Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

thực trạng mối quan hệ giữa hai nguồn vốn đầu tư nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (382.11 KB, 70 trang )

Li m u
Trong quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới, vốn đầu t cho phát triển là
một trong những yếu tố quyết định đến sự thành công hay thất bại của mỗi
quốc gia. Đối với Việt Nam, mục tiêu đặt ra là thực hiện thành công quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa .
đất nớc, phấn đấu đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành một nớc công
nghiệp, do đó nguồn vốn đầu t lại càng là yếu tố đặc biệt quan trọng.
Ngày nay bối cảnh toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới và tự do hoá thơng
mại diễn ra hết sức mạnh mẽ, chính đặc điểm này của nền kinh tế thế giới đã
và đang làm cho các nớc đang phát triển, trong đó có Việt Nam, gặp không ít
khó khăn trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nớc, nhất là về
vấn đề vốn đầu t.
Trên góc độ toàn bộ nền kinh tế, nguồn vốn đầu t bao gồm nguồn vốn đầu
t trong nớc và nguồn vốn đầu t nớc ngoài. Đối với Việt Nam, trên cơ sở xác
định rõ vốn trong nớc là quyết định , vốn nớc ngoài là quan trọng, để thúc đẩy
kinh tế phát triển nhanh và bền vững, nhằm mục tiêu công nghiệp hóa và hiện
đại hóa, Nhà nớc rất coi trọng việc huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn
vốn trong và ngoài nớc để đầu t phát triển sản xuất, tạo thêm công ăn việc
làm, cải thiện đời sống nhân dân. Chính vì lí do đó, cùng với thực trạng mối
quan hệ giữa hai nguồn vốn đầu t trên ở Việt Nam hiện nay, nhóm em xin
trình bày đề tài thảo luận : Thực trạng mối quan hệ giữa hai nguồn vốn
đầu t : nguồn vốn đầu t trong nớc và nguồn vốn đầu t nớc ngoài.
Thông qua kiến thức đã tiếp thu trên lớp cùng với việc tham khảo một số
tài liệu, nhóm em xin trình bày nội dung đề tài này nh sau:

1
Ch¬ng I: Mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước
và nước ngoài - những vấn đề lý luận chung
Ch¬ng II: Mối quan hệ giữa hai nguôn vốn- Thực trạng ở Việt Nam
Ch¬ng III: Một số khuyến nghị để tăng cường mối quan hệ giữa nguồn
vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài


2
Chương I.Mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước
và nước ngoài - những vấn đề lý luận chung
I.Khái niêm,bản chất và phân loại nguồn vốn đầu tư
1.Khái niệm
Nguồn vốn đầu tư là các nguồn tập trung và phân phối vốn cho đầu tư phát
triển kinh tế đáp ứng nhu cầu chung của nhà nước và xã hội.
2.Bản chất của nguồn vốn đầu tư
Xét về bản chất,nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm hay
tích lũy mà nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản
xuất xã hội.Điều này được cả kinh tế học cổ điển, kinh tế chính trị học Mác-
Lê nin, và kinh tế học hiện đại chứng minh.
Trong tác phẩm”Của cải của các dân tộc”(1776),Adamsmith.một đại diện
điển hình của trường phái kinh tế học cổ điển đã khẳng định:”Tiết kiệm là
nguyên nhân trực tiếp gia tăng vốn. Lao động tạo ra sản phẩm để tích lũy cho
quá trình tiết kiệm.Nhưng dù có tạo ra bao nhiêu chăng nữa,nhưng không có
tiết kiệm thì vốn không bao giờ tăng lên”.
Sang thế kỷ XIX, khi nghiên cứu về cân đối kinh tế, về các mối quan hệ
giữa các khu vực của nền sản xuất xã hội, về các vấn đề lien quan trực tiếp tới
tích lũy, Các Mac đã chứng minh rằng: Trong nền kinh tế với hai khu vực,khu
vực I sản xuất tư liệu sản xuất,khu vực II sản xuất tư liệu tiêu dung.Cơ cấu
tổng giá trị của từng khu vựcđều bao gồm (c+v+m),trong đó c là phần tiêu
hao vật chất,(v+m) là phần mới sáng tạo ra.Khi đó,điều kiện để đảm bảo tái
sản xuất mở rộng không ngừng thì nền sản xuất xã hội phải đảm bảo:
(v+m)I > cII
Hay nói cách khác: (c+v+m)I > (cII+cI)
3
Điều đó có nghĩa là tư liệu sản xuất được tạo ra ở khu vực I không chỉ bồi
hoàn tiêu hao vật chất của toàn bộ nền kinh tế mà còn phải dư thừa để làm
tăng quy mơt liệu sản xuất trong quá trình sản xuất tiếp theo.

Đối với khu vực II, yêu cầu phải đảm bảo:
(c+v+m)II < (v+m)I + (v+m)II
Có nghĩa là toàn bộ giá trị mới của cả hai khu vực phải lớn hơn giá trị tạo ra
của khu vực II. Chỉ khi điều kiện này được thỏa mãn, nền kinh tế mới có thể
dành một phần thu nhậpđể tái sản xuất mở rộng. Từ đó quy mô vốn đầu tư sẽ
tăng.
Như vậy theo Mac- Lênin,thì nguồn lực cho đầu tư tái sản xuất mở rộng chỉ
có thể được đáp ứng do sự gia tăng sản xuất và tích lũy cho nền kinh tế.
Quan điểm về bản chất của nguồn vốn đầu tư lại tiếp tục được các nhà kinh
tế học hiện đại chứng minh. Trong tác phẩm nổi tiếng “ Lý thuyết tổng quát
về việc làm, lãi suất và tiền tệ” của mình, John Maynard Keynes đã chứng
minh được rằng:đầu tư chính bằng phần thu nhập không chuyển vào tiêu
dung.Đồng thời ông cũng chỉ ra rằng,tiết kiệm chính là phần dôi ra của thu
nhập so với tiêu dùng.Tức là: thu nhập = tiêu dùng + đầu tư
Tiết kiệm = thu nhập – tiêu dùng
Từ đó suy ra: tiết kiệm = đầu tư
Tuy nhiên,điều kiện cân bằng trên chỉ đạt được trong nền kinh tế
đóng.Trong đó, phần tiết kiệm của nền kinh tế bao gồm tiết liệm của khu vực
tư nhân và chính phủ. Điều cần lưu ý là tiết kiệm và đầu tư xem xét tên góc
độ toàn nền kinh tế khhong nhất thiết được tiến hành bởi cùng một cá nhân
hoặc doanh nghiệp nào đó. Có thể có những cá nhân hoặc doanh nghiệp tại
một thời điểm nào đó có tích lũy nhưng không trực tiếp tham gia đầu tư.
Trong khi đó, có một số cá nhân, doanh nghiệp lại thực hiện đầu tư khi chưa
4
tích lũy đủ. Khi đó thị trường vốn sẽ tham gia giải quyết vấn đề này bằng việc
điều tiết khoản vốn từ nguồn dư thừa hoặc tạm thời dư thừa sang cho người
có nhu cầu sử dụng.
Trong nền kinh tế mở,đẳng thức đầu tư bằng tiết kiệm của nền kinh tế
không phải bao giờ cũng được thiết lập.Mức chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu
tư được thể hiện trên tài khoản vãng lai:

