Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

thu hút nguồn vốn đầu tư cho gdđh đại học ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.27 KB, 36 trang )

Đề án môn học GVHD: PGS. TS. Phan Huy Đường
LỜI NÓI ĐẦU
“ Nhân tài là nguyên khí của quốc gia”
Tất cả mọi quốc gia có thể phát triển được là nhờ vào nguồn nhân lực
giỏi.

Sau 20 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ, giáo dục
đại học (GDĐH) Việt Nam trên thực tế đã cung cấp cho xã hội nước ta một
nguồn nhân lực bao gồm những công dân được giáo dục trong nhà trường đại
học và không ít trong số họ có khả năng làm việc ở trình độ cao trong các
trường đại học,các viện nghiên cứu, các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp,
các liên doanh trong và ngoài nước… thuộc khắp các lĩnh vực, ngành nghề. Kết
quả cho thấy, lực lượng này đã góp phần quan trọng và to lớn trong thành tựu
phát triển kinh tế xã hội thông qua các tỷ lệ tăng trưởng hàng năm cao vào hàng
đứng đầu trong các nước ASEAN.
Hiện nay, với sự đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, hơn
nữa Việt Nam đã gia nhập vào WTO - sân chơi mới của toàn cầu, nền kinh tế xã
hội ta hơn bao giờ hết cần đến nhu cầu đào tạo một nguồn nhân lực lớn có trình
độ cao và chất lượng cao. Vì vậy, đầu tư cho GDĐH là cực kỳ thiết yếu. Tôi
nghiên cứu đề tài: “Thu hút nguồn vốn đầu tư cho GDĐH đại học ở Việt
Nam” nhằm để hiểu hơn, có cái nhìn tổng quát về một vấn đề đầu tiên và quan
trọng trong chuỗi các công việc đầu tư cho GDĐH – Thu hút nguồn vốn.
Là một sinh viên năm thứ tư chuyên nghành Quản trị kinh doanh, với
những kiến thức được học và kiến thức thực tế của bản thân, trên cơ sở lý luận
của nhiều tác giả, tôi đưa ra những suy nghĩ và quan điểm của mình về vấn đề
này. Trong quá trình thực hiện bài nghiên cứu này sẽ khó tránh khỏi những
khiếm khuyết vậy mong có được sự đóng góp của thầy giáo cùng bạn đọc. Tôi
xin chân thành cám ơn thầy: PGS. TS. Phan Huy Đường đã tận tình chỉ dạy,
hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong quá trình tôi thực hiện đề án này.

SVTH: Phạm Thị Huyền Trang Viện ĐH Mở Hà Nội


1
Đề án môn học GVHD: PGS. TS. Phan Huy Đường
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Các khái niệm cơ bản
1.1. Nguồn vốn là gì?
Nguồn vốn là thuật ngữ dùng để chỉ các nguồn tập trung và phân phối vốn
cho một hoạt động nào đó, nhằm đáp ứng nhu cầu chung của nhà nước và của
xã hội.
1.2.Thu hút nguồn vốn
Là tập hợp tất cả các điều kiện, chính sách, giải pháp, hoạt động nhằm tập
trung được nguồn vốn lại để hình thành nên một quỹ tập trung. Quỹ này sẽ
dùng để thực hiện một dự án, một công việc nào đó.
1.3.Đầu tư
Đầu tư là việc hi sinh nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào
đó nhằm thu được các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực
đã bỏ ra để đạt được kết quả đó. Như vậy, mục tiêu của mọi công cuộc đầu tư
là đạt được các kết quả lớn hơn so với những hi sinh về nguồn lực mà người
đầu tư phải gánh chịu khi tiến hành đầu tư.
Các nguồn lực sử dụng có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao
động và trí tuệ. Những kết quả đạt được có thể là gia tăng vật chất (nhà máy,
trường học, đường xá, bệnh viện …), tài sản tài chính (tiền vốn) hoặc tài sản trí
tuệ (trình độ văn hoá, chuyên môn, quản lý, khoa học kĩ thuật …) và nguồn
nhân lực có đủ điều kiện để làm việc với năng suất cao hơn cho nền kinh tế và
cho toàn bộ xã hội
Mỗi dự án đầu tư không những mang lại lợi ích cho chủ đầu tư mà còn
mang lại lợi ích cho nền kinh tế đất nước.
1.4. Đầu tư cho GDĐH
Đầu tư cho GDĐH là căn cứ vào nhu cầu phát triển sự nghiệp GDĐH và
nhân lực, vật lực, tài lực xã hội để đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực có trình

độ, nắm vững kiến thức chuyên môn, kĩ năng thực hành cơ bản về một ngành
nghề, có khả năng phát hiện, giải quyết những vấn đề thông thường.
Tính chất đầu tư cho GDĐH, trước đây trong cơ chế quản lý kinh tế kế
hoạch hoá tập trung, mọi người thường cho rằng đầu tư cho GDĐH là đầu tư
SVTH: Phạm Thị Huyền Trang Viện ĐH Mở Hà Nội
2
Đề án môn học GVHD: PGS. TS. Phan Huy Đường
mang tính phúc lợi xã hội. Từ những năm đổi mới, nền kinh tế nước ta chuyến
sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, sự nhận thức này
đã có sự thay đổi trong toàn xã hội cũng như các nhà quản lý giáo dục. Đầu tư
cho GDĐH được phân tích đánh giá từ góc độ sản xuất và tiêu dùng, các khái
niệm về doanh thu, chi phí cho đơn vị đào tạo đã được tính đến.
Vậy thu hút nguồn vốn đầu tư cho GDĐH: Là tập hợp điều kiện, chính
sách, giải pháp, hoạt động nhằm tập trung được nguồn vốn lại để hình thành
nên một quỹ tập trung, quỹ này có nhiệm vụ cung cấp nguồn vốn để phát triển
đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao cho đất nước.
2. Phân loại các nguồn vốn đầu tư cho GDĐH
2.1. Theo các nguồn đầu tư
2.1.1. Đầu tư trong nước
- Nguồn vốn nhà nước:
Đây chính là nguồn chi của NSNN cho đầu tư giáo dục. Đó là một nguồn
vốn quan trọng trong chiến lược phát triển toàn diện của mỗi quốc gia. Thường
để thực hiện xây dựng trường học, cung cấp trang thiết bị trường học, trả lương
cho giáo viên, cho đội ngũ quản lý giáo dục…
- Nguồn vốn từ khu vực tư nhân :
Bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích luỹ của các tổ chức dân
doanh… Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, một bộ phận không
nhỏ của dân cư có tiềm năng về vốn do có nguồn thu nhập gia tăng hoặc do tích
luỹ truyền thống. Tiềm năng của nguồn vốn này rất lớn, thực tế phát hành trái
phiếu chính phủ cho giáo dục chỉ trong một thời gian ngắn đã thu được hàng

ngàn tỉ đồng và hàng chục triệu USD.
2.1.2. Nguồn vốn nước ngoài
- Nguồn vốn ODA:
Đây là nguồn vốn do các tổ chức quốc tế và các chính phủ nước ngoài
cung cấp với mục tiêu cho giáo dục của các nước đang phát triển. Nó là một
nguồn có tính ưu đãi khá cao.
- Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI:
Đây là nguồn vốn quan trọng cho đầu tư và phát triển cho các quốc gia,
cũng có một phần dùng cho đầu tư GDĐH.
SVTH: Phạm Thị Huyền Trang Viện ĐH Mở Hà Nội
3
Đề án môn học GVHD: PGS. TS. Phan Huy Đường
- Một số nguồn vốn viện trợ khác.
2.2. Nguồn vốn dùng để đầu tư theo lĩnh vực ngành đào tạo
Nền kinh tế của mỗi quốc gia có rất nhiều ngành nghề khác nhau. Mỗi
ngành đều có một vị trí quan trọng. Chính vì vây, cần phải bỏ vốn để xây dựng
các trường đại học với các lĩnh vực khác nhau, có nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân
lực trình độ cao để đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế của đất nước.
2.2.1. Khối ngành Khoa học kĩ thuật
Khoa học kĩ thuật là nền tảng của mọi quốc gia, là cơ sở để phát triển đất
nước một cách nhanh nhất. Khối ngành nay có nhiệm vụ đào tạo những kĩ sư
giỏi, mà sau khi ra trường, họ sẽ là trụ cột của của nền kinh tế công nghiệp hoá,
hiên đại hoá. Nguồn vốn đầu tư vào đây phải lớn để việc xây dựng cơ sở, đầu tư
phòng thí nghiệm, mua máy móc thiết bị thực hành … để làm sao phục vụ một
cách tốt nhất cho việc giảng dạy, nghiên cứu, học tập của giáo viên và sinh viên,
làm sao để sau khi ra trường sinh viên sẽ không bị bỡ ngỡ trước hệ thống máy
móc trang thiết bị của nhà máy, cũng như để có khả năng chế tạo máy móc thiết
bị, đưa nên công nghiệp đất nước lên một tầm cao mới.
2.2.2. Khối nghành kinh tế, tài chính, ngân hàng
Đầu tư vào ngành này nhằm tạo ra một đội ngũ cử nhân, thạc sỹ về kinh tế.

