MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ………………………………………………………………………..….1
1.Tính cấp thiết đề tài………………………………………………………..….1
2.Phương pháp nghiên cứu ………………………………………………….…1
3. ý nghĩa của của đề tài ………………………………………………….….…1
Nội Dung ………………………………………………………………………...…3
Phần I.Thực trạng của vấn đề sau cách mạng tháng tám………………………3
Phần II.Các quan điểm của Hồ Chí Minh về đề tài này…………………….…..8
1.Quan điểm về sức khỏe của Hồ Chí Minh là bao gồm sự lành mạnh cả thể xác lẫn tinh
thần.........................................................................................................8
2.Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề y học dự phòng.............9
3.Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng nền y tế nước ta là nền y tế nhân
dân.................................................................................................................11
Phần III.Kết quả thực hiện.....................................................................................12
1.Thành tựu chăm sóc sức khỏe nhân dân........................................................12
2.Hạn chế trong công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân...................................15
Phần IV.Vận dụng ..................................................................................................16
Kết Luận .................................................................................................................21
1.Nhận xét và đánh giá nghiên cứu của bác ......................................................21
2.Đề xuất của nhóm ..............................................................................................21
Tài liệu tham khảo ....................................................................................................22
1
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Xã hội Việt Nam thời hiện đại đang từng bước chuyển mình bước sang công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, đang từng bước đưa những vùng nông thôn phát triển theo tiêu chí
chung của quốc gia. Khi xã hội biến đổi, đòi hỏi nhu cầu về đời sống của con người
cũng thay đổi, kể cả đời sống vật chất và đời sống tinh thần, ngay cả nhu cầu về khám
chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe cũng thay đổi theo thời gian. Một số vùng kinh tế còn
phát triển khá chậm, trình độ dân trí chưa cao, đời sống tinh thần còn nhiều mặt hạn
chế, trong đó vấn đề chăm sóc sức khỏe cộng đồng cũng chưa chú trọng, quan tâm
nhiều. Một số chính quyền địa phương còn thiếu thốn nhiều chính sách trong việc
chăm lo đời sống người dân, bên cạnh đó hệ thống các trang thiết bị y tế chưa được
quan tâm đúng mức, chưa có sự đồng bộ trong cách thức tổ chức và quản lý xã hội đã
hình thành nên những bất cập. Một trong những vấn đề đó có liên quan đến nhu cầu
chăm sóc sức khỏe và khám chữa bệnh của người dân, đồng thời nói đến việc công tác
chăm sóc sức khỏe cho nhân dân Việt Nam nói chung, đây cũng chính là lý do mà đề tài
này được khảo sát. Do đó, đề tài “ Tư tưởng HCM về công tác chăm sóc sức khỏe nhân
dân, vận dụng tư tưởng đó vào chăm sóc sức khỏe cộng đồng hiện nay” được đưa ra
nhằm góp phần mang tới cho cộng đồng có suy nghĩ đúng và có phương hướng chăm
sóc sức khỏe cho bản thân cũng như cho gia đìnhmột cách tốt nhất.
Mặt khác, đối với một xã hội hiện đại, sức khỏe lại là một tiêu chí quan trọng để phán
ánh mức độ đảm bảo quyền con người, tính nhân văn và sự công bằng xã hội của mỗi
quốc gia. Vì vậy, có thể nói rằng chăm sóc sức khỏe cộng đồng là trách nhiệm của mọi
người và toàn xã hội. Trong tất cả các ngành có liên quan thì y tế phải là ngành đóng
vai trò chủ đạo.
2.Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp sử dụng: Phương pháp tổng hợp, phân tích thông tin – số liệu,
phương pháp thực nghiệm phân tích, phương pháp liệt kê, phương pháp so sánh – đối
chiếu, phương pháp thực nghiệm.
