Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

giải pháp đảm bảo nguồn nguyên liệu ở tct chè việt nam - công ty mẹ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (969.49 KB, 78 trang )

1
Lời mở đầu
Bước vào thời kỳ hội nhập, chứng kiến đất nước đang đổi mới từng
ngày, từng giờ, mỗi chúng ta ai cũng cảm thấy hồ hởi. Tuy nhiên trong sự
thay đổi ấy đằng sau những thành quả tốt đẹp, chúng ta cũng cần nhìn nhận
một cách nghiêm túc những hạn chế và thiếu sót của mình để có thể phát triển
một cách bền vững hơn. Cùng với cả nước, ngành chè Việt Nam đang từng
bước phát triển và đóng góp ngày càng nhiều cho sự vững mạnh của kinh tế
nước nhà. Nhưng những bất cập và tồn tại cuả ngành chè hiện nay không phải
là ít. Đó là những cản trở lớn đối với sự phát triển của ngành chè và nhất là
trong điều kiện hiện nay, khi mà cơ chế thị trường với tính cạnh tranh ngày
càng khốc liệt, nếu không đổi mới, không đáp ứng được những đòi hỏi đó thì
sẽ không thể tồn tại được. Vậy làm thế nào để các doanh nghiệp chè có thể
đứng vững trên thị trường trong điều kiện hội nhập hiện nay? Theo các nhà
chuyên môn, khó khăn lớn nhất của ngành chè hiện nay là ở nguyên liệu!
Trong quá trình thực tập tại TCT chè Việt Nam, tôi nhận thấy vấn đề
đảm bảo nguồn nguyên liệu là một nhiệm vụ lớn đặt ra cho TCT trên con
đường hội nhập và phát triển. Dưới sự hướng dẫn của thầy giáo Ngô Thắng
Lợi cùng sự giúp đỡ chỉ bảo của các cán bộ chuyên môn trong TCT chè, tôi
xin được trình bày những ý kiến của mình về vấn đề này qua đề tài thực tập
tốt nghiệp:
“Giải pháp đảm bảo nguồn nguyên liệu ở TCT chè Việt Nam - Công ty
mẹ”
Xin được giới hạn đề tài của mình trong phạm vi công ty mẹ – là một đơn
vị sản xuất kinh doanh và là bộ phận quan trọng nhất TCT chè Việt Nam.
Hiện nay, Tổng Công ty Chè Việt Nam gồm có công ty mẹ, nhiều công ty
con, và các công ty liên kết hoạt động độc lập. Trong công ty mẹ có đơn vị
sản xuất chè và các công ty hạch toán phụ thuộc. Kể từ năm 2007, theo quyết
định của nhà nước, các Tổng công ty phải có tự sản xuất. Công ty mẹ của
Tổng công ty chè Việt Nam với diện tích sản xuất cộng thêm diện tích vùng


2
thu mua của dân lên đến hàng vạn hecta đang đặt ra vấn đề lớn trong quản lý
và bảo đảm nguồn nguyên liệu cho phát triển.
Chương I: SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC BẢO ĐẢM NGUỒN
NGUYÊN LIỆU ĐỐI VỚI TCT CHÈ VIỆT NAM
Câu hỏi mà ngành chè đang quan tâm nhất hiện nay là làm sao quy
hoạch tốt nguồn nguyên liệu, nâng cao chất lượng chè phục vụ xuất khẩu,
tăng khả năng cạnh tranh, khẳng định được thương hiệu chè Việt Nam. Theo
chủ tịch hiệp hội chè Việt Nam khẳng định: “dù muốn phát triển thế nào thì
ngành chè Việt Nam cũng phải giải quyết khâu chất lượng nguồn nguyên
liệu!” Vì sao lại như vây, chúng ta xem xét sự cần thiết của việc đảm bảo
nguyên liệu tại TCT Chè Việt Nam:
I. KHÁI QUÁT VỀ TỔNG CÔNG TY CHÈ VIỆT NAM
Tên doanh nghiệp: Tổng công ty chè Việt Nam.
Tên giao dịch quốc tế: (VINATEA) Viet Nam National Tea
Corporation.
Tên viết tắt: VINATEA CORP.
Tổng công ty chè Việt Nam (Vinatea) là doanh nghhiệp sản xuất và kinh
doanh chè lớn nhất trong số hơn 600 doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh
chè Việt Nam. Vinatea lớn gấp nhiều lần doanh nghiệp đứng thứ hai sau nó
trên tất cả các lĩnh vực như vốn, tài sản, công nghệ - kỹ thuật, nguồn nhân lực
chuyên môn cao và lành nghê, sản lượng và chất lượng chè sản xuất và kim
ngạch xuất khẩu chè

3
1. Quá trình hình thành và phát triển của Tổng công ty chè Việt Nam
(Vinatea)
Tổng công ty chè Việt Nam được thành lập theo thông báo số 5820-
CP/ĐMDN ngày 13- 10- 1995 của Chính Phủ và Quyết định số 394- NN-
TCCB/QĐ ngày 29- 12- 1995 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

Tổng công ty chè Việt Nam là một trong những dự án nhà nước được chọn
để thành lập Tổng công ty theo quyết định 90T/TTG ngày 7- 3- 1994 của Thủ
tướng Chính phủ. Tuy mới được thành lập nhưng trên thực tế TCT đã có một
quá trình phát triển lâu dài mà tiền thân của nó là Liên hiệp các Xí nghiệp
nông - công nghiệp chè Việt Nam. Được thành lập từ ngày 19- 4- 1974, Liên
hiệp các Xí nghiệp chè Việt Nam lúc bấy giờ là một tổ chức kinh tế thống
nhất đầu tiên giữ vai trò chủ đạo trong sự nghiệp phát triển của ngành chè,
góp phần thúc đẩy nhanh quá trình tích tụ, tập trung hoá sản xuất của các cơ
sở sản xuất, chế biến, trồng chè trong cả nước, đóng góp vào công việc phát
triển đất nước.
Từ năm 1974- 1978 có sự ra đời của 2 cơ quan quản lý chè là Liên hiệp
các Xí nghiệp chè Việt Nam quản lý các cơ sở chế biến chè trên cả nước và
công ty chè trung ương quản lý các nông trường chè quốc doanh.
Năm 1979 được Nhà nước cho phép sát nhập Liên hiệp các Xí nghiệp chè
Việt Nam với Công ty chè trung ương thành Liên hiệp các Xí nghiệp công
nông nghiệp chè Việt Nam theo quyết định số 75/CP ngày 1- 3- 1979 của Hội
đồng Chính phủ, đồng thời Nhà nước cho phép sát nhập phần lớn những nông
trường chuyên trồng chè của địa phương vào Liên hiệp nhằm gắn nông
nghiệp với công nghiệp chế biến, gắn quốc doanh với tập thể để hợp tác
tương trợ lẫn nhau trong sản xuất kinh doanh thực hiện một bước thống nhất
kinh doanh theo ngành kinh tế kỹ thuật.