Họ là những người không trực tiếp tạo ra của cải vật chất cho xã hội, nhưng
chính nhờ họ mà nên kinh tế của đất nước mới hoạt động thông suốt và có hiệu
quả được.
2.2.3. Khối ngành y tế
Đây cũng làm một lĩnh vực đầu tư cho giáo dục rất quan trọng. Xã hội
càng phát triển, con người càng mắc nhiều loại bệnh tật mà chính từ mọi hoạt
động gây ra. Đầu tư vào khối ngành này nhằm tạo ra đội ngũ bác sỹ, y tá… giỏi
để có thể đáp ứng được nhu cầu sức khỏe người dân.Nhà đầu tư cần phải chú ý
đến hệ thống chất lượng giáo dục, vì dù sao, vấn đề về con người vẫn luôn là
quan trọng nhất. Các sinh viên ở đây phải tham gia học tập, nghiên cứu rất
nhiều. Chính vì vậy nhà đâu tư phải bỏ chi phí ra rất lớn để mua các mô hình,
các máy móc, các giáo trình, các chương trình khoa học tiên tiến của thế giới.
SVTH: Phạm Thị Huyền Trang Viện ĐH Mở Hà Nội
4
Đề án môn học GVHD: PGS. TS. Phan Huy Đường
2.2.4. Khối ngành nông, lâm nghiệp, thuỷ hải sản
Lương thực, thực phẩm là vấn đề thiết yếu của mọi người. Đầu tư vào khối
ngành này cũng sẽ rất hiệu quả và không bao giờ là thừa đặc biệt là ở các nước
đang phát triển. Ngoài xây dựng trường lớp, trang thiết bị phục vụ cho học tập
thì vấn đề mua các công nghệ tiên tiến để áp dụng vào lai tạo giống, phát triển
giống, công nghệ chế biến… cũng rất quan trọng.
2.2.5. Khối ngành văn hoá xã hội
Kinh tế càng phát triển thì trình độ văn hoá và nhu cầu văn hóa của con
nguời tăng lên. Vì vậy, đây cũng là một lĩnh vực đầu tư cũng đang chiếm ưu thế
trong giáo dục.
3. Đầu tư cái gì
GDĐH là vấn đề lớn của mọi quốc gia, bởi nó tạo ra nguồn nhân lực chất
lượng cao cho đất nước. Để có thể xây dựng và phát triển GDĐH , chúng ta cần
phải bỏ tiền của, công sức vào đó. Mỗi quốc gia dù giàu hay nghèo thì đầu tư
cho GDĐH vẫn là vấn đề quan trọng và cấp thiết. Đầu tư cho GDĐH là chúng

ta tập trung nguồn lực, tạo điều kiện tốt nhất để cho nền GDĐH phát triển. Tuỳ
vào khả năng của mỗi quốc gia mà chúng ta nên đầu tư như thế nào. Ở đây
chúng ta bàn đến vấn đề đầu tư cho GDĐH cụ thể là làm những gì?
3.1. Trường học
Muốn đào tạo được thì vấn đề đầu tiên đó là phải có cơ sở để đào tạo - đó
là trường học. Trường học phải thoả mãn được một số các điều kiện sau
3.1.1. Phải thuận lợi về vị trí
Tức là trường phải toạ lạc ở một nơi có vị trí thuận lợi. Thuận lợi ở đây
được hiểu đó là về nhu cầu nguồn nhân lực mà địa phương cần, về mối quan hệ
với xã hội. Tức là, ngành mà trường đào tạo phải nhằm tạo ra nguồn nhân lực
mà địa phương đang thiếu, và xã hội cần. Hơn nữa phải tạo điều kiện cho người
giảng viên cũng như sinh viên cảm thấy thoải mái, an toàn với nơi học, thấy
được mội trường xung quanh trường trong lành, và cũng phải thuận lợi về các
dịch vụ khác như chợ, hệ thống giao thông và phương tiện đi lại… với hệ thống
đường xá tốt thì cũng là một nhân tố làm tăng sức cạnh tranh của trường. Hơn
nữa, sinh viên của trường không chỉ là những người dân địa phương. Họ là tập
hợp người đến từ mọi vùng đất, họ luôn luôn phải đi về nhà, đi thăm bạn bè, ở
SVTH: Phạm Thị Huyền Trang Viện ĐH Mở Hà Nội
5
Đề án môn học GVHD: PGS. TS. Phan Huy Đường
một nơi mà giao thông không thuận lợi, phương tiện đi lại khó khăn thì rất khó
để trường có thể thu hút sinh viên được.
Vị trí của trường là một trong những yếu tố cạnh tranh của trường. Có
những trường vì toạ lạc ở một nơi không thuận lợi nên rất khó cạnh tranh với
trường khác cùng ngành mà có vị trí thuận lợi hơn.
3.1.2. Cơ sở trường lớp
Các nhà đầu tư cần phải chú ý rằng, trường học được xây dựng cũng phải
khang trang, sạch đẹp, sáng sủa. Có như vậy mới tạo được hứng thú cho cả
người dạy và người học. Cảnh quan trường học cũng phải thoáng đãng, không
khí trong lành để mọi người có thể thư giãn sau những giờ học căng thẳng.

3.1.3. Đầu tư vào cơ sở vật chất, trang thiết bị trường học, vào các phòng thực
hành thực nghiệm, vào khu KTX cho sinh viên
- Đầu tư vào cơ sở vật chất, trang thiết bị trường học
Trước hết đó là bàn ghế, bàn ghế phải sáng sủa, sạch sẽ, tạo được tư thế
thoải mái khi ngồi học, không gây sức ép đối với sinh viên. Đây là một vấn đề
hết sức bức xúc trong giới sinh viên. Ngồi học cả ngày dẫn đến cơ thể rất mệt
mỏi, mà hệ thống bàn ghế thường cũng rất khó có thể đáp ứng được với tất cả
mọi đối tượng học tập. Chính vì vậy, nhà đầu tư cần phải quan tâm đến vấn đề
nay, coi nó như là vấn đề của mình. Có như vậy mới tạo được sự thoải mái khi
học bài, làm tăng chất lượng giờ học hco sinh viên
Thứ hai, đó là hệ thống các máy móc, thiết bị phục vụ cho việc nghiên cứu,
giảng dạy, và học tập.
Đây là một trong những điều kiện quan trọng góp phần vào việc nâng cao
chất lượng học tập của sinh viên. Vì vậy, trang thiết bị phục vụ cho nhu cầu học
tập cho học sinh nói chung và sinh viên nói riêng đòi hỏi phải tương đối đầy đủ,
hiện đại, phù hợp với điều kiện của sinh viên.
Máy tính nối mạng là thiết bị cần thiết nhất cho sinh viên. Nó là cuốn
“Bách khoa tri thức” của sinh viên. Thông qua nó sinh viên có thể tìm được
những đáp án cho các câu hỏi của mình một cách đơn giản, nhanh chóng, thuận
lợi mà không cần đến phương pháp cũ như hỏi thầy cô, bàn bè hoặc những
người có trình độ cao hơn.
SVTH: Phạm Thị Huyền Trang Viện ĐH Mở Hà Nội
6
Đề án môn học GVHD: PGS. TS. Phan Huy Đường
Bên cạnh máy tính, các thiết bị như: máy chiếu, máy ảnh, máy quay phim
(cho các ngành xã hội: báo ảnh, phát thanh, truyền hình…) cũng góp phần
không nhỏ vào quá trình giảng dạy và học tập của giáo viên, sinh viên. Đối với
các ngành kĩ sư, phải có các phòng thực hành với trang thiết bị đầy đủ phục vụ
cho quá trình học tập như: hoá chất, vật liệu, các thiết bị đo lường…góp phần
không nhỏ vào việc gắn lí thuyết với thực tế, học đi đôi với hành, là bước đầu