CA = S – I
Như vậy,trong nền kinh tế mở,nếu nhu cầu đầu tư lớn hơn tích lũy nội bộ
nền kinh tế và tài khoản vãng lai bị thâm hụt thì có thể huy động vốn đầu tư
từ nước ngoài. Khi đó, đầu tư nước ngoài hoặc vay nợ có thể trở thành một
trong những nguồn vốn đầu tư quan trọng của nền kinh tế. Nếu tích lũy của
nền kinh tế lớn hơn nhu cầu đầu tư trong nước trong điều kiện thặng dư tài
khoản vãng lai thì quốc gia đó có thể đầu tư ra nước ngoài hoặc cho nước
ngoài vay vốn nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế.
3.Phân loại nuồn vốn đầu tư
Trên góc toàn bộ nền kinh tế, nguồn vốn đầu tư bao gồm nguồn vốn đầu tư
trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
3.1.Nguồn vốn đầu tư trong nước
Nguồn vốn đầu tư trong nước là phần tích lũy của nội bộ nền kinh tế bao
gồm tiết kiệm của khu vực tư nhân, các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp và
tiết kiệm của chính phủ được huy động vào quá trình tái sản xuất của xã hội.
Biểu hiện cụ thể của vốn đầu tư trong nước gồm vốn đầu tư của nhà nước và
vốn đầu tư của dân cư và tư nhân.
3.1.1.Nguồn vốn nhà nước
5
Nguồn vốn đầu tư của nhà nước bao gồm nguồn vốn của ngân sách nhà
nước, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn đầu tư
phát triển của doanh nghiệp nhà nước.
a.Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước
Đây chính là nguồn chi của ngân sách nhà nước cho đầu tư. Đó chính là
một nguồn vốn đầu tư quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội
của quốc gia. Nguồn vốn này thường được sử dụng cho các dự án kết cấu hạ
tầng kinh tế- xã hội, quốc phòng, an ninh, hỗ trợ các dự án của doanh nghiệp
đầu tư vào lĩnh vực cần sự tham gia của nhà nước, chi cho công tác lập và
thực hiện các dự án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội vùng, lãnh
thổ, quy hoạch xây dựng đô thị, nông thôn.

b/ Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước
Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước là một hình thức quá độ
chuyển tư phương thức cấp phát vốn ngân sách sang phương thức tín dụng đối
với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Với cơ chế tín dụng, các đơn
vị sử dụng vốn này phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay. Chủ đầu tư là
người vay vốn phải tính kỹ hiệu quả đầu tư, sử dụng vốn tiết kiệm hơn. Vốn
tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước là một hình thức quá độ chuyển từ
phương thức cấp phát vốn ngân sách sang phương thức tín dụng đối với các
dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp.
Bên cạnh đó, vốn tín dụng phát triển của nhà nước còn phục vụ công tác
quản lý và điều tiết kinh tế vĩ mô.Thông qua nguồn vốn tín dụng, nhà nước
khuyến khích phát triển kinh tế xã hội của ngành, vùng, lĩnh vực rheo hướng
chiến lược của mình.
c/ Nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước.
6
Được xác định là thành phần chủ đạo trong nền kinh tế,các doanh nghiệp
nhà nước vẫn giữ một khối lượng vốn khá lớn.Mặc dù vẫn còn một số hạn
chế,nhưng khu vực kinh tế nhà nước với sự tham gia của doanh nghiệp nhà
nước vẫn đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần,hiệu quả
của khu vực này ngày càng được khẳng định, tích lũy của khu vực này ngày
càng tăng.
Nguồn vốn này chủ yếu bao gồm từ khấu hao tài sản cố định và thu nhập
giữ lại tại doanh nghiệp nhà nước,thong thường chiếm 14-15% tổng vốn đầu
tư xã hội.
3.1.2.Nguồn vốn của dân cư và tư nhân
Nguồn vốn của doanh nghiệp tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân
cư,phần tích lũy của doanh nghiệp dân doanh,các hợp tác xã.
Đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân và hộ gia đình có vai trò đặc biệt
quan trọng trong việc phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn,mở mang
ngành nghề,phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp….

Nguồn vốn trong dân cư là một nguồn vốn quan trọng, nếu có những biện
pháp thích hợp,chúng ta có thể huy động được một khối lượng vốn đáng kể
cho sự phát triển kinh tế. Các loại hình doanh nghiệp tư nhân ngày càng phát
triển,phần tích lũy của các doanh nghiệp này sẽ góp phần đáng kể vào tổng
quy mô nguồn vốn của toàn xã hội,nó được coi như những tế bào có khả năng
tái tạo các nguồn tài chính.
3.2.Nguồn vốn đầu tư nước ngoài
Nguồn vốn của doanh nghiệp nước ngoài bao gồm toàn bộ phần tích lũy
của cá nhân, các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và chính phủ nước ngoài
có thể huy động được vào quá trình đầu tư phát triển của nước sở tại.
7
Có thể xem xét nguồn vốn đầu tư nước ngoài trên phạm vi rộng hơn đó là
dòng lưu chuyển vốn quốc tế. Về thực chất, các dòng lưu chuyển vốn quốc tế
là biểu hiện cụ thể của quá trình chuyển giao nguồn lực tài chính giữa các
quốc gia trên thế giới.Theo tính chất của dòng luân chuyển vốn, có thể phân
loại các nguồn vốn nước ngoài chính thức như sau:
- Nguồn viện trợ phát triển chính thức( ODA)
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
- Nguồn huy động qua thị trường vốn quốc tế.
- Nguồn tín dụng từ các ngân hang thương mại quốc tế.
3.2.1. Nguồn vốn ODA.
Nguồn vốn ODA là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế, các chính
phủ nước ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. So
với các nguồn tài trợ khác, ODA mang tính ưu đãi hơn bất cứ nguồn ODF nào
khác. Bao gồm các khoản viện trợ không hoàn lại, viện trợ có hoàn lại hoặc
tín dụng ưu đãi của các chính phủ,các tổ chức liên hợp quốc…Vốn ODA
được các chính phủ tài trợ là để thúc đẩy tăng trưởng bền vững và giảm nghèo
ở các nước đang phát triển như xây dựng cơ sở hạ tầng,đầu tư nghiên cứu
các yếu tố không hoàn lại của vốn vay ODA ít nhất 25%, thời gian cho vay
dài, khối lượng cho vay lớn, thời gian ân hạn dài. Bên cạnh đó, ODA còn

