Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

hợp tác giữa các nước sản xuất và xuất khẩu gạo để giải quyết vấn đề bình ổn giá gạo xuất khẩu và tạo nguồn lợi chính đáng cho người nông dân trồng lúa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.66 KB, 19 trang )

Ngay từ khi cất tiếng khóc chào đời cho tới khi nhắm mắt xuôi tay, con
ngời có rất nhiều những nhu cầu cần đợc đáp ứng: nhà để ở, quần áo để mặc,
những trò chơi dể giải trí, sách vở để học hành .Nhng dù ở trong quá
khứ, hiện tại hay ở tơng lai thì có lơng thực dể sinh tồn vẫn là nhu cầu cơ bản
nhất, thiết yếu nhất của mỗi con ngời và của cả loài ngời. Bởi vì con ngời vẫn
có thể sống một cách hoàn toàn bình thờng mà chẳng cần đến những toà biệt
thự sang trọng, những bộ quần áo đắt đỏ, những trò giải trí xa xỉ .Nhng
chắc chắn là chúng ta sẽ chết nếu nh chúng ta không có lơng thực cho dù
chúng ta là kĩ s hay bác sĩ, là học sinh hay sinh viên, là ngời Việt Nam hay ng-
ời ấn ĐộVậy nên việc sản xuất và đảm bảo an ninh lơng thực quả là một
vấn đề quan trọng và rất đáng đợc quan tâm ở tất cả các quốc gia trên thế giới
đặc biệt là đối với các nớc nông nghiệp nh ấn Độ và Việt Nam Những nhà
xuất khẩu gạo hàng đầu của thế giới trong những năm gần đây. Là một sinh
viên của chuyên nghành ấn Độ học, tôi thực sự mong mỏi rằng việc tìm hiểu
vấn đề: Sản xuất và xuất khẩu gạo của ấn Độ từ sau cải cách kinh tế tháng 7
năm 1991 sẽ mang lại cho tôi những kiến thức sâu sắc về ngành Nông nghiệp
của ấn Độ nói chung và về lĩnh vực này nói riêng .
Tuy nhiên trong giới hạn một bài niên luận với độ dài 20 trang, sẽ rất
khó cho tôi nếu phải đề cập đến tất cả các lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu lúa
gạo của ấn Độ. Điều này chẳng khác gì cố gắng tóm tắt cuộc đời vinh quang
và sự nghiệp vĩ đại của một nhân vật lịch sử trong vòng ba dòng ngắn ngủi.
Vậy nên trong bài niên luận này, tôi xin đợc tập trung vao những vấn đề sau:
Chơng 1: Sản xuất và xuất khẩu gạo của ấn Độ trớc cải cách kinh
tế tháng 7 năm 1991
1.Khó khăn- thử thách
2.Giải pháp
3.Kết quả và hạn chế
Chơng 2: Sản xuất và xuất khẩu gạo của ấn Độ từ sau cải cách kinh
tế tháng 7 năm 1991
1.Đổi mới chính sách nông nghiệp của ấn Độ từ cải cách Kinh tế:
Nguyên nhân và chính sách


2.Những thành tựu của nghành sản xuất và xuất khẩu lúa gạo của ấn
Độ từ sau cải cách Kinh tế 7.1991.
3. Những mặt hạn chế của ngành sản xuất và xuất khẩu lúa gạo của
ấn Độ trong những năm gần đây .
Chơng 3 : Hợp tác giữa các nớc sản xuất và xuất khẩu gạo để giải
quyết vấn đề bình ổn giá gạo xuất khẩu và tạo nguồn lợi chính đáng cho
ngời nông dân trồng lúa.
I. Ch ơng 1: Sản xuất và xuất khẩu lúa gạo của ấn Độ từ sau cải
cách kinh tế tháng 7 năm 1991.
1.Khó khăn thử thách
Ngay sau khi giành đợc độc lập 194, ấn Độ buộc phải đối mặt với vô
vàn những khó khăn. Một trong số đó là làm sao có thể khắc phục đợc tình
trạng thiếu lơng thực và đảm bảo đợc vấn đề an ninh lơng thực cho một số dân
không nhỏ 350 triệu ngời mà số dân ấy lại đang tăng lên hàng ngày hàng giờ.
Để có thể thực hiện đợc nhiệm vụ nặng nề ấy, đối với chính phủ ấn Độ
lúc bấy giờ quả thực là một điều cực kì khó khăn. Bởi ngoài thuân lợi: ấn Độ
vừa giành đợc độc lập và hiện đang sở hữu một đồng bằng vào hàng rộng lớn
nhất Thế giới - đồng bằng châu thổ sông Hằng , với lợng phù sa ở hạ lu dày từ
600-800 m, thì ấn Độ đang đứng trớc rất nhiều khó khăn.
Thứ nhất: Diện tích đất phục vụ cho canh tác nông nghiệp của ấn Độ
rất thấp so với tổng diện tích lãnh thổ, vậy nên diện tích dành cho nghành
trồng lúa còn thấp hơn nhiều. Nhắc tới ấn Độ chắc có nhiều ngời ấn tợng với
một quốc gia rộng lớn với diện tích lãnh thổ 329 triệu km2 là nớc có diện
tích lớn nhất ở khu vực Nam á và lớn thứ bảy trên thế giới. Nhng diện tích dất
canh tác trong nông nghiệp sau ngày độc lập chỉ dừng lại ở mức 143 triệu km2
chiếm 43,5% tổng diện tích lãnh thổ.
Thứ hai : Hoạt động sản xuất lúa gạo của ấn Độ còn phụ thuộc rất
nhiều vào cơ chế hoạt động của gió mùa Tây nam yếu tố có vai trò quyết
định đối với khí hậu của ấn Độ. Gió mùa Tây Nam thổi từ vùng ấn Độ Dơng
tới đất liền vào mùa hạ ( nên còn đợc gọi là gió mùa mùa hạ), gió này mang

theo rất nhiều ma . Song sự phân bố ma lại không đồng đều đã tạo ra những
vùng khí hậu ẩm ớt và cả những vùng có khí hậu khô hạn. ở các sờn núi Gát
Đông và Gát Tây và ở vùng hạ lu của con sông Hằng ( những nơi trực tiếp đón
gió mùa mùa hạ) lợng ma tơng đối cao. Nên đây chính là địa bàn thuận lợi cho
việc trồng đay trồng , mía đặc biệt là cây lúa. Trái lại, ở các vùng nh Đông
Bắc, lu vực sông ấn và ở giữa cao nguyên Đêcan , lợng ma ít hơn rất nhiều .
Ngay ở trong mùa hạ - mùa ma, hạn hán vẫn thờng xuyên xảy ra gây thiệt hại
nghiêm trọng cho mùa màng. Trừ hai con sông lớn sông ấnvà sông Hằng, các
con sông của ấn Độ đều hiếm nớc. Do đó, năm nào gió mùa Tây Nam đến
muộn, vì thiếu nớc mà việc cày bừa cho vụ sau bị chậm lại, rơm cỏ cho súc vật
2
vì thế cũng khan hiếm. ở nhiều nơi, ngay cả nứoc phục vụ cho sinh hoạt của
nhân dân còn khó khăn do các mạch nớc ngầm bị cạn cả , cha nói gì đến nớc
phục vụ cho sản xuất nông nghiệp.
Thứ ba : Chế độ sở hữu ruộng đất của ấn Độ còn tồn đọng nhiều điểm
bất bình đẳng. Nông dân chiếm tới 85% dân số nhng chỉ nắm trong tay 15%
ruộng đất. Trong khi đó địa chủ chí chiếm 15% dân số nhng lại thâu tóm đến
85% tổng diên tích ruộng đất. Có thể nói chính chế độ sở hữu ruộng đất này
đã kĩm hãm sự phát triển của nghành sản xuất nông nghiệp của ấn Độ .
Thứ t : Trình độ sản xuất còn rất thô sơ và lạc hâụ. Phần lớn các công
việc đồng áng nh cày, bừa và làm đất đều sử dụng sức súc vật thậm chí ở nhiều
nơi vần còn dùng đến sức ngời. Mức độ sử dụng phân bón cũng rất thấp, phân
hoá học chỉ khoảng 3kg/ha trong khi đó nhiều quốc gia trên thế giới đã sử
dụng phân hoá học ở con số trên 100kg/ha, điển hình nh Nhật Bản tới
135,9kg/ha.
Chính những khó khăn ấy mà trong vòng gần hai trăm năm dới ách đô
hộ của thực dân Anh, những c dân đợc coi là may mắn sống sót đã phải đau
lòng trớc thảm cảnh nạn đói đe doạ và cớp đi sinh mạng của hạng chục triệu
ngời. Và cũng chính vì những lí do ấy mà sau ngày giành đợc độc lập, tuy là
một nớc nông nghiệp nhng hàng năm ấn Độ vẫn phải nhập một khối lợng l-