để sinh viên tiếp cận với môi trường làm viêc mới.
Mặt khác, các trường đại học đồng thời cũng phải là nơi để sinh viên giải
trí, thư giãn sau mỗi giờ học căng thẳng vì vậy ở trường đại học cần phải có các
phòng thể dục thể thao, khu căng tin…Ngoài ra kí túc xá cũng là một nhu cầu
cần thiết cần được đáp ứng
Các phương tiện vật chất, kĩ thuật liên quan đến việc học tập của sinh viên
đóng góp không nhỏ vào quá trình tiếp nhận tri thức của họ. Vì vậy, việc quân
tâm và đầu tư đúng mức vào đấy là rất cần thiết.
3.2. Đầu tư vào chất lượng giáo dục
Chất lượng giáo dục là yếu tố hàng đầu để tạo nên danh tiếng cho một
trường đại học. Chất lượng giáo dục ở đây bao gồm :
3.2.1. Đội ngũ giảng viên
Đội ngũ giảng viên là tập hợp tất cả những người có trình độ chuyên môn
tốt, có kĩ năng sư phạm tốt để có thể truyền đạt tri thức một cách tốt nhất cho
sinh viên. Họ cũng là một lực lượng nòng cốt trong nghiên cứu khoa học cho
đất nước.
Ở đây, đầu tư cho đội ngũ giảng viên đó là : Quan tâm đến đời sống giảng
viên, có lương, thưởng xứng đáng với sự đóng góp của họ, xứng đáng với mọi
nỗ lực mà họ đã bỏ ra để có một khối lượng kiến thức đồ sộ. Tiền lương phải
đảm bảo cuộc sống cho họ một cách tốt nhât. Họ là những con người quyết định
đến nguồn nhân lực tương lai của đất nước. Cần phải có một mức lương xứng
đáng đối với vai trò to lớn đó. Ngoài ra cần phải tạo điều kiện cho họ có thể
tham gia nghiên cứu sinh, đi du học ở nước ngoài để mở mang kiên thức, mang
một chân trời kiến thức mới để về phục vụ cho đất nước, họ có thể tham gia
nghiên cứu khoa học, đóng góp một phần khối lượng tri thức cho đất nước.
SVTH: Phạm Thị Huyền Trang Viện ĐH Mở Hà Nội
7
Đề án môn học GVHD: PGS. TS. Phan Huy Đường
3.2.2. Đội ngũ sinh viên
Lực lượng sinh viên là tải sản của mỗi quốc gia, chính họ là bộ mặt tương

lai của đất nước, họ là lực lượng nòng cốt của đất nước. Sinh viên vừa là người
khách, cũng vừa là người chủ của mỗi trường. Để một trường đại học có thể tồn
tại và phát triển, ngoài lực lượng giảng viên, đội ngũ quản lý thì lực lượng sinh
viên cũng có vai trò vô cùng quan trọng. Họ là khách hàng của mỗi trường. Sinh
viên cần phải được học tập, nghiên cứu, phải được đảm bảo nhu cầu vật chất và
sinh hoạt tốt. Vì vậy, nhà trường cũng phải quan tâm đến vấn đề này.Chúng ta
phải có chính sách thu hút sinh viên cũng như đầu tư vào họ để họ có thể cảm
thấy thoả mãn với sự lựa chọn của mình.
Ở đây, chúng ta đầu tư gì? Đó là các chính sách đãi ngộ cho sinh viên như
trợ cấp cho sinh viên nghèo vượt khó, con thương binh liệt sỹ, gia đình có hoàn
cảnh khó khăn, cấp học bổng cho sinh viên học giỏi, xuất sắc, nhằm khuyến
khích động viên họ. Có thể tạo điều kiện cho sinh viên có thể vay vốn, tín dụng
để họ có điều kiện học tập tốt hơn. Tạo môi trường đại học tốt đẹp, văn minh,
lịch sự để sinh viên có thể yên tâm học tập, rèn luyện, tu chí thành người có ích
cho bản thân, gia đình và xã hội. Cũng cần phải quan tâm đến nhu cầu nơi ăn
chốn ở của sinh viên. Hệ thống kí túc xá phải đảm bảo được nhu cầu sinh hoạt
của họ.
3.2.3. Đầu tư vào các phòng ban nghiên cứu
Đây là vấn đề cần thiết của mọi trường đại học. Vì sao? Chúng ta học để
làm gì? Học để ra đời làm việc, đơn giản là vậy. Nhưng với một khối lượng
kiến thức về lý thuyết trong sách vở và trong tài liệu thì liệu rằng ra đời ta có
làm được việc? Lý thuyết là một nhưng thực tế là muôn hình vạn trạng, nó bất
biến. Chỉ một nhân tố trong thực tế thay đổi thì thì mọi vấn đề trên lý thuyết sẽ
thay đổi. Lý thuyết là tổng quát nhưng thực tế là cụ thể của vấn đề. Vì vậy, các
phòng nghiên cứu, thực hành thực nghiệm là cực kỳ cần thiết.
Ở đây, chúng ta phải đầu tư vào những công cụ, máy móc, các thiết bị nhà
xưởng…. những cái mà vào thực tế sẽ gặp. Chúng ta phải trang bị đầy đủ các
vật dụng, mô hình cần thiết để có thể phục vụ tốt nhất cho nhu cầu dạy và học ở
trường. Người ta bảo : Trăm nghe không bằng một thấy, đó chính là sự thực tế,
sinh viên được tự mình rèn luyện, phân tích tình huống xảy ra trong phòng thí

SVTH: Phạm Thị Huyền Trang Viện ĐH Mở Hà Nội
8
Đề án môn học GVHD: PGS. TS. Phan Huy Đường
nghiệm. Tất cả những gì diễn ra trong phòng thí nghiệm sau này ra đời sẽ gặp,
sẽ có. Có như vậy họ mới có thể thích ứng được với xã hội
Chúng ta cũng cần phải bàn đến vấn đề về đi thực tế, thực tập của sinh
viên. Đây cũng được coi là hình thức như trên nhưng lại đi sát với thực tế của
sinh viên hơn. Chính vì thế mà hình thức này cũng cần phải chú ý.
3.2.4. Đầu tư vào các chương trình đào tạo, vào việc mua bản quyền giáo dục
cho trường
Giáo trình là nhân tố đầu tiên để phục vụ cho quá trình giảng dạy, học tập
và nghiên cứu.Giáo trình là tri thức của con người, là kho tàng quý báu của
chúng ta. Mỗi trường cần phải đầu tư viết và mua giáo trình, với khối lượng
nhiều, phong phú và đảm bảo chất lượng. Đầu tư mua các bản quyền về chương
trình học, về dịch sách và viết sách. Để phục vụ cho nhu cầu học tập và nghiên
cứu, mỗi trường đều phải có hệ thống thông tin thư viện đầy đủ các loại sách
báo, với hệ thống mạng thông tin để có thể tra cứu, tìm tin một cách dễ dàng.
4.Các nguồn tài chính đầu tư cho GDĐH
Nguồn tài chính đầu tư cho GDĐH là tâp hợp các tổ chức, các cá nhân có
tiền, có khả năng, và mong muốn được đầu tư trong lĩnh vực này. Nguồn tài
chính đầu tư cho GDĐH bao gồm: Ngân sách nhà nước (NSNN) cấp (kinh phí
hoạt động thường xuyên, kinh phí thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học),
vốn đầu tư xây dựng cơ bản; Nguồn thu sự nghiệp (học phí, lệ phí, hợp tác đào
tạo, nghiên cứu khoa học, sản xuất dịch vụ…) ; Các nguồn thu khác theo quy
định của pháp luật. Các nguồn tài trợ từ các tổ chức trên thế giới.
4.1.Ngân sách nhà nước
Đầu tư của chính phủ vào GDĐH là việc chính phủ sử dụng nguồn NSNN
để chi tiêu vào vấn đề giáo dục. Nguồn ngân sách có được từ việc thu thuế. Việc
chi tiêu cho vấn đề giáo dục từ nguồn ngân sách chủ yếu là cung cấp kinh phí
cho hoạt động thường xuyên.

Thường ở các nước đang phát triển thì nguồn NSNN là nguồn chủ yếu để
đầu tư cho giáo dục nói chung và GDĐH nói riêng. Tuy nhiên không nên coi
GDĐH là một gánh nặng cho NSNN mà phải coi đầu tư cho GDĐH là đầu tư
cho phát triển, là một khoản đầu tư dài hạn, đúng đắn và cấp thiết. Chỉ có mạnh
dạn đầu tư toàn diện người và của, kiên quyết đầu tư có trọng điểm theo phương
SVTH: Phạm Thị Huyền Trang Viện ĐH Mở Hà Nội
9
Đề án môn học GVHD: PGS. TS. Phan Huy Đường
thức đa dạng hoá nguồn lực thì bản thân GDĐH mới có cơ may đủ lực trên con
đường cạnh tranh và hội nhập được với GDĐH trên trường quốc tế. Thiếu cách
nhìn xa và đúng đắn này thì không thể có được một nền GDĐH phát triển bền
vững và đất nước sẽ mất đi một động lực thiết yếu, quan trọng bậc nhất trong sự
phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
4.2. Đầu tư của các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước
Đầu tư của các tổ chức trong và ngoài nước có thể thực hiện thông qua:
4.2.1. Góp vốn ủng hộ các quỹ khuyến học
Đây là hình thức tài trợ của các tổ chức nhằm cung cấp vốn với mục đích là
tạo ra một quỹ dùng để khuyến khích vấn đề học tập ở các trường, quỹ này
thường được dùng để giúp đỡ sinh viên trong cuộc sống, học tập, thông qua
hình thức ủng hộ, trợ cấp cho sinh viên nghèo, cho con em thuộc diện thương
binh, chính sách, nó cũng có thể được dùng để tu bổ sửa chữa trường học, mua
các công cụ dụng cụ phục vụ cho việc học tập.
Mục đích của việc làm này là các nhà đầu tư muốn góp một phần nhỏ sức
lực của mình, tạo điều kiện, khuyến khích, cho những sinh viên không có đủ
điều kiện học tập, cho việc xây dựng đất nước hoặc cũng là một cách để họ
quảng bá cho thương hiệu của tổ chức. Cũng có thể đây là một cơ hội để họ góp
phần đào tạo nguồn nhân lực giỏi để sau khi tốt nghiệp sinh viên sẽ quay trở lại
phục vụ họ.
4.2.2. Đầu tư trực tiếp cho việc xây dựng, và phát triển đại học
Đây là hình thức các tổ chức kinh tế bỏ tiền trực tiếp xây dựng cơ sở vật

