Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

vị trí của nông nghiệp nông thôn trong nền kinh tế quốc dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.13 KB, 29 trang )

MỤC LỤC
A Mở đầu…………………………………………………………………… 2
B Nội dung ………………………………………………………………… 4
I Cơ sở lí luận……………………………………………………………… 4
1.1 Khái niệm………………………………………………………………… 4
1.2 Vị trí của nông nghiệp nông thôn trong nền kinh tế quốc dân…………… 5
1.3 Các đặc điểm lớn của kinh tế nông nghiệp nông thôn…………………… 6
1.4 Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp nước ta…………………………………… 6
1.5 Các ngành nông nghiệp chủ yếu………………………………………… 9
1.6 Những nội dung cơ bản thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa nông
nghiệp nông thôn………………………………………………………… 13
II Cơ sở thực tiến…………………………………………………………… 16
2.1 Thực trạng công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nồng thôn……… 16
2.2 Những giải pháp chủ yếu thực hiện và phát triển công nghiệp hóa hiện đại
hóa nông nghiệp nông thôn……………………………………………… 23
C Kết luận……………………………………………………………………. 27
MỞ ĐẦU
Vạn vật phát triển đều phải trải qua quá trình thay đổi cấu trúc của chính
mình. Ví dụ như một cái cây phát triển sẽ phải thay đổi về hình dáng, kích
Trang 1
thước, hình dạng cành lá. Nền kinh tế phát triển sẽ thay đổi tỷ lệ mối tương quan
giữa 3 ngành chính là công nghiệp – nông nghiệp - dịch vụ; thành thị - nông
thôn; công cộng và tư nhân; nội địa và hướng xuất khẩu. Việt Nam cũng không
nằm ngoài xu thế đó. Hiện nay, đất nước ta đang nằm trong quá trình công
nghiệp hóa – hiện đại hóa với mục tiêu từ nay đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản
trở thành một nước công nghiệp, phát triển, bền vững.
Trong những chủ trương thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất
nước thì công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn là chủ trương
đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, là con đường tất yếu để đưa nông nghiệp
nông thôn nước ta thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu.
Từ một nước nông nghiệp, 80% dân cư sống ở nông thôn, lực lượng lao


động chiếm hơn 70% lực lượng lao động xã hội là lao động nông nghiệp. Đảng
ta không những xác định công nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm của thời kì quá
độ lên chủ nghĩa xã hội mà còn nhấn mạnh “ phải đặc biệt coi trọng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn”. Trong những năm qua, công
nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn đã thực hiện được một số bước, cơ sở vật
chất kĩ thuật của một số mặt cũng được tăng cường. Tuy nhiên cho đến nay trên
một số vùng nông thôn, đặc biệt là các vùng sâu vùng xa, đời sống nông dân vẫn
còn nhiều khó khăn, kết cấu hạ tầng còn lạc hậu, năng suất lao động thấp, sức
cạnh tranh yếu, một số nội dung của công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn
trong quá trình thực hiện còn lúng túng, khó khăn. Để đưa ra các chính sách,
hướng đi cho việc thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp nông
thôn một cách đúng đắn, triệt để, phù hợp với hoàn cảnh của từng vùng từng địa
phương phải nắm rõ được tầm quan trọng của việc thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn và quan trọng hơn cả là cần phải trả lời
được các câu hỏi sau đây :
Để thực hiện thành công mục tiêu từ nay đến năm 2020 đưa nước ta cơ
bản trở thành một nước công nghiệp, vì sao chúng ta phải đặc biệt coi trọng
công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn? Phải chăng coi là đặc
biệt vì nó tạo tiền đề, cơ sở vững chắc thúc đẩy toàn bộ quá trình công nghiệp
Trang 2
hóa hiện đại hóa nền kinh tế đất nước? Phải chăng đó là mũi đột phá quan trọng
nhằm giải phóng sức lao động của giai cấp nông dân chiếm 80% số dân cả nước,
tạo điều kiện khai thác tốt nhất tiềm năng dồi dào về lao động và đất đai? Và
phải chăng đó còn là đòi hỏi của nhiệm vụ tăng cường va củng cố khối liên minh
công nông – nền tảng vững chắc của chế độ mới.
NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
I.1 KHÁI NIỆM
a. Công nghiệp hóa nông thôn
Trang 3

Công nghiệp hóa nông thôn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với
việc đổi mới căn bản về công nghệ và kỹ thuật ở nông thôn, góp phần phát triển
bền vững nền kinh tế quốc dân với tốc độ cao.
Công nghiệp hóa nông thôn gồm có 3 nội dung chính cơ bản đó là :
- Đưa phương pháp sản xuất công nghiệp bắng máy móc và thiết bị vào sử
dụng trong nông nghiệp và sản xuất ở nông thôn để dần thay thế cho lao động
thủ công.
- Tiến hành áp dụng những phương pháp quản lí hiện đại, tương ứng với
công nghệ và thiết bị vào nông nghiệp nông thôn.
- Tạo ra, xây dựng hệ thống về cơ sở hạ tầng thích hợp với việc đưa máy
móc, thiết bị và công nghệ mới vào nông thôn.
b. Công nghiệp hóa nông nghiệp
Công nghiệp hóa nông nghiệp là một bộ phận của công nghiệp hóa nông
thôn
Công nghiệp nông nông nghiệp gồm 2 nội dung:
- Đưa máy móc, các ứng dụng công nghệ mới, ứng dụng khoa học kĩ thuật
và các phương pháp sản xuất kiểu công nghiệp vào ứng dụng trong sản xuất
nông nghiệp.
- Tạo ra gắn bó chặt chẽ, quan hệ hỗ trợ, thúc đẩy lẫn nhau giữa sản xuất
công nghiệp và sản xuất nông nghiệp.
c. Hiện đại hóa
Hiện đại hóa là quá trình nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật, công nghệ
vào đời sống và sản xuất. Đi đôi với đó là quá trình nâng cao đời sống tinh thần,
xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng (điện, đường, trường, trạm…), y tế, giáo
dục và các dịch vụ khác thiết yếu, gắn liền với đời sống nhân dân.
Hiện đại hóa không chỉ là quá trình nâng cao chất lượng cuộc sống mà còn
phải song song với việc bảo vệ môi trường sinh thái, nguồn nhân lực tự nhiên,
phát triển và nâng cao nguồn nhân lực con người.
d. Công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn
Trang 4

Từ các khái niệm trên ở trên ta có thể rút ra: công nghiệp hóa nông nghiệp
nông thôn là quá trình đưa máy móc, khoa học công nghệ kĩ thuật vào trong sản
xuấtn nông nghiệp nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng đời
sống, hoàn thiện cơ sở hạ tầng và ngày càng đáp ứng đầy đủ hơn các nhu cầu vật
chất tinh thần của người dân.
I.2 VỊ TRÍ CỦA NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN TRONG NỀN KINH
TẾ QUỐC DÂN
Nông nghiệp là một trong 3 ngành kinh tế lớn của nền kinh tế quốc dân.
Trong nông nghiệp lại gồm có các ngành: trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, ngư
nghiệp( nghề cá và săn bắt).
Nông nghiệp đóng vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế quốc dân,
đặc biệt là đối với Việt Nam – một nước có nền kinh tế chưa phát triển. Theo
Lênin đã từng nói: “ nếu không có cơ sở nông nghiệp vững chắc thì không thể
tiến hành bất kì một công cuộc xây dựng kinh tế nào cả, những kế hoạch dù có
to lớn đến đâu cũng vô giá trị”.
Việt Nam là một quốc gia có nền kinh tế nông nghiệp là chủ yếu: với trên
34% GDP là của nông lâm ngư nghiệp, 80% dân số sống ở nông thôn, 73% lao
động xã hội làm nông nghiệp, nếu chỉ tính riêng lao động nông nghiệp thì tỉ lệ
này tới 84,9%. Trong sản xuất nông lâm ngư nghiệp thì lúa gạo chiếm tỉ trọng
chủ yếu đến 73% trong tổng giá trị sản lượng nông nghiệp hàng năm.
Đối với toàn kinh tế, nông lâm ngư nghiệp và nông thôn là thị trường rộng
lớn tiêu thụ sản phẩm công nghiệp, dịch vụ xã hội
Lao động nông nghiệp nông thôn còn là nguồn cung cấp lao động và nhân
lực dồi dào cho các ngành kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa.
I.3 CÁC ĐẶC ĐIỂM LỚN CỦA KINH TẾ NÔNG NGHIỆP NÔNG
THÔN.
Trang 5
Nông nghiệp là ngành chịu sự chi phối và tác động mạnh mẽ bởi các quy
luật tự nhiên, các điều kiện về đất đai, khí hậu, thời tiết, sinh vật….
Quá trình lao động trong sản xuất nông nghiệp lệ thuộc vào các quy luật

