đây là những lễ hội tốt, cần phát huy. Tuy nhiên tính hoang dã, hoang sơ
cũng cần phải hạn chế. Phần hành lễ không nên để mọi người cùng chứng kiến những
cảnh hoang dã. Nên thực hiện phần nghi lễ trong không gian hạn hẹp, giới hạn đối
tượng xem, khơng nên phơi bày những nghi lễ mang tính sơ khai nguyên thủy. Người
thưởng thức cũng không nên lấy cái nhìn thời văn minh đánh giá phán xét thời mông
muội.
Trong lĩnh vực xã hội: Nội dung cơ bản trong lĩnh vực xã hội của thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội là khắc phục tệ nạn do xã hội cũ để lại; từng bước khắc phục sự

11


chênh lệch phát triển giữa các vùng, miền, các tầng lớp dân cư trong xã hội nhằm thực
hiện mục tiêu bình đẳng xã hội; xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người.
Tóm lại, Thời kỳ quá độ lên CNXH là một thời kỳ lịch sử tất yếu trên con đường
phát triển của hình thái kinh tế xã hội Cộng sản chủ nghĩa. Đó là thời kỳ lịch sử có
điểm riêng với nội dung kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội đặc thù mà giai đoạn xã
hội xã hội chủ nghĩa trên con đường phát triển kinh tế - xã hội Cộng sản chủ nghĩa chỉ
có thể được trên cơ sở hoàn thành các nội dung đó.

b. Chủ nghĩa xã hội
Là giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản có các đặc trưng sau:
Thứ nhất, cơ sở vật chất - kỹ thuật của xã hội XHCN là nền đại công nghiệp.
Mỗi chế độ xã hội đều có cơ sở vật chất kỹ thuật tương ứng của nó, phản ánh
trình độ phát triển kinh tế - kỹ tḥt của chế độ đó. Nếu cơng cụ thủ cơng là đặc trưng
cho cơ sở vật chất kỹ thuật của các xã hội tiền tư bản chủ nghĩa thì nền đại cơng
nghiệp cơ khí đặc trưng cho cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa xã
hội với tư cách là xã hội thay thế chủ nghĩa tư bản, cao hơn chủ nghĩa tư bản thì cơ sở
vật chất kỹ thuật của nó phải là nền sản xuất đại cơng nghiệp có trình độ cao hơn so
với trình độ của xã hội tư bản chủ nghĩa. Đối với các nước tư bản chủ nghĩa đi lên chủ
nghĩa xã hội, lực lượng sản xuất đã phát triển cao là điều kiện thuận lợi để xây dựng cơ
sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đối với các nước đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa, để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội
tất yếu phải thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Cả mặt thực tế, cả lơgíc - lý ḷn khoa học đều chứng minh rằng, xã hội xã hội
chủ nghĩa là sự kế tiếp sau xã hội tư bản chủ nghĩa, có nhiệm vụ giải quyết những mâu
thuẫn mà chủ nghĩa tư bản đã không thể giải quyết triệt để. Đặc biệt là giải quyết mâu
thuẫn giữa yêu cầu xã hội hoá ngày càng tăng của lực lượng sản xuất ngày càng hiện
đại hơn với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Do đó, lực
lượng sản xuất của xã hội xã hội chủ nghĩa khi nó hoàn thiện phải cao hơn so với chủ
nghĩa tư bản. Đương nhiên, các nước tư bản phát triển đã có lực lượng sản xuất cao
(VD: Mỹ, Nhật, Pháp, Đức,...) thì lên xã hội xã hội chủ nghĩa giai cấp vơ sản ở đó chủ
yếu chỉ phải trải qua một cuộc cách mạng chính trị thành cơng. Khi đó chính trình độ
lực lượng sản xuất đã phát triển cao là một cơ sở rất thuận lợi cho việc tiếp tục xây

12


dựng thắng lợi, hoàn thiện chủ nghĩa xã hội - cả quan hệ sản xuất và lực lượng sản
xuất cao hơn chủ nghĩa tư bản.

