Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

một số giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực nông, lâm ,ngư nghiệp giai đoạn 2006 -2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (351.36 KB, 68 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Như chúng ta đã biết đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai trò hết sức
quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của tất cả các nước trong khu vực và
trên thế giới. Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn vốn này, nên hầu hết
các quốc gia trên thế giới đều có chính sách nhằm thu hút nguồn vốn FDI.
đối với Việt Nam cũng vậy, để hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá -
hiện đại hoá, Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương mở cửa nềnkinh tế nhằm
thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào năm 1987. Chúng ta đã nhận thấy
được vai trò quan trọng của vốn đầu tư nước ngoài trong sự phát triển kinh tế
của đất nước. Sau gần 20 năm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, Việt Nam
đã đạt được nhiều kết quả khả quan, tuy nhiên nếu so với các nước trong khu
vực thì kết quả này còn khá khiêm tốn, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp.
nhận thức được vai trò quan trọng của FDI trong quá trình phát triển kinh tế,
và vị trí của ngành nông nghiệp đối với nước ta, em đã chọn đề tài : “Một số
giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực
nông, lâm ,ngư nghiệp giai đoạn 2006 -2010” làm nội dung chuyên đề thực
tập với mong muốn có thể đóng góp phần nào vảo việc hoàn thiện các chính
sách để tích cực thu hú đầu tư trực tiếp nước ngoài trong giai đoạn tới vào
nước ta.
Chuyên đề thực tập được kết cấu làm 3 phần chính :
Chương I : Đầu tư trực tiếp nước ngoài và kinh nghiệm các nước trong
thu hút đầu tư nước ngoài.
Chương II : Thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh
vực nông, lâm, ngư nghiệp tại Việt Nam trong thời gian qua
Chương II : Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp tại Việt Nam giai đoạn 2006
– 2010
1
Trong suốt thời gian thực hiện chuyên đề này, với sự hướng dẫn tận
tình của Thạc sĩ Bùi Đức Tuân và các cán bộ phòng Nông, Lâm, Ngư nghiệp -
Cục Đầu tư nước ngoài (thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư) đã giúp em hoàn


thành chuyên đề này đúng tiến độ đề ra.
Em xin chân thành cảm ơn Thạc sỹ Bùi Đức Tuân và các cán bộ phòng
Nông, Lâm, Ngư nghiệp - Cục đầu tư nước ngoài đã tạo điều kiện thuận lợi
cho emhoàn thành chuyên đề này.
2
CHƯƠNG I
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀ KINH NGHIỆM CÁC
NƯỚC TRONG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI
1. Một số khái niệm cơ bản
1.1. Khái niệm về đầu tư
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đầu tư luôn được coi là một
trong những nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá của phát
triển. Điều này được thể hiện rõ trong các lý thuyết kinh tế, không chỉ trong lý
thuyết kinh tế thị trường, mà cả trong lý thuyết kinh tế kế hoạch hoá tập trung.
Theo nghĩa rộng, đầu tư nói chung là đó là sự hy sinh các nguồn lực ở
hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm mục đích thu về cho người
đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai, lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra
để đạt được các kết quả đó.
Các nguồn lực bỏ ra đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, hay là
sức lao động và trí tuệ. Những kết quả đạt được có thể là sự tăng thêm về quy
mô của tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường sá, của
cải vật chất khác, …), và nguồn nhân lực đó có đủ điều kiện để làm việc với
năng suất cao hơn trong nền sản xuất xã hội. Những kết quả này, đặc biệt là
tài sản tài chính và nguồn nhân lực có vai trò quan trọng không chỉ với người
bỏ vốn đầu tư mà cả đối với cả nền kinh tế. Không chỉ người đầu tư mà cả
nền kinh tế đều được thụ hưởng những kết quả này.
Còn theo nghĩa hẹp, đầu tư được hiểu là chỉ bao gồm những hoạt động
sử dụng các nguồn lực hiện tại, nhằm đem lại cho nền kinh tế - xã hội những

kết quả trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết
quả đó.
3
Như vậy, nói chung, khi xem xét trong phạm vi quốc gia thì chỉ có
những hoạt động sử dụng các nguồn lực hiện tại để trực tiếp là tăng các tài
sản vật chất, nguồn nhân lực và tài sản trí tuệ hay duy trì hoạt động của các tài
sản và các nguồn lực sẵn có đều thuộc phạm trù đầu tư dù theo nghĩa hẹp hay
nghĩa rộng.
1.2. Khái niệm về đầu tư nước ngoài
Với sự đổi mới tư duy, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng
12/1986), Đảng và Nhà nước ta trên cơ sở nhận thức lại các quy luật kinh tế
Mác – Lênin, và nhận thức đầy đủ hơn tư tưởng Hồ Chí Minh đã quyết định
đưa đất nước phát triển theo con đường kinh tế mở. Chúng ta đã đề ra nhiều
biện pháp, chính sách đối nội cũng như đối ngoại hợp lý nhằm phát triển đất
nước theo con đường đã chọn. Về đối nội, một trong những chính sách quan
trọng được thực hiện đó là chính sách kinh tế nhiều thành phần nhằm huy
động các nguồn lực đầu tư cho nền kinh tế quốc dân. Về đối ngoại, chúng ta
tiến hành mở cửa nền kinh tế, tăng cường và đẩy mạnh các mối quan hệ với
các nước trong khu vực và trên thế giới. Tháng 12/1987, luật Đầu tư nước
ngoài ra đời. Đây là một lĩnh vực hết sức quan trọng của quan hệ kinh tế đối
ngoại. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thương mại quốc tế, đầu tư nước
ngoài ngày càng được mở rộng hơn trước.
Đầu tư nước ngoài (mà trước đây Lênin gọi là xuất khẩu tư bản) là một
hình thức cơ bản của quan hệ kinh tế đối ngoại. Nó là quá trình trong đó hai
hay nhiều bên (có quốc tịch khác nhau) cùng góp vốn để xây dựng và triển
khai một dự án đầu tư quốc tế nhằm mục đích sinh lợi.
Còn tại Việt Nam, theo quy định của Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài
Việt Nam năm 2000, thì “Đầu tư nước ngoài là việc các nhà đầu tư nước
ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào được chính
phủ Việt Nam chấp thuận để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của

