Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Một số giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực nông, lâm ,ngư nghiệp giai đoạn 2006 -2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.21 KB, 37 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI NÓI ĐẦU
Như chúng ta đã biết đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai trò hết sức
quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của tất cả các nước trong khu vực và
trên thế giới. Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn vốn này, nên hầu hết
các quốc gia trên thế giới đều có chính sách nhằm thu hút nguồn vốn FDI.
đối với Việt Nam cũng vậy, để hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá -
hiện đại hoá, Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương mở cửa nềnkinh tế nhằm
thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào năm 1987. Chúng ta đã nhận thấy
được vai trò quan trọng của vốn đầu tư nước ngoài trong sự phát triển kinh tế
của đất nước. Sau gần 20 năm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, Việt Nam
đã đạt được nhiều kết quả khả quan, tuy nhiên nếu so với các nước trong khu
vực thì kết quả này còn khá khiêm tốn, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp.
nhận thức được vai trò quan trọng của FDI trong quá trình phát triển kinh tế,
và vị trí của ngành nông nghiệp đối với nước ta, em đã chọn đề tài : “Một số
giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực
nông, lâm ,ngư nghiệp giai đoạn 2006 -2010” làm nội dung chuyên đề thực
tập với mong muốn có thể đóng góp phần nào vảo việc hoàn thiện các chính
sách để tích cực thu hú đầu tư trực tiếp nước ngoài trong giai đoạn tới vào
nước ta.
Chuyên đề thực tập được kết cấu làm 3 phần chính :
Chương I : Đầu tư trực tiếp nước ngoài và kinh nghiệm các nước trong
thu hút đầu tư nước ngoài.
Chương II : Thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh
vực nông, lâm, ngư nghiệp tại Việt Nam trong thời gian qua
Chương II : Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp tại Việt Nam giai đoạn 2006
– 2010
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trong suốt thời gian thực hiện chuyên đề này, với sự hướng dẫn tận


tình của Thạc sĩ Bùi Đức Tuân và các cán bộ phòng Nông, Lâm, Ngư nghiệp -
Cục Đầu tư nước ngoài (thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư) đã giúp em hoàn
thành chuyên đề này đúng tiến độ đề ra.
Em xin chân thành cảm ơn Thạc sỹ Bùi Đức Tuân và các cán bộ phòng
Nông, Lâm, Ngư nghiệp - Cục đầu tư nước ngoài đã tạo điều kiện thuận lợi
cho emhoàn thành chuyên đề này.
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG I
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀ KINH NGHIỆM CÁC
NƯỚC TRONG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI
1. Một số khái niệm cơ bản
1.1. Khái niệm về đầu tư
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đầu tư luôn được coi là một
trong những nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá của phát
triển. Điều này được thể hiện rõ trong các lý thuyết kinh tế, không chỉ trong lý
thuyết kinh tế thị trường, mà cả trong lý thuyết kinh tế kế hoạch hoá tập trung.
Theo nghĩa rộng, đầu tư nói chung là đó là sự hy sinh các nguồn lực ở
hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm mục đích thu về cho người
đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai, lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra
để đạt được các kết quả đó.
Các nguồn lực bỏ ra đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, hay là
sức lao động và trí tuệ. Những kết quả đạt được có thể là sự tăng thêm về quy
mô của tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường sá, của
cải vật chất khác, …), và nguồn nhân lực đó có đủ điều kiện để làm việc với
năng suất cao hơn trong nền sản xuất xã hội. Những kết quả này, đặc biệt là
tài sản tài chính và nguồn nhân lực có vai trò quan trọng không chỉ với người
bỏ vốn đầu tư mà cả đối với cả nền kinh tế. Không chỉ người đầu tư mà cả