Ở những nước xã hội chủ nghĩa "bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa" (như Việt Nam
và các nước khác) thì đương nhiên phải có quá trình thực hiện cơng nghiệp hoá, hiện
đại hoá, xây dựng từng bước cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại của chủ nghĩa xã hội.
Hiện nay, Trung Quốc, Việt Nam, Cuba... đang đẩy mạnh quá trình cơng nghiệp hoá,
hiện đại hoá với tốc độ khá cao.
Thứ hai, xã hội xã hội chủ nghĩa xoá bỏ chế độ chiếm hữu tư bản chủ nghĩa,
thiết lập chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ, chủ nghĩa xã hội không
xoá bỏ chế độ tư hữu nói chung mà chủ yếu xoá bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về
tư liệu sản xuất (còn các chế độ tư hữu khác: chế độ tư hữu chủ nô, phong kiến, xét
trên toàn cầu thì đã bị chủ nghĩa tư bản xoá bỏ trước đó rồi). Bởi vì chế độ tư hữu tư
bản chủ nghĩa đã nơ dịch, áp bức bóc lột giá trị thặng dư đối với đại đa số nhân dân lao
động, đem lại lợi nhuận ngày càng cao cho thiểu số các tập đoàn tư bản lũng đoạn và
giai cấp thống trị xã hội.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kết cấu xã hội còn đan xen nhiều giai
cấp, tầng lớp xã hội; cơ sở kinh tế quá độ còn nhiều thành phần vận hành theo cơ chế
sản xuất hàng hoá, quan hệ thị trường, vẫn tồn tại những quan hệ kinh tế cụ thể như
thuê mướn lao động... cá nhân người này vẫn có thể cịn bóc lột những cá nhân khác.
Đó chỉ là những quan hệ bóc lột cụ thể chứ khơng phải xem xét trên cả một chế độ xã
hội, giai cấp này bóc lột các giai cấp, tầng lớp khác. V.I. Lênin và Đảng Cộng sản Nga,
sau một thời gian áp dụng "Chính sách cộng sản thời chiến" (trưng thu lương thực... do
yêu cầu phục vụ chiến tranh bảo vệ Tổ quốc) đã bãi bỏ chính sách này khi bước vào
thời kỳ quá độ, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là thời kỳ thực hiện "Chính sách kinh tế
mới" (NEP) với kinh tế hàng hoá 5 thành phần và tự do lưu thông hàng hoá trên thị
trường nhiều loại sản phẩm. Đó là một đặc trưng kinh tế của thời kỳ quá độ và cả của
chủ nghĩa xã hội. Việc xoá bỏ một cách nóng vội những đặc điểm trên, sa vào bệnh chủ
quan duy ý chí trong mấy thập kỷ cuối thế kỷ XX của các nước xã hội chủ nghĩa là trái với
quan điểm của V.I. Lênin về nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