Luật này”.
4
Đối với nước nhận đầu tư, đầu tư nước ngoài có tác động hai mặt tới sự
phát triển kinh tế xã hội ở các nước này. Một mặt, đầu tư góp phần làm tăng
thêm nguồn vốn, giúp giải quyết được tình trạng thiếu vốn cho đầu tư cho
phát triển kinh tế - xã hội do tích luỹ nội bộ thấp. Cùng với việc cung cấp vốn
qua các hoạt động đầu tư nước ngoài, các nhà đầu tư (các công ty đa quốc gia,
…) đã chuyển giao công nghệ từ nước mình sang các nước nhận đầu tư. Điều
này góp phần cải thiện được công nghệ còn lạc hậu ở nước nhận đầu tư, nâng
cao kinh nghiệm quản lý, năng lực Marketing. Số lượng lao động có việc làm
cũng ngày càng tăng, đội ngũ lao động được đào tạo và rèn luyện về nhiều
mặt (trình độ kỹ thuật, phương pháp làm việc, kỷ luật lao động, …). Đầu tư
nước ngoài còn làm cho các hoạt động đầu tư trong nước phát triển hơn, tăng
khả năng cạnh tranh của sản xuất trong nước, tạo điều kiện khai thác các tài
nguyên phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Chính ưu điểm
này của đầu tư nước ngoài đã có tác động mạnh mẽ đến việc chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, cơ cấu ngành, cơ cấu công nghệ, cơ cấu sản phẩm và lao động, cơ
cấu lãnh thổ theo hướng hiện đại, phù hợp với xu thế chung, tạo điều kiện cho
nước nhận đầu tư mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, tiếp cận được với nền kinh
tế thị trường hiện đại trên thế giới.
Song bên cạnh những lợi ích nhận được, việc thu hút vốn đầu tư nước
ngoài cũng đem lại nhiều bất lợi cho nước nhận đầu tư. Đầu tư nước ngoài có
khả năng làm gia tăng sự phân hoá giàu nghèo giữa các tầng lớp trong xã hội,
giữa các vùng lãnh thổ, làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, gây ô nhiễm môi
trường sinh thái và tăng tính phụ thuộc vào nước ngoài. Do đó, trong quá
trình xây dựng, thẩm định, ký kết và thực hiện triển khai các dự án đầu tư
nước ngoài trong thực tế luôn cần phải có sự tính toán và cân nhắc kỹ những
điều bất lợi trên.
Mặc dù còn hạn chế, nhưng ngày nay đầu tư nước ngoài đã trở thành tất
yếu khách quan. Có thể nói rằng, không một quốc gia nào dù phát triển theo

5
con đường tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa mà lại không cần đến nguồn
vốn đầu tư nước ngoài.
Trên cơ sở căn cứ vào mức độ tham gia quản lý quá trình thực hiện đầu
tư, phát huy tác dụng kết quả đầu tư mà người ta chia đầu tư nước ngoài thành
hai loại chính, đó là đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư gián tiếp nước
ngoài.
2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài
2.1. Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một trong 4 nguồn tài chính nước
ngoài cơ bản chảy vào một nước.
(Các nguồn tài chính nước ngoài cơ bản chảy vào một nước bao gồm:
- Viện trợ phát triển chính thức và phi chính phủ
- Tín dụng từ các ngân hàng thương mại
- Trái phiếu, tín phiếu và cổ phiếu
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài)
Hiểu một cách đơn giản, đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư
trong đó người bỏ vốn đầu tư và người sử dụng là vốn là một chủ thể.
Cụ thể hơn, đầu tư trực tiếp nước ngoài (mà trước đây Lênin gọi là xuất
khẩu tư bản hoạt động) là một hình thức đầu tư mà quyền sử dụng và quyền
sử dụng quản lý vốn của người đầu tư thống nhất với với nhau, tức là người
có vốn đầu tư trực tiếp tham gia vào tham gia vào việc tổ chức quản lý và
điều hành dự án đầu tư, chịu trách nhiệm về kết quả, rủi ro trong kinh doanh,
và thu lợi nhuận.
Theo Quỹ tiền tệ thế giới (IMF) và Tổ chức phát triển hợp tác kinh tế
(OECD), FDI được hiểu định nghĩa bằng một khái niệm rộng hơn, theo đó
FDI là một hình thức đầu tư quốc tế phản ánh mục tiêu thực hiện các lợi ích
dài hạn của một chủ thể cư trú tại một nền kinh tế (được gọi là nhà đầu tư
trực tiếp) thông qua một chủ thể ở một nền kinh tế khác (gọi là doanh nghiệp
nhận đầu tư trực tiếp). Lợi ích dài hạn ở đây hàm ý sự tồn tại lâu dài của mối

6
quan hệ giữa nhà đầu tư trực tiếp và doanh nghiệp nhận đầu tư, và mức độ
ảnh hưởng đáng kể của nhà đầu tư đối với việc quản lý doanh nghiệp này.
Theo IMF, FDI là nhằm đạt được những lợi ích lâu dài của một doanh
nghiệp cư trú trên lãnh thổ của một nền kinh tế khác nền kinh tế nước chủ đầu
tư, với mục đích của nhà đầu tư là giành đựoc quyền quản lý doanh nghiệp
thực sự.
Theo OECD, đầu tư trực tiếp được thực hiện nhằm mục đích thiết lập
các mối quan hệ kinh tế lâu dài với một doanh nghiệp, đặc biệt là những
khoản đầu tư mang lại khả năng tạo ảnh hưởng với việc quản lý doanh nghiệp
nói trên bằng cách :
- Thành lập mới, hoặc mở rộng một doanh nghiệp, hoặc một chi
nhánh thuộc toàn quyền quản lý của chủ đầu tư.
- Mua lại toàn bộ doanh nghiệp đã có.
- Tham gia vào một doanh nghiệp mới
- Cấp tín dụng dài hạn (> 5năm)
Khái niệm có tính bước ngoặt về FDI của OECD đã chỉ rõ ra rằng một
doanh nghiệp được coi là một doanh nghiệp nhận đầu tư trực tiếp khi doanh
nghiệp có tư cách pháp nhân, hoặc không có tư cách pháp nhân, trong đó nhà
đầu tư nước ngoài sở hữu ít nhất 10% các cổ phiếu thường hoặc quyền biểu
quyết của doanh nghiệp (mức tối thiểu để được công nhận cho phép nhà đầu
tư nước ngoài tham gia thực sự vào quản lý doanh nghiệp).
Có ba yếu tố chính cấu thành nên đầu trực tiếp nước ngoài :
- Vốn cổ phần
- Thu nhập được tái đầu tư dưới hình thức vốn chủ sở hữu
- Các khoản vay trong nội bộ công ty.
Việc so sánh giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài với các nguồn vốn nước
ngoài khác (mà cụ thể là nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài) sẽ giúp ta
hiểu rõ hơn về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Điểm khác biệt cơ bản nhất giữa
chúng đó là sự khác nhau về cơ chế quản lý và sử dụng vốn. Nhà đầu tư trực