4
Năm 1987, Liên hiệp các Xí nghiệp công nông nghiệp chè Việt Nam tiếp
nhận nhiệm vụ XNK chè từ VINALIMEX – Tổng công ty XNK nông sản
thực phẩm, tổ chức thành công ty xuất nhập khẩu chè vật tư, hàng hoá, thiết
bị, cũng như kí kết các chương trình hợp tác liên doanh với nước ngoài
nhằm phục vụ sản xuất trong nước.
Bước sang thời kỳ 1988- 1995, cùng với sự đổi mới của nền kinh tế đất
nước, ngành chè nói chung và Liên hiệp các Xí nghiệp công nông nghiệp chè

nói riêng đã phát triển một cách vượt bậc so với các giai đoạn phát triển.
Cuối năm 1995, Liên hiệp các Xí nghiệp công nông nghiệp chè Việt Nam
đã tổ chức lại thành Tổng công ty chè Việt Nam (VINATEA CORP) và phát
triển đến ngày nay.
Sau gần 30 năm hoạt động, hiện nay Tổng công ty đang quản lý 28 Xí
nghiệp công nông nghiệp chè trên cơ sở hợp nhất một nông trường với một
nhà máy chế biến và 5 đơn vị trực thuộc là công ty dịch vụ sản xuất đời sống,
nhà máy cơ khí chè, Trung tâm kiểm tra chất lượng sản phẩm, Công ty xây
lắp vật tư, kỹ thuật và viện nghiên cứu chè. Ngoài ra, Tổng công ty còn tham
gia quản lý 7 đơn vị liên doanh.
Thực hiện chương trình đổi mới, sắp xếp, tổ chức lại doanh nghiệp nhà
nước của Chính Phủ, ngày 13/09/2005, theo quyết định số 2374/Q
BNN/ĐMDN của Bộ NN- PTNT về việc chuyển TCT Chè Việt Nam sang mô
hình công ty mẹ- công ty con. Trong đó Tổng Công ty chè Việt Nam – Công
ty mẹ hoạt động như một tổ chức kinh tế có sản xuất kinh doanh. Cuối năm
2007, Chính phủ quyết định đưa hai công ty chè - vốn là hai công ty con của
TCT chè là Công ty chè Mộc Châu và Công ty chè Sông Cầu vào Công ty mẹ
quản lý làm cho năng lực của công ty mẹ ngày càng trở nên lớn mạnh hơn.

5
2/ Cơ cấu tổ chức của Vinatea
a/ Vinatea có một cơ cấu tổ chức vững mạnh: các đơn vị thành viên trực
thuộc Tổng công ty nằm trải dài suốt dọc lãnh thổ Việt Nam, với các vùng
nguyên liệu chè trù phú có chất lượng cao ở Việt Nam. Hiện nay Vinatea có:
• 25 nhà máy chế biến chè hiện đại gắn liền với vùng nguyên liệu tập
trung, ổn định.
• 3 trung tâm tinh chế và đóng gói chè.
• 2 nhà máy chế tạo thiết bị và phụ tùng cho các nhà máy chế biến chef.
• 1 viện nghiên cứu chè
• 1 trung tâm phục hồi chức năng và điều trị bệnh nghề nghiệp.

• 2 Công ty xây dựng và lắp đặt thiết bị công trình công nghiệp và dân
dụng, giao thông , thuỷ lợi
• 3 công ty kinh doanh xuất nhập khẩu.
• 1 công ty 100% vốn hoạt động tại CHLB Nga.
• 2 công ty liên doanh quy mô lớn với nước ngoài về trồng - chế biến và
xuất khẩu chè.
b/ Sản phẩm của Vinatea gồm:
• Chè xuất khẩu đạt sản lượng trên 30.000 tấn/ năm với các loại : Chè
đen (Orthordox, CTC ) Chè Ôlong, Pouchung, chè Gunpowder, chè
xanh kiểu Nhật Bản, các loại chè dược thảo, chè ướp hương hoa
• Phụ tùng và thiết bị chế biến chè theo thiết kế của ẤN Độ, Nhật
Bản,Đài loan, Nga, Ý
• Sản phẩm xây dựng và lắp đặt thiết bị dây truyền công nghiệp, các
công trình xây dựng dân dụng và công nghiệp, cầu, đường và các công
trình đường giao thông,
Sau gần 50 năm hoạt động, hiện nay Vinatea đâng trên đà phát triển mạnh và
hướng đến một tập đoàn kinh tế đa năng

6
3/Chức năng, nhiệm vụ và ngành nghề kinh doanh chủ yếu của
Vinatea
3.1. Chức năng nhiệm vụ:
* TCT chè Việt Nam với chức năng tham gia xây dựng quy hoạch, kế
hoạch và các dự án đầu tư phát triển vùng sản xuất chè chuyên canh, thâm
canh có năng suất và chất lượng cao. Góp phần phủ xanh đất trống đồi trọc,
xoá đói giảm nghèo
* TCT là một doanh nghiệp đầu mối nhập khẩu máy móc, thiết bị vật tư
kỹ thuật chuyên dùng phục vụ ngành công nghiệp chế biến chè. Đồng thời tổ
chức ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ tiên tiến vào ngành chè, bắt kịp
trình độ thế giới.

* TCT tham gia tổ chức nghiên cứu giống chè mới quy trình canh tác, thu
hoạch chế biến, bảo quản, nhằm nâng cao năng suất và chất lượng cho ngành
chè Việt Nam.
Hiện nay, trong thời buổi hội nhập kinh tế, vai trò quy hoạch phát triển vĩ
mô cho ngành chè yếu đi xong TCT chè Việt Nam luôn giữ vị trí người anh
cả, luôn đi đầu trong mọi lĩnh vực, không ngừng đổi mới và hội nhập với xu
thế phát triển chung của đất nước.
3.2 Ngành nghề kinh doanh chủ yếu của TCT
Theo quyết định số 2374/QĐ- BNN/ ĐMDN của Bộ trửong bộ NN
_PTNT, TCT chè Việt Nam chuyển sang mô hình Công ty mẹ- công ty con
với ngành nghề kinh doanh chủ yếu là:
- Tổ chức sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu các loại chè
- Kinh doanh vật tư, nguyên nhiên vật liệu, máy móc, phụ tùng thiết bị chế
biến chè