chất, trang thiết bị trường học dưới sự cho phép của nhà nước. Tự bản thân họ
sẽ giải quyết mọi vấn đề liên quan đến việc bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực.
Họ sẽ tự tổ chức dạy và học theo một chương trình cụ thể mà có sự đồng ý của
nhà nước. Họ sẽ thuê lực lượng giảng viên, hoặc chiêu mộ họ trở thành giảng
viên chính thức của mình, họ tự tuyển sinh sinh viên vào học với cơ chế mà họ
đặt ra dưới sự quản lý của bộ giáo dục đào tạo. Họ thực hiện nghĩa vụ tiền
lương, thưởng đúng với quy định của nhà nước, cũng có thể tiền lương ở các
trường này sẽ cao hơn rất nhiều tiền lương ở các trường công lập do nhà nước
xây dựng. Chính ở điểm này đã tạo cho họ một lợi thế lớn đó là thu hút được
một lực lượng giáo viên chất lượng cao, tâm huyết với họ. Vấn đề ở đây là học
SVTH: Phạm Thị Huyền Trang Viện ĐH Mở Hà Nội
10
Đề án môn học GVHD: PGS. TS. Phan Huy Đường
phí, thường những trường do tổ chức kinh tế hoặc cá nhân xây dựng thường có
mức học phí cao hơn rất nhiều so với mức học phí ở các trường công. Tuy
nhiên, đó lại không phải là vấn đề đáng lo ngại của họ vì rất nhiều người sẵn
sàng đầu tư cho con em mình đi học, với điều kiện học tập được tốt nhất, trang
bị cho con em mình đầy đủ kiến thức kĩ năng để bước vào đời.
Mục đích của việc làm này là vấn đề lợi nhuận. Họ đầu tư để thu lợi nhuận,
đó là tất yếu của mọi hình thức đầu tư. Ta cũng không thể phê phán hình thức
này, một số người quan điểm rằng đầu tư cho GDĐH là thực hiện việc xã hội
hoá giáo dục, nó như là một dịch vụ công mà ai có khả năng học cũng có thể
được học. Bước vào thế kỷ 21, bước vào nền kinh tế thị trường thì đầu tư cho
GDĐH không còn là một dịch vụ công như trước nữa. GDĐH không thể tổ
chức trong chân không nữa, GDĐH có trăm ngàn mối liên quan với xã hội.
Trong thể chế kinh tế thị trường, GDĐH cũng phải tuân theo cơ chế thị trường,
hoặc là học theo quy tắc thị trường. Dĩ nhiên, quá trình quá trình giáo dục con
người không phải là quá trình sản xuất dây chuyền, không phải là quá trình tiếp
nhận đơn thuần. Vấn đề ở đây là đầu tư cho GDĐH hiện vẫn là một vấn đề lớn
mà mọi quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển cần phải chú trọng và

tập trung nguồn lực nhiều. Cho nên, chúng ta vẫn luôn ủng hộ cho mọi nguồn
đầu tư cho GDĐH.
Ở đây ta cũng cần xem xét sự khác nhau giữa nguồn đầu tư trong nước và
nguồn đầu tư nước ngoài :
Đầu tư của các tổ chức kinh tế trong nước thường có nguồn vốn nhỏ, mang
tính cấp thiết về nguồn lực. Chẳng hạn như đầu tư vào các ngành hiện tại có nhu
cầu lớn như kế toán, ngân hàng, công nghệ thông tin… hoặc họ sẽ đầu tư vào
các ngành mà hiện tại tổ chức của họ đang cần. Mặc dù như vậy sẽ rất mất thời
gian và tốn kém, nhưng đó cũng là vấn đề sống còn của tổ chức họ.
Đầu tư của các tổ chức kinh tế nước ngoài thường có nguồn vốn rất lớn,
thứ nhất, đó thường là những tập đoàn kinh tế mạnh, thứ hai, do có sự chênh
lệch về tỷ giá hối đoái mà đồng tiền của họ cũng thường có giá trị hơn. Và
thường đây là sự đầu tư của các tổ chức kinh tế của các nước phát triển hơn đến
các nước kém phát triển hơn. Thường ở những trường này có mức học phí rất
cao, nhưng bù lại thì cơ sở học tập lại cực kỳ tốt, môi trường học tập tốt, đội
SVTH: Phạm Thị Huyền Trang Viện ĐH Mở Hà Nội
11
Đề án môn học GVHD: PGS. TS. Phan Huy Đường
ngũ giảng viên vừa trong nước vừa nước ngoài có trình độ chuyên môn cao, có
phương pháp giảng hiệu quả, và tại đây sinh viên có điều kiện học ngoại ngữ rất
tốt, cùng với học hỏi được nền văn hoá của các nước…
Nói chung, cái gì cũng có cái giá đích thực của nó, tuỳ từng điều kiện hoàn
cảnh mà mỗi người sẽ tự lựa chọn cho con đường học của mình.
4.3. Các nguồn tài trợ của các tổ chức khác trên thế giới
Đó là các nguồn tiền viên trợ từ các tổ chức như IMF ( quỹ tiền tệ quốc tế),
UNESCO ( tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên Hợp Quốc), nguồn
tài trợ ODA của các nước khác, …Các nguồn viện trợ này thường dành cho các
nước nghèo, kém phát triển, tạo điều kiện cho họ có thêm nguồn lực đầu tư cho
giáo dục, để họ có điều kiện học tập trong môi trường tốt hơn, họ có thể được
tiếp cận với tri thức khoa học của thế giới… họ viện trợ để xây dựng trường lớp,

để cung cấp các máy móc trang thiết bị trường học tiên tiến. Có như thế thì các
nước này mới có điều kiện để phát triển nền kinh tế, mới có thể sánh vai với các
nước khác trên thế giới.
4.4. Nguồn thu sự nghiệp
Đó là nguồn thu từ học phí, lệ phí, hợp tác đào tạo, nghiên cứu khoa học,
sản xuất dịch vụ…).
Học phí là nguồn thu chủ yếu của tất cả các trường đại học. Học phí thu
được, một phần để trả lương cho các cán bộ, công nhân viên trong trường, phần
khác được giữ lại để tái đầu tư…
Các tổ chức đầu tư với mục đích để kiếm lợi nhuận thì học phí là vấn đề
quan tâm hàng đầu của họ. Một mức học phí cao nhưng hợp lý thì mới tạo điều
kiện cho trường phát triển, tạo được danh tiếng cho trường.
5. Các yếu tố ảnh hưởng đến thu hút nguồn vốn đầu tư cho GDĐH
5.1. Chính sách và cơ chế quản lý giáo dục
Chính sách của chính phủ tác động đến mọi mặt của nền kinh tế xã hội nói
chung, việc thu hút đầu tư cho GDĐH cũng không nằm ngoài quy luật đó. Cơ
chế quản lý giáo dục là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình giáo dục của
quốc gia. Chính sách và cơ chế quản lý giáo dục phải tập trung tạo ra được đòn
bẩy quan trọng và đúng đắn trong thị trường giáo dục, dựa vào những quy định
luật pháp phù hợp và chi tiết hơn , trong đó luật giáo dục có vai trò cơ bản .
SVTH: Phạm Thị Huyền Trang Viện ĐH Mở Hà Nội
12
Đề án môn học GVHD: PGS. TS. Phan Huy Đường
5.1.1. Môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến vấn đề thu hút nguồn
vốn đầu tư cho tất cả mọi lĩnh vực nói chung và cho GDĐH nói riêng. Một hành
lang pháp lý đầy đủ, minh bạch, rõ ràng sẽ tạo cho nhà đầu tư cảm thấy yên
tâm, an toàn với nguồn vốn của mình. Họ sẽ cảm thấy có một điều kiện tốt để
phát huy được giá trị của nguồn vốn của mình theo mục đích nào đó. Cho dù
nhà đầu tư mở trường với mục tiêu lợi nhuận, nhưng luật, chính sách và cơ chế

