HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
---------------
TIỂU LUẬN
MƠN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN VÀ
NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
ĐỀ TÀI: QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
QUẢN LÝ XÃ HỘI BẰNG PHÁP LUẬT VÀ VẬN DỤNG TRONG XÂY
DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA HIỆN NAY Ở
VIỆT NAM
Giảng viên hướng dẫn
: PGS. TS Trần Thị Minh Tuyết
TS. Lê Thị Thảo
Sinh viên
MSSV
Lớp
TS. Lê Thị Thúy Bình
: Nguyễn Trường Hồng Linh
: 1955330022
: Tư tưởng Hồ Chí Minh K39
Hà Nội – 2021
1
H
o
à
n
g
T
h
ị
L
i
ê
n
Ứ
n
g
d
ụ
n
g
c
ô
n
g
n
g
h
ệ
3
D
t
r
o
n
g
x
â
y
d
ự
n
g
b
à
i
g
i
ả
n
g
đ
i
ệ
n
t
ử
E
-
MỤC LỤC
2
MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hịa. Mặc dù trong q trình xây dựng nhà nước và pháp luật, Chủ tịch Hồ
Chí Minh chưa đề cập trực diện tới khái niệm nhà nước pháp quyền song những
tư tưởng của Người về nhà nước pháp quyền đã được thể hiện từ rất sớm thể
hiện thông qua các tư tưởng của Người về nhà nước, pháp luật, Hiến pháp,
quyền con người.
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn lấy tư tưởng của Người làm kim chỉ nam
cho mọi hành động của Đảng. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI
tiếp tục khẳng định yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa:
“Tiếp tục việc đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo
đảm nhà nước ta thực sự là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng
lãnh đạo… nghiên cứu xây dựng, bổ sung các thể chế và cơ chế vận hành cụ thể
để đảm bảo nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và nguyên
tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp và kiểm sốt
giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.”
Nhiệm vụ này được thể chế hóa trong Khoản 1, Điều 2 Hiến pháp năm 2013 với
quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân…”.
Với quan điểm này nhà nước pháp quyền đã trở thành mơ hình lựa chọn
để thực hiện quyền dân chủ, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, đảm bảo
quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân trên cơ sở phát huy vai trị tối thượng
của Hiến pháp và pháp luật – cơng cụ để Nhân dân giới hạn và kiểm soát quyền
lực nhà nước.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội tại Đại hội Đảng XI (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng Cộng sản Việt
3
Nam tiếp tục khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Điều này tiếp tục
được khẳng định tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 12 (2016) của Đảng
Cộng sản Việt Nam, theo đó cần “Tiếp tục hồn thiện chức năng nhiệm vụ,
quyền hạn, tổ chức của Nhà nước theo qui định của Hiến pháp năm 2013, đáp
ứng các đòi hỏi của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong điều kiện phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Do đó
nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước pháp quyền nói riêng là u cầu bắt buộc để xây dựng và phát triển đất
nước.
Nhận thấy tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền có ý nghĩa
trọng đại đối với sự phát triển của đất nước, đó cũng chính là lí do tơi chọn đề
tài: “Quan điểm Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền quản lý xã hội bằng
pháp luật và vận dụng trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
hiện nay ở Việt Nam”
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề chung về nhà nước pháp quyền, nội
dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền quản lí xã hội
bằng pháp luật, tiểu luận hướng tới mục đích xác định các nguyên tắc, các giá trị
cần kế thừa trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền quản lí xã hội
bằng pháp luật trong bối cảnh hiện nay. Trên cơ sở này, tiểu luận đề xuất các giải
pháp cụ thể để kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền quản lí
xã hội bằng pháp luật.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
4
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền có phạm vi nghiên cứu
rộng với nhiều góc độ tiếp cận. Dưới góc độ tiếp những giá trị cơ bản trong tư
tưởng nhân loại về nhà nước pháp quyền, tiểu luận có nhiệm vụ nghiên cứu để
làm rõ hơn một số vấn đề cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp
quyền quản lí xã hội bằng pháp luật như:
- Nghiên cứu cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp
quyền và những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp
quyền
- Xây dựng một số khái niệm cơ bản có liên quan đến luận án như: nhà
nước pháp quyền, quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhà nước pháp
quyền;
- Đề xuất các giải pháp cụ thể trong việc kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh
về nhà nước pháp quyền để hoàn thiện hệ thống pháp luật trong một số lĩnh vực:
Bảo vệ quyền con người; xây dựng hiến pháp và pháp luật; tổ chức và kiểm soát
quyền lực nhà nước trong bối cảnh hiện nay.
3. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu tư tưởng của Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền quản lí
xã hội bằng pháp luật
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Tiểu luận được thực hiện trên cơ sở những nguyên lý cơ bản của Chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về nhà nước pháp quyền.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
5
- Phương pháp phân tích, tổng hợp; nghiên cứu tư liệu, sự kiện lịch sử
Đây là nguyên tắc quan trọng nhất đối với các cơng trình nghiên cứu về Hồ Chí
Minh.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
- Phương pháp kết hợp lí luận với thực tiễn
5. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn
5.1. Ý nghĩa lí luận
Tiểu luận đã hệ thống lại những nghiên cứu, quan điểm cơ sở lí luận của Hồ Chí
Minh về nhà nước pháp quyền quản lí xã hội bằng pháp luật từ đó đề ra các giải
pháp và vận dụng trong bối cảnh nước ta hiện nay.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
Tiểu luận chứng minh việc kế thừa tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhà
nước pháp quyền là yêu cầu tất yếu để phát triển đất nước góp phần xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh hiện nay
6. Cấu trúc tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận
được kết cấu thành 2 chương:
Chương 1: Quan điểm Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền quản lý xã hội
bằng pháp luật
Chương 2: Vận dụng quan điểm hồ chí minh về Nhà nước pháp quyền quản lý
xã hội bằng pháp luật trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay
6
NỘI DUNG
Chương 1
QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN QUẢN LÝ
XÃ HỘI BẰNG PHÁP LUẬT
1.1. Những vấn đề lí luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
1.1.1. Khái niệm nhà nước pháp quyền
Nhà nước pháp quyền là nhà nước đề cao vai trò của pháp luật trong đời
sống nhà nước và xã hội, được tổ chức, hoạt động trên cơ sở một hệ thống pháp
luật dần chủ, công bằng và các nguyên tắc chủ quyên nhân dãn, phân cơng và
kiểm sốt quyền lực nhà nước nhằm bảo đảm quyền con người, tự do cá nhân,
cơng bằng, bình đắng trong xã hội.