7
tiếp có quyền khống chế vốn và doanh nghiệp đầu tư, còn nhà đầu tư gián tiếp
không có quyền khống chế, mà chỉ có thể thu lợi tức trái phiếu, cổ phiếu và
tiền lãi.
Bên cạnh đấy, quan hệ đầu tư trực tiếp nước ngoài là quan hệ mang
tính chất kinh doanh là chủ yếu. Thường tuân theo các quy luật kinh tế thị
trường, ít chịu sự tác động của các quan hệ chính trị, và không đi kèm các
điều kiện ràng buộc, vì thế việc tiếp nhận nguồn vốn FDI không gây phát sinh
nợ cho các nước nhận đầu tư. Đây chính là ưu thế lớn của FDI so với các
nguồn vốn đầu tư nước ngoài khác. Còn đối với đầu tư gián tiếp, mục đích
chính của các nhà đầu tư không phải là kinh doanh, quan hệ trong đầu tư gián
tiếp lại chịu nhiều ảnh hưởng của các quan hệ chính trị giữa các nước, nên
việc tiếp nhận đầu tư gián tiếp có nguy cơ biến nước tiếp nhận đầu tư thành
“con nợ”.
Điểm khác biệt nữa đó là về chủ thể đầu tư. Đầu tư trực tiếp nước ngoài
có thể do các cá thể hoặc chủ thể kinh doanh thực hiện. Còn đầu tư gián tiếp
chủ yếu được thực hiện bởi các quốc gia, các tổ chức quốc tế phi chính phủ,

2.2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài
Theo quy định của Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, đầu
tư trực tiếp nước ngoài được thực hiện chủ yếu dưới các hình thức sau :
- Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh :
Đây là một loại hình đầu tư trong đó các bên tham gia hợp đồng ký kết
để tiến hành một hay nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước nhận đầu
tư, trên cơ sở quy định rõ đối tượng, nội dung kinh doanh, nghĩa vụ, trách
nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho các bên tham gia.
Đặc điểm cơ bản của hình thức đầu tư này không cần phải thành lập
một pháp nhân mới. Việc ký kết hợp đồng hợp tác kinh doanh được tiến hành
bởi đại diện có thẩm quyền của hai bên. Hai bên tự thoả thuận với nhau về nội
8

dung, thời hạn có hiệu lực của hợp đồng và phải qua xét duyệt của cơ quan có
thẩm quyền của nước nhận đầu tư (tại Việt Nam là Bộ Kế hoạch và Đầu tư).
Mặc dù khá đa dạng và không đòi hỏi một khối lượng lớn, song thời
gian hợp đồng thường ngắn nên các nhà đầu tư nước ngoài thường không ưa
thích loại hình đầu tư này.
- Doanh nghiệp liên doanh :
Đây là hình thức đầu tư mà vốn do hai bên cùng góp theo một tỷ lệ nhất
định để thành lập một doanh nghiệp mới có hội đồng quản trị và ban điều
hành chung, cùng kinh doanh, cùng hưởng lợi và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ góp
vốn. Doanh nghiệp liên doanh chủ yếu là dưới hình thức công ty trách nhiệm
hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo luật pháp của nước nhận đầu tư. Cả hai
bên đều phải có trách nhiệm với nhau, và doanh nghiệp liên doanh trong
phạm vi phần vốn góp của mình trong vốn pháp định. Tỷ lệ góp vốn của bên
nước ngoài (hoặc các bên nước ngoài) do các bên liên doanh tự thoả thuận với
nhau.
Ví dụ : Theo Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam, tỷ lệ góp vốn của
bên nước ngoài không được thấp hơn 30% vốn pháp định của doanh nghiệp
và không được phép giảm vốn pháp định trong quá trình hoạt động. Nhưng tỷ
lệ này có thể thấp đến 20% nếu là đối với các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng
tại các vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, kém phát triển, các dự án
đầu tư vào miền núi, vùng sâu, vùng xa và các dự án trồng rừng.
Theo luật Mỹ, tỷ lệ này được quy định là 10%, Anh và Pháp là 20%.
Còn theo quy định của OECD (1996) thì tỷ lệ này là 10%.
Loại hình doanh nghiệp liên doanh này rất được các nhận đầu tư ưa
thích. Vì đây chính là cơ hội để những nước này có điều kiện để học tập kinh
nghiệm quản lý, nâng cao trình độ cho người lao động, cải tiến công nghệ,
qua đó có thể tạo được chỗ đứng trên thị trường thế giới. Tuy nhiên, điều khó
khăn khi áp dụng hình thức đầu tư này đó là nước nhận đầu tư phải có khả
9
năng góp vốn, có đủ điều kiện tham gia quản lý doanh nghiệp với người nước

ngoài thì mới mong đạt được hiệu quả như mong muốn.
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài :
Đây là loại hình doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài
(có thể là một cá thể hay một tổ chức nước ngoài) do nhà đầu tư nước ngoài
thành lập tại nước nhận đầu tư, tự quản lý, tự chịu trách nhiệm về kết quả sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Loại hình doanh nghiệp này được thành
lập chủ yếu dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân
theo luật pháp của nước nhận đầu tư.
Lúc đầu, các nhà đầu tư nước ngoài không ưa thích hình thức đầu tư
này. Vì như thế họ sẽ phải chịu rủi ro rất lớn. Còn nước nhận đầu tư cũng
không thích, do họ không được chia sẻ lợi nhuận, không học tập được kinh
nghiệm quản lý và không quản lý được hoạt động của doanh nghiệp. Song
trong thời gian gần đây, hình thức đầu tư này ngày càng được các nhà đầu tư
nước ngoài ưa thích hơn, vì họ có được quyền chủ động trong việc quản lý
doanh nghiệp và được hưởng toàn bộ lợi nhuận do kết quả đầu tư tạo ra (do
họ chỉ phải làm nghĩa vụ tài chính đối với nước nhận đầu tư). Những dự án
đầu tư đòi hỏi vốn lớn, thời gian thu hồi vốn lâu, độ rủi ro cao và đòi hỏi
nhiều kinh nghiệm trong quản lý và giám sát thực hiện (như các dự án đầu tư
xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, các dự án khai thác dầu khí, …) thường do
nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn 100%.
Ngoài các hình thức cơ bản trên, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn được
thực hiện dưới các hình khác, như :
- Hợp đồng xây dựng – kinh doanh - chuyển giao (B.O.T) :
Với hình thức đầu tư này, các nhà đầu tư chịu trách nhiệm tiến hành
xây dựng công trình, kinh doanh và có lợi nhuận. Sau khi kết thúc dự án, nhà
đầu tư sẽ chuyển giao cho nước chủ nhà toàn bộ công trình mà không thu
một khoản tiền nào
10
- Hợp đồng xây dựng - chuyển giao – kinh doanh (B.T.O) :
Sau khi xây dựng xong công trình, nhà đầu tư sẽ tiến hành chuyển giao