13



Thứ ba, xã hội xã hội chủ nghĩa là một chế độ xã hội tạo ra được cách tổ chức
lao động và kỷ luật lao động mới.
Quá trình xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội là một quá trình hoạt động tự giác
của đại đa số nhân dân, vì lợi ích của đa số nhân dân. Chính từ bản chất và mục đích
đó mà các nhà kinh điển Mác - Lênin đã đưa ra những kết luận khoa học cho đến nay
vẫn còn giá trị: chủ nghĩa xã hội sẽ là một kiểu tổ chức lao động mới của bản thân
nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo, hướng dẫn của Đảng Cộng sản, đội tiên phong
của giai cấp công nhân và nhà nước xã hội chủ nghĩa. Do đó, kỷ luật lao động mới
cũng có những đặc trưng mới, vừa là kỷ luật chặt chẽ theo những quy định chung của
luật pháp, pháp chế xã hội chủ nghĩa, vừa có tính tự giác - kỷ ḷt tự giác (tức là mỗi
người lao động giác ngộ về vai trị làm chủ đích thực của mình trước xã hội, trước mọi
công việc được phân công ngày càng tốt hơn). Đương nhiên, để mọi người lao động có
được tổ chức và kỷ luật lao động mới tự giác như thế, phải trải qua quá trình đấu tranh,
từng bước hoàn thiện chủ nghĩa xã hội.
Thứ tư, Xã hội xã hội chủ nghĩa thực hiện nguyên tắc phân phối theo
lao động - nguyên tắc phân phối cơ bản nhất.
Trong quá trình lao động cụ thể, mỗi người lao động sẽ nhận được từ xã hội một
số lượng sản phẩm tiêu dùng có giá trị tương đương số lượng, chất lượng và hiệu quả
lao động của họ đã tạo ra cho xã hội, sau khi đã trừ đi một số khoản đóng góp chung
cho xã hội. Bằng thu thuế, những đóng góp khác của xã hội, nhà nước xã hội chủ
nghĩa xây dựng trường học, bệnh viện, công viên, đường giao thông,... Nguyên tắc
phân phối này là phù hợp với tính chất và trình độ phát triển lực lượng sản xuất trong
giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là một trong những cơ sở của công bằng xã
hội ở giai đoạn này.
Thứ năm, nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp cơng nhân, tính
nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc; thực hiện quyền lực và lợi ích của nhân
dân
Khi đề cập đến hệ thống chuyên chính vơ sản, chủ nghĩa Mác - Lênin đã xác định

rõ bản chất, chức năng, nhiệm vụ của nhà nước chun chính vơ sản. Thực chất nhà
nước đó là do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, nhân dân tổ chức ra. Thông qua
nhà nước là chủ yếu mà đảng lãnh đạo toàn xã hội về mọi mặt và nhân dân lao động

14


thực hiện quyền lực và lợi ích của mình trên mọi mặt của xã hội. Nhân dân ngày càng
tham gia nhiều vào công việc nhà nước, theo V.I. Lênin, nhà nước chun chính vơ sản
(hay nhà nước xã hội chủ nghĩa) khơng cịn ngun nghĩa như nhà nước của chủ nghĩa tư
bản, mà là "nhà nước nửa nhà nước", với tính tự giác, tự quản của nhân dân rất cao, thể
hiện các quyền dân chủ, làm chủ và lợi ích của chính mình ngày càng rõ hơn.
Thứ sáu, xã hội xã hội chủ nghĩa là chế độ đã giải phóng con người thốt
khỏi áp bức bóc lột, thực hiện cơng bằng, bình đẳng, tiến bộ xã hội, tạo những điều
kiện cơ bản để con người phát triển toàn diện.
Việc giành chính quyền, độc lập, tự do, dân chủ - giải phóng con người về chính
trị suy cho cùng cũng là để giải phóng con người về kinh tế, về đời sống vật chất và
tinh thần. Dù lúc đầu mới có chính quyền, trình độ kinh tế, mức sống vật chất của nhân
dân còn thấp, nhưng đã bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội là đã khơng cịn chế độ tư
hữu, áp bức bất công với tư cách một chế độ xã hội. Đây là những tiền đề chính trị,
kinh tế khác về bản chất so với các chế độ cũ để từng bước thực hiện việc giải phóng
con người và phát triển con người toàn diện. Khơng có những tiền đề cơ bản đó khơng
thể giải phóng con người, khơng thực hiện được cơng bằng, bình đẳng, tiến bộ và văn
minh xã hội... Nói bình đẳng trong chủ nghĩa xã hội, là nói trong điều kiện, giai đoạn
xã hội vẫn cịn giai cấp, cịn nhà nước, trước hết bình đẳng giữa các công dân, giữa các
chủ thể sản xuất - kinh doanh (dù họ ở thành phần kinh tế nào...) trước pháp luật chung của
nhà nước; bình đẳng nam, nữ, bình đẳng giữa các dân tộc và đoàn kết toàn dân tộc, v.v..
Cùng với việc xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đối với tư liệu
sản xuất, phát triển lực lượng sản xuất, chủ nghĩa xã hội thực hiện xóa bỏ đối kháng
giai cấp, thực hiện cơng bằng, bình đẳng xã hội. Đây là một quá trình lâu dài và được