1.1.2. Các đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền
Thứ nhất, Nhà nước pháp quyền là biểu hiện tập trung của chế độ dân
chủ. Dân chủ vừa là bản chất của nhà nước pháp quyền vừa là điều kiện, tiền đề
của chế độ nhà nước.
Mục tiêu của nhà nước pháp quyền là xây dựng và thực thi một nền dân
chủ, đảm bảo quyền lực chính trị thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền
dân chủ của mình thơng qua dân chủ trực tiếp; dân chủ đại diện.
Thứ hai, Nhà nước pháp quyền được tổ chức và hoạt động trong khuôn
khổ Hiến pháp và pháp luật.
Hiến pháp và pháp luật ln giữ vai trị điều chỉnh cơ bản đối với toàn bộ
hoạt động Nhà nước và hoạt động xã hội, quyết định tính hợp hiến và hợp pháp
của mọi tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, không phải mọi
chế độ lập Hiến, mọi hệ thống pháp luật đều có thể đưa lại khả năng xây dựng
nhà nước pháp quyền, mà chỉ có Hiến pháp và hệ thống pháp luật dân chủ, cơng
bằng mới có thể làm cơ sở cho chế độ pháp quyền trong nhà nước và xã hội.
7
Thứ ba, Nhà nước pháp quyền tôn trọng, đề cao và đảm bảo quyền con
người trong mọi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và xã hội.
Quyền con người là tiêu chí đánh giá tính pháp quyền của chế độ nhà
nước. Mọi hoạt động của Nhà nước đều phải xuất phát từ sự tôn trọng và đảm
bảo quyền con người, tạo mọi điều kiện cho công dân thực hiện quyền của mình
theo đúng các quy định của luật pháp. Mối quan hệ giữa cá nhân và nhà nước
được xác định chặt chẽ về phương diện luật pháp và mang tính bình đẳng. Mơ
hình quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân được xác định theo nguyên tắc: Đối với
cơ quan nhà nước chỉ được làm những gì luật cho phép; đối với công dân được
làm tất cả trừ những điều luật cấm.
Thứ tư, quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền được tổ chức và
thực hiện theo các nguyên tắc dân chủ: phân cơng quyền lực và kiểm sốt quyền
lực.
Tính chất và cách thức phân cơng, kiểm sốt quyền lực nhà nước rất đa
dạng, tuỳ thuộc vào chính thể nhà nước ở các nước khác nhau, nhưng đều có
điểm chung là quyền lực nhà nước không thể tập trung vào một người, vào một
cơ quan, mà phải được phân công (phân chia) giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Đồng thời,
việc tổ chức và thực thi quyền lực phải được kiểm soát chặt chẽ với các cơ chế
kiểm soát quyền lực cụ thể kể cả bên trong bộ máy nhà nước và bên ngoài bộ
máy nhà nước.
Thứ năm, nhà nước pháp quyền gắn liền với một cơ chế bảo vệ Hiến pháp
và pháp luật phù hợp.
Nền tảng của nhà nước pháp quyền là Hiến pháp và một hệ thống pháp
luật dân chủ và công bằng, do vậy, một cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật
luôn là một yêu cầu, một điều kiện cần thiết nhằm đảm bảo cho Hiến pháp, pháp
luật luôn được tôn trọng, đề cao và tuân thủ nghiêm minh.
Hình thức và phương thức bảo vệ Hiến pháp và pháp luật ở các quốc gia
có thể đa dạng và khác nhau, nhưng đều hướng tới mục tiêu là bảo đảm địa vị tối
8
cao, bất khả xâm phạm của Hiến pháp, loại bỏ hành vi trái với tinh thần và quy
định của Hiến pháp, không phụ thuộc và chủ thể của các hành vi này. Đồng thời
với bảo vệ Hiến pháp, nhà nước pháp quyền ln địi hỏi phải xây dựng và thực
thi một chế độ tư pháp thật sự dân chủ, minh bạch và trong sạch để duy trì và
bảo vệ pháp chế trong mọi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và xã hội.
Thứ sáu, trong nhà nước pháp quyền, quyền lực nhà nước luôn được giới
hạn trong các mối quan hệ: Nhà nước và kinh tế; Nhà nước và xã hội.
Trong mối quan hệ giữa Nhà nước và kinh tế, vị trí, vai trị, chức năng,
nhiệm vụ của Nhà nước được xác định bởi tính chất, trình độ của các mơ hình
kinh tế thị trường, theo hướng Nhà nước tơn trọng, phát huy các quy luật khách
quan của thị trường, thông qua thị trường để điều tiết các quan hệ kinh tế, đồng
thời khắc phục, hạn chế các mặt tiêu cực của thị trường. Trong mối quan hệ với
xã hội, Nhà nước thông qua luật pháp để quản lý xã hội, tơn trọng đề cao vị trí,
vai trị và quyền tự chủ (tự quản) của các cấu trúc xã hội (các tổ chức xã hội, các
cộng đồng xã hội).
Mối quan hệ giữa Nhà nước, kinh tế, xã hội là mối quan hệ tương tác, quy
định và chi phối lẫn nhau. Nhà nước không đứng trên kinh tế và xã hội. Nhà
nước pháp quyền gắn liền với kinh tế và xã hội, phục vụ kinh tế và xã hội trong
phạm vi Hiến pháp và pháp luật.
1.2. Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền
1.2.1. Quan điểm Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền
Mặc dù Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng có một cơng trình riêng về nhà nước
pháp quyền song những giá trị của tư tưởng nhà nước pháp quyền đã được phản
ánh ở những mức độ khác nhau trong các văn bản chính trị pháp lí của Người
(đặc biệt ở Tuyên ngôn độc lập năm 1945 và Hiến pháp năm 1946). Bởi vậy, tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền là một bộ phận cấu thành trong tư
tưởng Hồ Chí Minh. Tại Đại hội IX (4-2001), Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng
định: Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và
9
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế
thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hóa nhân loại... Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của
nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta.
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh do Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên
soạn đã nêu định nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh như sau:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân đến cách mạng XHCN; là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát
triển chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, đồng thời là sự kết
tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp và giải phóng con người.