ơng thực khổng lồ để đảm bảo vấn đề an ninh lơng thực cho nớc nhà.
2. Giải pháp
Đứng trớc những trở ngại lớn nh vậy, ấn Độ đã thực hiện hàng loạt các
chính sách kinh tế nhằm phát triển nghành nông nghiệp nói chung và nghành
sản xuất lúa gạo nói riêng: Cải cách ruộng đất (1947-1954); ba lần kế hoạch 5
năm (1951-1966); và cuộc cách mạng xanh 1967.
Cải cách ruộng đất hay còn gọi là luật thay thế Daminda đợc bắt đầu
vào năm 1947 và kết thúc vào năm 1954 đợc đánh giá là bớc quan trong đầu
tiên trong chính sách kinh tế của chính phủ ấn Độ . Đã từ lâu trên lãnh thổ
của ấn Độ luôn tồn tại hai chế đọ sở hữu ruộng đất: Daminda và Raiyatvari.
Chế độ Daminda có từ thời trung đại: các chủ đất có quyềh thừa kế đất
đai và họ cũng phải thực hiện nghĩa vụ đóng thuế theo nh quy định.
Chế độ Yaiyatvari là chế độ thuế đất do thực dân Anh đặt ra từ thế kỉ
thứ XIX ở ấn Độ trong đó quyền sở hữu tối cao ruộng đất thuộc về nhà nớc
còn địa chủ và nông dân chỉ có quyền chiếm hữu theo chế độ lĩnh canh vô thời
hạn .
3
Hình thức Raiyatvari vẫn còn đợc bảo lu. Luật cải cách ruộng đất chỉ
tiến hành ở những vùng theo chế độ Daminda nên cải cách ruộng đất còn đợc
gọi là luật thay thế Daminda.
Ba năm sau thời điểm bắt đầu cuộc cải cách ruộng đất, ấn Độ tiến hành
liên tiếp ba lần kế hoạch 5 năm ( 1951-1956; 1956-1961; 1961-1966). Nội
dung chủ yếu của các giai đoạn nay là phát triển Nông nghiệp theo hớng
quảng canh . Vì ta cũng biết rất rõ là sau ngày độc lập nguồn dự trữ đất đai
của ấn Độ vẫn còn rất nhiều ( 143 triệu ha phục vụ cho sản xuất nông nghiệp
trong tổng số 329 triệu ha diên tích lãnh thổ). Đối với một nớc vừa mới dành
đợc độc lập nh ấn Độ nên kĩ thuật canh tác còn thô sơ lac hậu, thì hởng quảng
can lúc đó là phù hợp trong việc đa diện tích đất còn bỏ hoang vào canh tác.
Ngày 27.5.1964 J.Nehru ngời con vĩ đại của dân tộc ấn Độ, ngời đã
kiến tạo nớc ấn Độ mới, ngời bạn lớn của cac nớc đang phát triển đã qua đời

giai doạn ổn định tạm thời của tình hình trong nớc cũng chấm dứt. ấn Độ lâm
vào tình trạng khủng hoảng Kinh tế Xã hội trầm trọng. Tình trạng thiếu l-
ơng thực tiếp tục căng thẳng, đặc biệt là những năm 1965-1966. Theo báo cáo
của Bộ Lơng thực từ tháng 4 đến tháng 6.1966, có 52 triệu ngời ấn Độ bị chết
đói. Nhiều ngời do đói quá đã phải lấy lá cây, thậm chí giết cả bò cái đế ăn-
một việc làm mà cộng đồng những ngời ấn Độ giáo cho là tội lỗi và cấm kị.
Thời gian này ấn Độ cũng phải nhập một lợng lơng thực lớn từ 6,3 triệu tấn
năm 1965 đến 10,5 triệu tấn năm 1966.
Nh vậy việc phát triển Nông nghiệp theo hớng quảng canh không thể
đem lại hiệu quả lớn. Vậy nên vấn đề mấu chốt ở đây chính là làm sao nâng
cao đợc năng suất cây lúa . Ngay sau khi kế hoạch 5 năm lần thứ ba kết thúc
năm 1966, vào tháng 7. 1967 chính phủ ấn Độ đã quyết định đa nông nghiệp
và nghành xản xuất lúa gạo phát triển theo hớng thâm canh- nghĩa là phát
triển theo chiều sâu với nội dung chính là sử dụng giống cao sản.
3.Thành quả và hạn chế
Với một loạt cac chính sách kinh tế nhằm cải biến tình hình, nghành
sản xuất lúa gạo đã đạt đợc những kết quả đáng kể, tuy nhiên vẫn còn những
điểm hạn chế .
Luật thay thế Daminda cũng đã làm giảm đi phần nào số lợng nông dân
không có ruộng đất hoặc có ruộng đất nhng ở dới mức tối thiểu để có thể duy
trì nổi cuộc sống. Thêm vào đó, cuộc cải cách ruộng đất cũng có nhiều tác
động nhất định đối với sản xuất lúa gạo: phá vỡ những dàng buộc kiểu phong
kiến đồng thời cũng mở ra hàng loạt các quan hệ sản xuát và kinh doanh nông
4
nghiệp theo kiểu t bản chủ nghĩa, cho phép tiếp thu kĩ thuật mới, góp phần
nâng cao năng suất lao động và sản lợng lúa gạo.
Tuy nhiên cũng phải thẳng thắn nhìn nhận một điều rằng cải cách ruộng
đất cũng chỉ đơn thuần là một cuộc cải cách mang tính chất cải lơng: chỉ hạn
chế phần nào số lợng chủ đất chứ không xoá bỏ hoàn toàn chênh lệch về sở
hữu ruộng đất giữa địa chủ và nông dân