3.Ý nghĩa của đề tài
Nói đến sức khỏe là nói tới tài sản quý giá, là niềm hạnh phúc đính thực của con người,
đồng thời sức khỏe cũng là tài sản của mỗi quốc gia khi con người được thừa nhận là
động lực và là mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội. Ở nước ta, trong sự nghiệp
giải phóng dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, con người Việt Nam là nguồn lực và
tài lực đã được huy động tối đa cho việc đánh bại hai đế quốc hùng mạnh của thế giới,
tạo dựng và vun đắp thêm niềm tự hào về sức mạnh tinh thần của con người Việt
Nam.
2
Ngày nay, trong công cuộc xây dựng đất nước vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ và văn minh, đặc biệt trong xu thế hội nhập với thế giới như
hiện nay thì “ tài nguyên” con người Việt Nam cần được phát huy hơn nữa trên tất cả
các phương diện trí tuệ, phẩm chất chính trị, đủ sức khỏe nhằm tiến tới thực hiện
thành công các mục tiêu kinh tế - xã hội. Song song với việc sử dụng nguồn nhân lực,
việc tăng cường bồi dưỡng và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân là một việc làm có ý
nghĩa quyết định. Vì vậy, đảm bảo sức khỏe cho cộng đồng không chỉ là mục tiêu của tổ
chức y tế thế giới, mà còn là mục tiêu tổng quát, mục tiêu chiến lược của từng quốc gia
và là thước đo của xã hội văn minh.
Sức khỏe cộng đồng vừa là điều kiện, nhưng cũng là mục tiêu của sự phát triển. Đảm
bảo sức khỏe cho nhân dân là một trong những phương pháp hữu hiệu để nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực cho sự phát triển xã hội hiện nay cũng như trong tương
lai.
3
Nội Dung
Phần I.Thực trạng của vấn đề sau cách mạng tháng tám.
Bối cảnh lịch sử:
+ Sau cách mạng tháng Tám nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, đất nước ta bị
tàn phá nặng nề kinh tế thì kiệt quệ nghèo nàn.Nạn đói năm 1945 vẫn chưa được
khắc phục, ruộng đất thì bỏ hoang,công nghiệp thì đình đốn, với chính sách ngu dân đã
khiến hơn 95% dân số không biết chữ.
Việc chăm sóc sức khỏe đối với nhân dân trong thời kì này gặp rất nhiều khó khăn.
-Do sự cần thiết của việc chăm sóc sức khỏe đối với nhân dân, mà ngay từ khi Cách
Mạng tháng Tám thành công Chủ Tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ lâm thời nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa rất quan tâm đến vấn đề này.
- Chính lý do đó mà ngày 27 tháng 8 năm 1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kí quyết định
thành lập Bộ Y tế Việt Nam.
+ Bộ Y tế Việt Nam là cơ quan củ chính phủ , thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, bao gồm các lĩnh vực: y tế dự phòng, khám,
chữa bệnh, phục hồi chức năng, y học cổ truyền, thuốc phòng chữa bệnh cho người, mỹ
phẩm ảnh hưởng đến sức khỏe con người, an toàn vệ sinh thực phẩm và trang thiết bị
y tế; quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc các lĩnh vực quản lý của Bộ và thực hiện
đại diện chủ sở hữu phần vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp có vốn nhà nước thuộc
Bộ quản lý theo quy định của pháp luật.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, mọi nguồn lực đều tập trung cho chiến tranh
nên ngành y tế vốn đã khó khăn lại càng khó khăn hơn. Khi chiến tranh kết thúc, các
loại dịch bệnh như: sốt rét, phù, ho gà, kiết lỵ... nhất là bệnh phong (hủi) xuất hiện ở
nhiều nơi. Trong khi đó, cả tỉnh chỉ có 2 điểm khám chữa bệnh ở thị xã Hải Dương và
Ninh Giang. Ngành y tế đã kịp thời thực hiện chủ trương xây dựng mạng lưới y tế từ
tỉnh đến cơ sở, thành lập các đội công tác phòng, chống dịch bệnh...