thực hiện từng bước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội như: kinh tế, chính trị,
văn hoá, tư tưởng…Tuy nhiên, trong giai đoạn xã hội XHCN, sự bình đẳng được xác
lập trong điều kiện xã hội vẫn còn giai cấp, cịn nhà nước do đó, chưa thể có “bình
đẳng thực sự”.
Những đặc trưng trên đây là những nét chung nhất của chế độ xã hội xã hội chủ
nghĩa, là tiêu chí phân biệt xã hội chủ nghĩa với chế độ xã hội khác. Đồng thời, những
đặc trưng ấy còn là mục tiêu phấn đấu của tất cả các quốc gia dân tộc đi theo con đừng

15


xã hội chủ nghĩa theo quan điểm Mác - Lênin hiện nay. Tuy nhiên, tùy điều kiện lịch
sử, đặc điểm, mức độ trình độ của mổi quốc gia có những đặc trưng khác nhau.
VD: Đặc trưng cơ bản của CNXH ở Viêt Nam.
Xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng nhằm những mục tiêu cơ bản:
Mục tiêu tổng quát, là “Xây đựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của chủ
nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hóa phù hợp, làm
cho nước ta trở thành nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh”.
Mục tiêu chung là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Mục tiêu cụ thể: thực hiện đầy đủ 8 đặc trưng của chủ nghĩa xã hội như Đại Hội
X đã nêu.
Một, Dân giàu, nước mạnh, dân chủ công bằng, văn minh.
Hai, Do dân làm chủ.
Ba, Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ
sản xuất phù hợp.
Bốn, Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Năm, Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất cơng, có cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc, phát triển toàn diện.
Sáu, Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết tương trợ và

giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Bảy, Có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản.
Tám, Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
c. Giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
Trên cơ sở nghiên cứu quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, C.Mác dự báo
về sự xuất hiện giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa:
Về mặt kinh tế: Lực lượng sản xuất phát triển vô cùng mạnh mẽ, của cải xã hội
tuôn ra dào dạt, ý thức con người được nâng lên, khoa học phát triển, lao động của con
người được giảm nhẹ, thực hiện phân phối theo nhu cầu. Trong tác phẩm “Phê phán
Cương lĩnh Gôta” C.Mác đã viết: “Khi nào lao động trở thành không những là một
phương tiện để sinh sống mà bản thân nó cịn là một nhu cầu bậc nhất của đời sống,

16


khi mà cùng với sự phát triển toàn diện của các cá nhân, sức sản xuất của họ ngày
càng tăng lên và tất cả các nguồn của cải xã hội đều tn ra dồi dào - chỉ khi đó
người ta mới có thể vượt hẳn ra khỏi giới hạn chật hẹp của pháp quyền tư sản và xã
hội mới có thể ghi lên lá cờ của mình: làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”.
Về mặt xã hội: Trình độ xã hội phát triển ngày càng cao, con người có điều kiện
phát triển năng lực của mình, tri thức con người được nâng cao, khơng cịn sự khác
biệt giữa thành thị và nông thôn, giai cấp và nhà nước sẽ tiêu vong. Chỉ lúc đó, một
nền dân chủ thực sự hoàn bị, thực sự khơng hạn chế mới có thể có và được thực hiện.
Kế thừa những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã tiếp tục đưa ra những
luận giải về mơ hình xã hội trong tương lai. Ơng cho rằng, khi xã hội đạt được trình độ
phát triển cao như vậy, thì dân chủ mới thực hiện đầy đủ, dân chủ cho mọi người,
khơng cịn đối tượng bị hạn chế dân chủ, do vậy dân chủ cũng không còn, nhà nước
luật pháp tự tiêu vong, pháp luật trở thành phong tục, tập quán, thành quan niệm đạo
đức mọi người tự giác thực hiện. Tới giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng

sản chủ nghĩa, con người được giải phóng hoàn toàn, chuyển từ vương quốc của tất
yếu sang vương quốc của tự do, có điều kiện phát triển toàn diện năng lực và mang hết
tài năng, trí tuệ cống hiến cho xã hội.... V.I.Lênin cho rằng, không phải nhà nước tiêu
vong ngay một lúc, mà là một quá trình: “Chúng ta chỉ có quyền nói rằng, nhà nước
tất nhiên sẽ tiêu vong đồng thời nhấn mạnh vào tính chất lâu dài của q trình ấy, sự
phụ thuộc của quá trình ấy vào tốc độ phát triển của giai đoạn cao của chủ nghĩa
cộng sản”.
Qua phân tích của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về giai đoạn cao của hình thái
kinh tế - xã hội Cộng sản chủ nghĩa, đã cho chúng ta những bài học đúng đắn sau đây:
Một là, C.Mác. Ph.Ăngghen và V.I.Lênin dự báo về giai đoạn cao của hình thái
kinh tế - cộng sản chủ nghĩa khi có những điều kiện kinh tế - xã hội cho sự xuất hiện
của giai đoạn này.
Hai là, sự xuất hiện giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa là một quá trình lâu dài, bằng việc khơng ngừng phát triển lực lượng sản xuất, cơ
cấu lại tổ chức xã hội về mọi mặt, giáo dục tinh thần tự giác của con người...
Ba là, quá trình xuất hiện giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản
chủ nghĩa ở các nước khác nhau diễn ra với những quá trình khác nhau, tuỳ thuộc vào

17


sự nỗ lực phấn đấu về mọi phương diện. Khi chưa xuất hiện giai đoạn cao thì “trong
một thời gian nhất định, dưới chế độ cộng sản, không những vẫn còn pháp quyền tư
sản, mà vẫn còn cả nhà nước kiểu tư sản nhưng khơng có giai cấp tư sản”. Khi chưa
đạt đến giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, trong điều kiện
vẫn còn chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc trên thế giới thì những vấn đề lý luận của
chủ nghĩa Mác về nhà nước, về dân chủ vẫn còn nguyên giá trị.
***
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đưa ra các dự báo và luận giải về
sự ra đời, hình thái kinh tế xã hội Cộng chủ nghĩa trên cơ sở phân tích quy luật phát

triển khách quan của xã hội đặc biệt là quy luật kinh tế của sự vân động của xã hội tư
bản chủ nghĩa. Thế nhưng, lịch sử phát triển của xã hội luôn luôn chịu tác động của
nhiều nhân tố khách quan và chủ quan trong những điều kiện xác định, từ đó tạo nên
tính phong phú đa dạng của tiến trình lịch sử phát triển của mỗi cộng đồng người cũng
như của toàn bộ lịch sử nhân loại. Do vậy, tiến trình phát triển của lịch sử khơng bao
giờ là con đường thẳng, trái lại nó có thể phải trải qua những bước thăng trầm với
những con đường vòng, thậm chí phải trải qua những bước khủng hoảng và thụt lùi
tạm thời trên con đường phát triển của nó. Đó là biện chứng của lịch sử. Từ đó, C.Mác
đưa ra kết ḷn: “tơi coi sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá
trình lịch sử tự nhiên”.
5. kết luận
Mặc dù chủ nghĩa xã hội bị khủng hoảng dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô và
Đông Âu, chủ nghĩa tư bản vẫn tiếp tục phát triển và đạt được nhiều thành tựu, những
tất yếu của chủ nghĩa tư bản sẽ được thay thế bằng hình thái kinh tế xã hội cao hơn
theo dự đoán của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin. Lý luận hình thái kinh tế
xã hội cũng là phương pháp ḷn khoa học để ta phân tích cơng cuộc xây dựng đất
nước hiện nay, luận chứng được tất yếu của định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Phân tích đúng ngun nhân của tình hình khủng hoảng kinh tế xã hội, đổi mới theo
định hướng của xã hội vừa phù hợp với xu hướng phát triển thời đại vừa phù hợp với
điều kiện cụ thể của Việt Nam.