Bằng chứng là số nông dân không có ruộng đất vẫn tiếp tục tăng một
cách nhanh chóng. Trong vòng 10 năm( 1947-1957), ấn độ đã có thêm 37
triệu ngời không có ruộng đất. Theo điều tra năm 1981, có tới 160 triệu ngời
có sở hữu ruộng đất nhng ở dới mức sinh tồn ( nhỏ hơn 1 ha) và tới 140 triệu
dân không có ruộng đất để sản xuất.
Về ba lần kế hoach 5 năm, đã đem lại những kết quả khả quan cho
nghành sản xuất lúa gạo.: Tổng sản lợng lúa gạo tăng. Nhng cũng cần lu ý
rằng sự gia tăng ấy có đợc chủ yếu dựa vào chiến dịch mở rộng diện tích đất
canh tác( đa thêm 100,45 triệu ha đất khai hoang vào sản xuất), nghĩa là phát
triển trồng trọt theo hởng quảng canh- theo bề rộng , chứ không phát triển
theo hớng thâm canh- theo chiều sâu với tâm điểm là ứng dụng khoa học kĩ
thuật phục vụ cho sản xuất, sử dụng giống cao sản Cho nên tổng năng
xuất có tăng nhng thực chất năng suất lúa gạo trên một đơn vị diện tích vẫn
chẳng có gì thay đổi.
Có thể nói cuộc cách mạng xanh của nhân dân ấn Độ đã đóng vai trò
quyết định đến việc tăng sản lợng lúa gạo. Nếu nh trớc năm 1967, ấn Độ liên
tục phải nhập khẩu lúa gạo để đáp ứng cho nhu cầu ngày càng tăng của nhân
dân, thì đến đầu thập kỉ 80 ấn Độ đã tự túc đợc nguồn lúa gạo. Riêng sản lợng
lúa nớc trong vòng 40 năm ( 1950-1990) tăng gấp hơn 5 lần từ 20,6 triệu tấn
lên 111,8 triệu tấn lúa gạo. Chính cuộc cách mạng xanh đã đặt nền móng cơ
bản để ấn Độ trở thành một nớc xuất khẩu lúa gạo lớn của thế giới trong
những năm sau này.
Nhng cuộc cách mạng xanh vẫn còn những hạn chế: chỉ đợc triển khai ở
một số vùng có điều kiện thuận lợi nh vùng đồng bằng sông ấn Hằng ( bang
Punjap, Hairiana và một số bang khác). Vì những vùng này có các cơ sở hệ
thống thuỷ lợi, ngời nông dân giàu có hơn nên có vốn đầu t. Chính điểm hạn
chế này đã khiến sản lợng lúa gạo của ấn Độ vẫn cha đạt so với yêu cầu.
Ch ơng 2 : Sản xuất và xuất khẩu lúa gạo của ấn Độ từ sau cải cách
kinh tế tháng 7. 1991
1. Đổi mới chính sách nông nghiệp của ấ n Độ từ cải cách kinh tế .

5
a.Nguyên nhân
Đến cuối những năm 80 đầu những năm 90 có rất nhiều biến động xảy
ra trên thế giới: sự tan rã, sụp đổ của Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa ở
Đông Âu- Đây vốn là các nớc bạn hàng lớn và lâu năm của ấn Độ, thêm vào
đó là cuộc chiến tranh vùng vịnh đã đem đến cho nền kinh tế ấn Độ không ít
những điều bất lợi. Đặc biệt là có rất nhiều những khó khăn nảy sinh từ trong
nội tại của nền kinh tế ấn Độ: đó là sự kìm hãm về cơ chế quản lí, sở hữh nhà
nớc quá cao, sự can thiệp quá sâu của chính phủ vào các hoạt động kinh doanh
và cả sự hạn chế đối với t bản.
Tất cả những nguyên nhân chủ quan và khách quan kể trên đã biến ấn
Độ từ mô hình tự lực tự cờng không những trở thành một mô hình tự cấp tự
túc ( hạn chế quan hệ với bên ngoài, kìm hãm sự tăng trởng dẫn đến tình trạng
lạc hậu và thấp kém hơn hẳn so với các nền kinh tế khác trong khu vực châu á
nh hàn Quốc, Đài Loan và các nớc trong khối ASEAN) mà còn đa nền kinh tế
ấn Độ vào tình trạng khủng hoảng nặng nề.
Cuộc khủng hoảng kinh tế biểu hiện trên nhiều khía cạnh: hơn 30 triệu
dân ở trong tình trạng thất nghiệp; nợ nớc ngoài lên đến 70 tỉ USD; nguồn dự
trữ ngoại tệ tính cho đến tháng 5. 1991 chỉ còn vẻn vẹn 1 tỉ US D; Đầu t trung
bình chỉ đạt 100 triệu USD; thêm vào đó, sau vụ ấn Độ trục xuất hai công ty
Côcacôla và IBM ra khỏi lãnh thổ thì xem chừng không khí đầu t trực tiếp từ
nớc ngoài vào ấn Độ đã lắng hẳn xuống, nhiều nhà đầu t đã xa lanhs thậm chí
còn bỏ rơi ấn Độ để tìm nơi đầu t ở những quốc gia khác có triển vọng hơn.;
mức tăng GDP tụt xuỗng còn có 0,8% vào những năm tài hính 1991-1992;
lạm phát dâng cao, nhiều ngành công nghiệp gặp khó khăn, tình hình Xã hội
luôn căng thẳng và bất ổn.
Riêng về tình hình sản xuất lúa gạo, mặc dù ấn Độ đã tự túc đợc lúa
gạo từ những năm đầu của thập kỉ 80, sản lợng lúa tăng đáng kể, thậm chí còn
tích trữ đợc một lợng lúa gạo để xuất khẩu :
1980-1981 1984-1985

Giá trị gạo xuất khẩu (triệu rupi) 2.238,6 1.1619,9
Tỉ trọng lúa gạo trong cơ cấu hàng xuất
khẩu (%)
0,32 1,44
Nhng xét đến cùng, thì tỉ trọng của mặt hàng gạo trong cơ cấu hàng
xuất vẫn còn thấp hơn so với các mặt hàng khác nh: hàng dệt 13,9% năm
1980-1981 và 20,4% năm 1984-1985; hàng thủ công mĩ nghệ 13,94% năm
1980-1981 và 14,09% năm 1984-1985 Dù tình hình sản xuất lúa gạo có
khả quan hơn trớc nhng không có nhà kinh tế nào dám chắc sẽ không còn ngời
6
dân nào phải lấy lá cây hay giết bò cái để ăn thịt nh những năm 1965-1966,
nhất là khi nền kinh tế của ấn Độ đang rơi vào tình trạng khủng hoảng mà
tình hình xã hội lại căng thẳng trong khi dân số đang tăng lên vùn vụt.
Đứng trớc tình trạng đó, chính phủ ấn Độ do ông Narasimha Rao
(N.Rao) lãnh đạo, đã chủ trơng điều chỉnh chính sách. Thủ tởng N. Rao từng
nói rằng : Thế giới đã thay đổi, các nớc đều đã thay đổi và không có gì biện
minh nếu nh ấn Độ không thay đổi. Chúng ta phải điều chỉnh và có cách đề
cập thực tế, nhng chúng ta sẽ không bao giờ thay đổi những nguyên tắc và
những mục tiêu đó.
Để thực hiên đợc điều này, từ tháng 7.1991 ấn độ tiến hành một cuộc
cải cách kinh tế toàn diện- một cuộc chuyển đổi chiến lợc từ cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp và tự lực cánh sinh theo kiểu đóng cửa, tự cấp tự túc, thực
hiện trong suốt 4 thập kỉ từ cuối những năm 50 cho đến hết những năm 80 của
thế kỉ 20, sang chiến lợc tự do hóa và mở cửa thực hiện từ đầu những năm 90
nhằm tăng cờng sức sống cho nền kinh tế, tăng cờng hội nhập khu vực và quốc
tế trong một thế giới đang vận động mạnh mẽ sang thế kỉ thứ 21.
b. Chính sách cải cách trong nghành trồng lúa
Đối với một nớc nông nghiệp nh ấn Độ (khoảng 75% dân số kiếm kế
sinh nhai bằng nghề nông nghiệp), thì nghành trồng lúa luôn đóng vai trò
quan trọng. Với chủ trơng cải cách kinh tế toàn diện từ tháng 7.1991, Chính