Qua đó giúp nâng cao và tạo ra sự chuyển biến quan trọng trong công tác vệ sinh
phòng bệnh trong nhân dân. Ngày 15-2-1965, khi Bác Hồ về thăm xã Nam Chính (Nam
Sách), kiểm tra về công tác y tế nông thôn, Bác đã công nhận Nam Chính là kiểu mẫu
của công tác vệ sinh phòng bệnh. Đây không chỉ là thành quả của riêng Nam Chính mà
chính là sực nỗ lực chung của cả ngành y tế tỉnh ta trong thời kỳ đầy gian khó ấy.
Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, các cán bộ ngành y tế tỉnh lại nêu cao
tinh thần dũng cảm, không quản ngại gian khó làm tốt công tác cấp cứu chiến trường,
góp phần làm cho nhân dân trong tỉnh yên tâm sản xuất, tham gia chiến đấu. Những
năm 1970 là khoảng thời gian vô cùng gian khó với ngành y tế tỉnh khi vừa đương đầu
4
với chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ vừa đối phó với trận lụt lịch sử. Thời điểm này cơ
sở y tế tuyến huyện, xã xuống cấp nghiêm trọng, chỉ có 18% số xã có bác sỹ công tác,
50% số trẻ em suy dinh dưỡng...
Trước tình hình trên, ngành y tế đặt nhiệm vụ bảo vệ sức khỏe cán bộ, bộ đội, nhân
dân lên hàng đầu; coi nhiệm vụ chiến đấu và phục vụ chiến đấu là trọng tâm cấp bách.
Đi đôi với việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, ngành tập trung dồn lực kiện toàn bộ
máy tổ chức, tăng cường nguồn lực trang thiết bị, cơ sở vật chất đáp ứng nhu cầu
khám, chữa bệnh... Qua đó, góp một phần không nhỏ vào thắng lợi trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc.
Sau khi đất nước thống nhất, ngành y tế tỉnh hoạt động trong cơ chế bao cấp, mọi
nguồn thuốc men, y cụ đều được cấp từ Trung ương về nhưng luôn ở trong tình trạng
cung không đủ cầu. Ngành đã có những việc làm sáng tạo để khắc phục khó khăn bằng
cách khai thác mọi tiềm năng sẵn có của địa phương thông qua việc đẩy mạnh các
phong trào như: chủ động phòng dịch bệnh, xây dựng, củng cố, phát triển 3 công trình
vệ sinh, vận động hợp lý an toàn về thuốc, y tế phục vụ sản xuất nông nghiệp, phụ nữ
tài năng xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa... Đồng thời coi công tác dân số
kế hoạch hóa gia đình và bảo vệ bà mẹ, trẻ em là chương trình hoạt động lớn, xuyên
suốt của ngành.
Khi đất nước bước vào thời kỳ phát triển theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa,
bên cạnh những thành tựu to lớn về kinh tế thì cũng gây ra những hậu quả nặng nề
ảnh hưởng đến đời sống người dân như môi trường sống bị ô nhiễm, xuất hiện nhiều
yếu tố có nguy cơ tác động đến tình trạng sức khỏe, xuất hiện nhiều loại bệnh tật, các
tệ nạn xã hội nguy hiểm...
Trước thực tế đó, ngành y tế tỉnh đã nỗ lực kiện toàn bộ máy tổ chức theo chỉ đạo của
cấp trên, triển khai thực hiện nhiều đề án nhằm tăng cường chất lượng chăm sóc và
bảo vệ sức khỏe nhân dân như: phát triển y dược học cổ truyền; xây dựng xã chuẩn
quốc gia về y tế; nâng cao năng lực hệ thống y tế dự phòng; đẩy mạnh xã hội hóa hoạt
động y tế; hỗ trợ đào tạo và thu hút bác sĩ, dược sĩ đại học về công tác tại các cơ sở y
tế…
-Sau 70 năm hoạt động Bộ Y Tế đã đạt được rất nhiều thành tựu trong việc việc chăm
sóc sức khỏe toàn dân.