quản lý sẽ buộc họ phải kiếm lời qua chất lượng giáo dục và giá trị thực sự mà
trường mang lại cho người học, xã hội và đất nước. Khi nhà nước có một hệ
thống pháp luật phù hợp xu thế phát triển của đất nước cũng như của thế giới,
thì việc thu hút nguồn vốn cho GDĐH sẽ dễ dàng hơn.
5.1.2. Môi trường chính trị xã hội
Để có thể thu hút nguồn vốn đầu tư trong nước, đặc biệt là nguồn vốn đầu
tư của nước ngoài thì môi trường chính trị xã hội là nhân tố cực kỳ quan trọng.
Một môi trường chinh trị ổn định sẽ tạo được sự an tâm cho các nhà đâu tư, họ
cảm thấy tự tin với môi trường an toàn, sẽ sẵn sàng đầu tư nhiều hơn nữa. Khi
mà môi trường chính trị xã hội tốt, đầu tư đạt được mục đích của mình, họ sẽ lại
tiếp tục đầu tư nhiều hơn nữa. Một đất nước có một nền chính trị không ổn định
sẽ rất khó thu hút được nguồn đầu tư nói chung và đầu tư cho GDĐH nói riêng.
Người ta cảm thấy bất an với nguồn vốn của mình, không ai muốn mạo hiểm
trong khi có những nơi an toàn hơn cho họ đáp xuống.
5.1.3. Chính sách về phân bổ sử dụng các nguồn lực tài chính
Phân bổ là một nhân tố cũng ảnh hưởng rất lớn đến việc thu hút đầu tư cho
giáo dục, sự phân bổ phải hợp lý, rõ ràng, và cần thiết. Nếu phân bổ nguồn tài
chính không rõ ràng rất dễ gây bức xúc đối với xã hội và các nhà đầu tư. Cần
thực hiện việc phân bổ một cách công băng nhất. Công bằng ở đây không có
nghĩa là “cào bằng”. Một thực tế hiện nay là “ai cũng muốn như ai”, không tỉnh
nào, không trường nào muốn mình thua thiệt về nguồn vốn hơn các tỉnh, các
trường khác. Tuy nhiên, không cào bằng, đó là cần phải có chính sách, cơ chế
phân bổ hợp lý, cũng cần phải có trọng tâm, trọng điểm. Có như vậy, đất nước
mới có một điểm tựa vững vàng, xây dựng và phát triển tốt ngành kinh tế mũi
nhọn, phát triển vùng kinh tế trọng điểm của đất nước.
SVTH: Phạm Thị Huyền Trang Viện ĐH Mở Hà Nội
13
Đề án môn học GVHD: PGS. TS. Phan Huy Đường
5.2. Môi trường và chất lượng giáo dục, đóng góp của giáo dục đối với sự
phát triển của đất nước

Một quốc gia dù giàu hay nghèo thì cũng luôn luôn đặt giáo dục lên hàng
đầu, đặc biệt là GDĐH - đào tạo nên nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất
nước. Môi trường giáo dục là tập hợp tất cả các yếu tố xung quanh, có mối quan
hệ tương hỗ, ảnh hưởng đến quá trình giáo dục và đào tạo. Có môi trường giáo
dục lành mạnh, người ta sẽ cảm thấy thoải mái hơn khi rót vốn vào.
Chất lượng giáo dục cũng là nhân tố quyết định đến việc thu hút vốn Nó
làm cho nhà đầu tư cảm thấy hứng thú với hiệu quả của nguồn vốn mình bỏ ra.
Nội dung chương trình giảng dạy cần gắn liền với tiến trình phát triển của nền
kinh tế. Kinh tế xã hội ngày càng phát triển với tiến độ chóng mặt, trong khi đó
GDĐH trì trệ, không theo kịp được với tiến độ phát triển đó thì người đầu tư sẽ
cảm thấy không thoả mãn. GDĐH phải đi bên cạnh, song song với sự phát triển
của đất nước. GDĐH là động lực của phát triển xã hội, là trung tâm tri thức của
xã hội. Lấy thực tiễn kinh tế, xã hội làm kim chỉ nam cho định hướng phát triển
nội dung giảng dạy, học tập trong nhà trường. Những sinh viên do nhà trường
đào tạo ra không chỉ là để cầm tấm bằng giỏi, bằng khá, mà họ là những con
người đi sâu đi sát với thực tiễn, có khả năng thích ứng với nền kinh tế trong
tương lai. Sinh viên sau khi tốt nghiệp, ra trường, họ sẽ là chủ nhân của đất
nước, họ sẽ là đường lối, là sức trẻ nhiệt huyết xây dựng và phát triển đất nước.
Đóng góp của nền GDĐH đối với sự phát triển đất nước.
Nguồn nhân lực có vai trò chính trong sự phát triển kinh tế của đất nước,
con người luôn luôn là lực lượng nòng cốt trong mọi vấn đề. Nguời sinh viên
sau khi ra trường, họ sẽ cống hiến sức trẻ, cống hiến tài năng của minh. Họ sẽ
làm đất nước vận động lên theo một hướng mới, hướng nên kinh tế đất nước
phát triển theo xu hướng chung của thế giới. Những lớp con người mới sẽ có cái
nhìn mới về xây dựng đất nước, không theo quan điểm bảo thu lạc hậu của thế
hệ đi trước. Họ sẽ đưa đất nước đi lên bằng chính sức lực của mình, đưa một
luồng gió mới đến cho đất nước. Làm cho đất nước vận động theo chiều hướng
tốt mới tốt hơn.
SVTH: Phạm Thị Huyền Trang Viện ĐH Mở Hà Nội
14

Đề án môn học GVHD: PGS. TS. Phan Huy Đường
Trong bất kì một tổ chức nào, con người cũng là nhân tố quyết định đến
thành công của tổ chức đó. Phát triển hay tiêu vong? Đó chính là nhờ nguồn
nhân lực chất lượng cao đó.
Sự đóng góp của họ được nhìn chung, một cách tổng thể đó là đưa đất nước
lên một tầm cao mới, đưa nền kinh tế đất nước phát triển. Mọi người có cuộc
sống vật chất no đủ, có đời sống tinh thần được tăng cao…
5.3. Nhu cầu của xã hội
Sinh viên là lực lượng kế cận nhất nắm lấy vai trò là người lãnh đạo đất
nước vì vậy đầu tư cho GDĐH không chỉ là nhu cầu, mong muốn của các bạn
sinh viên mà đó còn là đòi hỏi cấp thiết của toàn xã hội.
Thời đại ngày nay không những là thời đại của nền kinh tế công nghiệp với
kĩ thuật tiên tiến, hiện đại mà đó còn là thời đại của nền “kinh tế tri thức”.Nắm
bắt được tri thức sẽ cung cấp cho chúng ta những hiểu biết về mọi mặt của đời
sống. Đó là hành trang để bước vào thời đại mới, để hoà nhập với nền kinh tế
thế giới.
Vì nền kinh tế nước ta đang trên đà hội nhập nên nhu cầu của các ngành
nghề trong xã hội cũng có sự thay đổi so với trước. Trước đây, những ngành về
công nghệ thông tin, điện tử viễn thông, ngân hàng… chưa được xã hội quan
tâm nhưng ngày nay do đòi hỏi của sự phát triển nền kinh tế đất nước và sự hội
nhập kinh tế nên những ngành này ngày càng được quan tâm, chú ý hơn. Bên
cạnh đó, những ngành mới xuất hiện như: tự động hoá, thời trang… cũng được
đông đảo bạn trẻ đón nhận và xã hội quan tâm.
Nói điều đó để biết rằng các nhà đầu tư cho GDĐH không chỉ cần nhận biết
về nhu cầu ngành nghề ở hiện tại mà cũng phải đi trước, đoán nhận biết xu
hướng phát triển ngành nghề trong tương lai để từ đó đầu tư cho hợp lí và có
hiệu quả hơn
Hơn nữa vấn đề nên đầu tư vào ngành, lĩnh vực gì cũng cần phải chú ý đến
nhu cầu ngành nghề hiện tại của địa phương. Chẳng hạn, ở một thành phố lớn,
đô thị sầm uất thì việc đầu tư vào khối ngành kinh tế, tài chính, ngân hàng là

một sự đầu tư hợp lý, ở những địa phường mà có rất nhiều khu công nghiêp thì
khối ngành khoa học kĩ thuật là sự lựa chọn hàng đầu… Có cầu mới có cung,
cung cầu gặp nhau, tạo điều kiện chọ nền giáo dục phát triển.
SVTH: Phạm Thị Huyền Trang Viện ĐH Mở Hà Nội
15
Đề án môn học GVHD: PGS. TS. Phan Huy Đường
5.4. Các nguồn cung ứng vốn
Như chúng ta đã nói ở trên, để hình thành nên một trường đại học thì không
chỉ có cầu thôi mà cung cũng là một nhân tố rất quan trọng. Họ là những người
bỏ vốn ra để xây dựng trường học, chiêu mộ giảng viên, tổ chức học tập. Họ là
những người đóng vai trò quyết định đến việc thành lập trường, hoặc tài trợ cho
chính phủ để đầu tư vào giáo dục. Họ ở đây là những cá nhân hoặc tổ chức.
Cá nhân ở đây là những người đơn lẻ tham gia vào quá trình đầu tư cho
giáo dục. Đó có thể là một doanh nhân, một tỷ phú, một người nghệ sỹ… tóm
lại họ phải là những người có rất nhiều tiền, và họ là những người quan tâm đến
nền giáo dục. Họ có thể đầu tư toàn bộ xây dựng một trường, tham gia mọi công
việc của trường, tức là với hình thức đầu tư trực tiếp. Cũng có thể họ đứng ra
mở các lớp đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ và chuyên môn cho
đội ngũ giảng viên, hay đơn thuần họ chỉ đầu tư trang thiết bị hiện đại cho một
trường nào đó…. Dù đầu tư dưới hình thức nào thì người đầu tư cũng phải nhìn
thấy triển vọng , tương lai của nó. Nếu họ nhìn thấy ở đó sẽ khả quan thì họ sẽ
đầu tư, và sẽ đầu tư nhiều hơn, ngược lại nếu sự án không khả quan thì họ
không cảm thấy thích thú đầu tư, không muốn đầu tư và họ có thể sẽ không đầu
tư nữa. Không chỉ là những người đầu tư nhằm kiếm lợi nhuận mới có suy nghĩ
như vậy mà kể cả những người viện trợ, làm từ thiện cũng vậy. Tức là, đã xác
định đầu tư cái gì thì cũng phải mang một hiệu quả nhất định nào đó.
Các tổ chức ở đây là các tổ chức chính phủ, phi chính phủ, các tổ chức
chính trị xã hội khác. Việc đầu tư của họ cũng có hai mục đích hoặc là để giúp
đỡ các quốc gia đang phát triển, hoặc cũng có thể là đầu tư để kiếm lợi nhuận
Ngành giáo dục đang là một lĩnh vực đầu tư mới rất nhiểu triển vọng, đó thực