nền kinh tế đều được thụ hưởng những kết quả này.
Còn theo nghĩa hẹp, đầu tư được hiểu là chỉ bao gồm những hoạt động
sử dụng các nguồn lực hiện tại, nhằm đem lại cho nền kinh tế - xã hội những
kết quả trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết
quả đó.
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Như vậy, nói chung, khi xem xét trong phạm vi quốc gia thì chỉ có
những hoạt động sử dụng các nguồn lực hiện tại để trực tiếp là tăng các tài
sản vật chất, nguồn nhân lực và tài sản trí tuệ hay duy trì hoạt động của các tài
sản và các nguồn lực sẵn có đều thuộc phạm trù đầu tư dù theo nghĩa hẹp hay
nghĩa rộng.
1.2. Khái niệm về đầu tư nước ngoài
Với sự đổi mới tư duy, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng
12/1986), Đảng và Nhà nước ta trên cơ sở nhận thức lại các quy luật kinh tế
Mác – Lênin, và nhận thức đầy đủ hơn tư tưởng Hồ Chí Minh đã quyết định
đưa đất nước phát triển theo con đường kinh tế mở. Chúng ta đã đề ra nhiều
biện pháp, chính sách đối nội cũng như đối ngoại hợp lý nhằm phát triển đất
nước theo con đường đã chọn. Về đối nội, một trong những chính sách quan
trọng được thực hiện đó là chính sách kinh tế nhiều thành phần nhằm huy
động các nguồn lực đầu tư cho nền kinh tế quốc dân. Về đối ngoại, chúng ta
tiến hành mở cửa nền kinh tế, tăng cường và đẩy mạnh các mối quan hệ với
các nước trong khu vực và trên thế giới. Tháng 12/1987, luật Đầu tư nước
ngoài ra đời. Đây là một lĩnh vực hết sức quan trọng của quan hệ kinh tế đối
ngoại. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thương mại quốc tế, đầu tư nước
ngoài ngày càng được mở rộng hơn trước.
Đầu tư nước ngoài (mà trước đây Lênin gọi là xuất khẩu tư bản) là một
hình thức cơ bản của quan hệ kinh tế đối ngoại. Nó là quá trình trong đó hai
hay nhiều bên (có quốc tịch khác nhau) cùng góp vốn để xây dựng và triển
khai một dự án đầu tư quốc tế nhằm mục đích sinh lợi.

Còn tại Việt Nam, theo quy định của Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài
Việt Nam năm 2000, thì “Đầu tư nước ngoài là việc các nhà đầu tư nước
ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào được chính
phủ Việt Nam chấp thuận để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của
Luật này”.
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đối với nước nhận đầu tư, đầu tư nước ngoài có tác động hai mặt tới sự
phát triển kinh tế xã hội ở các nước này. Một mặt, đầu tư góp phần làm tăng
thêm nguồn vốn, giúp giải quyết được tình trạng thiếu vốn cho đầu tư cho
phát triển kinh tế - xã hội do tích luỹ nội bộ thấp. Cùng với việc cung cấp vốn
qua các hoạt động đầu tư nước ngoài, các nhà đầu tư (các công ty đa quốc gia,
…) đã chuyển giao công nghệ từ nước mình sang các nước nhận đầu tư. Điều
này góp phần cải thiện được công nghệ còn lạc hậu ở nước nhận đầu tư, nâng
cao kinh nghiệm quản lý, năng lực Marketing. Số lượng lao động có việc làm
cũng ngày càng tăng, đội ngũ lao động được đào tạo và rèn luyện về nhiều
mặt (trình độ kỹ thuật, phương pháp làm việc, kỷ luật lao động, …). Đầu tư
nước ngoài còn làm cho các hoạt động đầu tư trong nước phát triển hơn, tăng
khả năng cạnh tranh của sản xuất trong nước, tạo điều kiện khai thác các tài
nguyên phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Chính ưu điểm
này của đầu tư nước ngoài đã có tác động mạnh mẽ đến việc chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, cơ cấu ngành, cơ cấu công nghệ, cơ cấu sản phẩm và lao động, cơ
cấu lãnh thổ theo hướng hiện đại, phù hợp với xu thế chung, tạo điều kiện cho
nước nhận đầu tư mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, tiếp cận được với nền kinh
tế thị trường hiện đại trên thế giới.
Song bên cạnh những lợi ích nhận được, việc thu hút vốn đầu tư nước
ngoài cũng đem lại nhiều bất lợi cho nước nhận đầu tư. Đầu tư nước ngoài có
khả năng làm gia tăng sự phân hoá giàu nghèo giữa các tầng lớp trong xã hội,
giữa các vùng lãnh thổ, làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, gây ô nhiễm môi
trường sinh thái và tăng tính phụ thuộc vào nước ngoài. Do đó, trong quá