phủ ấn độ chủ trọng phát triển nghành lúa gạo theo hai hớng chính : khuyến
khích đầu t vào sản xuất lúa gạo và thúc đẩy xuất khẩu lúa gạo. Từ hai hớng
này, ấn Độ thực hiện một loạt các chính sách sau :
ấn Độ chủ trơng tăng sản lợng lúa gạo nhằm phục vụ cho nhu cầu xuất
khẩu lẫn nhu cầu tiêu dùng của thị trờng trong nớc bằng hai cách . Thứ nhất,
tăng sản lợng lúa bằng cách mở diện tịch đất trồng lúa. ở ấn Độ diện tích đất
nông nghiệp lớn nhất thế giới nhng diện tích đất trồng lúa chỉ chiếm khoảng
31% diện tích đất phục vụ cho mục đích nông nghiệp. Thứ hai, tăng sản lợng
lúa bằng cách tăng năng suất lúa thông qua việc áp dụng khoa hoc kĩ thuật vào
sản xuất. Muốn vậy, ấn Độ đã tạo điều kiện thuận lợi để những ngời nông dân
đơc trang bị những kĩ thuật trồng lúa hiện đại đồng thời tiếp cận với cách sử
dụng cũng nh cách vận hành những thiết bị máy móc hiện đại phục vụ hữu
hiệu cho sản xuất. Nhà nớc cũng ban hành những chính sách u tiên cho
nghành trồng lúa điển hình nh điều chỉnh mức thuế nhập khẩu áp dụng cho
các thiết bị sử dụng trong lĩnh vực nông nghiệp trồng lúa. Đặc biệt gần đây, tổ
chức xúc tiến thơng mại của ấn Độ viết tắt là ITPO đã tổ chức hội chợ Krishi
7
Expo lần th t tại thủ đô New Dehli, nhằm giới thiệu những tiến bộ mới nhất
của ấn Độ trong lĩnh vực Nông nghiệp, những dụng cụ trồng lúa hiện đại nhất
đợc trng bày tại hội chợ. Hội chợ này cũng tập trung vào chủ đề tiếp thu công
nghệ trong các khu vực nông nghiệp thiết yếu nh nghành sản xuất lúa gạo.
Hội chợ thực sự là một diễn đàn hữu ích- nơi trao đổi và học hỏi kinh nghiệm
quý báu giữa những ngời trồng lúa . ( Theo ấn Độ toàn cảnh tháng 7 năm
2003).
Để đẩy mạnh xuất khẩu gạo, chính phủ ấn Độ đã công bố đầu t khoảng
11.470 triệu rupi cho 41 vùng xuất khẩu trải dài trên 17 bang. Trong đó đặc
biệt quan tâm đến các bang sản xuất lúa gạo lớn nhất: Hairiana, Punjap va
bang tây Bengan- bang có chất lợng gạo cao nhất. Đồng thời thông qua các
công ty đa quốc gia, ấn Độ khuyến khích đầu t nớc ngoài vào nghành trồng
lúa. Nguồn đầu t ấy bao gồm cả vốn và cả khoa hoc kĩ thuật.

Muốn làm đợc nh vậy, ấn Độ đã tiến hành đơn giản hoá đến mức tối đa
các thủ tục xuất khẩu gạo đồng thời thiết lập các mối quan hệ chặt chẽ với giới
thơng nhân bằng cách tạo cho họ những điệu kiện thuận lợi về phơng tiện
chuyên chở, giá cả, tài chính cũng nh các thủ tục nhằm khuyến khích
giới t thơng tham gia vào hoạt động xuất khẩu gạo. Thậm chí nhà nớc còn cho
họ vay những khoản tín dụng lớn với lãi xuất thấp để họ đủ vốn xuất khẩu mặt
hàng này.
Để có thể thu hút nguồn đầu t từ nớc ngoài vào lĩnh vực sản xuất lúa
gạo, ấn Độ tích cực cải thiện hệ thống cơ sở hạ tầng tại các khu vực trồng lúa
xuất khẩu, hệ thống đờng xá và cả các phơng tiện phục vụ cho việc vận tải.
Bởi vì giao thông vân tải là nghành có vị trí quan trọng trong cơ cấu hạ tầng
Kinh tế-Xã hội . Đây là nghành sản xuất đặc biệt vừa mang tính sản xuất vật
chất lại vừa mang tính dịch vụ và có tác động cực kì lớn đối với sự phát triển
Kinh tế cũng nh Xã hội của mỗi quốc gia. Ngành giao thông vận tải đợc mệnh
danh là huyết mạch trong một cơ thể sống mà nếu các mạch máu ấy bị tắc
nghẽn thi sớm muộn gì cơ thể ấy cũng phải chấm dứt sự sống. Nên hoàn toàn
dễ hiểu khi những cờng quốc kinh tế hùng mạnh nhất hiện nay nh Mĩ và Nhật
Bản đồng thời cũng là những quốc gia có hệ thống giao thông vận tải hiện đại
và phát triển bậc nhất thế giới. Chính phủ không chỉ đầu t cho việc mở rộng
và bố trí hợp lí hệ thống cảng biển, phát triển đờng hàng không, và hiện đại
hoá các sân bay quốc tế tạo nên cầu nối giữa ấn Độ và thế giới mà còn đầu t
cho việc nâng cấp đờng ô tô và tầu hoả đến tận những vùng sản xuất và xuất
khẩu lúa gạo. Các loại toa tàu đợc thiết kế đặc biệt rất tiện lợi cho việc chuyên
8
chở hàng xuất khẩu cũng đợc tăng cờng để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng
của các nhà xuất khẩu gạo.Thêm vào đó, chi phí vận tải cũng đợc giảm bớt
2. Kết quả
Nếu nhìn vào các chặng đờng lịch sử của ấn Độ bắt đầu từ thời điểm
giành đợc độc lập 1947 cho đến nay, ta sẽ nhận thấy rõ sự vận động theo chiều
hớng đi lên của nghành sản xuất và xuất khẩu lúa gạo đựoc biểu hiện bằng