vận động sinh học của cây trồng, vật nuôi rất đa dạng.
Sản xuất nông nghiệp mang tính liên ngành rộng lớn làm phức tạp hóa quá
trình quản lí, tổ chức quản lí.
Ngoài ra nền nông nghiệp Việt Nam còn mang những đặc điểm riêng gây
không ít khó khăn, cản trở cho sự phát triển cũng như các chính sách phát triển
nông nghiệp nông thôn của nhà nước, đó là đất canh tác ít, sản xuất nhỏ phân tán
và lạc hậu.
I.4 TỔ CHỨC LÃNH THỔ NÔNG NGHIỆP Ở NƯỚC TA .
Căn cứ vào đặc điểm tự nhiên, kinh tế, kỹ thuật cũng như định hướng phát
triển công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn nói riêng, công
nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước nói chung, nhà nước ta đã công bố 7 vùng
nông nghiệp sinh thái.
a. Vùng trung du và miền núi phía Bắc.
Bao gồm các tỉnh thuộc trung du và miền núi Bắc Bộ. Về điều kiện sinh
thái nông nghiệp, đây là khu vực miền núi ( từ núi thấp cho đến núi cao), cao
nguyên và đồi thấp. đất chủ yếu là đất Feralit đỏ vàng ở vùng núi và đất phù sa
cổ bạc màu ở ranh giới giữa rìa đồng bằng châu thổ sông Hồng và các vùng
trung du. Mật độ dân cư tương đối thấp, nhất là các tỉnh Tây Bắc. Tuy nhiên dân
cư có truyền thống và kinh nghiệm sản xuất. Số lượng các tộc người ở đây nhiều
nhất trong các vùng. Mỗi tộc người lại có tập quán riêng đã ảnh hưởng nhất
đinh đến sản xuất nông nghiêp.
Ở trung du và miền núi phía Bắc đã hình thành một số cơ sở công nghiệp
chế biến. Điều kiện giao thông vận tải tương đối thuận lợi ở trung du, còn miền
núi thì gặp nhiều khó khăn. Nhìn chung do gặp nhiều trở ngại nên trình độ thâm
canh thấp. Sản xuất theo kiếu quảng canh, ít đầu tư về lao động và vật tư.
Trong lĩnh vực trồng trọt vùng này là chuyên môn hóa cây nông nghiệp dài
ngày ôn đới và cận nhiệt (như chè, hồi trâu, sở…) và một số cây công nghiệp
Trang 6
ngắn ngày ( như đậu, tương, lạc, thuốc lá ). Về chăn nuôi trâu bò ( lấy thịt, sữa)
và lợn trong chừng mực nhất định.

b. Đồng bằng sông Hồng.
Là một trong những vùng nông nghiệp trù phú của nước ta. Là đồng bằng
châu thổ, về địa hình nơi đây có nhiều ô trũng với đất đai phần lớn là đất phù sa
của sông Hồng và sông Thái Bình. Khí hậu có mùa đông lạnh do ảnh hưởng trực
tiếp của gió mùa Đông Bắc. Dân cư tập trung đông đúc với mật độ đông nhất cả
nước. Mạng lưới đô thị dày đặc, có nhiều thành phố lớn ( Hà Nội, Hải Phòng,
Nam Định…) và các cơ sở công nghiệp chế biến rộng khắp. Quá trình công
nghiệp hóa và đô thị hóa đang diễn ra mạnh mẽ.
Do lịch sử khai thác lâu đời, đông dân nên trình độ thâm canh cao nhất
nước với việc nhanh chóng đưa tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất. Nơi đây
là quê hương của phong trào 5 tấn, 10 tấn/ 1ha/
Chuyên môn hóa sản xuất chủ yếu của vùng là lúa gạo. Ngoài ra còn có
một số cây thực phẩm (rau), cây công nghiệp (đay, cói), nuôi lợn, nò sữa ven
thành phố và gia cầm.
c. Bằc Trung Bộ
Là vùng đồng bằng hẹp ven duyên hải và vùng đồi trước núi với nhiều loại
đất như phù sa (ở đồng bằng), feralit (ở khu vực đồi núi) và một ít đất bazan.
Tuy nhiên khó khăn lớn nhất của vùng là các tai biền thiên nhiên (bão, lụt, hạn
hán, cát bay, gió Lào). Sống trong điều kiện tự nhiên tương đối khắc nghiệt,
nhân dân có kinh nghiệm trong cuộc đấu tranh chinh phục thiên nhiên. Ở đây
cũng đã hình thành một số đô thị vừa và nhỏ cùng với các cơ sở công nghiệp chế
biến.
Trình đột thâm canh, nhìn chung tương đối thấp. Trong nông nghiệp còn sử
dụng nhiều lao động. Hướng chuyên môn hóa gôm có cây công nghiệp hàng
năm ( lạc, mía, thuốc lá ), một số cây công nghiệp lâu năm (cà phê, cao su) và
chăn nuôi trâu bò lấy thịt.
d. Vùng duyên hải Nam Trung Bộ.
Trang 7
Về mặt tự nhiên, có nhiều nét tương đồng với Bắc Trung Bộ. Đây là dải
đồng bằng duyên hải nhỏ hẹp, có nhiều vịnh, thuận lợi cho việc nuôi trồng thủy

hải sản. Tai biến thiên tai thường xuyên xảy ra, ảnh hưởng nhiều tới sản xuất
nông nghiệp. Trong vùng này có nhiều đô thị (thành phố, thị xã) dọc theo dải
ven biển. Điều kiện giao thông vận tải tương đối phát triển.
Trình độ thâm canh trong nông nghiệp, đã được chú trọng, sử dụng nhiều
vật tư và lao động trong sản xuất. Chuyên môn hóa trong vùng có cây công
nghiệp hàng năm (mía, thuốc lá), cây công nghiệp lâu năm (dừa), lúa, chăn nuôi
lơn, bò thịt.
e. Tây nguyên
Là vùng của các cao nguyên xếp tầng rộng lớn, có độ cao khác nhau, đất
bazan màu mỡ với diện tích nhiều nhất cả nước. Khí hậu phân ra 2 mùa rõ rệt
(mùa mưa, mùa khô). Về mùa khô rất thiều nước, gây nhiều khó khăn cho sản
xuất.
Tây nguyên là địa bàn cư trú của nhiều dân tộc ít người, trình độ phát triển
còn kém.Ở đây đã hình thành một số nông trường (chủ yếu trồng cây công
nghiệp dài ngày) nhưng công nghiệp chế biến phát triến còn chậm.
Trong vùng có hai khu vực với trình độ khác nhau rõ rệt. Ở khu vực nông
nghiệp cổ truyền, phương thức quảng canh là chủ yếu. Trong khi đó, ở các nông
trường ( và một số hộ gia đình), trình độ thâm canh tương đối khá và đang được
nâng cao. Thế mạnh của vùng là chuyên môn hóa trồng cây công nghiệp dài
ngày (cà phê, cao su ) chăn nuôi bò sữa và bò thịt.
f. Đông Nam Bộ
Là vùng đất xám phù sa cổ rộng lớn, địa hình tương đối bằng phẳng. Khí
hậu cũng có hai mùa nhưng không quá sâu sắc như Tây nguyên. Tuy vậy về mùa
khô vẫn còn tình trạng thiếu nước.
Vùng này tập trung nhiều thành phố lớn đặc biệt là thành phố Hồ Chí Minh,
đồng thời cũng là lãnh thổ của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam với tam giác
tăng trưởng kinh tế: TP Hồ Chí Minh – Biên Hòa – Vũng Tàu. Kết cấu cơ sở hạ
tầng vào loại tốt nhất Việt Nam hiện nay với nhiều khu công nghiệp chế biến.
Trang 8
Trình độ thâm canh cao, sản xuất lớn, đầu tư theo chiều sâu, sử dụng nhiều máy