+ Tình trạng quá tải ở bệnh tuyến Trung ương viện được cải thiện
Dự thảo Báo cáo của Bộ Y tế cho thấy, sau 10 năm thực hiện Nghị quyết 46 của Bộ
Chính trị, công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân ở nước ta đã đạt
được nhiều thành tựu quan trọng. Tình trạng sức khỏe nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Tuổi thọ trung bình năm 2005 (năm đầu thực hiện Nghị quyết 46) là 70 tuổi, kết quả
đạt được năm 2010 là 72,8 tuổi, năm 2014 tăng lên 73,2 tuổi. Tỷ lệ mắc các bệnh
truyền nhiễm ngày càng giảm, nhiều bệnh dịch nguy hiểm trước đây đến nay đã được
khống chế và đẩy lùi, đã đạt được nhiều mục tiêu Thiên niên kỷ giai đoạn từ 1990 đến
2015 liên quan đến lĩnh vực y tế. Theo đánh giá của Liên hợp quốc, Việt Nam là một
5
trong 9 quốc gia đạt tiến độ giảm tử vong mẹ, và một trong 23 quốc gia đạt tiến độ về
giảm tử vong trẻ em, thành tựu giảm suy dinh dưỡng trẻ em nhanh và bền vững của
Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Nhân dân ở hầu hết các vùng, miền
đã được chăm sóc sức khoẻ tốt hơn; chỉ số phát triển con người (HDI) và phần lớn các
chỉ tiêu tổng quát về sức khoẻ của nước ta đều vượt các nước có cùng mức thu nhập
bình quân đầu người.
Mạng lưới y tế cơ sở từ chỗ bị xuống cấp trầm trọng trong những năm 1980-1990 do
tác động của sự chuyển đổi cơ chế kinh tế, từ năm 1995 trở đi, nhất là từ khi có Quyết
định 58/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và đặc biệt Nghị quyết 46-NQ/TW, y tế cơ
sở đã dần dần được củng cố và nâng cấp, trở thành nhân tố quyết định những thành
công trong lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ nhân dân nước ta những năm gần đây. Tính
đến nay, 99% xã, phường, thị trấn đã có nhà trạm; 74,9% trạm y tế xã có bác sĩ làm
việc; 96% trạm y tế xã có nữ hộ sinh hoặc y sĩ sản nhi; 75% thôn, bản, tổ dân phố đã có
nhân viên y tế hoạt động, trong đó tỷ lệ này là 94,6% số thôn, bản ở khu vực nông thôn,
miền núi, khoảng 80% trạm y tế xã đã thực hiện khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế, thí
điểm thực hiện quản lý một số bệnh mạn tính như hen, tăng huyết áp, đái tháo đường...
tại trạm y tế, góp phần giảm tải cho tuyến trên.
Bên cạnh việc phát triển về quy mô, gần đây, Bộ Y tế đã có các giải pháp quyết liệt để
nâng cao chất lượng khám chữa bệnh ở các tuyến và giảm quá tải bệnh viện tuyến
trên. Bộ Y tế đã ban hành thông tư số 19/2013/BYT-TT hướng dẫn quản lý chất lượng
dịch vụ khám chữa bệnh và thí điểm Bộ tiêu chí đánh giá chất lượng bệnh viện theo
Quyết định số 4858/QĐ-BYT ngày 3-12-2013. Sau một thời gian thực hiện, Bộ tiêu chí
được đông đảo các cơ sở y tế trong và ngoài công lập, y tế ngành thực hiện, góp phần
từng bước cải tiến chất lượng dịch vụ y tế, nâng cao chất lượng khám bệnh chữa bệnh
tại các bệnh viện. Tình trạng quá tải bệnh viện Trung ương đã được giải quyết cơ bản
như: Bệnh viện K, Bệnh viện Nội tiết Trung ương, Bệnh viện Nhi Trung ương (giảm từ
60-70% số giường phải nằm ghép nay còn 6-7%)….