18


Như vậy có thể khẳng định rằng: Lý ḷn hình thái kinh tế xã hội vẫn giữ nguyên
giá trị khoa học và đúng thời đại của nó. Nó là phương pháp luận thực sự khoa học để
phân tích thời đại cũng như của công cuộc xây dựng đất nước hiện đại ở Việt Nam.
Đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu đối với tất cả nhân loại. Chúng ta
phải nhận thấy rằng con đường mà chúng ta đang đi tới là một con đường gian lao, thử
thách, đòi hỏi toàn Đảng - toàn dân - toàn quân ta phải cùng đồng lòng, chung sức và

cùng cố gắng, thì mới có thể thành cơng. Chúng ta bước được tới đỉnh vinh quang hay
khơng, có bước được đến CNXH - CNCS hay khơng, điều đó cịn phải tuỳ thuộc vào
tất cả mọi người có cố gắng, nỗ lực hay không. Tất cả chúng ta sẽ cùng cố gắng để có
thể thực hiện được ước mơ và nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân, bởi
quá độ được đến chủ nghĩa xã hội, chúng ta sẽ tìm được thấy hạnh phúc, ấm no và công
bằng, chúng ta sẽ thấy được ánh sáng của văn minh nhân loại, cái mà bấy lâu nay chúng ta
tìm kiếm nó.
6. Việt Nam với sự lựa chọn con đường quá độ tiến thẳng lên CNXH bỏ qua chế
độ TBCN :
Sự lựa chọn này phù hợp với xu thế của thời đại, phù hợp với nguyện vọng của
cộng đồng của đông đảo quần chúng nhân dân lao động của nước ta, phù hợp với nhu
cầu vươn lên làm chủ xã hội. Vì chỉ có CNXH mới thực sự có một chế độ dân chủ
cơng bằng, tiến bộ xã hội.
Nhân dân ta đã tiến hành hai cuộc kháng chiến chống đế quốc xâm lược (PhápMĩ) rất tốn kém. Về thực chất hai cuộc kháng chiến đó chính là chống TBCN. Khi
chúng ta khơng thể quay lại phát triển nền kinh tế theo con đường TBCN hơn nữa nền
kinh tế tư bản từ khi ra đời đều thể hiện bản chất bóc lột.
Trên thế giới có nhiều nước phát triển theo con đường TBCN nhưng kết quả chỉ
có một số ít nước có nền kinh tế phát triển. Còn lại theo nhận xét của Kissingter( một
nhà tư bản tài chính) thì Châu Phi đói, Châu Á ngèo, Châu Mĩ La Tinh nợ nần chồng
chất..
Nước ta có khả năng tiến thẳng lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN vì chúng ta có những
điều kiện khách quan và chủ quan của con đường quá độ tiến thẳng lên CNXH mà bỏ
qua chế độ TBCN mà Lênin đã đưa ra.

19


- Điều kiện khách quan : Chúng ta quá độ đi lên CNXH trong điều kiện cuộc
cách mạng công nghiệp hiện đại trên thế giới đang phát triển hết sức mạnh mẽ làm cho
lực lượng sản xuất mang tính quốc tế hóa ngày càng cao và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa

các quốc gia phát triển ngày càng lớn. Do đó các nước phải mở rộng kinh tế với bên
ngoài đó là xu thế tất yếu của thời đại trong quá trình đó cho phép chúng ta có thể
tranh thủ tận dụng được những thế mạnh từ bên ngoài, đặc biệt là vốn, công nghệ tiên
tiến hiện đại, kinh nghiệm quản lý, mở rộng thị trường, v.v…
- Điều kiện chủ quan :
+ Giai cấp vơ sản đó phải giành được chính quyền
+ Phải có Đảng, Mác - Lênin lảnh đạo.
+ Phải xây đựng được khối đoàn kết liên minh cụng-nụng vững chắc.
Kết luận : Chúng ta có khả năng tiến thẳng lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN

20



×