mang tính chất ràng buộc với nước tiếp nhận vốn và là nguồn vốn vay có khả
năng gây nợ. Vì vậy, chính phủ các nước phải quản lý nguồn vốn vay để sử
dụng có hiệu quả.
3.2.2. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI)
Đây là nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển không chỉ đối với nước
nghèo mà cả đối với các nước công nghệ phát triển. Nguồn vốn đầu tư nước
ngoài có đặc điểm khác với các nguồn vốn khác là việc tiếp nhận nguồn vốn
8
này không phát sinh nợ cho nước tiếp nhận đầu tư. Thay vì nhận lãi trên vốn
đầu tư, nhà đầu tư sẽ nhận được phần lợi nhuận thích đáng khi dự án hoạt
động có hiệu quả. Đầu tư nước ngoài đem theo toàn bộ tì nguyên kinh doanh
vào nước nhận vốn nên có thể thúc đẩy phát triển ngành nghề mới, đặc biệt là
những ngành nghề đòi hỏi cao về kỹ thuật, công nghệ hay nhiều vốn. Vì thế,
nguồn này có tác dụng cực kỳ to lớn đối với quá trình công nghiệp hóa,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tăng trưởng nhanh của nước tiếp nhận đầu tư.
3.2.3. Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế
Điều kiện ưu đãi dành cho loại nguồn vốn này không dễ dàng như đối với
nguồn vốn ODA. Tuy nhiên, bù lại có ưu điểm rõ rang là không gắn với các
rang buộc chính trị, xã hội. Mặc dù vậy, thủ tục vay đối với nguồn vốn này là
tương đối khắt khe, thời gian trả nnghiêm ngặt, mức lãi suất cao là những trở
ngại không nhỏ đối với những nước nghèo.
Do được đánh giá là mức lãi suất tương đối cao cũng như sự thận trọng
trong kinh doanh ngân hang, nguồn vốn tín dụng của các ngân hang thương
mại thường được sử dụng chủ yếu để đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu và
thường là ngắn hạn.Một bộ phận nguồn vốn này có thể dung để đầu tư phát
triển.
3.2.4. Thị trường vốn quốc tế
Với xu hướng toàn cầu , mối liên kết ngày càng tăng của các thị trường vốn
quốc gia vào hệ thống tài chính quốc tế đã tạo nên vẻ đa dạng về các nguồn
vốn cho mỗi quốc gia và làm tăng lượng vốn lưu chuyển trên phạm vi toàn

cầu.
Thị trường vốn quốc tế được biểu hiện bằng sự phát triển của thị trường
chứng khoán, dòng vốn đầu tư qua thị trường chứng khoán của các nước đang
phát triển ngày càng mạnh mẽ. Chính phủ của các nước đang phát triển có thể
9
phát hành trái phiếu trên thị trường vốn quốc tế để huy động nguồn vốn lớn,
tập trung cho phát triển kinh tế.
II.Mối quan hệ giữa nguồn vốn đầu tư trong nước và nước ngoài
Nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn nước ngoài là hai bộ phận
không thể thiếu trong cơ cấu nguồn vốn của một nước. Trong đó nguồn vốn
nước ngoài đóng vai trò quan trọng, nguồn vốn trong nước đóng vai trò quyết
định.
1. Sự cần thiết phải có cả nguồn vốn đầu tư trong nước và nước ngoài
trong cơ cấu nguồn vốn của các quốc gia đang phát triển nói chung và Việt
Nam nói riêng
1.1 Nghiên cứu về “cái vòng luẩn quẩn của các nước đang phát triển”,
những vấn đề đặt ra
Các nước đang phát triển là các nước có nền nông nghiệp lạc hậu, hoặc các
nước nông-công nghiệp đang từ sản xuất nhỏ tiến lên con đường công nghiệp
hoá.Ví dụ: Việt Nam,Braxin, Cam Pu Chia, Lào Đa số các nước này đều là
những nước mới dành đựơc độc lập. Nhóm các nước này có các đặc trưng
như sau:
(1) Mức sống thấp: Ở các nước đang phát triển, mức sống nói chung đều
rất thấp đối với đại đa số dân chúng. Mức sống thấp biểu thị cả về lượng và
về chất dưới dạng thu nhập thấp, thiếu nhà ở, sức khoẻ kém, ít được học hành,
tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh cao, tuổi thọ thấp.
Bảng một số chỉ tiêu phản ánh nhu cầu cơ bản của con người
10
Tên nước GDP(tỷ đô
la)