sự là một ngành siêu lợi nhuận. Viêc các cá nhân, hoặc tổ chức đầu tư vào đây
với mục đích kiếm lời là một hướng đúng.
SVTH: Phạm Thị Huyền Trang Viện ĐH Mở Hà Nội
16
Đề án môn học GVHD: PGS. TS. Phan Huy Đường
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Thực trạng chung của nền giáo dục ở Việt Nam
1.1. Quy mô phát triển GDĐH
Từ năm 1998 đến nay, quy mô GDĐH đã tăng đáng kể. Quy hoạch mạng
lưới các trường đại học, cao đẳng trong giai đoạn 2001-2010 đã được chính phủ
phê duyệt, trong đó chú ý đến việc xây dựng các trường đại học, cao đẳng tại
các vùng khó khăn, thành lập thêm các trường đại học công lập tại Thanh Hoá,
An Giang, Vĩnh Long, Tây Bắc nhằm tạo điều kiện đào tạo cho nguồn nhân lực
tại chỗ, đồng thời qua đó có các trung tâm nghiên cứu khoa học kỹ thuật phục
vụ cho sự phát triển kinh tế xã hội trên đia bàn.
Bằng nhiều nguồn vốn, các trường đã cố gắng nâng cấp thư viện, phòng thí
nghiệm, cơ sở thực hành, mua sắm thiết bị hiện đại và nối mạng Internet. Tuy
nhiên, tình trạng chung là cơ sở vật chất kĩ thuật của các trường đại học còn
thiếu và lạc hậu, diện tích sử dụng của các trường mới chỉ đáp ứng được 1/3
chuẩn quy định. Việc xây dựng chương trình khung và công tác biên soạn giáo
trình chưa được quan tâm đúng mức, giáo trình đại học hiện nay còn thiếu nhiều
và lạc hậu.
Phần đông giảng viên nòng cốt, chuyên gia đầu ngành đã cao tuổi trong khi
chưa xây dựng được đội ngũ kế cận. Thêm vào đó, chưa có chính sách thích
hợp để xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học của các cơ quan nghiên cứu tham gia
giảng dạy tại các trường đại học. Hoạt động nghiên cứu khoa học tại các trường
đại học chưa được quan tâm đúng mức. Đa số giảng viên chỉ tập trung vào
giảng dạy, ít tham gia nghiên cứu khoa học.
Trong 5 năm qua, số sinh viên tăng bình quân 6,4%. Hàng năm, số sinh
viên từ khu vực nông thôn miền núi chiếm khoảng 70 % số sinh viên tuyển mới.

Số lượng tuyển sinh đại học, cao đẳng tuy tăng hàng năm song mới đáp
ứng được một phần nhu cầu đại học trong cả nước.
Theo đề án Đổi mới GDĐH do Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD & ĐT) soạn
thảo, đến 2020 sẽ xây dựng 900 trường đại học, cao đẳng (ĐH, CĐ) với tổng số
4,5 triệu sinh viên, tổng kinh phí đầu tư là 20 tỷ USD.
Đây là lần đầu tiên vấn đề đổi mới GDĐH được đặt ra trong một kế hoạch
tổng thể và dài hơi, thực hiện từ năm 2006 - 2020. Đề án này thu hút được sư
SVTH: Phạm Thị Huyền Trang Viện ĐH Mở Hà Nội
17
Đề án môn học GVHD: PGS. TS. Phan Huy Đường
quan tâm chú ý bởi những giải pháp đột phá mạnh mẽ có thể tạo ra bước chuyển
cơ bản cho GDĐH nước ta nhưng bên cạnh đó, đề án cũng đặt ra những thách
thức không hề nhỏ.
Để đạt được mục tiêu trên vào năm 2020, trước mắt, ngành giáo dục cần
tập trung đổi mới ngay cơ chế quản lý với sự xoá bỏ cơ quan chủ quan, tiến tới
các trường đại học sẽ không còn cơ quan chủ quan, xoá bỏ sự cách biệt giữa
người ở trong biên chế và người ở ngoài biên chế; mạnh dạn mở rộng đầu vào
và sàng lọc trong quá trình đào tạo để thắt chặt đầu ra; đổi mới và đào tạo theo
hệ thống tín chỉ; nhập khẩu một số chương trình đào tạo để một số ngành giảng
dạy bằng tiếng Anh và thành lập những trường có 100% vốn đầu tư nước
ngoài…
Đổi mới GDĐH là một vấn đề lớn với bảy nhóm nội dung và giải pháp. Để
thực hiện đề án này, Bộ sẽ chia thành ba giai đoạn với những giải pháp mang
tính đột phá.
Giai đoạn 2006 -2007, trọng tâm là xây dựng sự thông nhất về ý chí và
hành đông của xã hội tham gia đổi mới GDĐH, đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục,
đổi mới nội dung và phương pháp đào tạo, xây dựng các tiểu dự án.
Giai đoạn 2008 - 2010, trọng tâm là tạo được chuyển biến bước đầu về chất
lượng GDĐH, về cơ chế quản lý và tài chính hiệu quả, về xây dựng, nâng cao
trình độ đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý GDĐH.

Giai đoạn 2011 - 2020, trọng tâm là hình thành hệ thống giáo dục đại học
hiện đại, mạng lưới các trường ĐH hợp lý, hội nhập quốc tế và đạt trình độ chất
lượng khu vực.
1.2. Chất lượng GDĐH
Những năm gần đây, nhiều trường đại học, cao đẳng thực hiện các biện
pháp có hiệu quả để nâng cao trình độ giảng viên, tăng cường cơ sở vật chất. Ở
một số trường trọng điểm có truyên thống như trường Đại học Bách Khoa Hà
Nội và thành phố Hồ Chí Minh, trình độ của sinh viên tốt nghiệp đã tiếp cận
trình độ của các trường đại học trong khu vực.
Trong đội ngũ giảng viên được đánh giá chuyên môn tốt có khoảng 81% số
tiến sĩ, 93% số thạc sĩ, 47% số cán bộ có trình độ đại học và 30% có trình độ
cao đẳng. Về tinh thần trách nhiệm, có 85% số tiến sĩ, 85% số thạc sĩ, 54% số
SVTH: Phạm Thị Huyền Trang Viện ĐH Mở Hà Nội
18
Đề án môn học GVHD: PGS. TS. Phan Huy Đường
cán bộ trình độ đại học, và 76% số cán bộ trình độ cao đẳng đạt tiêu chuẩn. Tuy
nhiên đội ngũ giảng viên đại học, cao đẳng còn rất mỏng, chỉ hơn 50% so với
chuẩn quy định.
Tuy việc tuyển sinh chặt chẽ, nhưng cách đánh giá quá trình học tập lại
lỏng lẻo, dẫn đến tình trạng nhiều sinh viên chưa chăm chỉ học tập. Một số sinh
viên còn mơ hồ về lý tưởng cách mạng, chưa tích cực tham gia các hoạt động xã
hội. Tệ nạn xã hội, nhất là ma tuý, cờ bạc, rượu chè trong sinh viên tuy có giảm
nhưng vẫn còn cao.
Chất lượng đào tạo đại học có sự phân tầng rõ rệt giữa các hệ chính quy và
không chính quy, giữa các trường công lập trọng điểm với trường công lập địa
phường và dân lập. Sinh viên ít có điều kiện tham gia nghiên cứu khoa học;
năng lực tự học, tự nghiên cứu, thực hành, khả năng giao tiếp và hợp tác trong
công việc còn yếu. Trình độ ngoại ngữ của sinh viên tốt nghiệp chưa đáp ứng
được yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
2. Thực trạng các nguồn tài chính đầu tư cho GDĐH ở Việt Nam