hàng loạt các thành tựu .
Trong suốt ba thập kỉ (50-70), xuất phát từ nguyên tắc tự lực cánh sinh
ấn Độ phát triển theo chiến lợc hớng nội là chính ( với khoảng 90 % vốn đầu
t dựa vào nguồn lực trong nớc, thực hiện chính sách bảo hộ mạnh mẽ và quá
đề cao vai trò của khu vực kinh tế quốc doanh mà coi nhẹ vai trò của t bản nớc
ngoài cũng nh t nhân trong nớc), thì nghành sản xuất lúa gạo vẫn còn rất lạc
hậu và thấp kém. Vào thời điểm đó ấn Độ liên tiếp phải nhập khẩu một khối l-
ợng lơng thực khổng lồ: 2.841 triệu tấn; 3,706 triệu tấn thậm chí đến mức
10,500 triệu tấn vào năm 1966. Đến những năm 80, nền kinh tế ấn Độ dần
chuyển sang chiến lợc hỗn hợp theo kiểu nửa hớng nội nửa hớng ngoại. Và kết
quả là nghành sản xuất lúa gạo của ấn Độ cũng có đợc những kết quả đáng nể
: ấn Độ không những đáp ứng đủ nhu cầu lúa gạo của nhân dân trong nớc mà
còn tích luỹ đợc một khối lợng gạo nhỏ xuất khẩu ra thị trờng ngoài nớc, cho
dù tỉ trọng của mặt hàng này trong cơ cấu hàng xuất khẩu vẫn còn thua kém
nhiều mặt hàng khác. Nhng từ năm 1991- đợc đánh dấu bằng cuộc cải cách
kinh tế toàn diện, ấn Độ chuyển một cách mau lẹ sang chính sách tự do hoá,
coi trọng nền kinh tế thị trờng và kinh tế đối ngoại. Từ đó , nghành sản xuất và
xuất khẩu gạo của ấn Độ đã thực sự tìm đợc chỗ đứng trên thị trờng quốc tế:
ấn Độ trở thành một trong số những nhà xuất khẩu gạo hàng đầu của thế giới
mà trớc đó chính phủ ấn Độ trong mơ cũng không dám nghĩ tới.
Với sự hoạt động của gió mùa, mỗi năm nớc này sản xuất hai vụ mùa:
vụ mùa Kharif (vụ hè) thờng bắt đàu vào tháng 6-7 kết thúc vào tháng 9-10;
vụ mùa Rabi ( vụ xuân ) thờng gieo trồng voà tháng 9-12 và thu hoạch vào
tháng 3-5. Trong đó vụ mùa Rabi là vụ chính trong tất cả các năm với sản lợng
luôn vợt trội hơn so với vụ mùa Kharif. Ta ccó thể tham khảo bảng số liệu sau
dể thấy đợc điều này.
Vụ 93-94 94-95 95-96 96-97 97-98
Xuân 70,72 72,60 67,88 71,32 72,35
Hè 9,59 9,21 9,10 10,41 10,41
Bảng số liệu về sản xuất lúa gạo của ấn Độ từ năm 93-98 ( đơn vị: triệu

tấn)
Vụ 98-99 99-00 00-01 01-02 02-03
9
Xuân 72,72 77,48 72,78 79,76 63,66
Hè 10,01 13,36 12,20 13.32 9,00
Bảng số liệu về sản xuất lúa gạo của ấn Độ từ năm 98-2003( đơn vị:
triệu tấn)
(Bộ thơng mại-Thơng vụ Việt Nam tại ấn Độ)
Nh vậy, ta có thể nhận thấy: sản lợng lúa gạo của ấn Độ trong khoảng
thời gian 10 năm từ 1993-2003 luôn ở mức cao và tơng đối ổn định, ấn Độ
luôn xuất hiện trên thị trờng thế giới với t cách là nhà xuất khẩu gạo lớn .
Về lĩnh vực xuất khẩu gạo, sản lợng gạo xuất khẩu cũng tăng mạnh đặc
biệt là trong 3 năm gần đây. Điều này không chỉ đem lại nguồn giá trị tăng mà
còn tạo đà rất tốt cho phát triển nông nghiệp nói chung và cây lơng thực nói
riêng.
Năm 2000-
2001
2001-
2002
2002-
2003
Khối lợng xk
(1000 tấn)
1.531 2.209 4.671
Trị giá( triệu
USD)
606,00 652,13 490,64
Bảng số liệu về khối lợng gạo xuất khẩu của ấn Độ từ 2000-2003
Gạo xuất khẩu của ấn Độ có nhiều loại nhng đợc chia ra làm hai loại
chính: Gạo Basmati và gạo ngoài Basmati ( nh gạo Permal, Minket, Sharbiti).

Trên thị trờng thế giới, gạo Basmati của ấn Độ nổi tiếng với chất lợng cao và
đợc coi là đứng đầu bảng và không có đối thủ cạnh tranh. Đặc biệt là nhu cầu
của thị trờng thế giới đối với loại gạo này ngày càng tăng. Ngoài Pakistan, ấn
Độ là nớc duy nhất sản xuất đợc loại gạo này. Tuy nhiên, gạo Basmati của ấn
Độ lại đợc thế giới a chuộng hơn so với gạo của Pakistan, do chất lợng gạo
của ấn Độ cao hơn. Giá xuất khẩu gạo Basmati luôn cao hơn gạo thờng từ 1,5-
4 lần. Điều này sẽ đợc minh hoạ rõ nét hơn qua bảng giá gạo xuất khẩu ( Đơn
vị Rupees/ tấn và 1USD=43 Rupees)
+Giá gạo xuất khẩu tuần thứ 2 tháng 1.2004
Gạo Permal: 910-1.070
Gạo Basmati: 1.650- 4.800
+Giá gạo xuất khẩu tuần thứ 2 tháng 2.2004
Gạo Permal: 975-1.100
Gạo Basmati: 1.700- 4.800
+Giá gạo xuất khẩu tuần thứ 2 tháng3.2004
Gạo Permal: 940-1.085
Gạo Basmati: 1.650-4.800
Gạo Minkit: 1.200-1.500
10
+Giá gạo xuất khẩu tuần thứ 2 tháng 4.2004
Gạo Permal: 980-1.100
Gạo Basmati: 1.600-4.800
Gạo Minkit: 1.200-1.500
Gạo Sharbiti: 1.300-1.400
Thành tựu tiếp theo mà nghành sản xuất và xuất khẩu lúa gạo ấn Độ
đạt đợc trong những năm gần đây: Mặt hàng gạo xuất khẩu gạo này không chỉ
có mặt tại các thị trờng Châu á- Thái Bình Dơng, Trung Đông, Châu Phi mà
còn thâm nhập vào cả những thị trờng khó tính nh Châu Âu, Bắc Mĩ Điều này
cho thấy gạo xuất khẩu của ấn Độ ngày càng chiếm u thế trên thị trờng quốc
tế.

+ Khu vực Châu á- Thái Bình Dơng: Astralia, Bangladesh, Bhutan,
Hongkong, Indonesia, Japan, Korea, Malaysia, Maldives, Myanmar, Pakistan,
Newzealand, Phippines, Singapore, Srilanka, Yemen, Nepal
+Khu vực Châu Âu: Belgium, Cyprus,Penmark, France,
German, Italy, Holland, Norway, Russia, Spain, Sweden, U.K, Ukraine
+ Khu vực Trung Đông: Israel, Jordan, Egypt, Oman, Qatar, Saudi
Arabia, UAE, Syri.
+ Khu vực châu Phi: Djibuti, Ethiopia, Ghana, Mali, Nigeria, South
Africa
+Khu vực Bắc Mĩ: Canada, USA
(Nguồn : Bộ Thơng Mại- Thơng vụ Việt Nam tại ấn Độ)
3. Những mặt hạn chế trong lĩnh vực Sản xuất và xuất khẩu lúa gạo của
ấ n Độ
Với những nỗ lực không ngừng của Chính Phủ và nhân dân, nghành sản
xuất và khấut khẩu gạo của ấn Độ đã đạt đợc những bớc tiến thật đáng khâm
phục. Tuy nhiên cũng cần phải khẳng định một điều rằng nghành kinh tế này
của ấn Độ vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế : Khí hậu-thời tiết, khủng hoảng
nguồn nhân lực, đặc biệt dân số tăng quá nhanh.
Sản lợng lúa gạo của ấn Độ còn phụ thuộc quá nhiều vào mùa ma, liên
quan đến gần 60% diện tích đất gieo trồng.
Năm 93-94 94-95 95-96 96-97 97-98
S lợng 80,30 81,81 76,98 81,73 82,52
Tổng sản lợng lúa gạo của ấn Độ từ 1993-1998
98-99 99-00 00-01 01-02 02-03 03-04
96,08 89,68 84,98 93,08 72,66 87,94
Tổng sản lợng lúa gạo của ấn Độ từ 1999-2004
11
Căn cứ vào bảng số liệu ta thấy, sản lợng lúa gạo của ấn Độ qua các
năm tơng đối cao và khá ổn định. Những năm thời tiết đẹp nh 97-97, 98-99,
99-2000, 2000-2001, 2001-2002, Sản lợng lúa gạo của ấn Độ cao và sự biến