trình xây dựng, thẩm định, ký kết và thực hiện triển khai các dự án đầu tư
nước ngoài trong thực tế luôn cần phải có sự tính toán và cân nhắc kỹ những
điều bất lợi trên.
Mặc dù còn hạn chế, nhưng ngày nay đầu tư nước ngoài đã trở thành tất
yếu khách quan. Có thể nói rằng, không một quốc gia nào dù phát triển theo
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
con đường tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa mà lại không cần đến nguồn
vốn đầu tư nước ngoài.
Trên cơ sở căn cứ vào mức độ tham gia quản lý quá trình thực hiện đầu
tư, phát huy tác dụng kết quả đầu tư mà người ta chia đầu tư nước ngoài thành
hai loại chính, đó là đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư gián tiếp nước
ngoài.
2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài
2.1. Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một trong 4 nguồn tài chính nước
ngoài cơ bản chảy vào một nước.
(Các nguồn tài chính nước ngoài cơ bản chảy vào một nước bao gồm:
- Viện trợ phát triển chính thức và phi chính phủ
- Tín dụng từ các ngân hàng thương mại
- Trái phiếu, tín phiếu và cổ phiếu
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài)
Hiểu một cách đơn giản, đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư
trong đó người bỏ vốn đầu tư và người sử dụng là vốn là một chủ thể.
Cụ thể hơn, đầu tư trực tiếp nước ngoài (mà trước đây Lênin gọi là xuất
khẩu tư bản hoạt động) là một hình thức đầu tư mà quyền sử dụng và quyền
sử dụng quản lý vốn của người đầu tư thống nhất với với nhau, tức là người
có vốn đầu tư trực tiếp tham gia vào tham gia vào việc tổ chức quản lý và
điều hành dự án đầu tư, chịu trách nhiệm về kết quả, rủi ro trong kinh doanh,
và thu lợi nhuận.

Theo Quỹ tiền tệ thế giới (IMF) và Tổ chức phát triển hợp tác kinh tế
(OECD), FDI được hiểu định nghĩa bằng một khái niệm rộng hơn, theo đó
FDI là một hình thức đầu tư quốc tế phản ánh mục tiêu thực hiện các lợi ích
dài hạn của một chủ thể cư trú tại một nền kinh tế (được gọi là nhà đầu tư
trực tiếp) thông qua một chủ thể ở một nền kinh tế khác (gọi là doanh nghiệp
nhận đầu tư trực tiếp). Lợi ích dài hạn ở đây hàm ý sự tồn tại lâu dài của mối
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
quan hệ giữa nhà đầu tư trực tiếp và doanh nghiệp nhận đầu tư, và mức độ
ảnh hưởng đáng kể của nhà đầu tư đối với việc quản lý doanh nghiệp này.
Theo IMF, FDI là nhằm đạt được những lợi ích lâu dài của một doanh
nghiệp cư trú trên lãnh thổ của một nền kinh tế khác nền kinh tế nước chủ đầu
tư, với mục đích của nhà đầu tư là giành đựoc quyền quản lý doanh nghiệp
thực sự.
Theo OECD, đầu tư trực tiếp được thực hiện nhằm mục đích thiết lập
các mối quan hệ kinh tế lâu dài với một doanh nghiệp, đặc biệt là những
khoản đầu tư mang lại khả năng tạo ảnh hưởng với việc quản lý doanh nghiệp
nói trên bằng cách :
- Thành lập mới, hoặc mở rộng một doanh nghiệp, hoặc một chi
nhánh thuộc toàn quyền quản lý của chủ đầu tư.
- Mua lại toàn bộ doanh nghiệp đã có.
- Tham gia vào một doanh nghiệp mới
- Cấp tín dụng dài hạn (> 5năm)
Khái niệm có tính bước ngoặt về FDI của OECD đã chỉ rõ ra rằng một
doanh nghiệp được coi là một doanh nghiệp nhận đầu tư trực tiếp khi doanh
nghiệp có tư cách pháp nhân, hoặc không có tư cách pháp nhân, trong đó nhà
đầu tư nước ngoài sở hữu ít nhất 10% các cổ phiếu thường hoặc quyền biểu
quyết của doanh nghiệp (mức tối thiểu để được công nhận cho phép nhà đầu
tư nước ngoài tham gia thực sự vào quản lý doanh nghiệp).
Có ba yếu tố chính cấu thành nên đầu trực tiếp nước ngoài :