Trên cơ sở những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về con người, về
nhà nước, về Hiến pháp và pháp luật, theo em cho rằng: Quan niệm của Chủ tịch
Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền chính là “hệ thống những quan điểm của
Người về một nhà nước được xây dựng và phát triển vì mục tiêu bảo vệ con
người; về vai trò và chức năng của của Hiến pháp và pháp luật trong việc kiểm
soát quyền lực nhà nước và bảo vệ các giá trị dân chủ trên nền tảng một chính
quyền mạnh mẽ và sáng suốt của Nhân dân”.
1.2.2. Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền
Có thể khẳng định 3 trụ cột cơ bản của nguồn gốc tư tưởng pháp quyền
Hồ Chí Minh đó là truyền thống văn hóa Việt Nam, các tư tưởng chính trị pháp
lí trong tinh hoa văn hóa phương Đơng, phương Tây và chủ nghĩa Mác-Lênin.
•
Truyền thống văn hóa Việt Nam
Một trong những đặc trưng tiêu biểu của văn hóa Việt Nam chính là tinh
thần yêu nước, quật khởi chống xâm lăng. Chính chủ nghĩa yêu nước ấy đã thúc
đẩy người thanh niên Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. Trong tác
phẩm Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin, Người viết: "Lúc bấy giờ, tôi ủng
hộ cách mạng tháng 10 chỉ là theo cảm tính tự nhiên... Tơi kính u Lênin vì
10
Lênin là một người yêu nước vĩ đại đã giải phóng cho đồng bào mình... Tơi
tham gia Đảng xã hội Pháp chẳng qua là vì các "ơng bà" ấy - (Hồi đó tơi gọi các
đồng chí của tơi như thế nào) đã tỏ ra đồng tình với tơi, với cuộc đấu tranh của
các dân tộc bị áp bức. Còn Đảng là gì, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là
gì, thì tơi chưa hiểu". Chủ tịch Hồ Chí Minh ln khẳng định: “Dân ta có một
lịng nồng nàn u nước. Đó là truyền thống q báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi
khi tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành một làn sóng vơ
cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm
tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước… Chúng ta có quyền tự hào về những trang
sử vẻ vang thời đại bà Trưng, bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung,
v.v… chúng ta phải ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc, vì các vị ấy là
tiêu biểu cho một dân tộc anh hùng”. Người khẳng định: “Lúc đầu chính là chủ
nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin
theo quốc tế thứ 3”.
•
Các tư tưởng chính trị pháp lí trong tinh hoa văn hóa phương Đơng
Cùng với truyền thống văn hóa dân tộc, trên hành trình tìm đường cứu
nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn chịu sự ảnh hưởng và tiếp thu một cách kế
thừa, chọn lọc các tư tưởng văn hóa phương Đơng, phương Tây để làm giàu cho
vốn tri thức của mình. Khi nhận xét về giá trị của các học thuyết, Chủ tịch Hồ
Chí Minh khẳng định:
Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân.
Tôn giáo của Jêsu có ưu điểm của nó là lịng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có
ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tơn Dật Tiên có ưu
điểm là chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Jêsu,
Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có ưu điểm chung đó sao? Họ đều mưu cầu hạnh phúc
cho loài người, mưu cầu hạnh phúc cho xã hội. Nếu hơm nay họ cịn sống trên
đời này, tơi tin rằng họ nhất định sống chung với nhau rất hồn mỹ như những
người bạn thân thiết. Tơi cố gắng làm một người học trò nhỏ của các vị ấy.
11
Năm 1923, khi trả lời phỏng vấn của nhà báo Nga Ơxíp Manđenxtam, Hồ
Chí Minh nói: “Tơi sinh ra trong một gia đình nhà nho An Nam... Thanh niên
trong những gia đình ấy thường học Khổng giáo, đồng chí chắc biết Khổng giáo
không phải là tôn giáo mà là một thứ khoa học về kinh nghiệm đạo đức và phép
ứng xử. Và trên cơ sở đó người ta đưa ra khái niệm về “thế giới đại đồng”.
Trong thực tiễn quá trình hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã kế thừa, sử dụng nhiều phạm trù, mệnh đề có giá trị của Nho giáo đồng thời
bổ sung, phát triển những nội dung mới, phù hợp với thời đại. Có thể nêu ra một
số phạm trù của Nho giáo được Hồ Chí Minh sử dụng như Nhân, Nghĩa, Trí,
Dũng, Liêm, Trung, Hiếu, v.v.. Việc Hồ Chí Minh cải tạo các phạm trù của Nho
giáo thể hiện rõ nhất ở hai phạm trù Trung và Hiếu. Trong bài nói chuyện tại
Trường Cán bộ tự vệ Hồ Chí Minh, ngày 7-1-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:
“Đạo đức, ngày trước thì chỉ trung với vua, hiếu với cha mẹ. Ngày nay, thời đại
mới, đạo đức cũng phải mới. Phải trung với nước. Phải hiếu với toàn dân, với
đồng bào”. Bên cạnh đó, Người cũng tìm thấy ở Nho giáo những nội dung quan
trọng của tư tưởng nhân nghĩa. Khổng Tử từng giải thích quan điểm của mình về
chữ Nhân, đó là: “Cái đạo của quân tử có 4 điều mà Khâu này chưa làm được
điều nào cả. Cái mà mình muốn con mình đối với mình thì mình làm cho cha
mẹ; cái mà mình muốn anh, chị làm cho mình thì mình làm cho anh em mình;
cái mà mình muốn bề tơi mình làm cho mình thì mình làm cho vua mình; cái
mình muốn bạn bè đối với mình thì mình làm trước cho bạn bè”; “Kỷ sở bất dục,
vật thi ư nhân” (cái gì mình khơng muốn thì mình đừng làm cho người khác);
“kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt nhân” (cái gì mình muốn thì mình
gắng làm cho người khác cũng được như vậy)”.
Mạnh Tử – một học giả tiêu biểu của trường phái Nho gia cũng xuất phát
từ quan điểm “dân vi quí” để lí giải các vấn đề về bản chất quyền lực, ông cho
rằng:
Thiên thời không bằng địa lơi, địa lợi khơng bằng nhân hịa, người nào
được như vậy thì khơng đánh cũng thắng vì được dân là được thiên hạ. Theo
12
ông, thiên tử được chấp nhận phải do dân. Kẻ cầm quyền mà bạo ngược thì kẻ bị
cầm quyền có thể trả lại cái gì mà họ cho mình. Nước mất là chuyện tự nhiên;
dân vi quí, xã tắc thứ chi, quan vi khinh.