7
- Tham gia đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ tư vấn đầu tư, kinh doanh vật liệu
xây dựng, nội ngoại thất, thi công xây lắp, xây dựng các công trình công
nghiệp, dân dụng thuỷ lợi, làm đường giao thông, kinh doanh bất động sản ,
4/ Năng lực hoạt động của TCT chè Việt Nam
4.1. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty mẹ thời gian qua
giai đoạn 2003-2007
(Số liệu TCT cung cấp có phụ thuộc lục ở cuối)
CHỈ TIÊU 2003 2004 2005 2006 2007
GÍA TRỊ SẢN
XUẤT
(giá CĐ1994)
26964123 37931390 22307604
+Gía trị sản xuất
Công nghiệp

(1000 đồng)
23903616 35554186 20071031
+Giá trị sản xuất
Nông nghiệp
(1000 đồng)
3060507 2377213 2236573
SẢN PHẨM SẢN
XUẤT RA
+Chè toàn bộ
(tấnt) 5477 7556 2023 3010.8
2328
chè đen (tấnt) 2869 4544 1765 2943 3457
chè xanh (tấnt) 2382 2777 170 34 589
chè nội tiêu
(tấnt)
226 235 88 33.75
6374
+Sản phẩm cơ khí 135 201.72 131
TIÊU THỤ SẢN
PHẨM NỘI ĐỊA
5315 8142 2721 2687
5943
+chè đen (tấnt) 2800 5016 2472 2437 2311
+chè xanh (tấnt) 2269 2894 167 219 3407
+chè nội tiêu
(tấnt)
264 232 81 31 225
GIÁ TRỊ XÂY
DỰNG CƠ BẢN
(1000 đồng)

165569992 102672199 61007164 16096945

8
CHỈ TIÊU TÀI
CHÍNH
+Doanh thu tổng
số
(đồng)
55824618
0
78951303
6
589090529 56157803
8
+Lợi nhuận trước
thuế
(đồng)
9716307 -84035 -3616166 1335792
XUẤT NHẬP
KHẨU
+Tổng kim ngạch
xuất nhập khẩu
(USD)
16129872 31865527 28198184 26744816 25672492
+Kim ngạch xuât
khẩu sp chè
(USD)
15785618 18085760 15916913 14756301 13308164
+Sản lượng xuất
khẩu (tấn)

16214 17528 14267 13968 10619
+Kim ngạch nhập
khẩu (USD)
7830164 137797568 12281271 11988515 12364328
GIÁ CHÈ XUẤT
KHẨU (USD/
tấn) 973.5795 1031.8211 1115.6454 1056.4362 1253.241
Nguồn: Báo cáo kết quả Sản xuất kinh doanh của TCT chè Việt Nam qua các
năm 2003; 2004; 2005; 2006; 2007.
Với 28 nhà máy và các xưởng chế biến chè công nghiệpV, cho đến nay đã
đáp ứng được một khối lượng lớn cho nhu cầu cho Tổng công ty chè Việt
Nam với công suất 598 tấn tươi / ngày, nhu cầu nguyên liệu 81.350 tấn tươi /
ngày, năng lực chế biến lên tới 16.500 tấn sản phẩm /ngày. Nhờ có công suất
và năng lực chế biến lớn, Tổng công ty có nhiều khả năng dỏp ?ng nhu cầu
của khách hàng trong nước cũng như nước ngoài, thực hiện tốt các hợp đồng
kinh tế lớn, trở thành bạn hàng đáng tin cậy đối với nhiều đối tác nước ngoài.
Trong giai đoạn hiện nay, để nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả
sản xuất - kinh doanh Tổng công ty đã tham gia hợp tác với nhiều hãng nước
ngoài và đã bắt đầu hình thành nên các doanh nghiệp liên doanh trong và

9
ngoài nước, đến nay Vinatea đã có quan hệ thương mại với trên 200 công ty
và tổ chức thương mại tại trên 50 quốc gia và vùng lãnh thổ. Về chè nội tiêu,
Vinatea là nhà cung cấp chính về nguyên liệu, sản phẩm cho gần 200 công ty
và nhà máy sản xuất, chế biến chè trên toàn quốc. Tổng công ty được thành
lập đã tạo điều kiện để tập trung hoạt động tập trung vốn, thống nhất quản lý
điều hành đối với toàn ngành chè Việt Nam.
Từ bảng số liệu trên ta có nhận thấy: Năm 2007, trong sản xuất chế biến
chè có bước đột phá gia tăng về số lượng và giá trị. Đó là kết quả của sự nỗ
lực cố gắng cuả công ty mẹ trong việc chủ động tổ chức điều hành sản xuất và

quản lý các đơn vị phụ thuộc trong đó có sự tham gia của hai thành viên mới
hết sức quan trọng. Đó là Công ty chè Mộc Châu và Công ty chè Sông Cỗu.
Tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể thì tình hình sản xuất kinh doanh của TCT
có xu hướng tăng nhưng không ổn định. Điều đó có thể thấy qua sự biên động
giá chè xuất khẩu trong các năm gần đây.
Biểu đồ giá chè xuất khẩu các năm gần đây

10
Mức tăng giảm về giá và luợng chè qua các năm thể hiện sự biến động
của ngành chè trước tác động của tự nhiên và biến động tình hình thế giới.
Đặc biệt là năm 2006 do ảnh hưởng bởi chiến tranh ở các nước Trung – Cận
Đông – một thị trường lớn của chè Việt Nam, nên sản lượng và giá chè tụt
giảm. Điều đó thể hiện sự hạn chế trong quá trình khai thác và chế biến, đồng
thời thiếu chủ động trong quá trình sản xuất kinh doanh của ngành chè.
Nguyên nhân không chỉ nằm ở chỗ sản lượng giảm xuống mà còn ở chất
lượng của chè Việt Nam chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của người
tiêu dùng trong và ngoài nước với sự hỗn loạn trên thị trường chè làm cho
không quản lý được cả về số lượng và chất lượng, từ đó làm cho không những
khó tiếp cận thị trường mới mà chúng ta còn thất bại ngay trên những thị
trường truyền thống. Sản lượng chè xuất khẩu mấy năm vừa qua có xu hướng
giảm xuống.