- Vốn cổ phần
- Thu nhập được tái đầu tư dưới hình thức vốn chủ sở hữu
- Các khoản vay trong nội bộ công ty.
Việc so sánh giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài với các nguồn vốn nước
ngoài khác (mà cụ thể là nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài) sẽ giúp ta
hiểu rõ hơn về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Điểm khác biệt cơ bản nhất giữa
chúng đó là sự khác nhau về cơ chế quản lý và sử dụng vốn. Nhà đầu tư trực
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tiếp có quyền khống chế vốn và doanh nghiệp đầu tư, còn nhà đầu tư gián tiếp
không có quyền khống chế, mà chỉ có thể thu lợi tức trái phiếu, cổ phiếu và
tiền lãi.
Bên cạnh đấy, quan hệ đầu tư trực tiếp nước ngoài là quan hệ mang
tính chất kinh doanh là chủ yếu. Thường tuân theo các quy luật kinh tế thị
trường, ít chịu sự tác động của các quan hệ chính trị, và không đi kèm các
điều kiện ràng buộc, vì thế việc tiếp nhận nguồn vốn FDI không gây phát sinh
nợ cho các nước nhận đầu tư. Đây chính là ưu thế lớn của FDI so với các
nguồn vốn đầu tư nước ngoài khác. Còn đối với đầu tư gián tiếp, mục đích
chính của các nhà đầu tư không phải là kinh doanh, quan hệ trong đầu tư gián
tiếp lại chịu nhiều ảnh hưởng của các quan hệ chính trị giữa các nước, nên
việc tiếp nhận đầu tư gián tiếp có nguy cơ biến nước tiếp nhận đầu tư thành
“con nợ”.
Điểm khác biệt nữa đó là về chủ thể đầu tư. Đầu tư trực tiếp nước ngoài
có thể do các cá thể hoặc chủ thể kinh doanh thực hiện. Còn đầu tư gián tiếp
chủ yếu được thực hiện bởi các quốc gia, các tổ chức quốc tế phi chính phủ,

2.2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài
Theo quy định của Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, đầu
tư trực tiếp nước ngoài được thực hiện chủ yếu dưới các hình thức sau :
- Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh :

Đây là một loại hình đầu tư trong đó các bên tham gia hợp đồng ký kết
để tiến hành một hay nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước nhận đầu
tư, trên cơ sở quy định rõ đối tượng, nội dung kinh doanh, nghĩa vụ, trách
nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho các bên tham gia.
Đặc điểm cơ bản của hình thức đầu tư này không cần phải thành lập
một pháp nhân mới. Việc ký kết hợp đồng hợp tác kinh doanh được tiến hành
bởi đại diện có thẩm quyền của hai bên. Hai bên tự thoả thuận với nhau về nội
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
dung, thời hạn có hiệu lực của hợp đồng và phải qua xét duyệt của cơ quan có
thẩm quyền của nước nhận đầu tư (tại Việt Nam là Bộ Kế hoạch và Đầu tư).
Mặc dù khá đa dạng và không đòi hỏi một khối lượng lớn, song thời
gian hợp đồng thường ngắn nên các nhà đầu tư nước ngoài thường không ưa
thích loại hình đầu tư này.
- Doanh nghiệp liên doanh :
Đây là hình thức đầu tư mà vốn do hai bên cùng góp theo một tỷ lệ nhất
định để thành lập một doanh nghiệp mới có hội đồng quản trị và ban điều
hành chung, cùng kinh doanh, cùng hưởng lợi và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ góp
vốn. Doanh nghiệp liên doanh chủ yếu là dưới hình thức công ty trách nhiệm
hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo luật pháp của nước nhận đầu tư. Cả hai
bên đều phải có trách nhiệm với nhau, và doanh nghiệp liên doanh trong
phạm vi phần vốn góp của mình trong vốn pháp định. Tỷ lệ góp vốn của bên
nước ngoài (hoặc các bên nước ngoài) do các bên liên doanh tự thoả thuận với
nhau.
Ví dụ : Theo Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam, tỷ lệ góp vốn của
bên nước ngoài không được thấp hơn 30% vốn pháp định của doanh nghiệp
và không được phép giảm vốn pháp định trong quá trình hoạt động. Nhưng tỷ
lệ này có thể thấp đến 20% nếu là đối với các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng
tại các vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, kém phát triển, các dự án
đầu tư vào miền núi, vùng sâu, vùng xa và các dự án trồng rừng.