cho nước nhận đầu tư toàn bộ công trình. Chính phủ nước nhận đầu tư sẽ giao
quyền kinh doanh công trình này cho nhà đầu tư trong một thời gian nhất định
để họ thu hồi được vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý.
- Hợp đồng xây dựng - chuyển giao (B.T) :
Đối với loại hình này, nhà đầu tư sẽ chuyển giao toàn bộ công trình cho
nước nhận đầu tư sau khi xây dựng xong. Nước nhận đầu tư sẽ tạo điều kiện
cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện các dự án khác để thu hồi đủ vốn đầu tư
và có được lợi nhuận hợp lý.
Các hình thức đầu tư này chủ yếu là được áp dụng đối với các công
trình xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật.
Vốn để thực hiện các hợp đồng này thường là 100% vốn nước ngoài
cộng với vốn của của Chính phủ, hoặc các cá nhân, tổ chức nước nhận đầu tư.
Vì thế đây cũng có thể coi là những trường hợp đặc biệt của hình thức đầu tư
100% vốn nước ngoài.
- Khu công nghiệp, khu chế xuất :
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, khu công nghiệp là khu chuyên
sản xuất hàng hoá công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất cho
chính phủ thành lập hoặc cho phép thành lập.
Còn khu chế xuất là khu vực lãnh thổ có ranh giới địa lý xác định do
chính phủ nước nhận đầu tư cho phép thành lập, trong đó có thể có một hoặc
nhiều xí nghiệp sản xuất hàng hoá chủ yếu là phục vụ xuất khẩu hoặc thay thế
nhập khẩu.
Việc xây dựng các khu công nghiệp và khu chế xuất để nhằm thu hút
FDI là điều khá mới mẻ ở nước ta, song đây lại là một phương pháp thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài khá phổ biến và tương đối có hiệu quả ở những
nước đang phát triển.
2.3. Các nhân tố chi phối đầu tư trực tiếp nước ngoài
11
Theo các kết quả khảo sát cho thấy, đối với đa số các ngành dịch vụ và
sản xuất, thì mục đích tăng cường thâm nhập thị trường và giảm chi phí hoạt

động kinh doanh được cho là quan trọng nhất trong các mục đích của những
chiến lược mở rộng ra nước ngoài. Tiếp theo đó là mục đích tạo nguồn
nguyên liệu mới.
Hình 1 : Các mục đích quan trọng nhất đối với việc mở rộng quốc tế (%)
Tăng cường thâm nhập thị trường 55%
Giảm chi phí hoạt động kinh doanh 17%
Tạo nguồn nguyên liệu 6%
Hợp nhất các hoạt động kinh doanh 4%
Phát triển sản phẩm mới 4%
Nâng cao năng suất 2%
Phát triển công nghệ mới 2%
Tăng cường thâm nhập nguồn lao động 1%
Giảm rủi ro 1%
Khác 8%
Nguồn : MIGA - Điều tra trực tiếp nước ngoài, tháng 1 năm 2002
2.4. Các lợi ích thu được từ đầu tư trực tiếp nước ngoài
Kinh nghiệm phát triển của nhiều nước cho thấy rằng nguồn vốn FDI
ngày càng có vai trò hết sức quan trọng, là yếu tố thúc đẩy quá trình tăng
trưởng và phát triển kinh tế của hầu hết các quốc gia, đặc biệt là những nước
đang phát triển. Nó có thể mang lại cho nước nhận đầu tư nhiều lợi ích khác
nhau. Có những lợi ích trực tiếp có thể nhận thấy dễ dàng, và có những lợi ích
gián tiếp, khó có thể nhận ra được. Song, nói chung, các lợi ích thu được từ
việc thu hút FDI thường bao gồm:
- Việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần thúc đẩy nhanh
quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở những nước đang phát triển, tạo
tốc độ tăng trưởng nhanh.
12
Phần lớn ở những nước đang phát triển, tỷ lệ tích luỹ nội bộ thường
thấp, điều này đã gây ảnh hưởng không ít đến quá trình phát triển. Vì thế việc
thu hút FDI là hết sức cần thiết, góp phần giải quyết được bài toán thiếu vốn

đầu tư cho quá trình phát triển. Trong thực tế, FDI đã có đóng góp rất tích cực
vào quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế ở các nước, đặc biệt là ở những
nước đang phát triển, và là nguồn vốn bổ sung quan trọng góp phần đẩy
nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
- FDI thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Ngày này, FDI đã trở thành một trong những nhân tố chính thúc đẩy
nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá -
hiện đại hoá, phù hợp với xu thế chung ttrên thế giới, tạo điều kiện cho các
nước tiếp cận được với nền kinh tế thị trường hiện đại trên thế giới.
- FDI góp phần giải quyết được việc làm và đào tạo nguồn nhân lực
Đây là lợi ích thường đi kèm với đầu tư trực tiếp nước ngoài. Cùng với
việc tiếp nhận các nguồn vốn đầu tư là sự ra đời của rất nhiều các doanh
nghiệp liên doanh, các công ty 100% vốn nước ngoài ở các nước, thu hút
được rất nhiều lao động. Điều này đã góp phần giải quyết được tình trạng thất
nghiệp ở những nước nhận đầu tư.
Bên cạnh đấy, qua việc hợp tác đầu tư, một số lượng lao động đáng kể
đã được đào tạo, nâng cao được năng lực quản lý, trình độ chuyên môn, kỹ
thuật, có thể thay thế cho các chuyên gia nước ngoài. Không chỉ thế, việc hợp
tác kinh doanh với người nước ngoài còn giúp người lao động tiếp thu được
công nghệ mới, rèn luyện tác phong làm việc, và thích ứng dần với cơ chế lao
động mới.
FDI còn đem lại thu nhập đáng kể cho người lao động, góp phần nâng
cao sức mua của xã hội. Thu nhập bình quân của lao động làm việc trong khu
vực FDI thường cao hơn thu nhập bình quân của lao động làm việc tại các
doanh nghiệp trong nước.
- FDI góp phần làm tăng nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước
13
Đóng góp cho ngân sách của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài cũng rất đáng kể (thông qua việc thu thuế, phí và các nghĩa tài chính
khác của các doanh nghiệp), ngày càng tăng lên, đem lại nhiều lợi ích cho