Tốc độ tăng
GDP đầu
người
(2004-2005)
Tuổi thọ bình
quân
(Nam/nữ)
(2004)
Tỷ lệ tử
vong của
trẻ em dưới
5 tuổi trên
1000
ca(2004)
Tỷ lệ
người
lớn biết
chữ
1. theo nhóm
nước
-Thu nhập
cao
3446,19 2.1 76/82 7 -
-Thu nhập
bình quân
8535.12 5.4 68/73 39 90
-Thu Nhập
thấp
1391.36 5.6 58/60 122 62
2. Một số

nước
-Mỹ 12455 2.5 75/80 8 -
-Nhật Bản 4505.91 2.6 78/85 4 -
-Trung Quốc 2228.86 9.2 70/73 31 91
-Ấn Độ 785.46 7.1 63/64 85 61
-Braxin - 0.9 67/75 34 89
-Hàn Quốc 787.62 3.5 74/81 6 -
-Thái Lan 176.6 3.6 67/74 21 93
-Việt Nam 52 7.4 68/73 23 90
-Lào - 4.6 54/57 83 69
-Campuchia - 5 53/60 141 74
-Bangladet - 3.5 63/64 77 41
11
-CH Trung
Phi
- 0.9 39/40 149 49
Nguồn: WB, Báo cáo phát triển thế giới 2007
Qua bảng, nhìn chung các nước phát triển như Mỹ, Nhật đã đạt được các chỉ
tiêu phát triển xã hội rất tốt, trong khi đó những chỉ tiêu này ở các nước có
mức thu nhập thấp như : CH Trung Phi, Bangladet, Lào, Campuchia lại không
được khả quan.
Mức thu nhập thấp được thể hiện rõ nhất ở mức thu nhập bình quân đầu
người(GNP/ Người). Các nhà kinh tế trên thế giới thường lấy mức 2000USD/
người làm mốc phản ánh được khả năng thoả mãn những nhu cầu cơ bản của
con người, đạt được mức này phản ánh sự biến đổi về chất trong hoạt động
kinh tế và đời sống xã hội. Hiện nay còn khoảng 100 nước đang phát triển có
mức thu nhập bình quân dưới 2000USD/ người, trong đó có khoảng 40 nước
có mức thu nhập bình quân dưới 600USD/ người. Điều này phản ánh khả
năng hạn chế của các nước đang phát triển trong việc giải quyết các nhu cầu
cơ bản của con người.

Ngoài việc phải vật lộn với mức thu nhập thấp, nhiều người dân ở các
nước đang phát triển còn phải thường xuyên chiến đấu chống lại nạn suy dinh
dưỡng, bện tật và sức khoẻ kém. Trong số 40 nước có thu nhập thấp nhất thế
giới thì tuổi thọ trung bình vào khoảng 50, so với 58 ở các nước đang phát
triển khác và 75 tuổi ở các nước công nghiệp phát triển. Tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ
sinh dưới 1 tuổi trong số 1000 trẻ em được sinh ra ở các nước kém phát triển
nhất vào khoảng 118 so với 73 ở các nước đang phát triển khác và 12 ở các
nước phát triển.
Cơ hội được học hành ở các nước đang phát triển cũng hạn chế. Việc cố
gắng tạo ra cơ hội giáo dục ở cấp tiểu học là nỗ lực lớn nhất ở các nước này.
12
Tuy vậy, mặc dù có bước tiến đáng kể về động viê học sinh đến trường,
nhưng tỷ lệ biết chữ vẫn rất thấp. Trong số những nước kém phát triển nhất
thì tỷ lệ này là 34% so với 65% ở các nước đang phát triển khác và 99% ở các
nước phát triển.
(2) Tỷ lệ tích luỹ thấp: Điều hiển nhiên là để có nguồn vốn tích luỹ cần
phải hy sinh tiêu dùng. Nhưng khó khăn là ở chỗ, đối với các nước đang phát
triển, nhất là những nước có thu nhập thấp, đã gần như chỉ có mức sống tối
thiểu, vì vậy việc giảm tiêu dùng là rất khó khăn. Ở những nước phát triển
thường để dành từ 20% đến hơn 30% thu nhập để tích luỹ. Trong khi đó, ở
các nước nông nghiệpc chỉ có khả năng tiết kiệm trên 10% thu nhập; nhưng
phần lớn số tiết kiệm này lại dùng để cung cấp nhà ở và trang thiết bị cần thiết
khác cho số dân đang tăng lên. Do vậy, càng hạn chế quy mô tiết kiệm cho
tích luỹ phát triển kinh tế.
(3) Trình độ kĩ thuật của sản xuất thấp: Ở các nước đang phát triển,
hoạt động kinh tế chủ yếu dựa trên cơ sở sản xuất nhỏ, nông nghiệp chiếm tỷ
trọng lớn, kỹ thuật sản xuất thủ công lạc hậu. Lịch sử phát triển kinh tế cho
thấy rằng, nền kinh tế không thể chuyển động đi lên nếu không có công
nghiệp phát triển. Sự ra đời của các phương thức sản xuất mới luôn đi đôi với
cách mạng công nghiệp. Các nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế

cao đều có nguồn gốc từ tốc độ tăng của ngành công nghiệp. Trải qua các giai
đoạn phát triển công nghiệp thay thế nhập khẩu, các nước đang phát triển tuy
đã có ngành công nghiệp mới, nhưng phần lớn vẫn là những ngành sản xuất
với kỹ thuật cổ truyền, trình độ kĩ thuật thấp, sản xuất sản phẩm thường ở
dạng thô, sơ chế hoặc chế biến với chất lượng thấp. Trong khi các nước có
nền kinh tế phát triển đã đạt đến trình độ công nghệ tiên tiến với kĩ thuật sản
xuất hiện đại, trình độ quản lý thành thạo, vượt xa trình độ công nghệ của các
nứơc đang phát triển từ 3 – 6 thập kỷ, khoảng cách công nghệ quá lớn cũng
13
làm cho các nước đang phát triển khó tận dụng được lợi thế của các nước đi
sau do quá trình phân công lao động quốc tế mới đưa lại.
(4). Năng suất lao động thấp: các nước đang phát triển còn phải đối đầu
với một thách thức nữa trong quá trình phát triển đó là áp lực về dân số và
việc làm. Dân số ở các nước đang phát triển vốn dĩ đã đông, sự bùng nổ về
dân số ở những quốc gia này đã tạo ra một hạn chế lớn cho phát triển kinh tế.
Tỷ lệ gia tăng dân số thường ở mức cao hơn tỷ lệ tăng trưởng kinh tế đã làm
cho mức sống của nhân dân ngày càng giảm. Thu nhập giảm tất yếu dẫn đến
làm giảm sức mua và tỷ lệ tiết kiệm, sự mất cân đối giữa tích luỹ và đầu tư đã
làm kìm hãm sản xuất, trong khi dân số vẫn tiếp tục gia tăng, tạo áp lực về
việc làm, làm cho năng suất lao động không tăng lên.
Những đặc trưng trên đây chính là những trở ngại đối với sự phát triển,
chúng có liên quan chặt chẽ với nhau, tạo ra vòng luẩn quẩn của sự nghèo
khổ, làm cho khoảng cách giữa các nước phát triển và đang phát triển ngày
càng gia tăng.
14