Theo luật Mỹ, tỷ lệ này được quy định là 10%, Anh và Pháp là 20%.
Còn theo quy định của OECD (1996) thì tỷ lệ này là 10%.
Loại hình doanh nghiệp liên doanh này rất được các nhận đầu tư ưa
thích. Vì đây chính là cơ hội để những nước này có điều kiện để học tập kinh
nghiệm quản lý, nâng cao trình độ cho người lao động, cải tiến công nghệ,
qua đó có thể tạo được chỗ đứng trên thị trường thế giới. Tuy nhiên, điều khó
khăn khi áp dụng hình thức đầu tư này đó là nước nhận đầu tư phải có khả
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
năng góp vốn, có đủ điều kiện tham gia quản lý doanh nghiệp với người nước
ngoài thì mới mong đạt được hiệu quả như mong muốn.
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài :
Đây là loại hình doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài
(có thể là một cá thể hay một tổ chức nước ngoài) do nhà đầu tư nước ngoài
thành lập tại nước nhận đầu tư, tự quản lý, tự chịu trách nhiệm về kết quả sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Loại hình doanh nghiệp này được thành
lập chủ yếu dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân
theo luật pháp của nước nhận đầu tư.
Lúc đầu, các nhà đầu tư nước ngoài không ưa thích hình thức đầu tư
này. Vì như thế họ sẽ phải chịu rủi ro rất lớn. Còn nước nhận đầu tư cũng
không thích, do họ không được chia sẻ lợi nhuận, không học tập được kinh
nghiệm quản lý và không quản lý được hoạt động của doanh nghiệp. Song
trong thời gian gần đây, hình thức đầu tư này ngày càng được các nhà đầu tư
nước ngoài ưa thích hơn, vì họ có được quyền chủ động trong việc quản lý
doanh nghiệp và được hưởng toàn bộ lợi nhuận do kết quả đầu tư tạo ra (do
họ chỉ phải làm nghĩa vụ tài chính đối với nước nhận đầu tư). Những dự án
đầu tư đòi hỏi vốn lớn, thời gian thu hồi vốn lâu, độ rủi ro cao và đòi hỏi
nhiều kinh nghiệm trong quản lý và giám sát thực hiện (như các dự án đầu tư
xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, các dự án khai thác dầu khí, …) thường do
nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn 100%.