Đặc biệt, Bộ Y tế đã trình và được Chính phủ cho phép đưa nội dung kết hợp quân dân
y thành một dự án thuộc chương trình mục tiêu quốc gia. Bộ Y tế phối hợp chặt chẽ
với Bộ Quốc phòng và đã thực hiện mô hình kết hợp quân dân y một cách có hiệu quả.
Mạng lưới cơ sở y tế quân dân y kết hợp được xây dựng và tiếp tục được duy trì, phát
triển, nhất là ở vùng sâu, vùng biên giới, hải đảo, vùng có thiên tai bão lụt (phòng dịch,
khám chữa bệnh, đào tạo và nghiên cứu). Bộ Y tế cũng đã đưa y tế biển đảo thành Đề
án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (QĐ 317/QĐ-TTg) và thành lập Ban chỉ đạo
quốc gia về y tế biển đảo, thực hiện phong trào “Ngành y tế cùng ngư dân bám biển”.
Cùng với các chiến sĩ bộ đội, biên phòng, quân y, cán bộ y tế ở cơ sở không chỉ đơn
thuần làm nhiệm vụ chăm sóc sức khoẻ nhân dân, mà còn làm tốt công tác dân vận,
vận động nhân dân tham gia các phong trào chính trị, xã hội ở cơ sở.
6
Khoa học và công nghệ lĩnh vực y- dược tiếp tục đạt được những thành công nổi bật ở
tầm quốc gia và thế giới: Công nghệ sản xuất vắc-xin sản xuất trong nước đã đáp ứng
được 10/11 loại vắc-xin được sử dụng trong Chương trình tiêm chủng mở rộng quốc
gia, các vắc-xin mới tiếp tục được nghiên cứu thay thế và cạnh tranh với hàng nhập
ngoại. Công nghệ ghép tiếp tục đạt thành công với ca ghép khối tụy- thận, góp phần
cùng với thành tựu về ghép tim, gan, thận, giác mạc, tủy,… đưa công nghệ ghép tạng
được thực hiện ở cả 3 miền. Các công nghệ ứng dụng trong lĩnh vực y học cơ sở tập
trung vào nghiên cứu về gen, bước đầu nghiên cứu về ứng dụng tế bào gốc, các công
nghệ sinh học phân tử được ứng dụng đã góp phần xác định nhanh, chính xác các tác
nhân gây bệnh tay- chân- miệng, sởi, cúm,.. phục vụ công tác chẩn đoán và điều trị
hiệu quả các bệnh, dịch nguy hiểm. Kết quả nghiên cứu, sản xuất thuốc từ dược liệu
như trinh nữ hoàng cung, cây thìa canh, diệp hạ châu đắng.. đã đạt được những kết
quả cao, thương mại hóa được sản phẩm, xuất khẩu và đạt doanh thu cao. Một số
công nghệ bào chế mới, hiện đại đã được nghiên cứu áp dụng vào sản xuất công
nghiệp dược. Nhiều công trình khoa học được tặng giải thưởng Nhân tài Đất Việt,
được tặng giải thưởng Kovalevskai, công trình khoa học về y- dược luôn là một trong
10 thành tựu nổi bật hằng năm của khoa học và công nghệ Việt Nam.
+Nâng cao chất lượng chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới9
Tuy nhiên, theo Bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Tiến, bên cạnh những thành tựu đạt được,
vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, như việc triển khai tổ chức thực hiện Nghị quyết 46NQ/TW, Chương trình hành động của Chính phủ của một số địa phương còn chậm.