móc, vật tư nông nghiệp.
Đông Nam Bộ là vùng chuyên canh cây công nghiệp lớn nhất nước ta. Có
cây công nghiệp dài ngày (cà phê, cao su) và cây công nghiệp ngắn ngày (đậu
tương, mía…)
g. Đồng bằng sông Cửu Long.
Là đồng bằng châu thổ lớn nhất nước ta. Các dải phù sa ngọt rất màu mỡ,
trong khi ấy lại có đất nhiễm phèn, nhiễm mặn cần được cải tạo. Mạng lưới
thông vận tải thuận lợi, nhất là đường thủy. Đã hình thành hệ thống đô thị vừa
và nhỏ cùng với các cơ sở công nghiệp chế biến.
Trình độ thâm canh tương đối cao, sản xuất trên quy mô lớn tạo ra nhiều sản
phẩm hàng hóa. Tuy nhiên trong cơ cấu vẫn còn quá thiên về lúa gạo.
Về hướng chuyên môn hóa, tất nhiên, lúa chiếm ưu thế. Ngoài ra còn một số
loại cây cong nghiệp ngắn ngày (mía, đay, cói ), cây ăn quả nhiệt đới (đặc biệt
là xoài), chăn nuôi gia cầm (chú trọng vào con vịt).
I.5 Các ngành nông nghiệp chủ yếu
a. Ngành trồng trọt:
• Ngành trồng cây lương thực và cây thực phẩm
Lương thực có ý nghĩa rất quan trọng đối với một quốc gia đông dân và
càng quan trọng hơn khi quốc gia đó đang bước vào công cuộc công nghiệp hóa
– hiện đại hóa. Nó còn là cơ sở phân công lao động trong nông nghiệp nói riêng
và trong các ngành kinh tế nói chung.
Ở nước ta cây lương thực bao gồm một số cây hàng năm như: lúa, ngô,
khoai, sắn. Ngoài cây lúa, các cây khác được gọi chung là hoa màu (hay mầu).
Hiện nay nhóm cây lương thực chiếm ưu thế lớn về diện tích và giá trị sản xuất
của ngành trồng trọt. Trong nhóm cây lương thực, lúa luôn giữ vị trí hàng đầu.
Đối với nhân dân ta, cây lúa đã đi vào cuộc sống thường nhật từ hàng ngàn đời
nay. Gạo trở thành một trong ba mặt hàng xuất khẩu chủ lực (cùng với hàng dệt
may và dầu thô) và Việt Nam được xếp vào những nước hàng đầu về vấn đề
Trang 9
này. Cùng với lúa gạo, hoa màu lương thực có ý nghĩa trong việc cung cấp một

phần lương thực cho con người, là cơ sở thức ăn cho gia súc cũng như nguyên
liệu ở mức độ nhất định, và cho cả công nghiệp chế biến. Trong các cây hoa
màu lương thực, ngô được đáng chú ý hơn cả, khoai lang là cây màu trồng luân
canh với lúa vào vụ đông xuân trên đất pha cát, trong khi diện tích trồng sắn
giảm mạnh.
Rau nhiệt đới phổ biến trên phạm vi cả nước, các loại rau cận nhiệt và ôn
đới phân bố ở các vùng núi và cao nguyên. Các vùng trồng cây thực phẩm đã, và
đang được hình thành và phát triển đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của nội địa,
nhất là các loại rau sạch.
• Ngành trồng cây công nghiệp.
Cây công nghiệp còn được gọi là cây kỹ thuật để chỉ mục đích và tính chất
nhằm cung cấp nguyên liệu cho chế biến nông sản
Ở nước ta cây công nghiệp được chia làm hai nhóm:
- Nhóm cây hàng năm, hay cây ngắn ngày. Có chu kì từ lúc gieo trồng
đến khi thu hoạch dưới 1 năm như: đay, cói, bông. Lạc, mía, thuốc lá, đậu
tương…
- Nhóm cây lâu năm, gọi chung là cây dài ngày. Có chu kì kinh doanh
dài, trồng 1 lần nhưng thu hoạch (nhựa, lá, quả) nhiều năm như: cao su,
che, cà phê, ca cao, hồi, quế…Từ đây lại chia làm hai phân kì: phân kì kiến
thiết cơ bản ( từ lúc trồng cho tới lúc cho sản phẩm) và phân kì kinh doanh
(từ khi cho sản phẩm trở đi) cây ăn quả cũng được xếp vào nhóm này.
• Ngành trồng cây ăn quả.
Trồng cây ăn quả là một ngành được phát triển từ lâu, nhưng trước đây quy
mô còn rất hạn chế. Nước ta có nhiều điều kiện và tiềm năng để phát triển các
loại cây ăn quả,tuy nhiên sự phát triển của ngành vẫn còn chậm và thiếu ổn
định.
b. Ngành chăn nuôi
• Chăn nuôi gia súc lớn.
Trang 10
Là phân ngành quan trọng nhất trong chăn nuôi nói chung. Các gia súc lớn

được nuôi là: trâu, bò, ngựa, có cả thuần dưỡng voi. Trong đó, chăn nuôi trâu bò
có vị trị hàng đầu. Sức kéo của các gia súc lớn (trâu, bò, ngựa) đã, đang và vẫn
tiếp tục giữ vai trò quan trọng đối với nông nghiệp. Bò là vật nuôi không chỉ cho
sức kéo mà cũng cung cấp cho ta nguồn thịt, sữa chất lượng phục vụ cho nhu
cầu của người dân. Ngựa được nuôi nhiều ở miền núi để lấy sức kéo phục vụ
cho sản xuất cũng như trong việc vận chuyển người và hàng hóa.
• Chăn nuôi gia súc nhỏ
Gia súc nhỏ bao gồm: lợn, dê, cừu trong đó lợn được quan tâm đầu tư chăn
nuôi hơn cả.trong đó chăn nuôi lợn lấy thịt là ngành quan trọng nhất. ngoài việc
lấy thịt ra, thì ngành chăn nuôi lợn còn giúp chúng ta tận dụng được nguồn lao
động cho các ngành phụ trợ, tăng thu nhập cho nông dân và giải quyết 1 phần
hưu cơ cho nông nghiệp. Dê, cừu là tiểu gia súc được nuôi ở những vùng có điều
kiện thuận lợi. Dê mắn đẻ, dễ tăng đàn, chất lượng thịt sữa ngon, ít tốn thức ăn,
nuôi chăn thả và có hiệu quả kinh tế cao. Cưu được nuôi để lấy lông làm chủ
yếu, nhưng ở nước ta, cừu nuôi có tính chất thử nghiệm nên hiệu quả mà ta đạt
được còn thấp.
• Chăn nuôi gia cầm.
Gia cầm gồm có: gà, vịt,ngan, ngỗng….Việc nuôi gia cầm 1 mặt tận dụng
được nguồn lao động phụ, phế liệu của ngành trồng trọt nên đem lại hiệu quả
kinh tế cao. Gà chủ yếu được nuôi trong gia đình cả ở đồng bằng, trung du, và
miền núi. Nuôi gà trong các xí nghiệp chăn nuôi lớn, theo phương pháp công
nghiệp để lấy thịt, trứng nên cũng đạt hiệu quả cao. Vịt tập trung ở đồng bằng
sông Cửu Long, ngan và ngỗng thì được nuôi chủ yếu ở các vùng tương đối cao
thuộc đồng bằng sông Hồng và duyên hải miền Trung.
c. Ngành lâm nghiệp .
Trang 11
Rừng là nguồn cung cấp gỗ và lâm sản cho nhu cầu của đời sống và sản
xuất. Đối với các vùng nùi lâm nghiệp còn là nguồn sống chủ yếu của đồng bào
dân tộc ít người. ngoài ra các mặt hàng lâm sản còn có giá trị sư dụng xuất khấu.
Nguồn tài nguyên rừng có sự biến động rất mạnh về số lượng theo cả hai