11
Biểu đồ sản lượng chè xuất khẩu của TCT chè qua các năm gần đây
Trong những tháng đầu năm nay, giá chè xuất khẩu chỉ đạt khoảng1006
USD / tấn, giảm 4.6% so với mức giá bình quân cả năm 2006 (1057 USD/
tấn). Như vậy vấn đề vẫn là ở chỗ làm thế nào để nâng cao và đảm bảo nguồn
nguyên liệu chè chất lượng. Đó cũng là nhiệm vụ mà TCT đang nỗ lực thực
hiện.
4.2. Các mặt hàng xuất khẩu

Tổng công ty chè Việt Nam hoạt động chủ yếu trên các lĩnh vực sản
xuất - chế biến - kinh doanh chè xuất khẩu và một số mặt hàng khác nhập
khẩu vật tư thiết bị và các loại hình dịch vụ cho sản xuất vào đời sống, phục

12
vụ các đơn vị thành viên và phần lớn các doanh nghiệp chè trên phạm vi cả
nước.
Các chủng loại chè xuất khẩu của Tổng công ty cũng rất đa dạng và phong
phú. Ngoài những, sản phẩm truyền thống như chè đen, chè sen và chè ướp
hương công nghệ của Trung Quốc, Liên xô, Tổng công ty chè còn tạo ra
những loại sản phẩm phong phú: chè đen truyền thống (Orthodox- OTD), chè
CTC (theo công nghệ nghiền, vò, cắt - Curling- Tearing- Cutting), chè chế
biến theo phương pháp lưỡng dụng, hơn 40 loại chè ướp hoa, chè đặc sản cao
cấp, các loại chè phòng chữa bệnh, bồi bổ sức khoẻ Ngoài ra, công ty còn
xuất khẩu một số loại sản phẩm nông nghiệp và dược liệu.
4.3 Thị trường xuất khẩu của Tổng công ty chè Việt Nam
Sau một thời kỳ xuất khẩu sang Liên xô và một số các nước XHCN
khác, đến năm 1990 Tổng công ty đã nắm tới 90% xuất khẩu của cả nước đạt
mức xuất khẩu là 15.000 tấn. Tuy nhiên, sau khi Liên xô và Đông Âu tan rã
chè Việt Nam đã mất 66 % thị trường, xuất khẩu năm 1991 chỉ còn 9.000 tấn.
Từ năm 1992 đến 1995 do cạnh tranh quyết liệt về xuất khẩu cũng như khó
khăn trong việc tìm kiếm thị trường, thâm nhập thị trường chè mới và biến
động của thị trường chè thế giới, những nhu cầu gắt gao về chất lượng, cơ cấu
sản phẩm, khó khăn về tài chính Tỉ trọng của Tổng công ty tuy đã được
phục hồi nhưng tốc độ còn chậm. Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của thị
trường thế giới, Tổng công ty đã mạnh dạn cải tiến, đổi mới cơ chế quản lý,
mạnh dạn đầu tư, phát triển công nghệ của Nhật Bản, Ấn Độ, Đài Loan, vào
sản xuất chè xuất khẩu, đầu tư mới công nghệ sản xuất chè túi lọc chất lượng
cao, thường xuyên cải tiến, đa dạng hoá mẫu mã, chú trọng hình thức để hấp
dẫn người tiêu dùng. Nhờ đó, Tổng công ty đã từng bước vượt qua khó khăn,

tạo đà cho xuất khẩu chè. Đến năm 2000, xuất khẩu chè của Tổng công ty đã
đạt mức khả quan là 28.780 tấn, đồng thời, đã củng cố và mở rộng được thị

13
trường truyền thống như Nga và SNG, Iraq tạo được chỗ đứng trên các thị
trường có triển vọng như: Anh, Nhật Bản, Trung Quốc, Pakistan
Như vậy năng lực sản xuất kinh doanh và tiềm năng cho sự phát triển,
mở rộng của công ty mẹ – TCT chè Việt Nam là rất lớn. Tuy nhiên, năng lực
đó có phát huy được hiệu quả hay không còn phu thuộc rất nhiều vào khả
năng của vùng nguyên liệu mà TCT đang có. Bởi lẽ dù năng lực của doanh
nghiệp có lớn đến đâu, thị trường có tiền năng đến đâu thì nếu không có được
một nguồn nguyên liệu đủ để đáp ứng được những yêu cầu về chất và lượng
thì cũng sẽ là một sự lãng phí vô cùng lớn. Tuy nhiên cũng cần nhận thấy,
năng lực lớn mạnh sẽ tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho quá trình xây dựng và
bảo đảm nguồn nguyên liệu tốt cho quá trình hoạt động và phát triển.
II/ SỰ CẦN THIẾT PHẢI BẢO ĐẢM NGUYÊN LIỆU Ở TCT CHÈ
VIỆT NAM
1/ Đặc điểm kinh tế – kĩ thuật của quá trình sản xuất, chế biến chè
1.1. Quá trình sản xuất – chế biến chè:
Quá trình sản xuất – chế biến chè trải qua nhiều công đoạn phức tạp đòi
hỏi sự tuân thủ nghiêm ngặt về quy trình kỹ thuật mới đảm bảo được sản
phẩm chè có chất lượng. Quá trình trên tạo ra gía trị chủ yếu cho chè thành
phẩm (đến trên 70® %). Vì vậy đây là một công đoạn hết sức quan trọng .
Quy trình sản xuất – chế biến chè gồm nhiều công đoạn song tựu chung lại
được chia làm hai công đoạn lớn đó là trồng và chế biến:
*Giai đoạn chuẩn bị các yếu tố đầu vào:
- Giống chè: là yếu tố quan trọng nhất trong tất cả các yếu tố đầu vào
cho hoạt động sản xuất chè búp tươi bởi giống chè tốt, năng xuất cao sẽ cho
sản lượng cao, chất lượng tốt và bán được giá thành cao. Một số giống chè nổi
tiếng như: Bát Tiên, Ngọc Thuý, San Tuyết, … cho ra các loại sản phẩm chè