Ngoài các hình thức cơ bản trên, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn được
thực hiện dưới các hình khác, như :
- Hợp đồng xây dựng – kinh doanh - chuyển giao (B.O.T) :
Với hình thức đầu tư này, các nhà đầu tư chịu trách nhiệm tiến hành
xây dựng công trình, kinh doanh và có lợi nhuận. Sau khi kết thúc dự án, nhà
đầu tư sẽ chuyển giao cho nước chủ nhà toàn bộ công trình mà không thu
một khoản tiền nào
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Hợp đồng xây dựng - chuyển giao – kinh doanh (B.T.O) :
Sau khi xây dựng xong công trình, nhà đầu tư sẽ tiến hành chuyển giao
cho nước nhận đầu tư toàn bộ công trình. Chính phủ nước nhận đầu tư sẽ giao
quyền kinh doanh công trình này cho nhà đầu tư trong một thời gian nhất định
để họ thu hồi được vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý.
- Hợp đồng xây dựng - chuyển giao (B.T) :
Đối với loại hình này, nhà đầu tư sẽ chuyển giao toàn bộ công trình cho
nước nhận đầu tư sau khi xây dựng xong. Nước nhận đầu tư sẽ tạo điều kiện
cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện các dự án khác để thu hồi đủ vốn đầu tư
và có được lợi nhuận hợp lý.
Các hình thức đầu tư này chủ yếu là được áp dụng đối với các công
trình xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật.
Vốn để thực hiện các hợp đồng này thường là 100% vốn nước ngoài
cộng với vốn của của Chính phủ, hoặc các cá nhân, tổ chức nước nhận đầu tư.
Vì thế đây cũng có thể coi là những trường hợp đặc biệt của hình thức đầu tư
100% vốn nước ngoài.
- Khu công nghiệp, khu chế xuất :
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, khu công nghiệp là khu chuyên
sản xuất hàng hoá công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất cho
chính phủ thành lập hoặc cho phép thành lập.
Còn khu chế xuất là khu vực lãnh thổ có ranh giới địa lý xác định do

chính phủ nước nhận đầu tư cho phép thành lập, trong đó có thể có một hoặc
nhiều xí nghiệp sản xuất hàng hoá chủ yếu là phục vụ xuất khẩu hoặc thay thế
nhập khẩu.
Việc xây dựng các khu công nghiệp và khu chế xuất để nhằm thu hút
FDI là điều khá mới mẻ ở nước ta, song đây lại là một phương pháp thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài khá phổ biến và tương đối có hiệu quả ở những
nước đang phát triển.
2.3. Các nhân tố chi phối đầu tư trực tiếp nước ngoài
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Theo các kết quả khảo sát cho thấy, đối với đa số các ngành dịch vụ và
sản xuất, thì mục đích tăng cường thâm nhập thị trường và giảm chi phí hoạt
động kinh doanh được cho là quan trọng nhất trong các mục đích của những
chiến lược mở rộng ra nước ngoài. Tiếp theo đó là mục đích tạo nguồn
nguyên liệu mới.
Hình 1 : Các mục đích quan trọng nhất đối với việc mở rộng quốc tế (%)
Tăng cường thâm nhập thị trường 55%
Giảm chi phí hoạt động kinh doanh 17%
Tạo nguồn nguyên liệu 6%
Hợp nhất các hoạt động kinh doanh 4%
Phát triển sản phẩm mới 4%
Nâng cao năng suất 2%
Phát triển công nghệ mới 2%
Tăng cường thâm nhập nguồn lao động 1%
Giảm rủi ro 1%
Khác 8%
Nguồn : MIGA - Điều tra trực tiếp nước ngoài, tháng 1 năm 2002
2.4. Các lợi ích thu được từ đầu tư trực tiếp nước ngoài
Kinh nghiệm phát triển của nhiều nước cho thấy rằng nguồn vốn FDI
ngày càng có vai trò hết sức quan trọng, là yếu tố thúc đẩy quá trình tăng