động trong sản lợng có nhng không đáng kể. Chẳng hạn từ năm 1996-2000,
sản lợng gạo liên tục tăng nhẹ từ 81,73 82,53 86,08 89,68; Năm
2000-2001, sản lợng gạo có thấp hơn năm trớc 1999-2000 một khối lợng là
4,70 triệu tấn nhng không đáng kể.
Nhng cũng từ trong bảng số liệu này ta thấy năm 2002-2003 có một sự
tụt giảm mạnh trong tổng sản lợng 72,66 triệu tấn- thấp hơn năm 1999-2000
là 17,02 triệu tấn, thấp hơn so với năm 2000-2001 là 12,32 triệu tấn, giảm
mạnh so với năm 2001- 2002 tới 20,42 triệu tấn. Nguyên nhân ảnh hởng tới sự
tụt giảm về sản lợng gạo năm 2002-2003 là do thời tiết không đợc thuận lợi, ở
nhiều vùng còn xảy ra hạn hán lụt lội và sâu bệnh.
Chắc chắn nhân loại trên thế giới này sẽ không bao giờ quên đợc thảm
cảnh do trận đại hồng thuỷ gây ra ngày 26.12.2004 ở các nớc Đông Nam á và
Nam á. ấn Độ là một trong số các quốc gia chịu ảnh hởng nằng nề nhất. Cơn
sóng giết ngời ấy đã tấn công vào thủ phủ Nagapattinam và Vailankami thuộc
bang Tamilnadu ở miền nam của ấn Độ, cớp đi sinh mạng của của hàng nghìn
ngời thậm chí hàng triệu ngời, mà cho đến nay ngời ta vẫn cha thể đa ra con
số thống kê chính xác về số ngời thiệt mạng và số ngời mất tích trong trận
sóng thần kinh hoàng đó. Cơn sóng ấy cũng cuốn theo hàng nghìn ngôi nhà,
vờn tợc, chợ búa thậm chí cả những cánh đồng lúa. Tamilnadu không phải
là bang có sản lợng lúa gạo lớn nhất ấn Độ, cũng không phải là bang có chất
lợng gạo cao nhất. Nhng thiệt hại nặng nề cả về ngời và của mà trận đại hồng
thuỷ gây ra cho bang Tamiladu đã buộc ngời ta phải lo ngại đến những hiểm
hoạ thiên tai tơng tự có thể ập xuống ở nhiều bang khác trong đó có cả những
bang chuyên sản xuất và xuất khẩu gạo của. Bởi những thay đổi trong thời tiết
của ấn Độ không phải là một hằng số mà là một ẩn số.
Châu á nói chung và ấn Độ nói riêng đang phải đối mặt với một cuộc
khủng hoảng nhân lực trầm trọng. Nghành sản xuất lúa gạo giờ đây không còn
thu hút đợc nguồn nhân lực nh trớc đây nữa. Lực lợng nông dân trồng lúa
những con ngời cả đời chân nấm tay bùn, cả đời phải trông vào cây lúa giờ
đay đã trở nên già yếu. Ngời ta vẫn nói rằng: Làm ruộng thì ra, Làm nhà thì

tốn. Nhng nắng, ma, sơng, gió đã làm những ngời nông dân ấy già nua hơn
và họ cũng thấu hiểu đến tận xơng tuỷ nỗi vất vả cay cực của ngời trồng lúa,
đối với họ làm ruộng chẳng ra chút nào. Bởi họ đã rất nhiều lần phải bán đi
12
những gánh thóc vàng óng ả với giá rẻ mạt chỉ để mua một chiếc áo mới cho
con bằng bạn bằng bè trong dịp khai giảng năm học mới. Những ngời nông
dân có thể cam chịu một cuộc sống nghèo khổ vất vả cả đời nhng tơng lai con
cái của họ phải đổi khác. Vậy nên cũng đừng quá ngạc nhiên khi nhìn thấy
cảnh một bác nông dân gánh hai thúng thóc nặng ra chợ bán lấy tiền lo cho
con đi thi đại học ở trên tỉnh, cũng đừng trách móc những ngời nông dân khi
họ khuyến khích con cháu rời bỏ vùng nông thôn ra thành phố học tập và lập
nghiệp.
Nhng điểm hạn chế lớn nhất của ngành sản xuất và xuất khẩu lúa gạo
của ấn Độ lai là dân số đông và tăng quá nhanh. Hạn chế này có thể khiến ấn
Độ trong những năm trớc mắt có thể mất đi vị trí hiện nay trên thị truờng lúa
gạo của thế giới. Vì nghành lúa gạo ấy phải đáp ứng một nhu cầu không hề
nhỏ của thị trờng trong nớc- một số dân khổng lồ.
Vào những năm đầu của Chủ nghĩa cộng sản ở Trung Quốc, chủ tịch
Mao Trạch Đông đã từng khích lệ nhân dân sinh cang nhiều càng tốt để giúp
Trung Quốc trở thành một nớc mạnh mẽ hơn. Vậy nên từ 1949-2000, dân số
của Trung Quốc đã tăng lên gấp hơn hai lần ( khoảng 560 triệu ngời năm 1949
đến 1,2 tỉ ngời vào năm 2000) . Với số dân nh vậy, Trung Quốc trở thành nớc
đứng đầu thế giới về số lợng dân số sau đó mới đến ấn Độ, Mĩ
Số
thứ tự
Tên nớc Dân số
1 Trung Quốc 1.261.832.482
2 ấn Độ 1.041.003.817
3 Mỹ 275.562.673
4 Inđônêsia 224.784.210

5 Brazil 172.860.370
6 Nga 146.001.176
7 Pakistan 141.553.775
8 Bangladesh 129.194.224
9 Nhật Bản 126.594.976
10 Nigeria 123.337.822
Bảng sắp xếp thứ tự 10 quốc gia đông dân nhất thế giới năm 2000 (báo
Thanh Niên)
Nhng theo các nhà dân số học hàng đầu hiện nay dân số của ấn Độ đã
chạm mức 1,3 tỷ năm 2004, có thể lên đến 1,46 tỷ vào năm 2035, vợt dân số
của Trung Quốc để chiếm ngôi vị quốc gia đông dân nhất thế giới vào năm
2050 ở mức 1,6 tỷ dân.
13
Số thứ tự Tên nớc Dân số
1 ấn Độ 1.619.582.271
2 Trung Quốc 1.470.468.924
3 Mỹ 403.943.147
4 Inđônêsia 337.807.011
5 Nigeria 303.586.770
6 Pakistan 267.751.477
7 Brazil 206.751.477
8 Bangladesh 205.093.861
9 Êthiôpia 187.892.174
10 Cônggô 181.922.656
Bảng sắp xếp theo thứ tự 10 quốc gia đông dân nhất thế giới theo ớc
tính vào năm 2050 (Báo Thanh Niên)
Hiện tại với số dân 1,3 tỷ ngời (2004), ấn Độ là quốc gia đông dân
hàng thứ hai trên thế giới và là nớc dẫn đầu thế giới về gia tăng dân số cũng
nh về mật độ dân số. Về mật độ dân số, ấn Độ cao hơn Mỹ gấp 100 lần:trung
bình ở ấn Độ cứ 1km2 có 458 ngời trong khi đó ở Mỹ chỉ có 45 ngời. Dân số