Tình trạng khá phổ biến ở các nước đang phát triển là nguồn đầu tư cho
GDĐH một phần quan trọng do Chính phủ cấp (từ ngân sách giáo dục công
cộng) hàng năm trên cơ sở quy mô đào tạo theo kế hoạch của Chính phủ. Một
phần kinh phí khác do nguồn học phí của sinh viên nộp theo quy định. Nguồn
kinh phí còn lại do các trường tự khai thác thông qua kiên kết đào tạo và các
hoạt động khác. Ở các nước đang phát triển, Ngân hàng thế giới đã khuyến cáo
các Chính phủ chuyển mạnh hơn từ hệ thống cung cấp tài chính công cộng sang
thu tiền người học cùng với việc cung cấp vốn vay cho sinh viên rộng rãi hơn
kết hợp với một số lượng hạn chế học bổng.
Việt Nam đang trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường, thực
hiện chủ trương xã hội hoá công tác giáo dục nói chung và GDĐH nói riêng.
Điều lệ trường đại học, ban hành Quyết định số:153/2003/QĐ-TTg ngày
20/7/2003 của Thủ tướng Chính phủ, các loại hình trường đại học bao gồm:
công lập, bán công, dân lập và tư thục được quy định tại Điều 13 Nghị định số
43/2000/NĐ-CP ngày 30/8/2000 của Chính Phủ quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của luật của giáo dục. Nguồn tài chính đầu tư cho GDĐH
bao gồm: NSNN cấp (kinh phí hoạt động thường xuyên, kinh phí thực hiện các
SVTH: Phạm Thị Huyền Trang Viện ĐH Mở Hà Nội
19
Đề án môn học GVHD: PGS. TS. Phan Huy Đường
đề tài nghiên cứu khoa học) , vốn đầu tư xây dựng cơ bản; nguồn thu sự nghiệp,
(học phí, lệ phí, hợp tác đào tạo, sản xuất dịch vụ…) ; các nguồn thu khác theo
quy định của pháp luật. Kinh phí có GDĐH ngoài các khoản đầu tư hàng năm
từ ngân sách còn có nguồn viện trợ từ các tổ chức quốc tế, vay vốn của ngân
hàng thế giới và ngân hàng phát triển châu Á qua các dự án phát triển GDĐH.
Ngoài ra còn có nguồn ngoại tệ từ quỹ chuyên gia và dạy nghề, các khoản thu
học phí của các sinh viên và đóng góp của nhân dân xây dựng trường sở, các
khoản thuế phải nộp nhưng được cấp lại để bổ sung kinh phí cho sự nghiệp giáo
dục.
Như vậy, nguồn lực tài chính đầu tư cho GDĐH ở nước ta hiện nay đã

được xã hội hoá. Muốn khai thác triệt để và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
tài chính cùng với việc tăng thêm và sử dụng có hiệu quả chủ yếu là NSNN,
tranh thủ sự hỗ trợ giúp đỡ của các tổ chức quốc tế, của nước ngoài, cải tiến chế
độ học phí, huy động sự đóng góp của cha mẹ học sinh và của các tổ chức sản
xuất kinh doanh… để phát triển giáo dục trong quá trình hội nhập quốc tế,
nhiệm vụ quan trọng của các nhà quản lý GDĐH hiện nay là: tạo ra và triệt để
khai thác các nguồn lực tài chính hợp pháp đảm bảo mọi chi phí chính đáng của
GDĐH, đồng thời phải có chiến lược khai thác các nguồn đầu tư đảm bảo cho
GDĐH tăng trưởng bền vững và ổn định.
3. Thực trạng của vấn đề thu hút đầu tư, và đầu tư cho GDĐH ở Việt Nam
hiện nay
Từ sau đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã khởi sắc và phát triển, đời sống
nhân dân đã được tăng lên đáng kể, làm cho nhu cầu học tập ngày càng gia tăng.
Cũng từ đó mà vấn đề thu hút nguồn vốn đầu tư cho giáo dục nói chung và
GDĐH nói riêng đã được Đảng và nhà nước chú ý hơn và việc thu hút nguồn
vốn đầu tư cho GDĐH có vẻ dễ dàng hơn. Nhà nước đã có rất nhiều chính sách
khuyến khích đầu tư cho GDĐH, kêu gọi các nhà đầu tư, tạo điều kiện cho các
nhà đầu tư có điều kiện tốt nhất để thực hiện công việc của họ. Đặc biệt là từ
khi Việt Nam gia nhập WTO. Đã có rất nhiều dự án đã được lên kế hoạch đầu
tư. Các dự án đầu tư của các tổ chức trong nước và các tổ chức nước ngoài. Họ
là các tổ chức, cá nhân đã thấy được rằng môi trường đầu tư của Việt Nam rất
tốt, khi đầu tư ở Việt Nam học được rất nhiều ưu đãi. Đó là các chính sách ưu
SVTH: Phạm Thị Huyền Trang Viện ĐH Mở Hà Nội
20
Đề án môn học GVHD: PGS. TS. Phan Huy Đường
đãi về đất đai, về thuế. Chẳng hạn khi các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư cho
GDĐH Việt Nam thì họ sẽ được nhà nước tạo điều kiện bằng cách cho họ
quyền sử dụng đất, rồi một thời gian rất dài kể từ khi dự án được đi vào hoạt
động mà không phải đóng thuế, ở đây tức là miễn thuế thu nhập cho các khoản
đóng góp cho giáo dục. Chính hoạt động này có thể huy động những khoản tiền

không nhỏ cho giáo dục.
Hơn nữa, môi trường chính trị xã hội ở Viêt Nam rất ổn định. Chính nhờ
điều kiện này mà việc thu hút đầu tư trở nên dễ dàng hơn. Các nhà đầu tư đã
không phải lo lắng về sự đầu tư của mình bị ảnh hưởng do môi trường chính trị
không tốt. Rất ít bạo loạn, rất ít đình công, nền kinh tế tăng trưởng ổn định. Đó
là một yếu tố quan trọng mà Việt Nam đã tạo được trong tâm trí các nhà đầu tư
nói chung và đầu tư cho GDĐH nói riêng
Một yếu tố không thể không kể đến đó là nhu cầu học tập và sức học hiện
nay ở Việt Nam. Một đất nước đang trên đà phát triển, kinh tế tri thức ngày
càng cần thiết thì vấn đề học tập để mình trở thành nguồn nhân lực giỏi là nhu
cầu bức thiết của mọi người.
Việc liên kết đào tạo nguồn nhân lực giữa các trường đại học hiên nay cũng
đang tiến triển rất tốt. Điển hình đó là đại học RMIT ( 100% là vốn nước ngoài,
có trụ sở chính tại Úc), năm 1998 đã được xây dựng, nó là đại học đầu tiên ở
Việt Nam là trường đại học đẳng cấp quốc tế, với số vốn đầu tư 20 triệu USD,
đặt tại thành phố HCM. Tuy nhiên, phải đến năm 2000, các hoạt động GDĐH
của RMIT như giảng dạy, nghiên cứu mới bắt đầu. Khóa đầu tiên chỉ có 30 sinh
viên theo học nhưng hiên nay tình hình đã khác, số sinh viên tại đại học RMIT
gia tăng nhanh chóng qua từng năm. Hiện nay RMIT đã thu hút được hàng ngàn
sinh viên Việt Nam, mỹ, Đức, Pháp, Singapore, Malaysia, Nam Phi, Hàn Quốc,
Trung Quốc,… theo học. Trường có quy mô rộng 12,4 ha. Toà nhà chính hơn
100m với 4 tầng có sức chứa lên tới 3000 sinh viên. Có thể nói rằng trong
những năm gần đây, RMIT đang chiếm vị thế độc tôn đào tạo nguồn nhân lực
bậc cao cho các doanh nghiệp trong nước và ngoài nước.
Tuy nhiên, RMIT sẽ không còn chiếm giữ vị trí độc tôn trong GDĐH bậc
đại học quốc tế tại Việt Nam, bởi một dự án tầm cỡ về đầu tư xây dựng khu đô
thị -đại học quốc tế thành phố HCM đã được kí kết. Dự án đầu tư Khu đô thị -
SVTH: Phạm Thị Huyền Trang Viện ĐH Mở Hà Nội
21
Đề án môn học GVHD: PGS. TS. Phan Huy Đường

Đại học Quốc tế tại TP.HCM, với tổng số vốn đầu tư lên đến 3,5 tỷ USD, của
Công ty Berjaya Land Berhad (thuộc Tập đoàn Berjaya Berhad của Malaysia)
được ký kết đang tạo ra một tín hiệu lạc quan trong đào tạo nguồn nhân lực bậc
cao. Cùng với đó, hiện đang có một số trường đại học lớn đang tiến hành khảo
sát về thị trường GDĐH và khả năng đầu tư vào những ngành học đẳng cấp
quốc tế tại Việt Nam. Tháng 1-2009 thời điểm mà các trường đại học nước
ngoài chính thức được lập chi nhánh tại Việt Nam theo lộ trình cam kết với
WTO. Dự án trên của Malaysia đã phát lên một tín hiệu khá rõ về “làn sóng”
cạnh tranh trong hoạt động đào tạo bậc đại học đẳng cấp quốc tế từ các nhà đầu
tư nước ngoài. Các nhà đầu tư trong lĩnh vực GDĐH quốc tế cũng đã nhận thấy
được sự phát triển và nhu cầu tất yếu về nguồn nhân lực bậc cao ở Việt Nam.
Nếu như RMIT Việt Nam đi tiên phong trong việc xây dựng một môi
trường giảng dạy sáng tạo và đổi mới, cam kết mang đến cho sinh viên nền giáo
dục đào tạo chất lượng quốc tế thì dự án của Tập đoàn Berjaya Berhad bứt phá
với quy mô lớn hơn nhiều. Đây là dự án có vốn đầu tư nước ngoài lớn nhất từ
trước tới nay tại TP.HCM. Dự án này mang tính chất cụm trường đại học và liên
hoàn với các cụm dân cư, thu hút một số lượng lớn sinh viên và giáo viên.
Những trường đại học nước ngoài trong dự án này cũng có thể mở ra cơ hội liên
kết với các trường đại học ở trong nước về nhiều mặt như liên kết đào tạo và
nghiên cứu khoa học Và, đương nhiên sẽ trở thành một đối trọng cạnh tranh
với các trường đại học quốc tế khác trong nước hiện nay. Đây là dự án điển hình
tại Việt Nam, do kết hợp hài hòa giữa giáo dục và cộng đồng, giữa nét hiện đại
và bản sắc văn hóa nhằm đáp ứng các nhu cầu của một cộng đồng đa văn hóa.
SVTH: Phạm Thị Huyền Trang Viện ĐH Mở Hà Nội
22
Đề án môn học GVHD: PGS. TS. Phan Huy Đường
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ
Qua bài nghiên cứu trên ta nhận thấy có một số vấn đề nổi cộm của tình
hình thu hút nguồn vốn đầu tư cho GDĐH . Cần phải có giải pháp như thế nào
để có thể thu hút được nguồn vốn một cách hiệu quả nhất. Sau đây là một số