ngân sách, làm tăng nguồn thu của Chính phủ.
- FDI tăng cường chuyển giao công nghệ
FDI là nguồn chuyển giao công nghệ chính ở những nước mà cơ sở hạ
tầng kỹ thuật còn lạc hậu, nâng cao năng lực sản xuất của nền kinh tế với
nhiều công nghệ mới được áp dụng, tạo ra bước ngoặt quan trong trong quá
trình phát triển của một số ngành kinh tế mũi nhọn. Bên cạnh đấy, chuyển
giao công nghệ thông qua FDI còn góp phần thúc đẩy các ngành nghề mới
phát triển, đặc biệt là những ngành nghề đòi hỏi cao về kỹ thuật và công nghệ.
- Tác động tích cực tới đầu tư trong nước
Cùng với sự gia tăng của các nguồn vốn FDI, các nguồn vốn trong
nước cũng tăng lên đáng kể, đồng thời làm tăng khả năng thu hút các nguồn
vốn đầu tư nước ngoài khác. Điều này chứng tỏ việc huy động FDI đã có tác
động tích cực đến việc huy động vốn từ các nguồn khác, đặc biệt là vốn trong
nước và nguồn vốn ODA.
- Hoạt động thu hút FDI cũng đã có tác động đáng kể đến các hoạt
động xuất khẩu
Một phần quan trọng của FDI được hướng vào xuất khẩu, điều này đã
tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình mở rộng thị trường, qua đó nâng cao
được năng lực xuất khẩu (do các doanh nghiệp nước ngoài có khả năng tham
gia vào thị trường xuất khẩu dễ dàng hơn so với các doanh nghiệp trong
nước). Rất nhiều quốc gia đã sử dụng FDI như một cách để nâng cao mức
xuất khẩu của mình và cải thiện được doanh thu.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài thúc đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế
Bên cạnh những lợi ích trên, việc thu hút FDI cũng có những hạn chế
nhất định, như:
14
- Số dự án đầu tư nước ngoài không được phân bổ một cách đồng đều
giữa các lĩnh vực, các vùng, có thể dẫn đến sự phát triển không cân đối giữa
các ngành, và làm gia tăng phân hoá giàu nghèo giữa các vùng, các miền.

- Đầu tư chủ yếu là để phục vụ tiêu dùng trong nước, các ngành thiết
yếu quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân còn ít được quan tâm, đầu tư.
- Việc tiếp nhận quá nhiều vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ làm tăng
tính lệ thuộc vào nước ngoài.
- Một số nhà đầu tư nước ngoài đã lợi dụng vào để hoạt động tình báo
và gây rối loạn trật tự trị an.
- Đa số vẫn chưa có định hướng và quy hoạch rõ ràng cho việc đầu tư
nước ngoài, điều này đã gây không ít khó khăn cho nền sản xuất trong nước.
Mặc dù còn có một số mặt hạn chế, nhưng đầu tư trực tiếp nước ngoài
vẫn luôn là một trong những nguồn vốn quan trọng, và hết sức cần thiết đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia, đặc biệt là ở những nước
đang phát triển đang phải đối mặt với sự thiếu thốn các nguồn lực cần thiết
(vốn, công nghệ, lao động có trình độ, …) cho sự phát triển.
3. Chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Đảng và Nhà
nước ta
Việc xác lập quan hệ quốc tế trong đầu tư đã được Đảng và Nhà nước
ta khẳng định là tất yếu, khách quan. Sau chiến tranh, về cơ bản Việt Nam vẫn
là một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, sản xuất nhỏ, thu nhập bình
quân đầu người tương đối thấp so với thế giới, đời sống của nhân dân hết sức
khó khăn. Do đó, Việt Nam rất cần huy động mọi nguồn lực trong nước cũng
như ngoài nước nhằm khôi phục và phát triển kinh tế, cải thiện đời sống cho
nhân dân. Với sự thay đổi trong nhận thức, Đảng và Nhà nước ta đã nhận thấy
sự cần thiết phải mở cửa nền kinh tế, từ sau Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam
lần thứ VI, chính sách mở cửa của Việt Nam được thực hiện. Và Luật đầu tư
trực tiếp nước ngoài của Việt Nam đã được ra đời.
15
Quan điểm cơ bản của nước ta trong chính sách hợp tác đầu tư nước
ngoài là:
- Bình đẳng và hai bên cùng có lợi. Nghĩa là vừa bảo đảm có lợi cho
ta, đồng thời bảo đảm những lợi ích chính đáng của đối tác nước

ngoài.
- Bảo vệ độc lập, chủ quyền, an ninh, quốc phòng và mục tiêu tiến lên
chủ nghĩa xã hội của Vịêt Nam
Hiểu một cách chung nhất, môi trường đầu tư là tổng hoà các yếu tố
bên ngoài có liên quan đến hoạt động đầu tư. So với các nước đang phát triển,
đặc biệt là những nước trong khu vực, môi trường đầu tư của nước ta có nhiều
điểm mạnh, đồng thời cũng có hạn chế nhất định cần phải khắc phục.
Qua việc sử dụng ma trận SWOT để phân tích về môi trường đầu tư
của Việt Nam đã cho thấy những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và nguy cơ
của Việt Nam như sau:
3.1. Những điểm mạnh
- Đầu tiên phải kể đến đó là nguồn nhân công dồi dào với giá lao động
khá ổn định và có mức tương đối thấp so với các nước khác trong khu vực
(giá lao động ở các nước này đang có xu hướng tăng nhanh). Mà giá lao động
luôn là yếu tố được đặc biệt quan tâm trong sản xuất.
- Với sự khá ổn định về chính trị, Việt Nam luôn là nước có môi trường
đầu tư tương đối an toàn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Sau sự kiện ngày
11 tháng 9, tổ chức Tư vấn rủi ro Kinh tế và Chính trị (PERC) tại Hồng Kông
đã xếp Việt Nam ở vị trí thứ nhất về khía cạnh ổn định chính trị và xã hội.
Bên cạnh đấy, so với các nước trong khu vực (Malayxia, Inđônêxia, Philiphin,
…) Việt Nam ít có các vấn đề liên quan đến tôn giáo hơn. Không chỉ thế, sau
khi thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế, Việt Nam luôn đạt được tốc độ
tăng trưởng cao và ổn định. Với sự ổn định về chính trị - xã hội và khả năng
duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, Việt Nam luôn được đánh giá là nơi an
toàn để đầu tư.
16
- Không chỉ có vậy, với nguồn tài nguyên thiên nhiên hết sức phong
phú (bao gồm nhiều loại: dầu khí, quặng kim loại, khi đốt, than, …) vẫn chưa
được khai thác nhiều chính là ưu thế của Việt Nam so với các nước khác (ở
những nước này, các nguồn tài nguyên hầu hết đã được khai thác nhiều và