Theo đó, những tư tưởng này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng
linh hoạt và thể hiện qua hàng loạt câu nói của Người như “Tự mình phải chính
trước, mới giúp được người khác chính. Mình khơng chính, mà muốn người
khác chính là vơ lý”, “Việc kiến thiết nước nhà phải làm dần dần, không thể một
tháng một năm mà làm hết được. Song ngay từ đầu chúng ta phải làm theo đúng
phương châm: Chúng ta phải hiểu rằng các cơ quan của Chính phủ từ tồn quốc
cho đến các làng đều là cơng bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung cho
dân. Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì có hại cho dân, ta phải
hết sức tránh, chúng ta phải u dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”. Chủ
tịch Hồ Chí Minh cũng phát triển và kế thừa những hạt nhân hợp lí trong tư
tưởng quan điểm của Mạc Tử về người hiền. Mạc Tử cho rằng “nước nhiều
người hiền tài thì nước trị… Người hiền tài là người vừa có đức vừa có tài”.
Trong các nói chuyện của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên đặt ra yêu
cầu về tài và đức đối với người làm cách mạng. Người nói: Cũng như sơng có
nguồn thì mới có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây cũng phải có gốc,
khơng có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức
thì dù tài giỏi mấy cũng khơng lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho
dân tộc, giải phóng cho lồi người là một cơng việc to tát, mà tự mình khơng có
đức, khơng có căn bản thì tự mình đã hủ hố, xấu xa thì cịn làm nổi việc gì.
Trong Bài nói chuyện tại Đại hội sinh viên Việt Nam lần thứ hai, ngày
7/5/1958, Hồ Chí Minh khẳng định:
Thanh niên phải có đức, có tài. Có tài mà khơng có đức ví như một anh
làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những khơng
làm được gì ích lợi cho xã hội, mà cịn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà
khơng có tài ví như ơng Bụt khơng làm hại gì, nhưng cũng khơng lợi gì cho lồi
người. Bỏ qua những yếu tố chưa tích cực, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu ở
13
Phật giáo tư tưởng vị tha, bác ái và yêu thương con người. Người đã “gạn lọc, kế
thừa, cách mạng hóa những hạt nhân hợp lý trong triết lý đạo Phật, nhất là triết
lý đề cao nếp sống đạo đức trong sáng, chủ trương bình đẳng, yêu thương đồng
loại, chống điều ác. Người đã nâng nó lên thành ngọn lửa hun đúc cho truyền
thống yêu nước, nhân ái của dân tộc…”. Người khẳng định một chân lí trong
suốt hành trình cách mạng đó là “Tơi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc,
là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do,
đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành". “Một ngày mà Tổ
quốc chưa thống nhất, đồng bào cịn chịu khổ là một ngày tơi ăn khơng ngon,
ngủ khơng n”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa ở tư tưởng “lục hòa” của
Phật giáo với bản chất là “xây dựng một tập thể gắn bó, đồn kết nhau, nhỏ thì
từng gia đình, lớn thì từng cộng đồng, quốc gia… nhằm kiến tạo một môi trường
chung, giúp nhau phát triển và giải quyết vướng mắc trên tinh thần hịa hợp, chia
sẻ” để hình thành và phát triển tư tưởng đoàn kết dân tộc. Người khẳng định đại
đồn kết dân tộc khơng chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng mà còn là
mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. Theo Người “muốn đồn kết thì
phải biết “Cầu đồng tồn dị”: Lấy cái chung để hạn chế cái riêng, cái khác biệt;
kế thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, đoàn kết của dân tộc; phải khoan
dung, độ lượng với con người; phải chống khuynh hướng: “Cơ độc, hẹp hịi;
đồn kết vơ ngun tắc”. Chính những giá trị tiêu biểu trong các tư tưởng chính
trị pháp lí phương Đơng này đã góp phần hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về
một nhà nước của dân và phục vụ nhân dân.
•
Chủ nghĩa Tam dân của Tơn Trung Sơn
Cơ sở lí luận của cuộc cách mạng do Tơn Trung Sơn lãnh đạo chính là
chủ nghĩa Tam dân mà mục tiêu của nó nhằm lật đổ triều đình nhà Mãn Thanh,
cứu đất nước Trung Quốc khỏi rơi vào tay Nhật và các đế quốc phương Tây (chủ
nghĩa dân tộc), lập ra nền cộng hòa đầu tiên của châu Á, xây dựng một nhà nước
do dân làm chủ (chủ nghĩa dân quyền), nhằm đem lại hạnh phúc ấm no cho dân
(chủ nghĩa dân sinh). Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thấy ở chủ nghĩa Tam dân
14
của Tơn Trung Sơn có nhiều điểm phù hợp với cách mạng Việt Nam cho dù về
cơ bản đây vẫn là học thuyết dân chủ tư sản nên còn hạn chế. Người đã thấy rõ
những hạn chế ấy, “cho nên, khi cụ Phan Bội Châu định chuyển Việt Nam
Quang Phục hội thành Việt Nam Quốc dân Đảng theo cương lĩnh của Tơn Trung
Sơn thì Nguyễn Ái Quốc đã có lời khuyên là không thể dừng lại ở những chủ
trương của Quốc dân Đảng. Hơn nữa khi vận dụng chính sách mà Người cho là
thích hợp với Việt Nam như khẩu hiệu “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” rút ra từ
chủ nghĩa Tam dân và tư tưởng “Tự do – Bình đẳng – Bác ái” của cách mạng
Pháp, thành tiêu ngữ của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thì Người đã phát
triển khái niệm “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” lên một tầm cao mới, mang tính
giai cấp, tính nhân dân, tính dân tộc và tính cách mạng triệt để của một cuộc
cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, lấy chủ nghĩa Mác- Lênin làm nền tảng tư
tưởng”.
•
Các tư tưởng chính trị pháp lí trong tinh hoa văn hóa phương Tây
Cùng với việc lựa chọn đi sang phương Tây để tìm đường cứu nước, Chủ
tịch Hồ Chí Minh muốn tìm hiểu điều gì ẩn sau những khẩu hiệu về Tự do –
Bình đẳng – Bác ái của cách mạng tư sản Pháp. Trong cuộc phỏng vấn Nguyễn
Ái Quốc do nhà văn Nga O.Mandelstam thực hiện, Nguyễn Ái Quốc đã kể rằng:
Khi tôi độ 13 tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe 3 chữ Pháp: Tự do, Bình
đẳng, Bác ái. Đối với chúng tơi, người da trắng nào cũng là người Pháp. Người
Pháp đã nói thế. Và từ thủa ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp,
muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những từ ấy.