chất lượng cao. Ngoài ra còn một số giống chè cho chất lượng trung bình nh

14
ư: LDP1, LDP2 và một số giống chè hiện nay đang bị thoái hoá giống cho
chất lượng thấp như PH1, giống chè trung du. Vấn đề chọn giống phù hợp
với thổ nhưỡng và điều kiện từng vùng là rất quan trọng bởi lẽ không phải nơi
nào cũng trồng được các loại chè đặc sản mà chỉ một số nơi có điều kiện đặc
biệt phù hợp thì chúng mới sinh trưởng và phát triển được. Hiện nay, tỷ lệ các
giống chè quý được trồng chỉ chiếm khoảng 10%, còn lại chủ yếu là các
giống chè PH1 và LDP. Để có thể tăng diện tích các loại giống tốt thì cần có
sự phối hợp chặt chẽ giữa các trung tâm nghiên cứu giống và bà con nông
dân, để hoạt động trồng chè đạt hiệu quả cao và đảm bảo tính cân đối, hợp lý.
- Phân bón và thuốc bảo vệ thực vật: đây là hai yếu tố đầu vào hết sức
quan trọng, hỗ trợ cho công tác trồng và chăm sóc của nông dân cho năng suất
cao hơn và kinh tế hơn. Hiện nay, ngươi nông dân đang đứng trước rất nhiều
sự lựa chọn là liệu họ nên dùng loại nào phù hợp vì trên thị trường hiện có
quá nhiều các loại phân cũng như thuốc hoá học sử dụng cho cây trồng. Nếu
không có sự hướng dẫn và lựa chọn đúng đắn, người nông dân sẽ tự hại chính
mình và cây chè Việt Nam sẽ mất chỗ đứng trên thị trường.
- Ngoài hai yếu tố trên còn phải kể đến hoạt động cải tạo, quy hoạch đất
đai - vốn là tư liệu sản xuất không thể thiếu được của người nông dân. Việc
giao đất cho người nông dân sản xuất phải có quy hoạch và thống nhất trên cơ
sở nhà nước và nông dân có lợi
* Sản xuất chè búp tươi
Bước1: Gieo trồng. Người nông dân sau khi có được loại giống thích
hợp họ tiến hành gieo trồng trên các khu vườn đồi đã được quy hoạch và cải
tạo vào các thời điểm, mùa vụ thích hợp cho sự sinh trưởng của cây, chè tạo
điều kiện cho cây sinh trưởng và phát triển tốt. Họ có thể tiến hành hoạt động
gieo trồng của mình băng hai cách. Đó là trồng bằng cây con và trồng bằng
cành. Mỗi loại có một ưu thế riêng. Tuy nhiên, hiện nay hình thức được


15
khuyến khích đưa vào là sử dụng trồng chè cành vì tỉ lệ sống cao, cho thu
hoạch nhanh, năng suất cao và không bị pha tạp.
Bước 2: Chăm sóc vườn chè. Đây là công đoạn hết sức quan trọng đòi
hỏi nhiều công sức và thời gian của người nông dân.
- Công tác bón phân nhằm thúc đẩy sự sinh trưởng và phát triển của cây
chè và được chia làm nhiều đợt sau lần bón lót vào đất trước khi gieo trồng.
Vấn đề đặt ra là phải có sự kết hợp giữa phân hữu cơ và phân vô cơ một cách
hợp lý với xu hướng tăng tỉ trọng các loại phân hữu cơ, giảm tỷ trọng các loại
phân vô cơ nhằm tạo nguồn dinh dưỡng lâu dài, an toàn cho cây chè, cải tạo
đất và môi trường sinh thái.
- Sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật có tính hai mặt. Một mặt, nhằm
tăng sức đề kháng của cây chè trước các loại sâu bệnh phá hại, mặt khác lại có
ảnh hưởng không tốt đối với sự sinh trưởng của cây chè và môi trường sinh
thái khi mà người nông dân do thiếu hiểu biết sử dụng các loại thuốc không
đúng cách và đúng loại trong quy định của cục bảo vệ thực vật.
- Tiến hành trồng giặm và bổ sung vào các chỗ trống do cây bị chết hoặc
trồng quá thưa nhằm đảm bảo năng suất cho vườn chè.
Bước 3: Thu hoạch chè (hái chèh)
Công đoạn hái chè được yêu cầu thực hiện bằng tay, không được sử dụng
các loại liềm, dao. Kỹ thuật hái chè có tác động lớn đến năng suất và chất
lượng chè bởi nếu hái chè quá sâu có thể làm tăng năng suất chè song làm
chất lượng chè thấp do tỷ lệ lẫn cậng lớn và hàm lượng dĩnh dưỡng trong chè
thành phẩm cũng giảm. Hiện nay, công đoạn hái chè được cơ giới hoá bằng
việc sử dụng máy hái chè rất tiện dụng cho năng suất cao, thích hợp với vùng
thiếu lao động. Tuy nhiên, để có thể sử dụng một cách hiệu quả thì một yêu
cầu đặt ra là phải đảm bảo được mặt bằng của tán chè. Mà muốn có được điều

16

đó thì cần phải có công tác chuẩn bị vườn chè hết sức kỹ lưỡng và tiến hành
trên diện tích rộng.
* Một công đoạn trung gian giữa hai khâu sản xuất và chế biến chè đó là
hoạt động thu mua, vận chuyển chè búp tươi từ các nông trường chè đến các
cơ sở chế biến. Công đoạn này có thể thực hiện một cách trực tiếp giữa người
nông dân và các cơ sở chế biến hoặc thông qua các nhà buôn trung gian
chuyên đi thu mua chè sau đó bán cho các nhà máy chế biến. Mặc dù công
đoạn này không trực tiếp tham gia vào quá trình tạo ra giá trị cho búp chè tươi
song nó lại có ảnh hưởng đến chất lượng chè, đặc biệt là trong khâu vận
chuyển. Quá trình vận chuyển yêu cầu chè không được nén, chèn chặt trong
bao mà cần đảm bảo độ thoáng cần thiết, thời gian vận chuyển, lưu trữ trước
khi đưa vào chế biến không được quá lâu tránh cho chè không bị ôi, ngốt.
* Công đoạn chế biến chè:
- Chè tươi mua về được đưa vào làm sạch và phân loại sau đó được đưa vào
một quy trình công nghệ bao gồm nhiều bước nhỏ: Héo – Vò - Ướp tẩm -
Sấy. Mặc dù các quy trình trên được thực hiện chủ yếu bởi máy móc song vẫn
phải đảm bảo một số yêu cầu như: độ dày của thảm chè không quá 30 cm và
cứ sau 4h phải đảo chè một lần. Chú ý đến công suất và khả năng mua vào
của nhà máy để đảm bảo chè tươi mua về không để quá lâu làm ảnh hưởng
đến chất lượng chè.
- Sau công đoạn Héo – Vò - Sấy – Ướp tẩm, sản phẩm thu được mới là chè
bán thành phẩm. Tiếp tục trải qua một khâu nữa đó là sàng phân loại lúc đó
mới cho ra loại chè thành phẩm. Công đoạn cuối cùng là bảo quản chè để có
thể giữ được hương vị và chất lượng chè lâu hơn. Công nghệ sử dụng ở đây
ngoài đóng gói bao bì và hút ẩm còn có công nghệ hút chân không.
Tổng hợp tất cả những công đoạn trên taọ nên chuỗi giá trị của ngành chè,
trong đó giá trị cơ bản nằm ở các búp chè tươi (đến 70® %), các khâu còn lại