chiều hướng tích cực và tiêu cực. Có 7 kiểu rừng chủ yếu đó là: rừng lá rộng
thường xanh và nửa rụng lá là loại rừng bị giảm diện tích nhanh nhất; rừng rụng
lá có xu hướng tăng; rừng lá kim giảm và rừng ngập mặn giảm mạnh; rừng chua
phèn và rừng tre nứa có xu hướng giảm; rừng hỗn giao giữa gỗ và tre nứa tăng;
rừng đặc sản giảm mạnh.
Tuy nhiên rừng trồng có xu hướng ngày càng tăng lên rõ rệt. Số rừng này
phong phú về chủng loại cây, đa dạng về mục đích. Thực hiện quá trình tăng
diện tích rừng trồng gắn liền với những chính sách khuyến lâm của chính phủ
tương đối hiệu quả, đặc biệt la giao đất, giao rừng cho các hộ nông dân.
Việc khai thác, chế biến gỗ và lâm sản nhìn chung phát triển không ổn định.
Cơ cấu rừng kinh doanh của nước ta bao gồm: rừng gỗ phục vụ cho xây dựng cơ
bản, rừng nguyên liệu giấy, rừng gỗ trụ mỏ, rừng tre nứa cho nhu cầu xây dựng,
rừng đặc sản ( thông nhựa, quế hồi, cánh kiến ), rừng gỗ gia dụng và lấy củi.
d. Ngành ngư nghiệp .
Cùng với các ngành kinh tế khác, ngư nghiệp có vai trò nhất định trong nền
kinh tế quốc dân nói chung và đời sống hàng ngày của nhân dân nói riêng. Tầm
quan trọng của nó được thể hiện ở việc tham gia vào cơ cấu bữa an với thực
phẩm có chất lượng cao về dinh dưỡng. đóng góp vào nền kinh tế, tạo ra mặt
hàng xuất khẩu và góp phần giải quyết việc làm cho 1 bộ phận lao động của xã
hội
• Đánh bắt hải sản
Việc đánh bắt hải sản hiện nay tập trung vào các ngư trường thuộc các vùng
biến vịnh Bắc Bộ, Trung Bộ, Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ. Vịnh Bắc Bộ là vùng
biển có nguồn lợi hải sản phong phú và thuận lợi cho việc đánh bắt. Độ sâu
trung bình là 50m, tập trung nhiều đảo trong đó có Đảo Cát Bà và Bạch Long Vĩ
Trang 12
với tư cách như 2 trung tâm khai thác chính. Vùng biển ở Trung Bộ có thềm lục
địa hẹp nên hầu như việc khai thác chủ yếu tập trung ở ven biển. So với các
vùng khác thì tiềm năng ở đây hạn chế hơn. Vùng biển ở Đông Nam Bộ giàu
tiềm năng nhất với phần lớn diện tích có độ sâu dưới 60m. Vùng biển ở Tây

Nam Bộ có độ sâu trung bình là 50m, thềm lục địa tương đối rộng.
• Nuôi trồng thủy sản
Nghề nuôi tròng thủy sản liên quan chặt chẽ với diện tích mặt nước. Diện
tích nuôi trồng thủy sản chủ yếu tập trung ở Đồng bằng Sông Cửu Long, tiếp
theo là đồng bằng sông Hồng. Ở các vùng còn lại, diện tích không đáng kể.
Thủy sản nuôi trồng bao gồm: cá, tôm, nhuyễn thể, rong biển ở các vùng
nước ngọt, nước lợ và nước mặn. Cá là loài thủy sản được nuôi đại trà có sản
lượng lớn nhất.
I.6 Những nội dung cơ bản thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa
nông nghiệp nông thôn.
Một là, chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo
hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao, gắn với công nghiệp và chế biến thị
trường, phát triển mạnh chăn nuôi với tốc độ và chất lượng cao hơn; xây dựng
các vùng sản xuất hàng hóa tập trung gắn với chuyển giao công nghệ sản xuất,
bảo quản và chế biến; khắc phục tình trạng sản xuất manh mún, lạc hậu. Thực
hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, đưa nhanh tiến bộ khoa học kĩ thuật
và công nghệ sinh học vào sản xuất, nâng cao năng suất, nâng cao chất lượng
cùng sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp phù hợp với đặc điểm của từng
vùng, từng địa phương.
- Tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công
nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp
- Sớm khắc phục tình trạng manh mún về đất canh tác, của các hộ nông
dân, khuyến khích việc “ dồn điền đổi thửa”, cho thuê, góp cổ phần bằng
đất, phát triển các khu nông nghiệp công nghệ cao, vùng trồng trọt và chăn
Trang 13
nuôi tập trung, doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ gắn với hình thành các
ngành nghề, làng nghề, hợp tác xã, trang trại, tạo ra những sản phẩm có
chất lượng và hiệu quả kinh tế cao.
Hai là, thực hiện tốt chương trình bảo vệ và phát triển rừng, đổi mối chính
sách giao đất, giao rừng, bảo đảm lợi ích cho người dân làm nghề rừng có cuộc

sống ổn định và được cải thiện. phát triển rừng nguyên liệu gắn với công nghệ
chế biến lâm sản với công nghệ hiện đại.
Ba là, phát triển đồng bộ và có hiệu quả nuôi trồng, đánh bắt, chế biến và
bảo vệ nguồn lợi thủy sản. Coi trọng khâu sản xuất và cung cấp giống tốt, bảo vệ
môi trường, mở rộng thị trường trong nước và xuất khẩu.
Bốn là, tăng cường các hoạt động khuyến nông, khuyến công, khuyến lâm,
khuyến ngư, công tác thú y, bảo vệ thực vật và các dịch vụ kỹ thuật khác ở nông
thôn.
- Chuyển giao nhanh và ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ, nhất là
công nghệ sinh học vào sản xuất nông nghiệp; chú trọng các khâu giống, kĩ
thuật canh tác, nuôi trồng, công nghệ sau thu hoạch và công nghệ chế biến.
- Tăng đầu tư từ ngăn cản nhà nước, và đa dạng hóa các nguồn vốn để
tiếp tục đầu tư phát triển mạnh hơn cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội nông thôn
ưu tiên nâng cấp và xây dựng mới các hệ thống thủy lợi đồng bộ, đi đôi với
đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lí để đảm bảo an toàn về nước. Củng cố
hệ thống hồ đập, kè ven sông, ven biển; nâng cấp các hệ thống cảnh báo,
chủ động phòng chống lũ lụt và giảm nhẹ thiên tai, bảo vệ môi trường
nước. Tiếp tục đầu tư phát triển giao thông nông thôn, bảo đảm các xã đều
có đường ôtô tới thôn bản; bảo đảm hơn 90% số dân cư nông thôn có điện
sinh hoạt, hơn 75% số dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch.
- Rà soát bổ sung, điều chỉnh chính sách về đất đai, thuế, tín dụng, đầu
tư… nhằm hỗ trợ và tạo điều kiện việc hình thành các khu và cụm công
nghiệp, cụm làng nghề ở nông thôn để thu hút các cơ sở sản xuất công
Trang 14
nghiệp và kinh doanh dịch vụ sử dụng nhiều lao động và nguồn nguyên liệu
từ nông - lâm - thủy sản.
Năm là, khẩn trương xây dựng các quy hoạch phát triển nông nghiệp, thực
hiện chương trình xây dựng nông thôn mới.
- Xây dựng các làng xã, ấp, thôn, bản có cuộc sống no đủ môi trường
lành mạnh. Tiếp tục đầu tư nhiều hơn cho chương trình xóa đói giảm