Suốt thời gian sống và học tập ở Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp xúc
với văn hóa phương Tây, đọc nhiều tác phẩm của V.Huygo, Vonte, Rutxo…
Trong thời gian ở Mỹ (cuối 1912 đến cuối 1913), Người đã đọc Tuyên ngôn độc
lập năm 1776 của nước Mỹ với những nội dung quan trọng về quyền bình đẳng,
quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc. Tại Pháp, Người đọc Tuyên ngôn về
nhân quyền và dân quyền của cách mạng tư sản Pháp năm 1789. Tuy nhiên
những tư tưởng dân chủ tư sản này chưa giúp Người lí giải tại sao các nước Anh,
15
Pháp, Mỹ sau khi hoàn thành cách mạng dân chủ tư sản, lật đổ chế độ chuyên
chế phong kiến và thừa nhận quyền tự do dân chủ, quyền con người… lại đi xâm
chiếm các nước khác, tước bỏ quyền tự do, bình đẳng của các quốc gia khác. Tại
sao người dân ở các quốc gia được coi là cái nôi của nền dân chủ ấy vẫn bần
hàn, cơ cực. Trong khi khẳng định những giá trị chân chính, những nhân tố tích
cực, tiến bộ của cách mạng tư sản – nhất là tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, tư
tưởng về quyền con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đồng thời đánh giá đúng
những hạn chế của nó. Trong Đường Cách mệnh, Người viết về cách mạng Mỹ:
“Tuy rằng cách mệnh đã thành công hơn đã hơn 150 năm nay, nhưng công nông
vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ lo tính cách mệnh lần thứ hai. Ấy là vì cách mệnh Mỹ là
cách mệnh tư bản, mà cách mệnh tư bản là chưa phải cách mệnh đến nơi”. Đối
với cách mạng Pháp, Người nhận định: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh
Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh khơng đến nơi, tiếng là cộng hịa và
dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục cơng nơng, ngồi thì nó áp bức thuộc
địa…”. Từ những kinh nghiệm này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa
Mác – Lênin. Người xác định đây mới chính là con đường giải phóng dân tộc,
giải phóng con người. Trên cơ sở sự tiếp xúc với những giá trị tiến bộ trong các
học thuyết pháp quyền tư sản, những tư tưởng về dân chủ, tự do, bình đẳng, bác
ái đã được thể hiện trong hàng loạt các tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh như:
Bản án chế độ thực dân Pháp, Người cùng khổ… “Chính các lí thuyết về tổ chức
nhà nước và thực tiễn tổ chức nhà nước ở các quốc gia hiện đại có ảnh hưởng
đến q trình Chủ tịch Hồ Chí Minh tìm kiếm một mơ hình tổ chức nhà nước
phù hợp cho Việt Nam. Học thuyết của các nhà tư tưởng cách mạng tư sản về tổ
chức quyền lực nhà nước, chính thể cộng hịa tổng thống ở Mỹ, chính thể cộng
hịa đại nghị ở Pháp đã ảnh hưởng tới q trình Hồ Chí Minh tìm kiếm một mơ
hình Nhà nước hợp lí cho cách mạng Việt Nam”.
•
Chủ nghĩa Mác – Lênin
Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, chủ nghĩa Mác – Lênin trở thành ngọn cờ lí
luận của giai cấp cơng nhân trên tồn thế giới. Sự thành công của cách mạng
16
tháng 10 Nga năm 1917 đã chi phối mạnh mẽ đến tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Đến tháng 7 năm 1920 Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Sơ thảo lần thứ nhất
những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin. Khi đánh
giá về sự kiện này, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:
Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin
tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà
tơi nói to lên như đang nói trước quần chúng đơng đảo:
Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây
là con đường giải phóng cho chúng ta! Từ đó tơi hồn tồn tin theo Lênin, tin
theo Quốc tế 3. Người khẳng định: bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều,
nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là Chủ nghĩa
Lênin.
Chủ tịch Hồ Chí Minh “khơng chỉ vận dụng mà còn phát triển một cách
sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin. Người coi việc học tập chủ nghĩa Mác – Lênin,
trước hết phải nắm cái cốt lõi, “linh hồn sống” của nó là phép biện chứng, phải
học tập tinh thần của chủ nghĩa Mác – Lênin; học tập lập trường, quan điểm và
phương pháp ấy mà giải quyết tốt những vấn đề thực tế trong công tác cách
mạng của chúng ta. Chân lí là cụ thể, cách mạng là sáng tạo ln thể hiện trong
tư tưởng Hồ Chí Minh. Có thể khẳng định: tư tưởng Hồ Chí Minh nằm trong hệ
tư tưởng Mác – Lênin và chủ nghĩa Mác – Lênin là nguồn gốc chủ yếu trong tư
tưởng Hồ Chí Minh”. Từ sự am hiểu sâu sắc truyền thống văn hóa dân tộc, sự kế
thừa những giá trị tiến bộ trong tinh hoa văn hóa Đơng, Tây “Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã lấy tư tưởng cách mạng và khoa học của các nhà sáng lập chủ nghĩa
Mác – Lênin làm cội nguồn lí luận, nền tảng tư tưởng chủ yếu và là kim chỉ nam
cho hành động. Đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Người đã kế thừa và tiếp thu lí
luận đó một cách có chọn lọc, đồng thời vận dụng và phát triển nó một cách
sáng tạo vào thực tiễn cách mạng Việt Nam để tìm ra con đường cách mạng
đúng đắn cho dân tộc”.
17
1.2.3. Q trình phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp
quyền
1.2.3.1. Giai đoạn trước khi giành chính quyền năm 1945
Đây là giai đoạn hình thành và phát triển của tưởng Hồ Chí Minh về con
đường giải phóng dân tộc, về quyền con người, quyền dân tộc và tư tưởng Hồ
Chí Minh về Hiến pháp. Đây cũng là giai đoạn đặt nền móng cho q trình hình
thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền.
Sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền được đặt
trong bối cảnh xã hội Việt Nam, khi mà trong suốt gần một thế kỷ thực dân Pháp
đã câu kết với giai cấp địa chủ, phong kiến biến Việt Nam thành một nước thuộc
địa nửa phong kiến. Chúng chia cắt Việt Nam – vốn là một quốc gia độc lập
thành 3 kỳ với 3 chế độ khác nhau để cai trị. Với truyền thống yêu nước, tinh
thần nhân ái dân tộc của một quốc gia có hàng nghìn năm lịch sử chống ngoại
xâm, hàng loạt các phong trào cứu nước đã nổ ra trong thời kỳ này như: phong
trào Cần Vương, Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục… Tuy nhiên các phong trào
này đã lần lượt thất bại. Trong bối cảnh đó, Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường
cứu nước. Chính trong q trình này, Nguyễn Ái Quốc ngày càng nhận thức sâu
sắc sở dĩ nhân dân Việt Nam cực khổ là vì mất độc lập, vì bị sự đàn áp dã man
của thực dân Pháp và tay sai phong kiến. Người cũng nhìn thấy sự bần cùng, đói
nghèo của nhân dân các nước thuộc địa và cũng từ đó hình thành ý thức về
quyền dân tộc, quyền con người. Bởi vậy, những tư tưởng đầu tiên về nhà nước
pháp quyền của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là tư tưởng về dân chủ, tư tưởng về
quyền con người, quyền dân tộc. Điều này đã được thể hiện thông qua hàng loạt
các tác phẩm tiêu biểu của Người trong suốt giai đoạn từ 1911 đến 1945: Bản án
chế độ thực dân Pháp, tác phẩm Đường Kách mệnh, Bản yêu sách của nhân dân
An Nam.
1.2.3.2. Giai đoạn sau năm 1945
Đây là giai đoạn hiện thực hóa tư tưởng Nhà nước pháp quyền Hồ Chí
Minh mà biểu hiện tập trung của nó đó là tư tưởng giải phóng dân tộc, giải
18
phóng con người để xây dựng một nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân. Trong giai đoạn này, tư tưởng của Người gắn bó mật thiết với thực
tiễn của cách mạng Việt Nam ở 3 thời kỳ: thời kỳ năm 1945-1946 (chống thù
trong giặc ngoài); thời kỳ 1946-1954 (kháng chiến chống Pháp) và thời kỳ 19541975 (xây dựng CNXH ở miền Bắc và tiếp tục cách mạng giải phóng dân tộc ở
miền Nam). Trong thời kỳ này, hai văn kiện quan trọng gắn với cuộc đời và sự
nghiệp của Hồ Chí Minh đó là Tun ngơn độc lập năm 1945 và Hiến pháp năm
1946.
•
Tun ngơn độc lập năm 1945
Ngày 2.9.1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc Tuyên ngôn độc lập khai
sinh ra Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - đây là văn kiện chính trị pháp lí thể
hiện đậm nét tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền dân tộc, quyền con người. Tun
ngơn độc lập là nền tảng cho sự ra đời của Hiến pháp năm 1946, bản Hiến pháp
đánh dấu sự ra đời chính danh, hợp pháp của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hịa đầu tiên trên tồn cõi Đơng Nam Á.
Trong những dịng đầu tiên của Tun ngơn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã trích dẫn những dịng quan trọng trong Tuyên ngôn độc lập của nước
Mỹ năm 1776: “Tất cả mọi người sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ
những quyền khơng ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền
được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” và Tuyên ngôn về nhân
quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1789 “Người ta sinh ra tự do và
bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Từ
đó Người nhận định: “Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên
thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung
sướng, và quyền tự do”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xuất phát từ những giá trị
vĩnh cửu của nhân loại về quyền con người (cá nhân) để thành quyền của dân
tộc. Cũng chính lẽ này nên trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời
cách mạng Việt Nam (9/3/1945) - một ngày sau khi đọc Tuyên ngôn độc lập,
19
Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định một trong những nhiệm vụ cấp bách của Chính
phủ đó là phải tổ chức tổng tuyển cử:
Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị rồi đến chế độ
thực dân không kém phần chuyên chế nên nước ta không có Hiến pháp. Nhân
dân khơng được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp
dân chủ. Tơi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử
với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai gái mười tám tuổi đều có
quyền bầu cử và ứng cử, khơng phân biệt giàu nghèo, gái trai, giai cấp, tôn
giáo...
Vậy là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn thấy mối quan hệ giữa Hiến pháp
và dân chủ. Hiến pháp chỉ tồn tại trong một xã hội dân chủ và là bản khế ước để
bảo vệ các giá trị dân chủ, dân quyền.
Có thể nói về phương diện học thuật, đây là bước phát triển mới của lí
luận hiến pháp. Khơng những ở thế kỷ 19 mà đến đầu thế kỷ 20 quan niệm phổ
biến của các học giả phương Tây về Hiến pháp là xem Hiến pháp như đạo luật
cơ bản về tổ chức quyền lực nhà nước bằng một cơ cấu tổ chức bộ máy theo
nguyên tắc phân chia 3 quyền. Còn “phương diện xã hội theo lí tưởng dân
quyền” thì khơng phải là mối bận tâm của các Hiến pháp đương thời. Tư tưởng
lập hiến và lí do cần thiết tồn tại Hiến pháp đối với xã hội và nhân dân ta đã trở
thành lí tưởng lập hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Phải chăng từ Bản yêu sách của nhân dân An Nam năm 1919 đến Nhời hơ hốn
gửi hội Vạn quốc năm 1926, Tuyên ngôn độc lập năm 1945 và yêu cầu xây dựng
một Hiến pháp dân chủ là sự phát triển nhất quán, thống nhất trong tư tưởng
hiến chính Hồ Chí Minh: tư tưởng về một nền lập hiến dân chủ của một quốc gia
độc lập, bình đẳng và tự quyết.
•
Hiến pháp năm 1946
Một ngày sau khi đọc Tun ngơn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt
ra nhiệm vụ cho Chính phủ lâm thời đó là phải có một bản Hiến pháp dân chủ.