ấn Độ tăng khoảng 2%/năm tơng đơng với khoảng 18 triệu trẻ chào đời mỗi
năm và. ấn Độ cũng là một trong số những nớc có tỉ lệ sinh cao nhất thế
giới:0,28%o. Vậy nên việc các nhà dân số ớc tính dân số của ấn Độ có thể đạt
mức 1,46 tỷ vào năm 2035 là hoàn toàn có thể .
Dân số tăng nhanh đến vậy tạo ra cho ấn Độ một lực lợng lao động dồi
dào, nhng cũng mang đến cho nền kinh tế của ấn Độ nói chung và nghành
sản xuất, xuất khẩu lúa gạo của ấn Độ rất nhiều khó khăn. Các nhà khoa học
đã chứng minh đợc rằng nếu dân số gia tăng ở mức 1% thì kinh tế phải tăng tr-
ởng ở mức 5 % mới đảm bảo đợc mức sống nh cũ cha bàn đến chuyện nâng
cao hơn mức sống. Trong khi đó tốc độ tăng dân số của ấn Độ luôn ở mức 2%
- điều này đồng nghĩa với việc kinh tế ấn Độ phải tăng trởng ở mức 10%/năm.
Nhng đến cả chục năm nay, mức tăng trởng kinh tế của ấn Độ vẫn dậm chân ở
mức 6%/năm. Trong khi đó nghành sản xuất lúa gạo của ấn Độ phải gồng
mình lên đẻ ghánh vác xứ mạng nặng nề : đảm bảo nguồn lơng thực cho một
số dân khổng lồ lại đang tăng lên hàng ngày hàng giờ, còn vấn đề xuất khẩu
xem chừng rất khó khăn.
Vậy thì nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng dân số ấn Độ đông và tăng
nhanh đến vậy?
Ngay từ năm 1952, chính phủ ấn Độ đã thông qua một loạt những
chính sách sinh đẻ có kế hoạch, nhng việc thực hiện những chính sách đó rất
khó khăn do bị dàng buộc bởi hàng loạt các luật lệ riêng của tôn giáo ( ở đất
nớc này : 83% dân số theo đạo Hinđu, 11% theo đạo Hồi, một nhóm dân c
14
khác theo đạo Xích , Kitô và đạo Phật). Năm 1976-1977, ấn Độ đã áp dụng
biện pháp độc đoán (triệt sản bắt buộc)nhng lại gặp phải sự chống đối quyết
liệt trông nhân dân vì những lí do kể trên.
Tại ấn Độ, những gia đình có ba con bị coi là loại nhỏ, và chuyện
những gia đình có 15; 16; 17 hay nhiều hơn nữa cũng không phải chuyện
hiếm. Điều nãy xuất phát từ phong tục của hồi môn cho con gái khi đi lấy
chồng. Để một cô gái tuổi trởng thành về đợc nhà chồng, cha mẹ đẻ buộc phải

chuẩn bị một khoản tiền hồi môn kếch xù giao cho gia đình nhà trai . Mà ngời
ta cũng quan niệm rằng có con gái mà không gả chồng đợc cho con thì đáng
bị hàng xóm láng giềng, bà con thân thích xỉ nhục và chê cời. Vậy nên ngay
từ khi bé gái cất tiếng khóc chào đời, cha mẹ của bé buộc phải ăn tiêu dè dặt
để tiết kiệm cho đủ tiền hồi môn. Bởi vì lí do này mà dân ấn Độ rất thích sinh
con trai, sinh cang nhiều càng tốt. Điều này đồng nghĩa với việc họ sẽ có đợc
nơi nơng tựa lúc tuổi già, lại không phải nơm nớp lo tích cóp tiền hồi môn ng-
ợc lại sẽ có đợc một khoản kha khá nhờ việc dựng vợ cho con. Chính tâm lí ấy
khiến ngời dân ấn Độ cố gắng sinh cho kì đợc con trai và sự cố gắng ấy vô
tình đã góp một phần nhỏ đẩy dân số cả nớc tăng lên một mức lớn hơn.
Khi hàng loạt các biện pháp nhằm kìm hãm sự gia tăng dân số không
phát huy hiệu quả, chính phủ bắt đầu phát động chiến dịch hết sức mềm dẻo:
phát bao coa su miễn phí. Và có thể nói , không ngời dân nớc nào sáng tạo nh
dân ấn trong việc sử dụng bao cao su. Họ khai thác triệt để các tính năng u
việt của dụng cụ tránh thai này. Bác sĩ tại đại học Yking George cho biết trên
thực tế chỉ có 1/4 số bao cao su sản xuất ra hàng năm dùng đúng mục đích.
Theo hai bản báo cáo của trơng đại học này, dân địa phơng coi các bao cao su
nh những dụng cụ chứa nớc dùng một lần để rửa tay sau khi làm việc trên
đồng áng. Quân nhân thậm chí còn sử dụng chúng để bảo vệ súng khỏi bị bụi
và cát. Trong số 891 triệu bao cao su đợc tung ra miễn phí, một số lợng không
nhỏ đã đợc các công nhân xây dựng trng dụng. Họ trộn bao cao su với bê tông
và hắc ín , hỗn hợp này sẽ đợc dùng để xây đờng và chống xói mòn. Công
nhân xây dựng còn trải một tấm bao cao su dới lớp xi măng trên mái nhà với
mục đích ngăn chặn nớc thấm vào nhà trong mùa ma kéo dài. Thợ dệt vải
vùng Varnasi dùng tới 200.000 bao cao su mỡi ngày để bôi trơn các khung
cửi. Yusu Bhai một thợ dệt vải cho biết họ mua các bao cao su từ những đại lí
.và các đại lí này lại nhận bao cao su từ chơng trình kế hoạch hoá gia đình
và phòng chống AIDS quốc gia .!!!!! (Nguồn:VN Express/Telegraph).
15
Phân tích hạn chế này sâu hơn hoàn toàn không phải tôi đang cố hạ thấp

những thãnh quả mà nhân dân ấn Độ đã đạt đợc. Tôi chỉ nhấn mạnh một điều
rằng : Để ngành sản xuất và xuất khẩu gạo của ấn Độ giữ đợc vị trí trên thị tr-
ơng thế giới nh những năm gần đây, Chính phủ nớc này cần phải nỗ lực hơn
nữa trong vấn đề Dân số .
16
Ch ơng III: Hợp tác giữa các nớc sản xuất và xuất khẩu lúa gạo trong
vấn đề bình ổn giá gạo xuất khẩu và tạo nguồn lực chính đáng cho ngời
dân trồng lúa.
Tôi không còn nhớ chính xác mẹ bắt đầu trồng rau từ bao giờ, nhng tôi
vẫn còn nhớ nh in: khi còn là một cô bé học tiểu học, hôm nào cũng vậy cứ
nấu cơm xong là tôi lại tót ra cổng chờ mẹ đi chợ về. Và đến nay mỗi lần về
nhà tôi vãn thấy nhà mình có rất nhiều rau: rau trong vờn và rau ở cả những
thửa ruộng ngoài cánh đồng. Vậy nên một tháng có 30 ngày thì cả 30 ngày mẹ
có mặt ở chợ để bán rau. Hôm nào bán chạy hàng, khuôn mặt mẹ tơi tắn rạng
rỡ lắm, mẹ còn mua cho chị em tôi biết bao là thứ : từ những bộ quần áo thơm
mùi vải mới, những cây bút hiệu Trờng Sơn xinh xắn có nắp hình con mèo thật
ngộ nghĩnh, những chiếc bánh rán béo ngậy cho đến cả những chiếc dây
buộc tóc nhỏ xí. Hôm nào mẹ về muộn, dáng mệt mỏi chẳng hỏi tôi cũng biết
hôm đó rau quá rẻ và mẹ tôi lại ế hàng. Nhìn ghánh rau xanh co quắt lại vì
lạnh sau mỗi buổi chợ chiều, tôi lại tự hỏi : Tại sao mẹ và cả những ngời
trồng rau khác không lập ra một hội. Hội này sẽ là nơi trao đổi kinh nghiệm
sản xuất và thống nhất giá cả của những ngời trồng rau và bán rau . Đợc nh
vậy chắc mẹ sẽ không phải lo bán đổ bán tháo ghánh rau nặng mỗi bận hàng ế
ẩm.
Tôi cha bao giờ hỏi mẹ điều ấy, và cũng cha bao giờ nghĩ sẽ có lúc cơ
hội trở lại với ý tởng đấy lại có thể đến với tôi nh lúc này .
Thái Lan, ấn Độ , Việt Nam là những quốc gia xuất khẩu lúa gạo lớn
nhất hiện nay. Nghành trồng lúa ở các nớc này vẫn là nghề kiếm sống của một
tỉ lệ dân số đáng kể : Việt Nam gần 80% dân số , Thái Lan gần 70% dân số ,
ấn Độ 75% dân số, nhng đóng góp của nghành trồng lúa vào tổng thu nhập