Sơ đồ : Cái vòng luẩn quẩn của sự nghèo khổ
Đứng trước tình hình này đòi hỏi các nước đang phát triển phải có biện
pháp để phá vỡ vòng luẩn quẩn. Trong khi tìm kiếm con đường phát triển đã

dẫn đến những xu hướng khác nhau. Có những nước vẫn tiếp tục rơi vào tình
trạng trì trệ, thậm chí phát triển thụt lùi, xã hội rối ren, như một số nước châu
Phi cận Sahara, hay một số nứơc Nam Á. Có những nước đã đạt được tốc độ
tăng trưởng khá, đưa đất nước ra khỏi vòng luẩn quẩn, nhưng rồi lại rơi vào
những cuộc khủng hoảng với những vòng luẩn quẩn mới như Philippin. Bên
cạnh đó có những nước đã tạo được tốc độ phát triển nhanh, rút ngắn khoảng
cách thậm chí đuổi kịp các nước phát triển, đó là các nước NICs Châu Á:
Hồng Kông, Đài Loan, Singapore, và Hàn Quốc. Gần đây, các nước Thái Lan,
Malaixia và Trung Quốc cũng đã chứng minh sự đúng đắn trong việc lựa
chọn đường lối phát triển.
Nhà kinh tế học hiện đại Samuelson đã nghiên cứu rất tỷ mỷ về cái vòng
luẩn quẩn của các nước đang phát triển và đưa ra một cách đã được rất nhiều
các nước này áp dụng đó là dựa vào nguồn lực bên ngoài. Ông đưa vào học
thuyết mình với tên :” cái vòng luẩn quẩn và cú huých từ bên ngoài”. “Cú
huých từ bên ngoài” ở đây được hiểu là nguồn vốn đầu tư của nước ngoài.
15
Thu nhập thấp
Năng suất thấp
Tỷ lệ tích luỹ thấp
Trình độ kĩ thuật thấp
Với khả năng tích luỹ nội bộ thấp như vậy, các nước đang phát triển không
thể tự tạo ra cho mình nguồn vốn đầu tư để phát triển được mà phải nhờ tới
nguồn vốn nước ngoài (mà chủ yếu là vốn của các nước phát triển). Nguồn
vốn nước ngoài sẽ khắc phục cho khả năng tích luỹ thấp bằng cách sử dụng
nguồn tích luỹ từ các nước khác chuyển sang. Chúng sẽ được sử dụng nhằm
hỗ trợ nguồn lực trong nước vào đầu tư phát triển, tạo ra công ăn việc làm, thu
nhập cho nước tiếp nhận, cải tiến công nghệ, nâng cao năng suất lao động. Từ
đó, tạo điều kiện cất cánh cho nền kinh tế, giúp thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn.
1.2. Thời đại ngày nay không có một dân tộc nào, không một nên kinh tế
nào có thể phát triển trong sự tồn tại riêng lẻ. Sự hợp tác nhiều mặt, nhiều

chiều,tuỳ thuộc lẫn nhau trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi đã trở thành xu
thế tất yếu đối với mọi nước, mọi nền kinh tế.
Thế giới ngày nay là một thể thống nhất, trong đó các quốc gia là
những đơn vị độc lập, tự chủ nhưng phụ thuộc vào nhau về kinh tế và khoa
học công nghệ. Sự phụ thuộc giữa các quốc gia bắt nguồn từ yếu tố khách
quan. Nhiều nhà kinh tế học cho rằng đối với bất kỳ quốc gia nào sự phát
triển kinh tế đòi hỏi phải có 16 sản phẩm cơ bản như : Năng lượng, dầu thô,
khí đốt, sắt, đồng, chì, kẽm,nhôm, niken, gỗ, lương thực, thiết bị kĩ thuật
Do điều kiện địa lý, do sự phân bố không đồng đều tài nguyên thiên nhiên,
không có 1 quốc gia nào có khả năng tự đảm bảo các sản phẩm cơ bản nói
trên. Mọi quốc gia đều phụ thuộc vào nước ngoài với mức độ khác nhau về
sản phẩm đó
Lịch sử thế giới đã chứng minh không có 1 quốc gia nào có thể phát
triển nếu không có quan hệ đối ngoại với bất kì nước nào. Những nước có tốc
độ tăng trưởng kinh tế cao đều là do khéo léo tận dụng quan hệ kinh tế đối
ngoại để phát triển. Chính những quan hệ ấy đã tạo ra nhiều hình thức hợp tác
16
trong phát triển, trong đó, đầu tư quốc tế là một trong những mảng chính của
quan hệ kinh tế quốc tế.
Đầu tư quốc tế được thực hiện dưới nhiều nguyên nhân khác nhau trong
đó tổng kết có một số nguyên nhân chính sau:
+Do sự mất cân đối về yếu tố sản xuất giữa các quốc gia nên có sự
chênh lệch về giá cả các yếu tố, đầu tư quốc tế thưc hiện nhằm đạt được lợi
ích từ sự chênh lệch đó (khai thác lợi thế so sánh của mỗi quốc gia)
+Do sự gặp gỡ về lợi ích của các bên tham gia.
+Trong nhiều trường hợp đầu tư quốc tế nhằm giải quyết các nhiệm vụ
đặc biệt như xây dựng công trình có quy mô vượt ra ngoài phạm vi biên giới
quốc gia, đòi hỏi phải có sự hợp tác của nhiều quốc gia.
1.3. Tăng cường thu hút vốn và công nghệ nước ngoài tạo cơ hội “cất
cánh” cho nền kinh tế dựa trên việc tận dụng những nguồn lực trong nước