trưởng và phát triển kinh tế của hầu hết các quốc gia, đặc biệt là những nước
đang phát triển. Nó có thể mang lại cho nước nhận đầu tư nhiều lợi ích khác
nhau. Có những lợi ích trực tiếp có thể nhận thấy dễ dàng, và có những lợi ích
gián tiếp, khó có thể nhận ra được. Song, nói chung, các lợi ích thu được từ
việc thu hút FDI thường bao gồm:
- Việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần thúc đẩy nhanh
quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở những nước đang phát triển, tạo
tốc độ tăng trưởng nhanh.
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Phần lớn ở những nước đang phát triển, tỷ lệ tích luỹ nội bộ thường
thấp, điều này đã gây ảnh hưởng không ít đến quá trình phát triển. Vì thế việc
thu hút FDI là hết sức cần thiết, góp phần giải quyết được bài toán thiếu vốn
đầu tư cho quá trình phát triển. Trong thực tế, FDI đã có đóng góp rất tích cực
vào quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế ở các nước, đặc biệt là ở những
nước đang phát triển, và là nguồn vốn bổ sung quan trọng góp phần đẩy
nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
- FDI thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Ngày này, FDI đã trở thành một trong những nhân tố chính thúc đẩy
nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá -
hiện đại hoá, phù hợp với xu thế chung ttrên thế giới, tạo điều kiện cho các
nước tiếp cận được với nền kinh tế thị trường hiện đại trên thế giới.
- FDI góp phần giải quyết được việc làm và đào tạo nguồn nhân lực
Đây là lợi ích thường đi kèm với đầu tư trực tiếp nước ngoài. Cùng với
việc tiếp nhận các nguồn vốn đầu tư là sự ra đời của rất nhiều các doanh
nghiệp liên doanh, các công ty 100% vốn nước ngoài ở các nước, thu hút
được rất nhiều lao động. Điều này đã góp phần giải quyết được tình trạng thất
nghiệp ở những nước nhận đầu tư.
Bên cạnh đấy, qua việc hợp tác đầu tư, một số lượng lao động đáng kể
đã được đào tạo, nâng cao được năng lực quản lý, trình độ chuyên môn, kỹ

thuật, có thể thay thế cho các chuyên gia nước ngoài. Không chỉ thế, việc hợp
tác kinh doanh với người nước ngoài còn giúp người lao động tiếp thu được
công nghệ mới, rèn luyện tác phong làm việc, và thích ứng dần với cơ chế lao
động mới.
FDI còn đem lại thu nhập đáng kể cho người lao động, góp phần nâng
cao sức mua của xã hội. Thu nhập bình quân của lao động làm việc trong khu
vực FDI thường cao hơn thu nhập bình quân của lao động làm việc tại các
doanh nghiệp trong nước.
- FDI góp phần làm tăng nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đóng góp cho ngân sách của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài cũng rất đáng kể (thông qua việc thu thuế, phí và các nghĩa tài chính
khác của các doanh nghiệp), ngày càng tăng lên, đem lại nhiều lợi ích cho
ngân sách, làm tăng nguồn thu của Chính phủ.
- FDI tăng cường chuyển giao công nghệ
FDI là nguồn chuyển giao công nghệ chính ở những nước mà cơ sở hạ
tầng kỹ thuật còn lạc hậu, nâng cao năng lực sản xuất của nền kinh tế với
nhiều công nghệ mới được áp dụng, tạo ra bước ngoặt quan trong trong quá
trình phát triển của một số ngành kinh tế mũi nhọn. Bên cạnh đấy, chuyển
giao công nghệ thông qua FDI còn góp phần thúc đẩy các ngành nghề mới
phát triển, đặc biệt là những ngành nghề đòi hỏi cao về kỹ thuật và công nghệ.
- Tác động tích cực tới đầu tư trong nước
Cùng với sự gia tăng của các nguồn vốn FDI, các nguồn vốn trong
nước cũng tăng lên đáng kể, đồng thời làm tăng khả năng thu hút các nguồn
vốn đầu tư nước ngoài khác. Điều này chứng tỏ việc huy động FDI đã có tác
động tích cực đến việc huy động vốn từ các nguồn khác, đặc biệt là vốn trong
nước và nguồn vốn ODA.
- Hoạt động thu hút FDI cũng đã có tác động đáng kể đến các hoạt
động xuất khẩu

Một phần quan trọng của FDI được hướng vào xuất khẩu, điều này đã
tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình mở rộng thị trường, qua đó nâng cao
được năng lực xuất khẩu (do các doanh nghiệp nước ngoài có khả năng tham
gia vào thị trường xuất khẩu dễ dàng hơn so với các doanh nghiệp trong
nước). Rất nhiều quốc gia đã sử dụng FDI như một cách để nâng cao mức
xuất khẩu của mình và cải thiện được doanh thu.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài thúc đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế
Bên cạnh những lợi ích trên, việc thu hút FDI cũng có những hạn chế
nhất định, như:
14

×