17
tạo ra giá trị gia tăng cho sản phẩm. Điều đó phản ánh trình độ sản xuất của

chúng ta còn thấp khi mà còn phụ thuộc quá nhiều vào nguyên liệu đầu vào,
giá trị gia tăng trong khâu chế biến và dịch vụ lại quá nhỏ. Sự tương quan đó
thể hiện sự tác động của công nghiệp nói chung và công nghiệp chế biến nói
riêng đến sản xuất nông nghiệp còn hạn chế. Ơ nhiều nước trên thế giới có
ngành công nghiệp chế biến phát triển thì giá trị của nguyên liệu chè trong
chè thành phẩm cũng chỉ thấp hơn 60%. Ví dụ như ở Đài Loan, nơi mà không
có nhiều điều kiện cho sản xuất nông nghiệp (vì không có nhiều đấtv), bù lại
họ lại có một ngành công nghiệp chế biến rất phát triển, thay vì trồng chè, họ
lại nhập chè bán thành phẩm về để tiếp tục gia công và đã tạo ra những
thương hiệu chè nổi tiếng thế giới với hương vị đặc trưng. Còn ở nước ta do
trình độ sản xuất còn hạn chế, chúng ta mới chỉ đảm bảo được phát triển theo
chiều rộng nên việc phụ thuộc quá nhiều vào nguyên liệu là điều không thể
tránh khỏi. Như vậy, muốn nâng cao chất lượng cho sản phẩm chè trong điều
kiện hiện nay cần phải chú ý đến vấn đề nguyên liệu và giải quyết được các
vấn đề tồn tại cũng như những mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình bảo đảm
nguyên liệu. Và trong quá trình đó vai trò của các chủ thể là vô cùng quan
trọng. Vậy họ là những ai, tâm tư của họ là gì? Vai trò của họ thực sự đã phát
huy được hiệu quả chưa?
1.2. Các bên có liên quan trong quá trình sản xuất và chế biến chè:
Quy trình chế sản xuất và chế biến chè phản ánh mối quan hệ, tác động
giữa công nghiệp (mà ở đây là công nghiệp chế biếnm) và nông nghiệp, đó
thực chất là mối quan hệ, tác động giữa nhà nước với nông dân, giữa kinh tế
nhà nước với kinh tế hộ gia đình và giữa giai cấp công nhân, trí thức với giai
cấp nông dân.
Phát triển ngành chè là một trong những mục tiêu không thể không nhắc
tới trong công cuộc CNH _HĐH nông nghiệp nông thôn và đi lên sản xuất lớn

18
ở Việt Nam. Đây là một ngành có thế mạnh bởi không chỉ đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng trong nước mà còn phục vụ cho xuất khẩu, tạo điều kiện để mở rộng

quan hệ thương mại, hội nhập kinh tế. Ngoài ra phát triển ngành trồng và chế
biến chè tạo ra thu nhập cho một bộ phận lớn dân cư là những người trồng chè
và công nhân trong các cơ sở chế biến chè ổn định kinh tế xã hội.Từ đó ta có
thể thấy rằng đặc điểm kinh tế – kĩ thuật của quá trình sản xuất và chế biến
chè còn thể hiện quan mối quan hệ mật thiết giữa các chủ thể tham gia. Cụ thể
hơn, đó là mối quan hệ của bốn nhà:
Nhà nông – Nhà doanh nghiệp – nhà khoa học – Nhà Nước
Tương ứng với các khâu:
Sản xuất chè búp tươi - chế biến &kinh doanh chè khô - Nghiên cứu KH
_KT - Quy hoạch phát triển
• Nhà nông (người trồng chè) bao gồm các hộ trồng chè:
- Công nhân nông trường (nông trường viênn): chủ yếu là công
nhân ở các nông trường quốc doanh hoăc các công ty.Họ là những
người có trình độ do được đào tạo và tiếp xúc với nhiều máy móc,
công nghệ trồng chăm sóc do công ty đầu tư. Hiện nay, nhiều nông
trường chè đang tiến hành cổ phần, họ được giao khoán sử dụng
đất và được mua cổ phần. Sản phẩm chè sau khi thu hái được cam
kết bán cho công ty. đó là một trong những giải pháp đưa ngành
chề lên sản xuất lớn và cần mở rộng
- Nông dân hợp đồng: là nông dân trồng chè có đất riêng để trồng
chè nhưng có ký hợp đồng riêng với công ty bán một phần hay
toàn bộ sản lượng chè sản thu hái. Họ được công ty cho vay vốn
hoăc ứng trước giống và phân bón
- Nông dân hợp tác xã: là những người sản xuất tham gia vào hợp
tác xã. Độc lập trong quá trình bán chè thu hái

19
- Nông dân tự do (nông dân không liên kếtn): chiếm phần lớn hộ sản
xuất chè . Họ sản xuất chè và tự tìm cách tiêu thụ sản phẩm
• Nhà doanh nghiệp gồm các cơ sở thu mua, chế biến và các cơ sở kinh

doanh, xuất khẩu sản phẩm chè. Cùng với sự phát triển của thị trường
và công nghệ, hoạt động chế biến cũng phát triển mạnh mẽ. Hiện nay
có khoảng trên 600 cơ sở chế biến với công xuất 3-7 tấn chè tươi trên
ngày và trên 10000 lò chế biến thủ công tại gia đình. Hoạt động chế
biến hết sức phong phú đa dạng về hình thức và chất lượng:
- Các hộ chế biến gồm: hộ chế biến chè đăng ký kinh doanh và hộ
chế biến chè không đăng ký kinh doanh. Với các hộ chế biến
không đăng ký kinh doanh tồn tại khá đông, họ chế biến nguyên
liệu mà mình sản xuất ra tại nhà hoặc thu mua từ các nhà khác với
công suất chế biến thấp (100-200 tấn /năm) và sử dụng lò quay tay
hoặc lò có mô tơ. Chất lượng chè của các đơn vị này thường rất
kém do nguyên liệu không được chon lọc kỹ và không có công
nghệ bảo quản, không đúng quy trình chế biến. Với các hộ có đăng
ký kinh doanh vốn là các cơ sở chế biến tư nhân có tư cách pháp
nhân và được nhà nước quản lý. Công suất chế biến khoảng 400
tấn mỗi năm. Họ có thể bán lại cho các công ty xuất khẩu (XK)
chè hoặc tự tiêu thụ sản phẩm chè do mình sản xuất ra
- Nhà sản xuất - chế biến tư nhân tồn tại dưới loại hình công ty
TNHH, được thành lập theo luật doanh nghiệp. Ngoài chế biến chè
(chè xanh và chè đen) họ còn tham gia vào các hoạt động kinh
doanh chè: bán lại cho các công ty XK, liên kết trực tiếp với các
công ty XK hoặc trực tiếp tìm kiếm bạn hàng và tiêu thụ sản
phẩm chè khô