Nhận thức về các quan điểm và các giải pháp của Nghị quyết 46-NQ/TW của một số
Ban cán sự đảng và cấp ủy, chính quyền một số địa phương chưa thực sự sâu sắc. Đầu
tư của Nhà nước cho y tế mặc dù đã được quan tâm nhưng chưa đáp ứng được nhu
cầu bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân; tổng chi ngân sách cho y tế chỉ
đạt 7 - 8% tổng chi ngân sách Nhà nước. Bên cạnh đó, sự chênh lệch về chất lượng các
dịch vụ y tế giữa các vùng, miền đang là vấn đề lớn cần quan tâm; dịch vụ y tế ở các
vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, biển, đảo còn ở mức độ thấp so với vùng đồng bằng,
thành thị. Các chỉ số về sức khỏe của đồng bào có sự chênh lệch lớn giữa các vùng,
miền dẫn đến tình trạng mất công bằng trong công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân
nếu không được quan tâm giải quyết. Việc phát triển y tế chuyên sâu, chăm sóc sức
khỏe bằng các kỹ thuật cao còn chưa tiệm cận được với trình độ y học của các nước
tiên tiến trên thế giới, cộng thêm chất lượng các dịch vụ y tế chưa cao nên vẫn còn có
tình trạng người dân đi nước ngoài khám bệnh, chữa bệnh. Tình trạng vượt tuyến
trong khám bệnh, chữa bệnh vẫn còn tồn tại kéo dài, chưa được giải quyết…
Nhằm đáp ứng sự phát triển của hệ thống y tế trong tình hình mới, khắc phục các tồn
tại của hệ thống y tế hiện nay, Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến cho biết, Bộ Y tế
đã xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ quy hoạch phát triển hệ thống y tế Việt
Nam đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 theo nguyên tắc tiếp tục hoàn thiện,
phát triển mạng lưới y tế cơ sở, sắp xếp lại các cơ sở y tế dự phòng tuyến tỉnh vào một
7
đầu mối theo mô hình trung tâm kiểm soát dịch, bệnh; các đơn vị kiểm nghiệm thuốc,
mỹ phẩm, an toàn thực phẩm, vắc-xin, sinh phẩm y tế theo mô hình cơ quan quản lý
thực phẩm, thuốc, mỹ phẩm (FDA), thu gọn đầu mối các đơn vị y tế tuyến huyện thành
một đơn vị thực hiện 2 chức năng: Y tế dự phòng và Khám chữa bệnh nhằm tăng hiệu
quả sử dụng nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng hiện có và quản lý toàn diện sức khỏe.
Để công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân phát triển nhanh và bền
vững, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của người dân trong thời kỳ mới, Bộ
Y tế kiến nghị Bộ Chính trị ra Kết luận về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết 46-NQ/TW,
trong đó bổ sung một số định hướng phát triển hệ thống y tế trong tình hình đất nước
cơ bản trở thành nước công nghiệp để các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa
phương triển khai thực hiện. Nếu được, kiến nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng
ban hành Nghị quyết về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân
trong thời kỳ mới; kiến nghị Quốc hội cho phép đánh giá thực hiện Nghị quyết
18/2008/QH12 về đẩy mạnh xã hội hóa để nâng cao chất lượng công tác bảo vệ và
chăm sóc sức khỏe nhân dân; kiến nghị Bộ chính trị chỉ đạo cấp ủy Đảng, chính quyền
các cấp trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân.
-Bảo hiểm y tế được hình thành và bước đầu phát huy tác dụng. Nhân dân ở hầu hết
các vùng, miền đã được chăm sóc sức khoẻ tốt hơn; phần lớn các chỉ tiêu tổng quát về
sức khoẻ của nước ta đều vượt các nước có cùng mức thu nhập bình quân đầu người.