chưa có.
Thực tế cho thấy, việc thu hút nguồn vốn nước ngoài có tính hai mặt(cả
những tác động tích cực và tiêu cực). Đối với nước tiếp nhận thì
-Những tác động tích cực của việc thu hút nguồn vốn nước ngoài :
+Góp phần giải quyết khó khăn do thiếu vốn
+Tạo việc làm, tăng thu nhập cho lao động trong nước
+Học tập kinh nghiệm quảnlí, tác phong làm việc tiên tiến, tiếp nhận
công nghệ hiện đại từ nước chủ đầu tư
+Tạo điều kiện để khai thác các nguồn tài nguyên một cách có hiệu quả
+Giúp cho việc xây dựng các khu công nghiệp, khu công nghệ cao
nhằm hỗ trợ cho quá trình công nghiệp hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
+Góp phần khắc phục những khó khăn do thiên tai, hoả hoạn và giải
quyết các vấn đề xã hội
17
- Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn có những tác động tiêu cực nếu như các nước
tiếp nhận không cẩn thận thù sẽ mắc phải và để lại những hậu quả nghiêm
trọng
+Có thể dẫn tới tình trạng khai thác tài nguyên thái quá, gây ô nhiễm
môi trường
+Gây ra sự phân hoá, tăng khoảng cách phát triển giữa các vùng và
giữa các tầng lớp dân cư
+Có thể làm tăng các vấn đề về tệ nạn xã hội, bệnh tật
+Có thể bị ảnh hưởng hoặc lệ thuộc vào những yêu cầu từ phía chủ đầu

18
2.Nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài có tác động qua lại với
nhau
2.1. Nguồn vốn trong nước tác động đối với nguồn vốn nước ngoài
2.1.1. Nguồn vốn trong nước là nguồn vốn đối ứng nhằm tạo cơ sở cho
nguồn vốn nước ngoài vào hoạt động có hiệu quả

Thông thường để vốn đầu tư nước ngoài phát huy được tác dụng thì cần
phải có một tỷ lệ vốn đối ứng trong nước thích hợp. Nghĩa là muốn tiếp nhận
được vốn đầu tư nước ngoài thì trong nước cũng cần chuẩn bị sẵn một số cơ
sở nhất định tạo điều kiện cho vốn nước ngoài hoạt động có hiệu quả. Trong
dự án sử dụng vốn ODA những tổ chức cho vay yêu cầu nước đi vay phải có
vốn đối ứng để chủ động cho việc lập dự án. Nước đi vay phải bỏ trước có thể
để chi trả cho đội ngũ thực hiện dự án hoặc chi phí cho hoạt động đi lại, hoạt
động của phía Việt Nam. Sẽ có hai nhóm nhận tiền, một nhóm là do dự án trả,
một nhóm khác do Nhà nước trả ( lấy từ nguồn vốn đối ứng). Theo kinh
nghiệm của một số nước nhóm NICs thì giai đoạn đầu của quá trình phát triển
tỷ lệ này thường thấp ở mức 1/1.5 nghĩa là 1 đòng vốn nước ngoài cần 1.5
đồng vốn trong nước. Ở giai đoạn sau khi các chương trình đầu tư nghiêng về
ngành công nghiệp chế biến có hàm lượng vốn và kỹ thuật cao thì tỷ lệ này
thường tăng lên 1 / 2.5.
2.1.2. Đóng vai trò định hướng cho dòng đầu tư nước ngoài chảy vào các
ngành, các lĩnh vực cần thiết.
Nguồn vốn trong nước đóng vai trò then chốt trong việc định hướng các hoạt
động đầu tư.Mỗi nền kinh tế phát triển đều phải trải qua những giai đoạn khác
nhau và không thể áp dụng dập khuôn 1 chính sách cho cả quá trình phát
triển.Với mỗi giai đoạn phát triển sẽ đặt ra những mục tiêu trọng tâm, ưu tiên
cho việc phát triển những ngành kinh tế phù hợp.Muốn xây dựng một đất
nước phát triển về mọi mặt thì các ngành, các vùng của chúng ta đều phải có
19
một sự phát triển nhất định với một cơ cấu hợp lí Việc đầu tư vốn trong nước
để xây dựng cơ sở hạ tầng, mạng lưới thông tin liên lạc, giao thông…vào
ngành, địa phương nào sẽ tạo môi trường đầu tư thuận lợi, từ đó có thể thu hút
các nhà đầu tư nước ngoài. Vì vậy việc sử dụng vốn trong nước cho ngành
nào, vùng nào cần phải được cân nhắc kĩ theo sự định hướng đúng đắn của
Nhà nước sẽ giúp nền kinh tế phát triển nhanh chóng
2.1.3. Trên cơ sở đầu tư ban đầu tạo cơ sở hạ tầng căn bản chủ động cho

việc tiếp nhận nguồn vốn nước ngoài
Hiện nay, trong xu thế hội nhập toàn cầu, mỗi 1 quốc gia không chỉ phát triển
đơn lẻ mà còn có sự tác động qua lại đối với các quốc gia khác. Chính vì thế,
nền kinh tế của mỗi quốc gia sẽ ít nhiều chịu ảnh hưởng của nền kinh tế thế
giới. Trong bối cảnh đó, nếu chúng ta phát huy được nội lực nguồn vốn trong
nước thì sẽ có được thế chủ động trong việc điều hành nền kinh tế và ổn định
các chính sách kinh tế.
Ngoài ra, việc tận dụng nguồn vốn trong nước cũng giúp chúng ta có được sự
phát triển bền vững. Để phát triển kinh tế có nhiều con đuờng khác nhau.
Nhiều nước đã chọn con đường đi vay và xin viện trợ nước ngoài nhằm phát
triển kinh tế đất nước. Thực tế đã cho thấy các nước này có thể đạt được mức
tăng trưởng cao nhưng là tăng trưởng nóng, không bền vững và có sự lệ thuộc
vào nước cho vay, bởi họ không thấy được cũng như không phát huy được
tính quyết định của nguồn vốn trong nước.
Mặt khác, nguồn vốn trong nước chính là cơ sở để thu hút vốn đầu tư nước
ngoài. Trước tiên, xét về nguồn vốn FDI: Thực tế những năm qua, dòng vốn
FDI trên thế giới chủ yếu di chuyển trong nội bộ các nước phát triển, chỉ có
khoảng 25% - 30% di chuyển đến các nước đang và chậm phát triển. Điều đó
chứng tỏ tài nguyên thiên nhiên dồi dào, lao động rẻ không phải là nhân tố
quan trọng hàng đầu trong thu hút FDI. Khoảng 90% dòng vốn chảy vào một
20
số ít quốc gia có môi trường đầu tư hấp dẫn. Vì vậy cần quan tâm tới vấn đề
sử dụng nguồn vốn trong nước để tạo một môi trường đầu tư hấp dẫn. Do đó,
tự bản thân chúng ta phải xây dựng cho mình một nền tảng kinh tế - chính trị -
xã hội vững chắc và ổn định, có cơ sở hạ tầng, giao thông liên lạc tốt, đội ngũ
nhân công có tay nghề, cán bộ quản lí có chuyên môn Đó mới là yếu tố
quyết định tới việc thu hút vồn nước ngoài để phát triển kinh tế. Và đảm
nhiệm vai trò này chính là nguồn vốn trong nước.
Đối với nguồn vốn ODA, tuy có rất nhiều ưu đãi nhưng về bản chất đây vẫn
là 1 khoản vay nên chúng ta vẫn phải trả nợ. Nếu khi đó nguồn vốn trong