20
- Tổng công ty chè Việt Nam là một doanh nghiệp nhà nước có vị
trí to lớn cả về quy mô và công suất trong ngành chè Viêt Nam, là
đơn vị có công xuất chế biến hơn 5000 tấn / năm. Trước 1995, hầu
hết các doanh nghiệp nhà nước đều bán chè chế biến và sơ chế cho
Vinatea xuất khẩu và hoạt động phụ thuộc chặt chẽ vào kế hoạch

sản xuất của TCT. Sau năm 1995 khi mà cơ chế thị trường phát
triển nhanh chóng, với sự xuất hiện của nhiều công ty tư nhân,
tham gia vào cả quá trình sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu. đặc
biệt năm 2003 có nhiều biến cố về thị trường khiến cho kế hoạch
sản xuất trở nên không ăn khớp. Từ đó các doanh nghiệp tự tách ra
hoạt động và tìm kiếm thị trường. Từ Năm 2006, TCT trở thành
đơn vị nhà nước tự tiến hành sản xuất kinh doanh, và đang từng
bươc cổ phần hoá và hội nhập vào nền kinh tế. Trong quá trình đó,
TCT luôn chủ động đảm bảo cho mình một nguồn nguyên liệu đầu
vào và thị trường cung ứng sản phẩm đầu ra hết sức phong phú và
rộng lớn, đồng thời TCT không ngừng đầu tư cho hoạt động
nghiên cứu khoa học, cung cấp trang thiết bị công nghệ mới cho
các cơ sở chế biến và giống, phân bón cho bà con nông dân trồng
chè.
- Ngoài ra còn bộ phận các công ty liên doanh và công ty nứơc
ngoài là các công ty mới chỉ tham gia vào ngành chè từ cuối thập
niên 90.
- Trong quá trình sản xuất và chế biến chè còn có một bộ phận đó là
những tư thương, thu mua chè cung cấp lại cho các cơ sở chế biến.
Do nhu cầu chè trong các cơ sở chế biến ngày càng tăng trong khi
đó khả năng cung ứng từ các đồi chè có hạn và tăng châm, không
thể đáp ứng đủ nhu cầu thì vai trò của người tư thương càng trỏ

21
nên quan trọng hơn. Bản thân các cơ sở chế biến cũng thích mua
chè tươi của tư thương có quy mô lớn hơn vì cho phép họ mua
được số lượng chè lớn mà tích kiệm đựơc chi phí. Đây là hiệu quả
của quá trình chuyên môn hoá.
• Nhà khoa học là bộ phận đi đầu trong công cuộc CNH - HĐH đất
nước. Họ đóng vai trò quan trọng trong viêc nghiên cứu, sáng tạo, khai

thác và triển khai các tiến bộ khoa học công nghệ, đưa chúng ứng dụng
vào sản xuất. Đối với ngành chè, đội ngũ các nhà khoa học gồm các
nhà kỹ sư cơ khí, các kỹ sư nông nghiệp, …đang là bộ phận đóng vai
trò ngày càng quan trọng trong quá trình gia tăng giá trị của sản phẩm
chè khi không ngừng đưa vào sản xuất những máy móc hiện đại tham
gia vào quá trình sản xuất, chế biến chè và đua vào trồng đại trà nhiều
giống chè tốt. Mới đây, 8 giống mới được phép nhân rộng trong các dự
án phát triển ở các tỉnh, thành phố góp phần nâng cao năng suất, chất
lượng. Mặc dù nhận thức được vai trò to lớn đó KHCN song trong điều
kiện hiện nay, đầu tư vào nghiên cứu khoa học còn rất hạn chế. Đặc
biệt người nông dân vẫn mang tác phong sản xuất nhỏ, với kinh nghiêm
truyền thống, thói quen sản xuất truyền cũ, trình độ nhận thức hạn chế
nên khó tiếp nhận và sử dụng công nghệ mới chưa nói đến khả năng họ
tự đầu tư vào công nghệ sản xuất
• Nhà nước thể hiện vai trò của mình trong quy hoạch phát triển vĩ mô
tạo cơ sở pháp lý và định hướng phát triển ngành chè theo đúng hướng,
ban hành các quy định quản lý sản xuất, chế biến, và chứng nhận chè
an toàn, đăng ký chất lượng. Nhà nước tạo cơ chế quản lý tác động gián
tiếp đến quá trình sản xuất và chế biến chè như hộ trợ thông qua hoạt
đông hỗ trợ cho vay hoặc kêu gọi đầu tư, tạo cơ chế thông thoáng cho

22
hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh… Các cơ quan đại diện cho nhà
nước gồm có: Chính phủ, Cơ quan cấp bộ (bộ Nông nghiệp và phát
triển nông thôn), Tổng công ty nhà nước –TCT chè Việt Nam, Các cơ
quan quản lý hành chính địa phương. Các đơn vị quản lý nhà nước có
trách nhiêm phối hợp, hỗ trợ nhau trong quá trình ra quyết định và quản
lý được thống nhất và hiệu quả. Hạn chế và khó khăn của quản lý nhà
nước hiện nay thể hiện sự quy hoạch thiếu hiệu quả và chặt chẽ, các
văn bản pháp quy còn chồng chéo và đôi khi thể hiện sự yếu kém trong

trình độ và năng lực quản lý
Từ phân tích quá trình sản xuất, chế biến chè trên cho ta thấy, đó là một
quá trình liên tục và có mối quan hệ mật thiết, chặt chẽ giữa các bô phận tham
gia. Mối quan hệ đó lỏng lẻo dù chỉ ở một khâu, một bộ phân nào đó cũng ảnh
hưởng đến toàn bộ chuỗi giá trị của sản phẩm mà trong đó nguyên liệu chế
biến chè ảnh hưởng đến hơn 70% chất lượng sản phẩm chè. Đặt ra vấn đề
đảm bảo nguồn nguyên liệu đòi hỏi phải được nhìn nhận một cách tổng thể,
đầy đủ với các bộ phận khác không phải chỉ đơn thuần là từ phía những người
sản xuất chè nguyên liệu - đó là người nông dân. Để có thể giải quyết được
những vấn đề tồn tại trong vấn đề nguyên liệu đặt ra yêu cầu xem xét mối
quan hệ của người nông dân với vùng nguyên liệu, với các cơ sở chế biến một
cách toàn diện.
Kinh tế hộ nông dân trong đó có các hộ sản xuất chè là lực lượng gần như
tuyệt đối trong nông nghiệp, tạo ra nguyên liệu đầu vào cho các ngành công
nghiệp chế biến. Trong quá trình vươn lên trở thành đơn vị tự chủ trong kinh
tế thị trường, lực lượng chủ yếu này đã bộc lộ nhiều yếu kém, khó khăn như
khả năng kinh doanh, trình độ khoa học – công nghệ, vốn, khả năng tiếp thị,
quảng cáo và thị trường tiêu thụ. Nếu chỉ khoán trắng cho họ tự chủ, thiếu sự