dần trở nên khan hiếm).
- Việt Nam còn là nước có vị trí địa lý hết sức thuận lợi (nằm ở trung
tâm của khu vực Đông Nam Á), chính điều này đã làm cho Việt Nam có cơ
hội mở rộng giao lưu với các nước trên thế giới và trong khu vực.
- Bên cạnh đấy, với dân số hơn tám mươi triệu người, Việt Nam sẽ trở
thành thị trường tiêu thụ rất lớn cho các sản phẩm.
3.2. Những điểm yếu
- Mặc dù lực lượng lao động khá dồi dào nhưng chất lượng lao động
nói chung còn thấp, vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Tỷ lệ người lao động đã
qua đào tạo không đáng kể (chỉ gần 12% lực lượng lao động), và thiếu trầm
trọng. Cơ sở hạ tầng phục vụ cho việc đào tạo người lao động kém, hệ thống
giáo dục và đào tạo không phù hợp.
- Chi phí kinh doanh ở Việt Nam tương đối cao so với nước trong khu
vực. Đây là điểm bất lợi chính của Việt Nam. Hệ thống hai giá không ảnh
hưởng đáng kể đến chi phí kinh doanh nhưng tạo ra ấn tượng không tốt đối
với nhà đầu tư nước ngoài. Điều này đã ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường
đầu tư của Việt Nam.
- Cơ sở hạ tầng yếu kém vào bậc nhất so với các nước trong khu vực.
Đây là trở ngại tương đối lớn trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài cho sự
phát triển kinh tế - xã hội.
- Hệ thống ngân hàng chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của khách
đầu tư, hệ thống kế toán chưa đồng bộ với quốc tế.
- Kỹ thuật sản xuất còn lạc hậu, sản xuất ở quy mô nhỏ lẻ vẫn còn
chiếm tỷ lệ đáng kể. Trình độ quản lý kém, kỷ luật lao động không nghiêm.
17
- Việc áp dụng các kỹ thuật tiên tiến trong các ngành, các lĩnh vực đòi
hỏi công nghệ cao (như: dầu khí, năng lượng, điện tử, viễn thông, …) vẫn còn
hạn chế. Điều này thực sự gây khó khăn cho các dự án đầu tư trực tiếp nước
ngoài dưới dạng đầu tư vốn là công nghệ.
- Một hạn chế nữa phải kể đến đó là sự thiếu ổn định, chặt chẽ của hệ

thống luật pháp. Hệ thống văn bản luật và dưới luật liên quan đến đầu tư trực
tiếp nước ngoài còn thiếu nhiều, phức tạp, lại hay thay đổi đã gây tâm lý e
ngại cho các nhà đầu tư nước ngoài.
3.3. Những cơ hội
- Việc sắp gia nhập WTO sẽ đem lại cho Việt Nam nhiều cơ hội được
tiếp cận với thị trường thế giới, qua đó mở rộng được thị trường. Không chỉ
có vậy, điều này sẽ mang lại cho Việt Nam nhiều lợi ích to lớn trong việc
hoàn thiện hệ thống pháp lý, và môi trường kinh doanh do năng lực sản xuất
được nâng cao và sự gia tăng đáng kể của các nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
- Ngoài ra, việc tham gia ký kết các hiệp định đa phương và song
phương sẽ thực sự đem lại cho Việt Nam cơ hội thâm nhập vào các thị trường
khác trong khu vực và trên thế giới.
3.4. Những nguy cơ
- Sự hội nhập vào nền kinh tế thế giới sẽ giúp Việt Nam đạt được tốc
độ tăng trưởng cao. Tuy nhiên chất lượng tăng trưởng có thể không cao, tốc
độ tăng trưởng cao có thể kéo đến sự cạn kiệt tài nguyên thiên thiên nhiên
quốc gia, trong đó có những tài nguyên đặc biệt quý hiếm, và có tác động lớn
đến môi trường sinh thái, gây ô nhiễm môi trường.
- Việc Việt Nam áp dụng chế độ thuế quan cao là để nhằm mục đích
bảo hộ sản xuất trong nước. Chi phí sản xuất của Việt Nam thường lớn hơn so
với hàng nhập khẩu. Việc giảm thuế quan trong thời gian tới sẽ có tác động
đáng kể tới các ngành công nghiệp trong nước vốn đã được Nhà nước bảo hộ.
Các ngành công nghiệp khó có khả năng có thể cạnh tranh được so với các
nước trong khu vực và trên thế giới. Và nếu Việt Nam không có các biện
18
pháp giảm chi phí sản xuất thì sẽ không có khả năng thu hút vốn đầu tư từ
nước ngoài, và tương lai có khả năng sẽ trở thành nước nhập siêu (nhập khẩu
sẽ nhiều hơn xuất khẩu).
Hình 2 : Đánh giá tính cạnh tranh của môi trường đầu tư Việt Nam
Các nhân tố

Việt
Nam
Philiphin Malayxia
Thái
Lan
Trung
Quốc
Chỉ số tin cậy FDI 2 2 3 3 4
Tăng trưởng kinh tế tiềm năng 3 - 2 2 4
Chất lượng cơ sở hạ tầng 1 2 4 4 2
Hệ thống luật pháp 2 3 4 4 2
Hệ thống thuế 2 2 3 3 2
Ổn định chính trị - xã hội 4 2 3 3 3
Ổn định và quản lý tỷ giá ngoại hối 2 2 2 2 3
Mua sắm linh kiến 1 2 3 3 3
Dễ dàng hoạt động kinh doanh 1 2 3 3 2
Nhận biết tham nhũng 1 2 2 2 1
Xếp hạng (4 = khả năng cạnh tranh cao nhất, 1 = khả năng cạnh tranh
kém nhất)
Qua việc phân tích SWOT và bảng trên, mặcdù có nhiều ưu thế và cơ
hội hơn hẳn các nước khác, nhưng môi trường đầu tư Việt Nam vẫn còn tồn
tại nhiều hạn chế, gây trở ngại cho việc thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt
Nam. Để khuyến khích đầu tư, trong chính sách thu hút đầu tư nước ngoài,
Việt Nam đã để cho bên nước ngoài hưởng những ưu đãi tương đối rộng rãi
về mặt lợi nhuận, cũng như đảm bảo an toàn cho quyền lợi chính đáng của họ.
Cụ thể như sau:
- Đối với các dự án đầu tư nước ngoài (kể cả trong nước) được hưởng
thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp với mức ưu đãi.
- Đồng thời cho phép được hưởng ưu đãi thuế nhập khẩu nguyên
nhiên vật liệu.