nghèo, trợ giúp thiết thực cho các vùng và cộng đồng dân cư còn nhiều khó
khăn, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, phát triển hệ thống khuyến
nông, nâng cao dân trí và có chính sách tín dụng cho người nghèo từng
bước vượt qua khó khăn, thoát nghèo và nâng mức sống 1 cách bền vững.
- Hình thành các khu dân cư đô thị hóa với kết cấu hạ tầng, kinh tế xã
hội đồng bộ như: thủy lợi, giao thông, điện, nước sạch, cụm công nghiệp,
trường học, trạm y tế, bưu điện, chợ
- Phát huy dân chủ ở nông thôn đi đôi với việc xât dựng nếp sống văn
hóa, nâng cao trình độ dân trí, bài trừ các tệ nạn xã hội, hủ tục, mê tín dị
đoan; đảm bảo an ninh, trật tự an toàn xã hội.
Sáu là, chú trọng giải quyết việc làm cho nông dân, trước hết ở các vùng sử
dụng đất nông nghiệp để xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ, giao
thông, các khu đô thị mới.
- Chuyến dịch cơ cấu lao động ở nông thôn theo hướng giảm nhanh tỉ
trọng lao động làm nông nghiệp, tăng tỉ trọng lao động làm công nghiệp và
dịch vụ.
- Đầu tư mạnh hơn để hoàn thành cơ bản chương trình kiên cố trường
học, thực hiện chăm sóc sức khỏe cộng đồng tốt hơn; thực hiện ngày càng
có nề nếp và chất lượng về quy chế dân chủ ở nông thôn; đẩy mạnh phong
trào xây dựng làng xã văn hóa cơ sở giữ gìn và phát triển truyền thống tốt
đẹp của dân tộc ta.
Trang 15
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN
2.1 Thực trạng công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp nông
thôn
a/ Những thành tựu đạt được
Khu vực nông nghiệp nông thôn chiếm 90% diện tích tự nhiên và 73,03 %
dân số cả nước. Đến năm 2005 dân số nông thôn là 60,7 triệu dân. Nông thôn là
nơi sản xuất lương thực, là nơi cung cấp các nguồn nguyên liệu từ nông – lâm –
ngư nghiệp cho các ngành công nghiệp chế biến. Khu vực nông nghiệp nông

thôn thu hút tới 2/3 lực lượng lao động xã hội và là nguồn lao động thu nhập chủ
yếu của 70,03% dân nông thôn sinh sống, đang và sẽ có vai trò quan trọng trong
nền kinh tế quốc dân. Sau những năm đổi mới, chúng ta đã thu được một số kết
quả nổi bật, làm tiền đề cho công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp nông
thôn.
Kinh tế của khu vực nông thôn có sự tăng trưởng và đóng góp ngày một
lớn hơn cho nền kinh tế cả nước. Nông nghiệp đã đạt được mức độ tăng trưởng
GDP ở mức khoảng 5- 6%/ năm (thời kì 1996-2000 đạt 6,1% năm, thời kì 2001-
2005 khoảng 6% năm). Giá trị sản lượng toàn ngành nông - lâm – ngư nghiệp
tăng 5,6% năm, trong đó nông nghiệp tăng 5,4% năm (chỉ tiêu đại hội Đang toàn
quốc lần thứ IX đề ra là 4,8% năm); cây công nghiệp tăng 10%; lương thực tăng
4,2- 4,3%, chăn nuôi tăng 5,4%; thủy sản tăng 9,1%; lâm nghiệp tăng 2,1%.
Tính đến năm 2003, vùng nông thôn đóng góp khoảng 30% GDP cả nước, 84%
giá trị gia tăng nông nghiệp, 16% giá trị tăng công nghiệp, 13% giá trị gia tăng
dịch vụ cả nước. Tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản năm 2004 đạt
gần 7 tỷ USD, tăng 1,5 lần so với năm 2000, trong đó nông lâm sản tăng gần 1,5
lần, thủy sản tăng 1,6 lần. Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu đạt sản lượng và
giá trị lớn như: gạo, cà phê, cao su, hạt điều. Đặc biệt, xuất khẩu đồ gỗ gia dụng
và lâm sản tăng mạnh, đạt hơn 1,2 tỉ USD tăng gấp 3,3 lần so với năm 2000.
Ngành kinh tế của khu vực nông thôn nổi bật nhất là nông nghiệp đã có
những thay đổi theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Trong nông nghiệp,
Trang 16
sản lượng lương thực không ngừng tăng, bình quân mỗi năm tăng 1,1 triệu tấn.
Cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn đã có những bước chuyển dịch tích
cực theo hướng đẩy mạnh sản xuất các loại nông sản hàng hóa có nhu cầu thị
trường và có giá trị kinh tế cao. Tiếp tục đảm bảo tốt an ninh lương thực quốc
gia, tuy diện tích trồng lúa giảm (khoảng hơn 300 nghìn ha) để chuyển sang nuôi
trồng thủy sản và các cây trồng khác có giá trị cao hơn, nhưng sản lượng lương
thực vẫn tăng từ 34,5 triệu tấn (năm 2000) lên 39,12 triệu tấn (năm 2004). Trong
đó sản lượng lúa tăng 32,5 lên 35,8 triệu tấn. Năm 2005, sản lượng lương thực

đạt 37,5 triệu tấn. Sản lượng lương thực bình quân đầu người tăng từ 284,9
kg(năm 1990) lên 463 kg (năm 2005). Chúng ta đã có đủ lương thực chi dùng
trong nước, có dự trữ và trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Hàng
năm vẫn xuất khẩu khoảng 3,5- 4 triệu tấn gạo. Năm 2003, xuất khẩu 3,8 triệu
tấn gạo, năm 2005 xuất khẩu 4 triệu tấn gạo.
Hình thành nhiều vùng sản xuất nông lâm nghiệp thủy sản hàng hóa quy
mô lớn và tham gia xuất khẩu cả ở khu vực đồng bằng và trung du, miền núi
cũng như các vùng sản xuất lương thực tập trung ở Đồng bằng sông Cửu Long
và Đồng bằng sông Hồng, các vùng nuôi trồng thủy sản ven biển, các trung tâm
dịch vụ nghề cá ở các vùng đồng bằng ven biển, các vùng cây công nghiệp hàng
hóa xuất khẩu cà phê, cao su, điều, dâu tơ tằm ở Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và
chè, quế, hồi ở trung du miền núi phía Bắc. Vùng cây ăn quả trước đây mới
được hình thành ở đồng bằng ven biển và đồng bằng sông Cửu Long nay đã phát
triển ở các vùng trung du miền núi.
Sản xuất cây công nghiệp, cây ăn quả có sự điều chỉnh mạnh mẽ theo nhu
cầu thị trường để xuất khẩu và thay thế hàng nhập khẩu, hình thành một số vùng
sản xuất hàng hóa tập trung gắn với công nghiệp bảo quản, chế biến. Diện tích
và sản lượng cây công nghiệp tăng nhanh so với năm 2000, cao su diện tích tăng
9,5%, sản lượng tăng 367,6%; hồ tiêu diện tích tăng 83,2%, sản lượng tăng
87,8%; hạt điều diện tích tăng 44,3%, sản lượng tăng 205,3%; chè diện tích tăng
35,3%, sản lượng tăng 54,9%; diện tích cây ăn quả tăng gần 1,4 lần; bông vải
diện tích tăng 42,5%, sản lượng tăng gần 57,4%; đậu tương diện tích tăng
Trang 17
47,1%,sản lượng tăng 62,2%. Các loại cây công nghiệp có lợi thế xuất khẩu hầu
hết đều tăng về diện tích, sản lượng và kim ngạch xuất khẩu.
Chăn nuôi tăng bình quân 10% năm; tỷ trọng giá trị chăn nuôi trong
những nông nghiệp tăng từ 19,3% lên 21,6%. Đàn bò, nhất là bò sữa tăng nhanh,
đạt 95 nghìn con, sản lượng sữa tươi tăng 3 lần. Sản lượng nuôi trồng thủy sản
tăng 2 lần., sản lượng khai thác tăng 1,2 lần.
Công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản và ngành nghề nông thôn, giá trị