23
hỗ trợ, dẫn dắt của khu vực kinh tế nhà nước thì không thể nâng cao được
năng lực cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam, trong đó có sản phẩm chè.
2/ Kế hoạch đảm bảo và phát triển nguồn nguyên liệu của TCT chè Việt
Nam đến năm 2020
2.1/ Quy hoạch của ngành chè Việt Nam đến 2020
Bằng nghị định 43/1999 QĐ-TTG Ban hành vào tháng3 /1999 Bộ NN
&PTNT đã phối hợp với các bên liên quan đề ta phương hướng phát triển
ngành chè Việt Nam đến 2010 là:
- Tăng năng suất cả nước lên 1.7 lần
- Sản lượng tăng từ gần 60000 tấn lên 214000 tấn

- Sản lượng chè búp tươi tăng 2.4 lần và chè đạt 150000 tấn búp khô
- Xuất khẩu tăng 3 lần và đạt 110000 tấn với tổng giá trị lên đến 210
triệu USD
Năm 2006 định hướng phát triển ngành chè Việt Nam được bộ NN
&PTNT đề ra đó là:
+ Mục tiêu phát triển đến năm 2010 các tỉnh Miền núi phía Bắc sẽ ổn định
diện tích khoảng 93000-95000 ha chè, trong đó chè sản xuất theo quy trình an
toàn đạt khoảng 80% trở lên. Ngành chè sẽ đổi mới công nghệ, thiết bị chế
biến, đa dạng hoá sản phẩm và tăng giá trị chè chế biến để tăng gía bán bình
quân lên khoảng 20% so với năm 2006, khối lượng chè sản xuất được 87000
tấn chè và kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 130-150 triệu USD. Và để đạt
được múc tăng trưởng này, ngành chè cần đầu tư thêm khoảng 90 đến 100 cơ
sở chế biến chè, công suất 12.000 tấn búp tươi / ngày / cơ sở.
+ Khuyến khích đầu tư theo quy hoạch, đưa ra mục tiêu cho toàn ngành chè
đến 2010: diện tích trồng chè của cả nước đạt 120.000 ha. Năng suất bình
quân là 7 tấn / ha. Sản lượng chè thô dự kiến đạt 200.000 tấn / năm. Đến năm

24
2020 diện tích sẽ là 140.000 ha, năng suất bình quân đạt 9 tân /ha. Sản lượng
chè thô đạt 1.260.000 và sản lượng chè khô đạt 300.000 tấn.
+Đến năm 2010, Viện khoa học Nông - lâm nghiệp sẽ cung cấp giống chè
mới cho các khu vực trồng chè đảm bảo cơ cấu: 60% diện tích là giống chè
mới chất lượng cao, đưa năng suất bình quân lên 8 tấn tươi / ha(tăng 2 tấn so
với hiện nayt).
2.2/ Kế hoạch đảm bảo nguyên liệu của Vinatea đến năm 2010
Trước định hướng đó của ngành chè, TCT chè Việt Nam đã đề ra kế hoạch
và phương hướng thực hiện nhằn đảm bảo nhu cầu nguyên liệu chè cho quá
trình phát triển thời gian tới.
Phương hướng hoạt động trong những năm tới:
- Phát triển TCT chè thành một công ty mạnh, làm nòng cốt cho hiệp hội và

toàn ngành chè về thị trường xuất khẩu và khai thác công nghệ (cả giống và
kỹ thuậtc)
- Coi việc phát triển khoa học công nghệ là một đột phá, xung yếu để phát
triển ngành chè, và khắc phục những yếu kém hiện có.
- Xây dưng TCT thành một công ty đa dạng ngành nghề và các mặt hàng dịch
vụ.
- Cơ chế vận hành và quản lý của TCT trong 5 năm tới là:
“Kỷ cương – Hợp tác - An toàn – hiệu quả”
Từ phương hướng trên TCT đã đề ra mục tiêu chung cho việc phát triển sản
xuất kinh doanh giai đoạn 2007-2010:
- Tiếp tục củng cố thương hiệu chè Vinatea bằng cách nâng cao chất lượng,
sản lượng và cải tiến mẫu mã sản phẩm, nâng cao tính cạnh tranh của sản
phẩm, giảm thiểu chi phí giá thành sản phẩm, ổn định thị trường tiêu thụ,
chiếm được sự tín nhiệm lâu dài của khách hàng trong và ngoài nước nhằm

25
tăng kim ngạch xuất khẩu, hoàn thành nghĩa vụ với nhà nước, tích luỹ tái sản
xuất mở rộng và năng cao thu nhập cho người lao động
- Từng bước thay thế các vườn chè già cỗi, giống cũ chất lượng thấp bằng
giống tốt mới, thích nghi với điều điều kiện đất đai, khí hậu và sinh thái từng
vừng và cùng với đó là quá trình cải tiến kỹ thuật trồng và chăn sóc chè được
phổ biến rộng rãi cho bà con nông dân.
- Đầu tư đổi mới công nghệ chế biến
- Đổi mới phương thức hoạt động, quản lý - kinh doanh
- áp dụng khoa học công nghê vào quá trình hoạt động
Một số mục tiêu cụ thể:
- Phấn đấu đến năm 2010 có 40-45% sản phẩm của TCT được bán dưới dạng
sản phẩm hoàn chỉnh có hương vị đặc trưng từng vùng văn hoá khác nhau,
đáp ứng được yêu cầu về vệ sinh thực phẩm, mẫu mã sản phẩm phong phú,
đa dạng

- Thành lập thêm một số kênh phân phối, mạng lưới cơ sơ ở khắp cả nước
Từ kế hoạch phát triển chung cho toàn TCT chè Việt Nam đã đặt ra yêu
cầu lớn về kế hoạch bảo đảm nguyên liệu trong các năm tới. Điều đó đòi hỏi
sự nỗ lực rất lớn trong việc huy động các nguồn lực vào để thực hiện được
mục tiêu. Đó là hướng đến việc phát triển bền vững nguồn nguyên liệu đảm
bảo cả về số lượng và chất lượng cho hoạt động sản xuất kinh doanh, cải thiện
môi trường, nâng cao chất lượng cuộc sống cho lao động trồng và chế biến
chè, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, góp phần hiện đại hoá nông nghiệp nông
thôn.

×