nước không đủ để chi trả thì sẽ dẫn tới tình trạng nợ cho nền kinh tế và như
vậy thì mục đích tăng trưởng và phát triển kinh tế đã không đạt được.
Do đó nguồn vốn trong nước thực sự đóng vai trò quyết định tới
việc thu hút vốn nước ngoài và tới tăng trưởng của nền kinh tế.
2.2. Nguồn vốn nước ngoài tác động tới nguồn vốn trong nước
2.2.1 Nguồn vốn nước ngoài có tác động tích cực tới nguồn vốn trong
nước
2.2.1.1.Nguồn vốn nước ngoài hỗ trợ cho những thiếu hụt về vốn trong
nước
Vốn là một trong 3 yếu tố quan trọng tác động trực tiếp tăng trưởng bên
cạnh lao động và năng suất yếu tố tổng hợp(TPF). Là yếu tố tăng trưởng theo
chiều rộng. Vì vậy mà nó có vai trò hết sức quan trọng. Nguồn vốn nước
ngoài hỗ trợ cho những thiếu hụt về vốn trong nước, đặc biệt là trong giai
đoạn đầu của quá trình phát triển, khi mà nguồn vốn trong nước còn rất hạn
chế. Những nghiên cứu về các nước đang phát triển cho thấy rằng, nhóm
nước này có mức thu nhập thấp nên khả năng tiêu dùng và tích luỹ cũng là rất
hạn chế. Nhưng ở giai đoạn này lại cần một khoản vốn lớn để đầu tư nhằm
hoản chỉnh hệ thống cơ sở hạ tầng, xây dựng những công trình làm nền tảng
21
cho sự phát triển kinh tế lâu dài. Trong giai đoạn này thường tồn tại khoảng
cách lớn giữa đầu tư và tiết kiệm, cần nguồn bù đắp. Hơn nữa trong giai đoạn
này do nền công nghiệp của đất nước chưa phát triển nên hàng xuất khẩu nếu
có đa phần là hàng nông sản sơ chế và các nguyên liệu thô có giá trị gia tăng
thấp. Ngược lại về phía nhập khẩu do nhu cầu phát triển đòi hỏi phải nhập
khẩu hàng cao cấp, máy móc thiết bị công nghệ có giá trị gia tăng cao. Điều
đó dẫn đến cán cân thương mại, cán cân thanh toán luôn nằm trong tình trạng
thâm hụt. Để giải quyết khó khăn này nhiều nước đã tìm đến nguồn vốn đầu
tư nước ngoài để tài trợ cho những thiếu hụt đó.
Thực trạng chung của những nuớc đang phát triển như Việt Nam là kết
cấu hạ tầng còn thiếu, lại quá tải và cũ kĩ, đường,cầu, sân bay, nhà máy điện,

tàu biển, cảng, viễn thông, trường học, bệnh viện… đều trong tình trạng yếu
kém. Vì vậy, để duy trì cho tăng trưởng và phát triển bền vững, Việt Nam
nhất thiết phải đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng cơ bản và đồng bộ.
Trong khi đó ngân sách nhà nước lại vô cùng eo hẹp. Chính vì thế, nguồn vốn
nước ngoài đóng vai trò vô cùng quan trọng. Thực tế cho thấy việc đầu tư vào
cơ sở hạ tầng thường đòi hỏi vốn đầu tư lớn nhưng việc thu hồi vốn lại chậm,
khả năng sinh lời thấp, nên không hấp dẫn được đầu tư của tư nhân. ODA trở
thành giải pháp hiệu quả cho việc đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Không chỉ
ở Việt Nam, ngay cả những nước phát triển cũng đã lựa chọn ODA để đầu tư
cho phát triển kết cấu hạ tầng Nguồn vốn ODA cho phép phát triển hệ thống
kết cấu hạ tầng đồng bộ và hiệu quả. Với khối lượng vốn lớn, thời hạn vay
dài, lãi suất thấp và được cung cấp từ nhiều nhà tài trợ khác nhau, ODA là
nguồn vốn cho phép tiến hành đồng thời nhiều dự án trên địa bàn và ở nhiều
ngành khác nhau. Điều này sẽ tạo được sự phát triển mang tính chất đồng bộ
của hệ thống kết cấu hạ tầng, nhờ đó, tạo được năng suất tổng hợp phục vụ
22
hiểu quả đối với hoạt động sản xuất kinh doanhvà sự phát triển chung của
toàn xã hội.
Hơn nữa, ODA cũng làm tăng khả năng thu hút vốn FDI và tạo điều kiện để
mở rộng đầu tư phát triển trong nước ở các nước đang phát triển.Như đã biết,
để có thể thu hút được các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài bỏ vốn đầu tư vào
một lĩnh vực nào đó, các quốc gia phải đảm bảo cho họ có được môi trường
đầu tư tốt ( cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, hệ thống chính sách, pháp luật ổn
định ), đảm bảo đầu tư có lợi với phí tổn đầu tư thấp, hiệu quả đầu tư cao.
Muốn vậy, đầu tư của Nhà nước phải được tập trung vào việc nâng cấp, cải
thiện và xây dựng mới cơ sở hạ tầng, hệ thống tài chính, ngân hàng Nguồn
vốn để Nhà nước có thể giải quyết những đầu tư này là phải dựa vào nguồn
vốn ODA giúp bổ sung cho vốn đầu tư hạn hẹp từ ngân sách Nhà nước. Một
khi môi trường đầu tư được cải thiện sẽ tăng sức hút dòng vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài, thúc đẩy đầu tư trong nước tăng, dẫn đến sự phát triển bền vững