sản xuất công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản tăng trưởng bình quân 12-14%
năm. Sản xuất tiểu thủ công nghiệp và các ngành nghề nông thôn tăng bình quân
15% năm. Hiện cả nước có 2971 làng nghề, khoảng 1,35 triệu cơ sở ngành nghề
nông thôn, với khoảng 1,4 triệu hộ, thu hút hơn 10 triệu lao động (trong đó có
khoảng 1,5 năm triệu người làm hàng mỹ nghệ)
Cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng tăng dần tỉ trọng công
nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp. Năm 2004 trong tổng GDp
của cả nước, tỷ trọng nông lâm nghiệp và thủy sản đã giảm từ 24,53% xuống
còn 21,76%; lao động nông nghiệp giảm từ 59,04% xuống còn 57,9%, lao động
công nghiệp, tiều thủ công nghiệp chiếm khoảng 17%, dịch vụ chiếm 25,1%.
Năm 2003, hộ thuần nông đã giảm còn 68,8%, hộ kiêm nghề tăng lên, chiếm
12,7 % và phi nông nghiệp chiếm 18,4%. Nguồn thu của các hộ nông dân từ
nông lâm ngư nghiệp chiếm 77,5%; công nghiệp, xây dựng và dịch vị nông thôn
đã tăng lên, chiếm 22,5% tổng thu.
Trình độ khoa học công nghệ trong sản xuất nông nghiệp, thủy sản từng
bước được nâng cao theo hướng sử dụng giống mới, công nghệ sinh học,
phương thức canh tác tiên tiến để nâng cao năng suất, chất lượng nông sản thủy
sản. Đến nay, có hơn 90% diện tích trồng lúa, 80% diện tích trồng ngô, 60%
diện tích mía, 100% diện tích trồng điều được sử dụng giống mới. Công nghệ sử
dụng mô hom được đưa nhanh vào sản xuất giống cây rừng, nên năng suất chất
lượng rừng được cải thiện. Ngành thủy sản đã sản xuất và đưa vào sản xuất một
số loại thủy sản có giá trị kinh tế cao. Nhiều khâu trong sản xuất nông nghiệp
được cơ giới hóa như: tưới nước, tuốt lúa, xay xát đạt hơn 80%, vận chuyển làm
Trang 18
đất đạt hơn 60%. Trong ngành thủy sản, tổng công suất tàu thuyền đánh bắt đạt
hơn 4 triệu sức ngựa, một số cơ sở nuôi trồng thủy sản được trang bị các thiết bị
máy móc bảo đảm công nghệ nuôi trồng thủy sản tiên tiến.
Doanh nghiệp tư nhân tăng nhanh, năm 2004 có 15600 doanh nghiệp tư
nhân đang hoạt động trên địa bàn nông thôn, bình quân 1 doanh nhân thu hút
khoảng 20 lao động, đang là nhân tố quan trọng trong phát triển nông thôn.

Nông thôn có những bước phát triển khá nhanh. Nhiều công trình thủy lợi
đã hoàn thành và đưa vào hoạt động. góp phần chuyển dịch cơ cấu sản xuất,
thâm canh tăng năng suất cây trồng đã đảm bỏa tưới cho 90% diện tích trồng
lúa, hàng vạn ha hoa màu, cây công nghiệp và cây ăn quả. Hệ thống đê điều
được củng cố. Đến nay đã có 98% số xã có đường ôtô tới khu trung tâm, hơn
90% số xã có điện, gần 88% số hộ nông dân được sử dụng điện. Số thuê bao
điện thoại ở nông thôn tăng nhanh đạt 4 máy/ 100 dân (cả nước là 12,56 máy/
100 dân); 58% số dân nông thôn được sử dụng nước sach, xây mới 501 chợ, góp
phần giảm bớt khó khăn về tiêu thụ nông sản cho nông dân.
Quan hệ sản xuất ở nông thôn có biến đổi vể chất, tạo điều kiện giải
phóng và phát triển lực lượng sản xuất ở nông thôn. Các hợp tác xã cũ được tổ
chức lại theo luật hợp tác xã mới. Nông lâm trường quốc doanh có nhiều cải tiến
mạnh mẽ theo hình thức khoán vườn cây, đoàn gia súc cho công nhân bước đầu
có hiệu quả. Thành lập mới 524 hợp tác xã nông nghiệp, chủ yếu hoạt động theo
hướng dịch vụ, tiêu thụ sản phẩm, hiện có hơn 10 nghìn hợp tác xã nông thôn
(9255 hợp tác xã nông nghiệp, hơn 500 hợp tác xã thủy sản, 800 qũy tín dụng
nhân dân ) và hàng trăm nghìn tổ kinh tế hợp tác. So với năm 2000, số hợp tác
xã hoạt động có lãi tăng từ 32% lên 35%, số hợp tác xã yếu kém giảm từ 22%
xuống còn 10%. Hiện nay cả nước ta có tới 11,5 vạn trang trại chủ yếu ở trung
du miền núi. Đây là mô hình sản xuất mới theo hướng sản xuất hàng hóa, có
nhiều triển vọng. Đời sống của đại bộ phận nông dân được cải thiện. Số hộ nông
dân có nhà ở kiên cố, có tivi, radio, xe đạp, xe máy,quạt điện…tăng lên nhiều.
Số hộ nghèo giảm ( khoảng 2-3% năm). Đến năm 2003, thu nhập bình quân của
nông dân tăng khoảng 2 lần so với năm 1995.
Trang 19
Công tác xóa đói giảm nghèo: tỷ lệ hộ đói nghèo ở nông thôn giảm từ
19% năm 2000, xuống còn 11% năm 2004. Điều kiện về nhà ở,đi lại, học tập,
chữa bệnh được cải thiện tốt hơn. Nhiều làng xã trở thành làng văn hóa, có kinh
tế phát triển, đảm bảo môi trường sinh thái, văn hóa truyền thống mang đậm đà
bản sắc dân tộc, trình độ dân trí được nâng cao.