quốc dân còn ở mức quá thấp :ấn Độ khoảng 25%, Việt Nam khoảng 30%,
Thái Lan khoảng 30%. Điều này cho thấy thu nhập của ngời nông dân còn
quá thấp. Tại Việt Nam, nếu tính trung bình mỗi hộ gia đình có 6 nhân khẩu
thì thu nhập chỉ xấp xỉ ở mức 100USD/ngời/năm. Nên có rất nhiều ngời nói
rằng nghề trồng lúa là nghề của ngời nghèo. Thêm vào đó dân số của các nớc
này đặc biệt là ấn Độ tiếp tục tăng nghĩa là sức ép về dân số vẫn còn đó
không thể coi thờng. Để giải quyết bài toán kết hợp giữa an toàn lơng thực và
làm sao ngời trồng lúa giàu lên đợc, rất nhiều ngời đề xuất lời giải: Ngời
nông dân cần hiểu biết đầy đủ hơn và đảm bảo tính bền vững của môi trờng
trồng lúa thâm canh, cải tiến chất lợng gạo theo thị hiếu của ngời tiêu dùng,
thực hiện một chiến lợc thâm canh tổng hợp để xây dựng một nền nông nghiệp
bền vững- một hệ thống canh tác hợp lí trên vùng trồng lúa. Nhng theo tôi,
tính khả quan của chiến lợc giảm nghèo cho nông dân rất thấp, lại không thể
17
thực hiện đợc trong khoảng thời gian ngắn, nhất là khi tầm nhận thức của ngời
trồng lúa còn hạn chế.
Thái Lan, ấn Độ và Việt Nam chiếm tới 70% thi phần gạo xuất khẩu
của thế giới. Nhng ngay cả thế mạnh này vẫn cha đủ để đảm bảo cho họ một
ví trí vững chắc trong tơng lai nhất là khi họ luôn phải đối mặt với hàng loạt
các biến động về giá cả trên thị trờng thế giới .
Vào năm 2002, các nhà xuất khẩu gạo hàng đấu của Thái Lan đã rất lo
ngại gạo xuất khẩu của họ bị rớt giá do các nhà xuất khẩu gạo của ấn Độ đợc
sự bảo trợ của chính phủ đã bán phá giá. Lúc đó ấn Độ đã chào hàng với giá
rẻ hơn những 40 USD so với giá gạo của Thái Lan. Nhờ vậy sản lợng gạo của
ấn Độ đã tăng lên gấp 3 lần so với năm trớc đó. Nhng điều này đã khiến cho
Thái Lan chỉ xuất đợc 300.000 tấn vào tháng 5( mức trung bình từ 500.000
đến 600.000 tấn. Lúc đógiá trị của đồng Bạt cũng tăng kéo theo giá gạo xuất
khẩu tăng. Vì vậy giá gạo xuất khẩu của Thái Lan từ 200USD/ tấn tăng lên
290USD/tấn. Vào thời điểm đó nhiều nhà phân tích còn cho rằng Thái Lan sẽ
mất đi thị truờng xuất khẩu gạo vì giá gạo của họ quá cao.

Và ngay cả ngành sản xuất và xuất khẩu gạo Basmati vốn là nghành
thế mạnh của ấn Độ nhiều khi cũng phải chao đảo vì ông bạn láng giềng bán
gạo Basmati với giá rẻ hơn rất nhiều.
Viêc cạnh tranh về giá cả trên thị trờng không phải chuyện xa nay hiếm.
Nhng liệu rằng đó có phải là biện pháp an toàn và hiệu quả nhất hay
không ???. Tôi lại xin nhấn mạnh them một lần rằng Thái Lan, Việt nam và
ấn Độ hiện đang chiếm giữ tới 70% thị phần gạo xuất khẩu của toàn cầu. Một
con số không hề nhỏ. Và vấn đề đặt ra nếu ba quốc gia này ngừng xuất khẩu
gạo thì con số 70% kia liệu có đủ làm cho an ninh lơng thực của thế giới bị
tổn hại ?.Câu trả lời chắc ai cũng biết. Vậy tại sao các nhá xuất khẩu gạo của
ba nớc này không bắt tay hợp tác để cùng nhau tháo gỡ những khó khăn trong
việc bình ổn giá gạo xuất khẩu trên thị trờng thế giới sao cho mức giá ấy có
thể mang lại nguồn tơng xứng với sức lao động của những ngời nông dân
trồng lúa đã bỏ ra .Tôi nghĩ, làm đợc điều ấy còn có ý nghĩa hơn chuyện lao
vào các cuộc chiến giá cả để rồi phải ngậm ngùi hạ thấp giá trị của sản phẩm
lao động phải đánh đổi bằng công sức của những ngời nông dân nghèo?????.
Và tại sao các nớc này không thành lập một tổ chức gồm các nhà xuất khẩu
gạo để cùng nhau thảo luận các vấn đề có liên quan đến các chính sách xuất
khẩu gạo, trao đổi kinh nghiệm sản xuất và thông tin về tình hình cung cầu
gạo của thế giới, các biện pháp chống bán pha giá cũng nh việc thết lập một
giá sàn cho mặ hàng này để tránh tình trạng giá gạo giảm quá mạnh gây thiệt
hại cho ngời nông dân trồng lúa và cả những nhà xuất khẩu gạo.
18
Nếu coi những tụ điểm hi-tech phồn thịnh tại các bang phía nam nh
Bangalore và Hyderabad là những điểm sáng chói lọi của nền kinh tế ấn Độ,
thì cũng có thể ví nghành sản xuất và xuất khẩu gạo của ấn Độ là tâm điểm
của nghành nông nghiệp ấn Độ. Bởi trong những năm gần đây , với nỗ lực
không ngừng của chính phủ ấn Độ cũng nh sự cố gắng không mệt mỏi của
nhân dân ấn Độ , ngành sản xuất và xuất khẩu gạo đã gặt hái đợc những thành
quả mà nhiều quốc gia khác trên thế giới phải ngỡng mộ. Không dừng ở mức

liệt kê những thành tựu và cả những mặt còn hạn chế cuă nghành này, tôi thực
sự mong rằng bài viết này sẽ có một tầm ý nghĩa dù là nhỏ bé không chỉ đối
với nghành sản xuất và xuất khẩu gạo của ấn Độ mà với nghành sản xuất và
xuất khẩu gạo của nhiều quốc gia khác trong đó có Việt Nam .

19

×