Với tinh thần này và quyết tâm xây dựng nền pháp quyền dân chủ, Hồ Chí Minh
20
đã ký Sắc lệnh số 34 ngày 20/9/1945 thành lập Ủy ban Dự thảo Hiến pháp nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Người trực tiếp làm Trưởng ban; Sắc lệnh số 39
ngày 26/9/1945 thành lập Ủy ban Dự thảo thể lệ Tổng tuyển cử để bầu ra Quốc
hội lập hiến, thông qua Hiến pháp 1946. Ngày 10/10/1945, Người ký Sắc lệnh
số 47 về việc tạm thời sử dụng một số luật lệ của chế độ cũ, trừ những điểm trái
với chính thể cộng hịa. Bản Dự thảo Hiến pháp đã được Chính phủ thảo luận và
chính thức được cơng bố trên báo Cứu quốc ngày 10/10/1945 kèm theo Thông
cáo của Chính phủ trong đó nêu rõ: “Muốn cho tất cả nhân dân Việt Nam dự vào
việc lập hiến của nước nhà nên Chính phủ cơng bố bản Dự thảo Hiến pháp này
để mọi người được đọc kỹ càng và được tự do bàn bạc phê bình… Ủy ban dự
thảo Hiến pháp sẽ tập trung các đề nghị sửa đổi và ý kiến của nhân dân rồi trình
tồn quốc dân đại hội bàn luận”. Tháng 12.1945, 118 chủ tịch các ủy ban nhân
dân và tất cả các giới thiệu đại biểu làng xã đưa ra một bản kiến nghị: “Yêu cầu
Chủ tịch Hồ Chí Minh được miễn ứng cử trong cuộc tổng tuyển cử sắp tới vì Cụ
đã được tồn dân suy tôn làm chủ tịch vĩnh viễn của Nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hịa”. Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời: “Tôi là công dân của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hịa nên tơi khơng vượt khỏi thể lệ của cuộc Tổng tuyển cử đã
định”. Ngày 09/11/1946, kỳ họp thứ hai, Quốc hội khóa I đã thơng qua Hiến
pháp 1946. Bản Hiến pháp gồm Lời nói đầu, 7 chương và 70 điều. Nhận xét về
bản Hiến pháp này, trong phiên họp bế mạc kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa 1 Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nói:
Bản Hiến pháp đó chưa hồn tồn nhưng nó đã làm nên theo một hồn
cảnh thực tế. Hiến pháp đó tun bố với thế giới biết dân tộc Việt Nam đã có đủ
mọi quyền tự do. Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới: phụ nữ Việt Nam đã được
đứng ngang hàng với đàn ông để được hưởng chung mọi quyền tự do dân chủ
của một cơng dân. Hiến pháp đó đã nêu lên một tinh thần đoàn kết chặt chẽ giữa
các dân tộc Việt Nam và một tinh thần liêm khiết, công bình của các giai cấp.
Cùng với Tun ngơn độc lập, sự ra đời của Hiến pháp năm 1946 là sự
khẳng định tính nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước dân
21
chủ, về vai trò của hiến pháp trong bảo vệ dân quyền. Đó là tư tưởng về một nhà
nước mà ở đó Hiến pháp khơng chỉ là tấm gương phản ánh tính dân chủ của nhà
nước mà hơn thế, Hiến pháp đã trở thành công cụ bảo vệ quyền dân chủ của
cơng dân.
1.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về pháp luật trong nhà nước pháp quyền
1.3.1. Pháp luật phải được thượng tơn, pháp luật là sự phản ánh tính
dân chủ của nhà nước và là công cụ để giới hạn quyền lực nhà nước
Tư tưởng thượng tôn pháp luật ở Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất phát từ quan
điểm của Người về bản chất của pháp luật. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, pháp luật
khơng chỉ đơn giản là một công cụ cơ bản giúp nhà nước thực hiện hoạt động
quản lí mà hơn cả pháp luật phải là một đại lượng để đảm bảo sự công bằng, dân
chủ, tiến bộ; Pháp luật là tấm gương phản ánh sự sáng suốt và bản chất nhà
nước; pháp luật đồng thời cũng là công cụ để giới hạn sự lạm quyền từ phía nhà
nước.
Sự phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật mang tính logic, hệ
thống và nhất quán; gắn liền với quá trình đấu tranh cách mạng cho sự ra đời của
một nhà nước mà quyền lực hoàn toàn thuộc về nhân dân, do nhân dân làm chủ.
Tư tưởng thượng tôn pháp luật của Người được thể hiện rõ rệt vào năm 1919 khi
tại Bản yêu sách 8 điểm của nhân dân An Nam gửi đến Hội nghị Véc Xây, Chủ
tịch Hồ Chí Minh tiếp tục đặt ra yêu cầu về sự hiển diện của pháp luật như một
bằng chứng bảo đảm cho việc thực hiện quyền dân chủ của Nhân dân các nước
thuộc địa. Tinh thần này tiếp tục được khẳng định tại Việt Nam yêu cầu ca
(1926) về sự cần có một bản Hiến pháp “thần linh pháp quyền”. Do đó ngay từ
những năm đầu tiên của chính quyền nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu
cầu Chính phủ lâm thời Việt Nam phải xây dựng một bản Hiến pháp ghi nhận
các quyền tự do dân chủ, bảo vệ các quyền con người. Khi luận giải về tư tưởng
nhà nước pháp quyền Hồ Chí Minh, tác giả Bùi Ngọc Sơn khẳng định trong Việt
Nam yêu cầu ca, Hồ Chí Minh yêu cầu về “pháp quyền” chứ không phải là “nhà
22
nước pháp quyền”. Từ đó tác giả kết luận: cái mà chúng ta cần hướng tới là một
nền pháp quyền chung cho tồn xã hội chứ khơng chỉ là một nhà nước pháp
quyền.
Tinh thần pháp quyền có thể được ứng dụng đối với cả công quyền lẫn
trong xã hội công dân. Đối với pháp quyền của cơng quyền thì cơng quyền là đối
tượng chịu sự kiểm soát của pháp luật, cịn đối với pháp quyền của xã hội cơng
dân thì công dân là chủ thể sử dụng quyền lực của pháp luật để bảo vệ các quyền
và tự do của mình. Điều đầu tiên của một nền pháp quyền đó là phải có một cơ
chế kiểm sốt quyền lực cơng. Các thiết chế giám sát quyền lực cần phải được
tăng cường ở Việt Nam.
Trong tư tưởng của Người, pháp luật không đơn giản là công cụ, phương
tiện của quản lý nhà nước mà phải là những qui phạm của dân chủ và là phương
tiện để thực hiện dân chủ. Pháp luật là đại lượng của cơng bằng, bình đẳng và
hợp pháp. Chính tính chất này tạo nên sự độc lập của pháp luật trong kiểm soát
quyền lực nhà nước. Sự khẳng định nguyên tắc chủ quyền nhân dân, sự phân
tách chức năng lập hiến và lập pháp trong Hiến pháp năm 1946, sự xác lập tại
Hiến pháp những cơ chế pháp lí cho tư pháp độc lập đã tạo những tiền đề gốc
cho nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật và khơng loại trừ. Điều này đảm bảo
sự kiểm sốt của pháp luật đối với mọi chủ thể ngay cả nhà nước.