19
- Đảm bảo quyền quản lý và tự chủ sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các bên tham gia hợp
đồng hợp tác kinh doanh.
- Có những biện pháp để tạo cho nhà đầu tư nước ngoài tâm lý an tâm
khi đầu tư, đảm bảo quyền sở hữu đối với vốn đầu tư và các quyền
lợi khác của người nước ngoài.
II. VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐỐI
VỚI PHÁT TRIỂN NÔNG – LÂM – NGƯ NGHIỆP
1. Vai trò và đặc điểm của ngành nông – lâm – ngư nghiệp
1.1. Vai trò của ngành
Nông nghiệp nói chung là ngành sản xuất hết sức quan trọng của nền
kinh tế nói chung và của kinh tế nông thôn nói chung :
- Trước tiên, đây là ngành thoả mãn nhu cầu to lớn về lương thực - thực
phẩm cho nhân dân, cung cấp những nông sản, lương thực, thực phẩm cơ bản
và thiết yếu cho con người. Nếu nông nghiệp kém phát triển sẽ gây ảnh hưởng
không chỉ đến phát triển kinh tế, mà còn ảnh hưởng đến cả sự ổn định chính
trị và xã hội. Vì thế, ở bất kỳ nước nào (dù là nước giàu hay nước nghèo, phát
triển theo tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa), nông nghiệp vẫn luôn là
ngành sản xuất vật chất có vị trí đặc biệt quan trọng. Do đó trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội, nông nghiệp cần phải được chú ý phát triển hơn
nữa, để có thể đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của con người.
- Thứ hai, ngành sản xuất và cung cấp nguyên vật liệu cho hàng loạt
các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phát triển (công nghiệp chế biến
thực phẩm, công nghiệp dệt, may, công nghiệp giấy, đồ gỗ, …), mà nếu
ngành nông nghiệp phát triển không tốt sẽ có ảnh hưởng nhiều đến xuất khẩu
và hàng tiêu dùng.
20
- Thứ ba, nông nghiệp là nơi có nguồn nhân lực dồi dào, mà qua tăng
năng suất lao động có thể giải phóng được lao động bổ sung cho các ngành

kinh tế khác (các ngành công nghiệp, …).
Đồng thời đây cũng chính là thị trường rộng lớn để tiêu thụ các sản
phẩm của các ngành phi nông nghiệp (công nghiệp, dịch vụ), tạo điều kiện
cho nền kinh tế chung tăng trưởng và phát triển. Nông nghiệp ngày càng được
phát triển theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá, thu nhập của lao động
trong khu vực nông nghiệp sẽ ngày càng tăng. Khi đó mức sống của người
dân sẽ được cải thiện và nâng cao, nông nghiệp nông thôn sẽ dần trở thành thị
trường tiêu thụ rộng lớn và ổn định cho các ngành sản xuất vật chất khác
trong nền kinh tế quốc dân. Do đó, có thể thấy sự phát triển của ngành nông
nghiệp chính là một trong những nhân tố cơ bản và quan trọng thúc đẩy sự
phát triển của các ngành khác, và sự phát triển của nền kinh tế nói chung.
- Thứ tư, ngành đã góp phần vào việc tăng thu nhập và tích luỹ cho nền
kinh tế quốc dân, thông qua việc cung cấp nông sản sản phẩm, đóng thuế, và
đặc biệt là qua xuất khẩu nông sản phẩm. Nông nghiệp là một trong những
ngành chủ yếu cung cấp một khối lượng hàng lớn (nông sản thô hoặc đã qua
chế biến) cho xuất khẩu, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước,qua đó tăng thu
nhập và tích luỹ cho quá trình tái sản xuất và phát triển nền kinh tế quốc dân.
- Thứ năm, việc phát triển tốt nông nghiệp sẽ góp phần quan trọng vào
việc bảo vệ môi trường sinh thái đang có nguy cơ ngày càng bị ô nhiễm nặng
nề, và nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt. Ngược lại, nếu biết
bảo vệ môi trường, khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách hợp
lý sẽ tạo điều kiện cho phát triển nông nghiệp bền vững và có hiệu quả.
1.2. Đặc điểm của ngành
So với các ngành công nghiệp, và dịch vụ, ngành sản xuất nông – lâm –
ngư nghiệp có những đặc điểm khác biệt sau :
- Quá trình sản xuất nông nghiệp luôn gắn liền với quá trình sinh
trưởng của các loại sinh vật (cây trồng, vật nuôi, và các sinh vật khác), mà sự
21
phát triển của các loài sinh vật này lại chịu sự tác động của các yếu tố tự
nhiên (thời tiết, khí hậu, đất đai, thuỷ lợi, …) và tuân theo các quy luật sinh

học. Do đó việc phát triển nông nghiệp đòi hỏi phải có thời gian nhất định, và
phụ thuộc nhiều vào các yếu tố tự nhiên. Việc bố trí sản xuất như thế nào để
có thể đạt được năng suất cao, chất lượng tốt cần phải phù hợp với điều kiện
tự nhiên và các yếu tố sản xuất đầu vào (giống, nước, …).
- Sản phẩm của ngành chủ yếu dưới dạng tươi sống, phải trải qua các
khâu chế biến nhất định mới có thể đưa vào tiêu dùng.
- Trong nông nghiệp, đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt (vừa là đối
tượng lao động, vừa là tư liệu lao động), và không thể thay thế được. Điều
này hoàn toàn khác với ngành công nghiệp và dịch vụ. Ruộng đất thường bị
giới hạn về diện tích, và không thể tăng thêm trong quá trình sử dụng, vì vậy
phải có sự bố trí hợp lý trong quá trình sản xuất để tạo ra năng suất cao. Đồng
thời, hạn chế việc sử dụng đất đai nông nghiệp, đặc biệt là những ruộng đất
tốt vào các mục đích phi nông nghiệp (xây dựng cơ bản, …).
- Sản xuất nông nghiệp có tính chất mùa vụ nhất định. Điều này là do
hai yếu tố cơ bản. Thứ nhất, sản xuất nông nghiệp luôn gắn liền với quá trình
sinh trưởng và phát triển của các loài động, thực vật. Yếu tố thứ hai là do
trong quá trình sản xuất của ngành luôn phải phụ thuộc vào các yếu tố thời
tiết, khí hậu, thuỷ văn, … Chính hai điều này đã làm cho thời gian sản xuất
không trùng khớp với thời gian lao động (khác với trong công nghiệp, thời
gian sản xuất trùng với thời gian lao động), tạo nên tính thời vụ trong lao
động ở nông thôn. Gắn liền với nó là tính thời vụ trong việc sử dụng cơ sở hạ
tầng kỹ thuật ở nông thôn, và thu nhập của lao động trong khu vực nông
nghiệp.
Ngoài những đặc điểm chung của nông nghiệp nói trên, nền nông
nghiệp Việt Nam còn có những đặc điểm riêng :
- Nền nông nghiệp nước ta là một nền nông nghiệp tương đối lạc hậu,
mang tính chất tự cung tự cấp là chính, sản xuất hàng hoá ít phát triển. Giá trị
22
sản xuất của ngành khá thấp. Phần lớn các vùng sản xuất nông nghiệp còn
mang tính chất độc canh (ví dụ : đồng bằng sông Hồng chủ yếu độc canh về