b/ Những hạn chế và thách thức của vùng nông thôn trong quá trình thực
hiện Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa .
Diện tích đất canh tác ít, nhất là đất nông nghiệp: nếu tính cho 1 nhân
khẩu nông nghiệp thì chỉ đạt mức 0,16 ha, thấp hơn nhiều so với trung bình thế
giới (0,59 ha/ người) và mức trung bình châu Á (0,26 ha/người). Tình trạng
không có đất nông nghiệp phát triển tồn tại hầu như ở tất cả các vùng, chẳng hạn
ở đồng bằng sông Hồng năm 1993 có 3,2% số hộ nông dân không có đất canh
tác thì đến 2002, con số đó là 19%. Sản xuất kinh tế hộ gia đình là chủ yếu,
trong đó chủ yếu là quy mô nhỏ, sản xuất nhỏ lẻ phân tán, rất hạn chế việc thu
mua hàng hóa. Đây là một khó khăn và thách thức lớn trên con đường phát triển
nông nghiệp nông thôn đi tới công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm: nông nghiệp chiếm tới 70%, trong đó
ngành trồng trọt chiếm tới trên 70% trong cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp.
Công nghiệp và dịch vụ nông thôn chưa phát triển. Phần lớn nông phẩm bán ra
thị trường dưới dạng thô hoặc sơ chế, giá trị sản phẩm thấp nên người nông dân
bị thua thiệt.
Trình độ khoa học công nghệ kĩ thuật trong nông lâm ngư nghiệp còn thấp
và rất thiếu thông tin thị trường (chỉ khoảng 25% số nông dân được tiếp cận
thông tin qua báo chí và hội chợ). Việc ứng dụng khoa học công nghệ chưa được
nhiều. Năng suất cây trồng, vật nuôi nói chung còn thấp, chỉ bằng khoảng 30
-35% so với các nước tiên tiến. Công nghệ kĩ thuật, đăc biệt là công nghệ chế
biến còn sử dụng nhiều thiết bị cũ, lạc hậu, tiêu tốn nhiều năng lượng, giá thành
sản phẩm cao, chất lượng sản phẩm còn thấp. Tỷ lệ cơ giới hóa khâu làm đẩt
mới chỉ đạt khoảng 30% diện tích gieo trồng. Công nghệ bảo quản sau thu
Trang 20
hoạch, công nghệ chế biến và ngành nghề kém phát triển. Đến nay công nghiệp
mới chế biến được 60% sản lượng chè, 30% sản lượng mía, 1% sản lượng thịt.
Tỷ lệ hao hụt sau thu hoạch lúa khoảng 13%, của rau quả trung bình khoảng
20%. Hầu hết các sản phẩm nông lâm ngư nghiệp còn được xuất khẩu dưới dạng
thô, chưa qua chế biến hoặc chế biến đơn giản.

Thị trường tiêu thụ hàng hóa nông sản gặp nhiều khó khăn, khả năng cạnh
tranh của hàng hóa nông sản kém. Ví dụ: giá gạo của ta thường thấp hơn giá gạo
của Thái Lan từ 40 – 85 USD/ tấn.
Lao động nông nghiệp dư thừa nhiều: hiện có khoảng 7-8 triệu lao động
nông nghiệp hiện không có việc làm (xét theo nghĩa thất nghiệp tương đối) tập
trung ở nông thôn các đồng bằng, lao động ở nông thôn, tính bình quân chỉ sử
dụng 70% quỹ thời gian.
Kết cấu cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống một số vùng còn yếu
kém. Đến nay vẫn còn 600 xã chưa có đường ôtô tới trung tâm, 50% đường cấp
xã và 30% đường cấp huyện ô tô không thể đi lại được vào mùa mưa.
Còn nhiều tiềm năng đất đai, lao động tài nguyên rừng, biển chưa khai
thác. Đây là một yếu kém và cũng là một cơ hội để phát huy cho giai đoạn sắp
tới. Hiện nay còn khoảng trên 400 nông trường quốc doanh quản lý trên 800
nghìn ha, khoảng 400 lâm trường quản lý 4,7 triệu ha đất với khoảng 300 nghìn
lao động. Nhưng hoạt động của các nông, lâm trường lại chưa hiệu quả, không
tương xứng với tiềm năng đất đai, lao động, vốn và công nghệ đã đầu tư. Tuy
nhiên những tiềm năng lớn này nếu biết quản lý tốt và có những chính sách phù
hợp thì chính là điều kiện phát huy nhanh trong giai đoạn tới.
Việc sắp xếp đổi mới doanh nghiệp và phát triển các thành phần kinh tế
còn chậm. Hiệu quả hoạt động doanh nghiệp nhà nước còn thấp. Doanh nghiệp
tư nhân là nhân tố quan trọng phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tê, cơ cấu
lao động ở nông thôn, nhưng quy mô nhỏ vẫn chủ yếu là dịch vụ (chỉ có 5% liên
quan tới sản xuất) và chỉ phát triển mạnh ở khu vực ven đô thị, hoặc nơi có kết
cấu cơ sở hạ tầng tương đối phát triển.
Trang 21
Đời sống một bộ phận nông dân, nhất là vùng sâu vùng xa rất còn nhiều
khó khăn. GDP bình quân đầu người ở khu vực nông thôn năm 2003 chỉ đạt
khoảng 3 triệu đồng một năm (chỉ bằng 40% trung bình cả nước và 14,5% của
thành thị). Hiện nay vẫn còn khoảng 95% người nghèo sống ở nông thôn,
khoảng 2,4 triệu hộ nông nghiệp với 12 triệu người thuộc diện nghèo, 300 nghìn

hộ thuộc diện thường xuyên thiếu ăn, khoảng 400 nghìn hộ du canh du cư hoặc
đã định cư nhưng vẫn du canh.
Mức chênh lệch giữa nông thôn và thành thị về mức sống ngày càng gia
tăng. Nếu áp dụng chuẩn nghèo mới dự kiến tỷ lệ nghèo cả nước là 26-27%,
riêng nông thôn lên tới 31%, miền núi lên hơn 50%, có nơi lên hơn 60% (vùng
Tây Bắc)…
Chỉ tiêu 1995 2000 2003 2005
1.Thành thị
Dân số (Triệu người) 14,9 18,7 20,5 21,8
GDP (Nghìn tỷ đồng) 143,9 300,5 426,2 574,9
GDP/người(Triệu đồng/người) 9,6 16 20,7 26,3
2. Nông thôn
Dân số (Triệu người) 57 58,8 60,3 60,6
GDP (Nghìn tỷ đồng) 85 141,1 179,4 217,6
GDP/người(Triệu đồng/người) 1,5 2,4 3,0 3,6
3.Chênh lệch TT và NT
Dân số (%) 26,1 31,8 34 36
GDP (lần) 1,7 2,1 2,4 2,6
GDP (lần) 6,4 6,7 7 7,3
Ô nhiễm môi trường: ở nông thôn do lạm dụng phân bón, hóa chất đã gây
ảnh hưởng đến môi trường và hệ sinh thái, gây nhiễm độc nguồn nước, thực
phẩm. 13 triệu ha đất bị suy thoái. Sức ép của sản xuất nông nghiệp và đẩy
mạnh nuôi tôm xuất khẩu đã làm cho diện tích rừng tràm và rừng ngập mặn ven
biển – loại rừng có ý nghĩa hết sức quan trọng về việc bảo tồn sinh học và cân
bằng hệ sinh thái bị phá hủy nghiêm trọng. Các làng nghề và phát triển công
nghiệp nhỏ một cách tự phát không có quy hoạch đã gây ô nhiễm không nhỏ đến
nguồn nước. 90% làng nghề và vùng đồng bằng sông Hồng đang tròg tình trạng
ô nhiễm nặng chưa có biện pháp sử lý. Ở vùng núi do khai thác quá mức nên tỷ
Trang 22
lệ che phủ rừng chỉ còn 29%, vùng khó khăn như Sơn La, Lai Châu thì tỷ lệ này