giải pháp
1.Chính sách của chính phủ
Đây là yếu tố quan trọng quyết định đến việc thu hút nguồn vốn đầu tư cho
GDĐH, một số giải pháp đặt ra.
Nhà nước phải có những chính sách nhằm khuyến khích được nguồn vốn
đầu tư cho GDĐH, đó là tạo môi trường pháp lý trong sạch, môi trường chính
trị xã hội ổn định, môi trường GDĐH tốt, việc phân bổ và sử dụng nguồn vốn
đầu tư phải hợp lý và công khai…
Để thực hiện được ý tưởng về một nền đại học cho số đông, cần thiết phải
khơi dậy mọi tiềm năng của quần chúng để phát triển giáo dục. Với một nước
còn nghèo như nước ta, giáo dục không thể chỉ dựa vào bao cấp của nhà nước
như một vài nước giàu đã làm. Bên cạnh ngân sách của Nhà nước chi cho giáo
dục, chúng ta cần huy động các thành phần tư nhân, các doanh nghiệp và toàn
dân cùng đầu tư phát triển giáo dục.
Tiềm lực cho phát triển GDĐH của nước ta là rất lớn, đặc biệt là do truyền
thống hiếu học của dân ta, do ý thức xem việc đầu tư cho học hành như một sự
đầu tư quan trọng bậc nhất cho tương lai của con em mình. Do vậy, một mặt
trường đại học cần tiếp tục có những chính sách ưu đãi đối với những đối tượng
thuộc diện chính sách, những học sinh nghèo học giỏi, mặt khác cần thực hiện
chính sách thu đủ, chi đủ cho giáo dục. Thật vô lý, khi những người dư thừa
điều kiện kinh tế lại chỉ có đóng góp mang tính tượng trưng cho những chi phí
về giáo dục cho con em họ, còn thiếu đâu Nhà nước phải bù!
SVTH: Phạm Thị Huyền Trang Viện ĐH Mở Hà Nội
23
Đề án môn học GVHD: PGS. TS. Phan Huy Đường
Hiện nay, do lương và thu nhập của cán bộ, công nhân còn thấp nên sẽ dẫn
tới tình trạng phần lớn con em của họ khi học đại học sẽ được giảm, miễn học
phí. Song, khi đó họ cần hiểu rằng họ đã được giảm, miễn một khoản tiền rất
lớn! Sinh viên phải có trách nhiệm đối với việc học tập ngày nay và công tác
sau này. Với đà tăng trưởng kinh tế, số người có khả năng đóng góp đầy đủ cho

chi phí giáo dục sẽ ngày càng tăng. Nhà nước cũng nên mở quỹ tín dụng cho
sinh viên vay tiền đóng học phí, sau này đi làm sẽ trả nợ (đương nhiên là phải
cải cách tiền lương). Ở Nhật và Mỹ phần đóng góp cho giáo dục từ phía Nhà
nước chỉ là phần nhỏ, như Nhật (35%), Mỹ (42%), phần còn lại do khu vực tư
nhân đóng góp. Một khi mức đầu tư giáo dục trên đầu sinh viên rất thấp (4-6
triệu đồng/ sinh viên/ năm) thì không hy vọng có được chất lượng đào tạo như
các nước đã đầu tư lớn (gấp 5 – 20 lần).
Dù muốn hay không, chúng ta cũng phải thừa nhận một thực tế rằng có
một thị trường đặc biệt - thị trường giáo dục- tồn tại, bị chi phối bởi qui luật
thị trường: qui luật cung, cầu, cạnh tranh, chất lượng, giá cả… Thị trường đặc
biệt này liên quan đến một sản phẩm đặc biệt là con người. Do vậy, nó cần được
quản lý tốt để phát triển
2. Tăng học phí
Gần đây dư luận hay đề cập đến việc có nên tăng học phí đại học hay
không? Nhìn chung có hai quan điểm trái ngược. Một cho rằng không nên tăng
học phí vì sẽ gây phân hóa giàu nghèo. Quan điểm kia lại xem việc tăng học phí
là cần thiết để cải thiện chất lượng giáo dục.
Theo đó, học phí thấp sẽ làm cho nguồn đầu tư đào tạo thấp, kết quả là
trang bị trường lớp, phòng thí nghiệm, thư viện, đội ngũ giảng dạy sẽ có chất
lượng thấp tương ứng. Chất lượng giáo dục thấp, đưa đến trình độ nhân lực
thấp, kéo theo kinh tế phát triển chậm, dẫn đến thu nhập người dân thấp nên
không thể đóng học phí cao, và vòng luẩn quẩn lại tiếp tục.
Làm sao để dung hòa mâu thuẫn trên? Ta thấy, do tình hình thu nhập của
người dân còn nhiều cách biệt nên việc áp dụng “mức học phí như nhau cho
mọi sinh viên (SV)” không phải luôn là một giải pháp thích hợp! Chính vì vậy
giải pháp đề nghị sau đây sẽ dựa trên cơ sở phá bỏ nguyên tắc trên. Nghĩa là xóa
SVTH: Phạm Thị Huyền Trang Viện ĐH Mở Hà Nội
24
Đề án môn học GVHD: PGS. TS. Phan Huy Đường
bỏ chính sách một mức học phí đánh đồng cho mọi SV và thay bằng chính sách

học phí khác nhau cho các đối tượng khác nhau.
Có thể qui định một mức học phí phổ thông (đa số người dân có thu nhập
trung bình có thể trả được, nhưng cao hơn mức mà một bộ phận người nghèo
nhất có thể trả). Phần đông SV sẽ đóng ở mức này. Song song đó xây dựng
nhiều hình thức trợ cấp học phí cho SV thuộc các gia đình có thu nhập thấp (ví
dụ: giảm một tỉ lệ học phí nào đó tùy theo thu nhập của họ).
Để thu hồi một phần ngân sách, có thể cân nhắc giải pháp lấy ngân sách lập
quĩ tín dụng cho SV nghèo vay với lãi suất thấp (hay không lấy lãi). Sau khi tốt
nghiệp, SV đi làm và hoàn lại tiền vay sẽ được nhận bằng chính thức (trước đó
chỉ cấp bằng tạm có ghi rõ lý do cấp tạm).
Những biện pháp như trên sẽ giúp tăng nguồn thu để cải thiện chất lượng
đại học. Người có thu nhập trung bình trở lên sẽ được hưởng một mức chất
lượng giáo dục cao hơn và gần hơn với nhu cầu của họ, đồng thời những SV có
thu nhập thấp hơn vẫn có điều kiện tiếp tục học tập.
Tóm lại, chính sách học phí đồng đều không những không đem lại sự công
bằng mà hơn nữa còn là trở lực đối với sự phát triển của hệ thống GDĐH.
Chính sách thu học phí tùy theo điều kiện thu nhập, trong đó ngân sách hỗ trợ
SV nghèo, sẽ cho phép nâng cao được mức đầu tư cho đại học, đồng thời vẫn
tạo điều kiện cho người thu nhập thấp tham gia. Ngoài ra, chính sách này còn
tạo điều kiện cho những người có thu nhập trung bình trở lên có điều kiện
hưởng một dịch vụ giáo dục chất lượng cao hơn tương xứng với số tiền họ bỏ
ra.
Thực hiện chính sách trên cần một số điều kiện cơ bản. Một là phải biết
phân bố thu nhập và ngân sách giáo dục để định mức học phí phổ thông hợp lý.
Hai là cần biết thu nhập hộ gia đình để trợ cấp thích hợp cho SV có thu nhập
thấp (việc này làm được ở những nước trả lương thông qua ngân hàng). Hệ
thống lương giả ở nước ta là một trở ngại lớn. Bước tiến về giáo dục phụ thuộc
vào sự tiến bộ của các ngành khác như ngành tài chính trong cải cách tiền lương
và ngân hàng trong xây dựng tập quán sử dụng ngân hàng trong đời sống xã hội.
SVTH: Phạm Thị Huyền Trang Viện ĐH Mở Hà Nội

25

×