lúa, …). Kim ngạch xuất khẩu của ngành chưa thực sự tương xứng với tiềm
năng.
- Năng suất cây trồng, vật nuôi, năng suất lao động và hiệu quả sử dụng
đất còn thấp. Tỷ lệ lao động trong khu vực nông nghiệp còn cao, mức thu
nhập bình quân đầu người của lao động nông nghiệp so với lao động trong
các khu vực khác là tương đối thấp. Đời sống của lao động nông nghiệp còn
nhiều khó khăn, và thấp hơn hẳn so với nhiều nước trong khu vực và trên thế
giới.
- Ruộng đất canh tác bình quân đầu người thấp và có xu hướng ngày
càng giảm nhanh (do sử dụng đất nông nghiệp vào các mục đích khác, do dân
số ngày càng tăng nên nhu cầu xây dựng cơ bản ngày càng phát triển, …)
- Nước ta nằm trong khu vực nhiệt đới và á nhiệt đới nên nông nghiệp
nước ta cũng có những thuận lợi và khó khăn riêng. Do nằm trong khu vực
nhiệt đới gió mùa nên lượng mưa thu được hàng năm tương đối lớn, cung cấp
nước ngọt cho sản xuất và đời sống, nguồn năng lượng mặt trời và lượng ánh
sáng nhiều đã tạo điều kiện cho hệ thống động thực vật phát triển mạnh và
khá phong phú.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển nông nghiệp nước ta vẫn gặp phải
nhiều khó khăn, như : thiên tai, lũ lụt thường xuyên xảy ra (đặc biệt là ở miền
Nam), khí hẩu ẩm là điều kiện hết sức thuận lợi cho sâu bệnh phát triển, gây
tổn thất lớn cho sản xuất nếu không có các biện pháp tích cực và kịp thời.
2. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với phát triển nông –
lâm – ngư nghiệp
Việt Nam là một nước nông nghiệp đang trong quá trình công nghiệp
hoá - hiện đại hoá, vì thế trong quá trình phát triển, nông nghiệp luôn là ngành
được Đảng và Nhà nước ta ưu tiên đầu tư phát triển. Tuy nhiên, do cơ sở hạ
tầng nông thôn yếu kém, nên tỷ trọng thu hút vốn đầu tư vào ngành còn khá
23
khiếm tốn so với các ngành khác. Để có thể khắc phục được tình hình trên,
bên cạnh mục tiêu huy động vốn đầu tư, còn cần phải tìm kiếm các công nghệ

mới, tiên tiến áp dụng vào lĩnh vực này, và cần phải có một lực lượng lao
động có kỹ năng. Một trong những giải pháp để giải quyết các vấn đề trên đó
là mở rộng hợp tác quốc tế, trong đó có thu hút đầu tư trực tiếp nươc ngoài.
Đối với Việt Nam, FDI có vai trò thực sự quan trọng đối với sự phát triển của
đất nước, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp :
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nông nghiệp góp phần tích cực vào
quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng hiện đại, đặc biệt là ở các
vùng kinh tế - xã hội khó khăn.
- Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo thêm được nhiều
việc làm mới cho người lao động ở nông thôn, góp phần tăng thu nhập, cải
thiện đời sống kinh tế - xã hội ở nhiều vùng nông thôn.
- Sản phẩm, dịch vụ của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
được trao đổi, mua bán trên thị trường quốc tế khá thuận lợi. Qua đó có thể
giới thiệu được nông sản trong nước với thế giới, tạo điều kiện cho nông sản
trong nước thâm nhập vàp thị trường thế giới, góp phần nâng cao kim ngạch
xuất khẩu chung của toàn ngành.
- Các dự án đầu tư nước ngoài sẽ đưa vào cho ngành nông nghiệp Việt
Nam nhiều thiết bị, công nghệ mới hiện đại, nhiều giống cây con có năng suất
cao, phẩm chất tốt, đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Có thể thấy, FDI có vai trò đặc biệt quan trọng, vì thế việc thu hút đầu
tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp là tất yếu khách quan, và là
điều kiện cơ bản để phát triển nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá - hiện
đại hoá, phù hợp với xu thế chung của thế giới.
III. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRONG THU HÚT
FDI VÀO LĨNH VỰC NÔNG – LÂM – NGƯ NGHIỆP
24
1. Các quy định về khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
lĩnh vực nông nghiệp
Hầu hết các nước trong khu vực đều thực hiện các chính sách khuyến
khích và dành nhiều ưu đãi cho các dự án đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực

nông – lâm – ngư nghiệp. Các ưu đãi phổ biến được các nước này áp dụng là :
1.1. Ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp
Trung Quốc và hầu hết các nước ASEAN đều áp dụng thuế suất ưu đãi,
hoặc miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp trên cơ sở các tiêu chí về lĩnh
vực đầu tư, tỷ lệ xuất khẩu sản phẩm, trình độ công nghệ, địa bàn đầu tư, …
Ở mỗi nước, mức thuế suất được quy định khác nhau, nhưng thường phổ biến
từ 10% đến 35%. Ngoài ra, nhiều nước còn áp dụng miễn giảm thuế thu nhập
doanh nghiệp đối với các dự án đầu tư vào các lĩnh vực mới (Pioneer Project)
hoặc mở rộng.
1.2. Ưu đãi về thuế nhập khẩu
- Một trong các biện pháp khuyến khích đầu tư được các nước trong
khu vực áp dụng đó là ưu đãi về miễn, giảm thuế nhập khẩu. Ngoài yêu cầu
hàng hoá nhập khẩu phải thuộc vốn đầu tư và trực tiếp sử dụng cho dự án,
việc miễn giảm thuế nhập khẩu thường được xem xét trên cơ sở một số điều
kiện nhất định khác.
Ví dụ : Thái Lan chỉ miễn hoặc giảm 50% thuế nhập khẩu đối với máy
móc, thiết bị nhập khẩu để thực hiện dự án được Cơ quan quản lý đầu tư
(BOI) công nhận là dự án khuyến khích đầu tư.
- Hầu hết các nước trong khu vực đều miễn thuế nhập khẩu đối với
nguyên, vật liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu.
Ví dụ : Ở Thái Lan, đối với các dự án đầu tư vào các địa bàn đặc biệt
khuyến khích đầu tư và xuất khẩu ít nhất 30% sản phẩm, thì được miễn thuế
nhập khẩu nguyên vật liệu thiết yếu trong 5 năm.
Còn ở Malayxia, theo quy định của luật pháp Malayxia, thì nguyên vật
liệu có thuế suất thuế nhập khẩu dưới 3% thì không được miễn thuế.
25

×