chỉ còn là 10%. Tốc đô phá rừng rất lớn, diện tích rừng mất khoảng 28% năm,
sau 20 năm diện tích rừng chỉ còn 37% và trữ lượng chỉ còn 20%. Lượng đất bị
rửa trôi hàng năm là 120 – 150 tấn/ha. Vùng biển: các cửa sông ô nhiễm với
hàm lượng hydrocacbon dầu trong nước vượt từ 200- 2000 lần so với mức cho
phép. Hiện tượng nhiễm mặn nước ngầm khá phổ biến. Từ 1994 – 2003 có 40
vụ tràn dầu với khoảng 400 tấn, 7 vụ rò rỉ dầu làm thiệt hại hải sản. Khai thác
hải sản ven bờ cho phép 90 vạn tấn/ năm, đến nay đã khai thác tới 1,7 triệu
tấn/năm làm cạu kiệt tài nguyên, ảnh hưởng đến tài nguyên sinh thái hải sản.
2.2 Những giải pháp thực hiện và phát triển công nghiệp hóa hiện đại hóa
nông nghiệp nông thôn.
Rà soát lại quy hoạch sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản cho phù
hợp với yêu cầu thị trường trong nước và thế giới; phát huy khai thác được lợi
thế tự nhiên, kinh tế của từng vúng sinh thái; nâng cao khả nănh cạnh tranh của
từng loại nông sản, ngành hàng xuất khẩu mà ta có thế mạnh. Hình thành vùng
sản xuất tập trung, thâm canh gắn với công nghiệp chế biến. Khắc phục tình
trạng xây dựng cơ sở chế biến nhưng thiếu nguồn nguyên liệu sản xuất hay phát
triển vùng nguyên liệu nhưng chưa có nhà máy chế biến.
Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, tập trung vào các
khâu giống, kỹ thuật canh tác và chế biến sau thu hoạch, thú y, bảo vệ thực vật
và các dịch vụ kỹ thuật khác ở nông thôn. Phát triển giống cây trồng, vật nuôi có
năng suất cao, chất lượng tốt, góp phần giảm giá thành và tăng sức cạnh tranh
của nông sản. Tổ chức tốt mạng lưới khuyến nông cơ sở hướng dẫn nông dân
phát triển sản xuất theo quy hoạch, đưa chăn nuôi trở thành ngành sản xuất
chính, áp dụng các thành tựu khoa học kĩ thuật vào canh tác và chăn nuôi.
Ưu tiên phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ chuyển dịch cơ cấu sản xuất;
tăng đầu tư cho thủy lợi và công trình bổ sung nước ngầm để có đủ năng lực
khắc phục nhanh hạn hán, đảm bảo nhu cầu tưới tiêu cho nông nghiệp, cấp nước
cho công nghiệp dân sinh và nuôi trồng thủy sản. Tăng cường hệ thống cảnh
Trang 23
báo, dự báo thiên tai; xây dựng đồng bộ hệ thống phòng chống dịch gia súc, gia

cầm, nuôi trồng thủy sản. Nghiên cứu chuyển đổi sang phát triển các loại cây
con có yêu cầu thấp hơn ở những vùng khô hạn.
Phát triển ngành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn để tạo công ăn việc
làm, tăng thu nhập và góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, nhất là
doanh nghiệp vừa và nhỏ, các làn nghề.
Hỗ trợ phát xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế và kết cấu hạ tầng
xã hội ở nông thôn; đầu tư xóa đói giảm nghèo, trước hết là đối với miền núi,
vùng cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Tăng cường thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn bao
gồm: vốn ODA, FDI , vốn của các doanh nghiệp và của dân, ngân sách nhà
nước chỉ tập trung tại một số lĩnh vực chính: thủy lợi, giao thông, cung cấp nước
sạch, một số cơ sở về giống, nghiên cứu khoa học cơ bản, quan trọng.
Tiếp tục thực hiện chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần, huy
động mọi nguồn lực phát triển sảm xuất gắn với tổ chức lại sản xuất nông
nghiệp và kinh tế nông thôn.Hoàn thành việc sắp xếp và đổi mới tổ chức sản
xuất của các hệ thống nông, lâm trường quốc doanh. Đẩy nhanh việc giao đất,
giao rừng từ khu vực quốc doanh cho các thành phần kinh tế kinh doanh. Hoàn
thành cơ bản cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trong ngành nông nghiệp. Chú
trọng phát triển kinh tế trang trại; củng cố và phát triển khu vực hợp tác xã; tiếp
tục thực hiện đồn điền, đổi thửa. Đẩy mạnh xã hội hóa đầu tư trong lĩnh vực
nông, lâm nghiệp và thủy sản để giảm bớt áp lực đối với đầu tư nhà nước.
Phát triển thị trường tiêu thụ nông lâm nghiệp và thủy sản, làm cở sở cho
chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn có hiệu quả. Đồng
thời với việc phát triển thị trường nước ngoài, coi trọng phát triển thị trường
trong nước, tạo liên kết chặt chẽ giữa các vùng trong cả nước. Hỗ trợ phát triển
các hình thức liên kết giữa nông dân với các doanh nghiệp và nhà khoa học
trong việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm thông qua hợp đồng. Đầu tư phát triển thị
trường nông thôn.
Trang 24
Làm tốt công tác nghiên cứu dự báo thông tin thị trường cho nông dân và

doanh nghiệp. Tổ chức thực hiện thông suốt và có hiệu quả hệ thống thông tin
thị trường và sản xuất, bao gồm: thu nhập, phân tích, nghiên cứu, nhất là dự báo,
hướng dẫn cơ sở thực hiện. Xây dựng chiến lược phát triển thị trường, các thị
trường lớn, dài hạn và tin cậy. Tổ chức hoạt động tiếp thị có hiệu quả, xây dựng
các chợ bán buôn, bán lẻ, các cụm kho phù hợp với các vùng; thúc đẩy mạng
lưới khuyến nông, lâm nghiệp và thủy sản; khuyến khích các tổ chức dựa vào
cộng đồng và nhóm nông dân; cung cấp thông tin qua nhiều kênh, nhất là khu
vực có nông sản hàng hóa lớn, vùng sâu, vùng xa…
Tăng cường quản lí chất lượng sản phẩm. Rà soát, bổ sung, nghiên cứu
xây dựng các tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, quy định về nhãn mác sản phẩm.
Tổ chức thanh tra và kiểm tra chất lượng sản phẩm để bảo vệ người tiêu dùng và
giữ tín nhiệm hàng nông lâm nghiệp và thủy sản của Việt Nam xuất khẩu ra
nước ngoài.
Xây dựng chính sách bảo hiểm cho sản xuất nông nghiệp và nông thôn,
như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thiên tai, bảo hiểm khi bị rủi ro về giá do biến
động của thị trường. Có giải pháp kịp thời để giảm tác động của hội nhập đối
với lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn.
Chú trọng chăm lo đời sống việc làm cho nông dân vùng thu hồi đất nông
nghiệp để phục vụ công nghiệp hóa và đô thị hóa. Có cơ chế trả tiền đền bù đất
sản xuất nông nghiệp theo hướng dùng 1 phần tiền đèn bù để đào tạo, hỗ trợ, bồi
dưỡng kiển thức cho nữ nông dân và đào tạo nghề mới cho những nông dân trẻ.
Bãi bỏ chính sách hạn điền, đưa công cụ thuế và điều tiết mọi hoạt động
liên quan tới sử dụng đất.
Tăng cường đưa cán bộ về nông thôn để hỗ trợ phát triển công nghiệp
nông thôn, phát triển giáo dục cũng như dạy nghề cho nông dân.
Tổng kết để sửa đổi, bổ sung nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện dự á
trồng mới 5 triệu ha rừng, theo hướng trồng đa mục đích: vừa lấy gỗ vừa bảo vệ
môi trường sinh thái. Hoàn thành việc giao đất. giao rừng cho dân và cho các
thành phần kinh tế khác là chủ yếu. Nhà nước chỉ quản lí rừng đặc dụng, rừng
Trang 25

×