Bởi vậy, cùng với sự ra đời của Nhà nước Việt Nam hợp hiến, hợp pháp,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bắt tay vào xây dựng hệ thống pháp luật đầu tiên của
nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà – đây cũng là những viên gạch đầu tiên
cho sự hình thành hệ thống pháp luật dân chủ của nhà nước pháp quyền Việt
Nam sau này.
Khi tham gia xây dựng Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959 với
cương vị là trưởng ban soạn thảo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xuất phát từ nhu cầu
khách quan của hoạt động quản lí và thực tiễn của cách mạng Việt Nam (hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ và tiến lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tiếp
tục cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam) để làm căn cứ xây dựng Hiến
23
pháp. Với Người, quá trình xây dựng đất nước phải tiến hành đồng thời với quá
trình xây dựng pháp luật. Tuy nhiên xét về giá trị tư tưởng thì tư tưởng Hồ Chí
Minh về pháp luật giai đoạn trước năm 1945, đặc biệt là ở Tuyên ngôn độc lập
năm 1945 và Hiến pháp năm 1946 có những nét khai phóng, phản ánh những giá
trị tiêu biểu của tư tưởng pháp quyền tự nhiên (các tư tưởng dân quyền, Hiến
pháp, quản lí xã hội bằng đạo luật, trách nhiệm nhà nước…). Những giá trị tư tư
tưởng này không được thể hiện đầy đủ trong giai đoạn xây dựng đất nước sau
này do bị chi phối bởi các yếu tố về hoàn cảnh lịch sử, điều kiện chính trị, kinh
tế đất nước.
Nếu trong Bản yêu sách tám điểm của nhân dân An nam năm1919, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đặt ra yêu cầu phải quản lí xã hội bằng các luật thì trong giai
đoạn 1945-1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ yếu sử dụng sắc lệnh để thực hiện
hoạt động quản lí đất nước. Tuy nhiên việc sử dụng sắc lệnh ở giai đoạn này lại
phản ánh sự sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bối cảnh đất nước có
chiến tranh và không thể chờ đợi Quốc hội họp để thông qua các đạo luật nhằm
đáp thực tiễn quản lí đất nước. Mặc dù vậy trong giai đoạn này nhiều đạo luật
quan trọng gắn với tổ chức quyền lực nhà nước, bảo đảm quyền tự do dân chủ
của nhân dân cũng đã được ban hành như: Luật tổ chức chính quyền địa phương
năm 1958, Luật quy định quyền lập hội năm 1957, Luật Tổ chức Quốc hội nước
Việt Nam DCCH năm 1960, Luật Tổ chức hội đồng Chính phủ nước Việt Nam
DCCH năm 1960, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960, Luật Tổ chức Viện
Kiểm sát nhân dân năm 1960…
Bởi vậy trong gần 30 năm đứng đầu nhà nước, ngoài bản Hiến pháp năm
1946 và Hiến pháp năm 1959, Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã ký cơng bố 16 đạo luật
và gần 1.300 văn bản dưới luật trong đó các sắc lệnh chiếm số lượng đáng kể.
Việc sử dụng các sắc lệnh trong thời kỳ này đều xuất phát từ tình hình thực tiễn
của Nhà nước Việt Nam, đó là: Quốc hội (cơ quan làm luật) không thể tiến hành
các phiên họp định kỳ do tình trạng đất nước có chiến tranh. Theo PTS Nguyễn
Đình Lộc, từ năm 1945 đến năm 1954 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phải "sử dụng
24
chế độ sắc lệnh để điều hành công việc đất nước. Hàng trăm sắc lệnh do chính
tay Người ký đã được ban hành vào thời kỳ đó. Nhưng thực sự là một điều kỳ
diệu - đó cũng là giai đoạn mà chính quyền ta thực sự là một chính quyền thân
dân và gần gũi với dân" .
Tôn trọng các giá trị khách quan và xác định đúng bản chất của pháp luật
trong nhà nước dân chủ, pháp luật theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh phải
trở thành đại lượng công bằng và là sự biểu hiện của tiến bộ xã hội. Điều này
được thể hiện thông qua hàng loạt luận điểm của Người về vai trị, vị trí, tác
dụng của pháp luật:
Luật pháp là một vũ khí của giai cấp thống trị dùng để trừng trị giai cấp
chống lại mình, luật pháp cũ là ý chí của thực dân Pháp, khơng phải ý chí chung
của nhân dân ta. Luật pháp cũ đặt ra để giữ gìn trật tự xã hội thật, nhưng trật tự
xã hội ấy chỉ có lợi cho thực dân phong kiến, khơng phải có lợi cho toàn thể
nhân dân đâu. Luật pháp đặt ra trước hết là để trừng trị áp bức. Phong kiến đặt ra
luật pháp là để trừng trị công nhân và nhân dân lao động. Pháp luật của ta hiện
nay bảo vệ quyền lợi cho hàng triệu người lao động.
Sự công bằng của pháp luật cịn được thể hiện ở chính con đường, cơ chế
hình thành pháp luật và vị trí của Nhân dân trong xây dựng pháp luật. Trong tư
tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sức mạnh của pháp luật bắt nguồn từ sự ủng
hộ của Nhân dân. Pháp luật càng được Nhân dân ủng hộ thì càng khẳng định
tính tiến bộ, thuyết phục và giá trị khách quan của nó. Người khẳng định tính
cơng bằng của pháp luật cịn thể hiện ở tính được đảm bảo và bắt buộc thực hiện
của pháp luật đối với mọi chủ thể không cần có sự phân biệt, ở sự nghiêm túc
trong tuân thủ pháp luật. Tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I (từ ngày 28-10 đến
ngày 9-11-1946 tại Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: Chính phủ hiện
thời đã cố gắng liêm khiết lắm, nhưng trong Chính phủ, từ Hồ Chí Minh cho đến
những người làm việc ở các ủy ban làng, hiện đông lắm và phức tạp lắm. Dù sao
Chính phủ đã hết sức làm gương, mà nếu làm gương khơng xong thì sẽ dùng
pháp luật mà trị những kẻ ăn hối lộ. Đã trị, đương trị và sẽ trị cho kỳ hết.
25