của nền kinh tế.Thực trạng chung của những nuớc đang phát triển như Việt
Nam là kết cấu hạ tầng còn thiếu, lại quá tải và cũ kĩ: đường, cầu, sân bay,
nhà máy điện, tàu biển, cảng, viễn thông, trường học, bệnh viện… đều trong
tình trạng yếu kém. Vì vậy, để duy trì cho tăng trưởng và phát triển bền vững,
Việt Nam nhất thiết phải đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng cơ bản và
đồng bộ. Trong khi đó ngân sách nhà nước lại vô cùng eo hẹp. Chính vì thế,
nguồn vốn nước ngoài đóng vai trò vô cùng quan trọng. Thực tế cho thấy việc
đầu tư vào cơ sở hạ tầng thường đòi hỏi vốn đầu tư lớn nhưng việc thu hồi
vốn lại chậm, khả năng sinh lời thấp, nên không hấp dẫn được đầu tư của tư
nhân. ODA trở thành giải pháp hiệu quả cho việc đầu tư phát triển kết cấu hạ
tầng. Không chỉ ở Việt Nam, ngay cả những nước phát triển cũng đã lựa chọn
ODA để đầu tư cho phát triển kết cấu hạ tầng.
23
Nguồn vốn ODA cho phép phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ và
hiệu quả. Với khối lượng vốn lớn, thời hạn vay dài, lãi suất thấp và được cung
cấp từ nhiều nhà tài trợ khác nhau, ODA là nguồn vốn cho phép tiến hành
đồng thời nhiều dự án trên địa bàn và ở nhiều ngành khác nhau. Điều này sẽ
tạo được sự phát triển mang tính chất đồng bộ của hệ thống kết cấu hạ tầng,
nhờ đó, tạo được năng suất tổng hợp phục vụ hiểu quả đối với hoạt động sản
xuất kinh doanhvà sự phát triển chung của toàn xã hội.
Hơn nữa, ODA cũng làm tăng khả năng thu hút vốn FDI và tạo điều kiện để
mở rộng đầu tư phát triển trong nước ở các nước đang phát triển.Như đã biết,
để có thể thu hút được các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài bỏ vốn đầu tư vào
một lĩnh vực nào đó, các quốc gia phải đảm bảo cho họ có được môi trường
đầu tư tốt ( cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, hệ thống chính sách, pháp luật ổn
định ), đảm bảo đầu tư có lợi với phí tổn đầu tư thấp, hiệu quả đầu tư cao.
Muốn vậy, đầu tư của Nhà nước phải được tập trung vào việc nâng cấp, cải
thiện và xây dựng mới cơ sở hạ tầng, hệ thống tài chính, ngân hàng Nguồn
vốn để Nhà nước có thể giải quyết những đầu tư này là phải dựa vào nguồn
vốn ODA giúp bổ sung cho vốn đầu tư hạn hẹp từ ngân sách Nhà nước. Một

khi môi trường đầu tư được cải thiện sẽ tăng sức hút dòng vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài, thúc đẩy đầu tư trong nước tăng, dẫn đến sự phát triển bền vững
của nền kinh tế.
Mặt khác, việc sử dụng nguồn vốn ODA để đầu tư cải thiện cơ sở hạ
tầng sẽ tạo điều kiện cho các nhà đầu tư trong nước tập trung đầu tư vào các
công trình sản xuất kinh doanh có khả năng mang lại lợi nhuận.
Như vậy, hỗ trợ phát triển chính thức, ngoài việc bản thân nó là nguồn
vốn bổ sung quan trọng cho các nước dang phát triển, còn có tác dụng tăng
khả năng thu hút vốn từ nguồn đầu tư trực tiếp và tạo điều kiện để mở rộng
đầu tư phát triển trong nước cho các nước này.
24
2.2.1.2. Là nguồn cung ứng ngoại tệ cho hoạt động mua sắm máy móc
thiết bị, chuyển giao công nghệ, phân công lao động xã hội, tạo điều kiện
cho tăng năng suất lao động, gia tăng sản lượng của nền kinh tế.
Để tạo ra sự “cất cánh cho nền kinh tế phải tìm cách tạo ra mức sản
lượng, mức thu nhập ngày càng ra tăng. Muốn vậy cần phải có vốn đầu tư và
kỹ thuật tiên tiến. Và trong lúc nền kinh tế còn đang trong trạng thái tự đảm
bảo một cách khó khăn cho sự sinh tồn của mình, không thể hoàn toàn trông
đợi vào con đường “thắt lưng buộc bụng” tích luỹ nội bộ. Mà không phát triển
nhanh thì nước đó luôn rơi vào tình trạng rượt đuổi do tụt hậu phát triển. Mặt
khác, kỹ thuật trong nước lại quá lạc hậu, thậm chí đi sau vài chục năm so với
các nước phát triển, việc nhập khẩu công nghệ bên ngoài là một tất yếu.
Trong mỗi công nghệ, bên nhận Nhưng chuyển giao công nghệ lại cần một
nguồn ngoại tệ lớn trong khi cán cân thương mại của chúng ta lại liên tục
thâm hụt do phải nhập khẩu hàng hoá cao cấp, máy móc thiết bị công nghệ
có giá trị gia tăng cao trong khi cơ cấu hàng xuất khẩu chủ yếu là hàng nông
sản sơ chế, nguyên liệu thô có giá trị gia tăng thấp. Nguồn vốn đầu tư nước
ngoài lúc này chính là nguồn cung ứng ngoại tệ để có thể tiếp cận công nghệ
bên ngoài. Trong quá trình chuyển giao, bên nhận nhận được những kiến thức
kỹ thuật mà không phải chi phí tốn kém và mất thời gian cho hoạt động

nghiên cứu và triển khai. Ưu điểm rõ ràng nhất đối với bên nhận công nghệ là
tạo ra được sự tiến bộ kỹ thuật và thương mại từ sự tiếp nhận công nghệ. Sự
cung cấp tài liệu và huấn luyện đầy đủ để nâng cao kiến thức của bên nhận
trong lĩnh vực cụ thể của khoa học ứng dụng và do đó làm tăng khả năng sản
xuất của các sản phẩm công nghiệp của bên nhận hoặc áp dụng các quy trình
công nghệ để sản xuất một cách thành công. Đôi khi sự giúp đỡ thêm về tài
chính, tìm thị trường và tiêu thụ sản phẩm của bên cung cấp còn mở ra một
25

×