+ Mặt hạn chế của công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân:
Tuy nhiên, công tác bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ ở nước ta vẫn còn nhiều bất cập và
yếu kém. Hệ thống y tế chậm đổi mới, chưa thích ứng với sự phát triển của nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và sự thay đổi của cơ cấu bệnh tật; chất lượng
dịch vụ y tế chưa đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của nhân dân; điều kiện chăm
sóc y tế cho người nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn;
năng lực sản xuất và cung ứng thuốc còn yếu, giá thuốc chữa bệnh còn cao so với thu
nhập của nhân dân. Tổ chức và hoạt động của y tế dự phòng còn nhiều bất cập. Một bộ
phận nhân dân chưa hình thành được ý thức và thói quen tự bảo vệ, chăm sóc và nâng
cao sức khoẻ. Vệ sinh môi trường, an toàn thực phẩm chưa được kiểm soát chặt chẽ.
Những việc làm vi phạm đạo đức nghề nghiệp của một số cán bộ y tế chậm được khắc
phục.
Nguyên nhân chính của những yếu kém trên là do quản lý nhà nước trong lĩnh vực y
tế còn nhiều bất cập, một số chính sách về y tế không còn phù hợp nhưng chậm được
sửa đổi hoặc bổ sung; việc quản lý hoạt động khám, chữa bệnh và hành nghề y dược tư
nhân chưa chặt chẽ; đầu tư của Nhà nước cho y tế còn thấp, phân bổ và sử dụng
nguồn lực chưa hợp lý, kém hiệu quả. Chưa có những giải pháp hữu hiệu để huy động
các nguồn lực từ cộng đồng và xã hội cho công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe. Đội
ngũ cán bộ y tế còn thiếu và yếu, cơ cấu chưa hợp lý, chế độ đãi ngộ chưa thỏa đáng.
Một số cấp uỷ đảng và chính quyền chưa thực sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác
8
bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân, nhiều nơi còn trông chờ vào bao cấp
của Nhà nước.
Cùng với những yếu kém trên, công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân
dân ở nước ta đang đứng trước những thách thức to lớn:
- Nhiều vấn đề xã hội mới phát sinh như ô nhiễm môi trường, tệ nạn xã hội đang ảnh
hưởng xấu đến sức khỏe của nhân dân; chênh lệch về thu nhập trong nhân dân đang
đặt ra những thách thức lớn về bảo đảm công bằng trong khám, chữa bệnh; mặt trái
của kinh tế thị trường có nguy cơ làm phai mờ giá trị đạo đức cao quí của người thầy
thuốc.
- Quy mô dân số của nước ta những năm tới vẫn tiếp tục tăng, nhu cầu chăm sóc sức
khoẻ của nhân dân ngày càng cao và đa dạng, trong khi khả năng đáp ứng của hệ
thống y tế còn hạn chế.
- Chi phí cho chăm sóc sức khoẻ ngày càng lớn, trong khi về cơ bản nước ta vẫn còn
là một nước nghèo, đầu tư cho công tác chăm sóc sức khoẻ còn thấp.
- Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế vừa đem lại những cơ hội thuận lợi, đồng
thời cũng đặt nước ta trước những nguy cơ bị lây truyền các bệnh dịch nguy hiểm và
những thách thức trong lĩnh vực sản xuất thuốc và ứng dụng công nghệ cao trong y tế.
Phần II.Các quan điểm của Hồ Chí Minh về đề tài này
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn
đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, trong đó có sự nghiệp chăm sóc sức khỏe nhân
dân.
Cả cuộc đời Hồ Chí Minh dành tình yêu thương cho con người, người hướng tình
thương và sự quan tâm đặc biệt đến sức
khỏe nhân dân. Bác Hồ từng
nói: “Chính sách của Đảng và Chính phủ
phải hết sức chăm nom đến đời
sống của nhân dân. Nếu dân đói là Đảng
và Chính phủ có lỗi, nếu dân rét
là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân ốm là
Đảng và Chính phủ có lỗi”.
Bác Hồ rất gắn bó với ngành y tế, trong
đời Bác Hồ đã trải qua ít nhất
trên 10 nghề khác nhau trong đó Bác đã
từng học và làm thầy thuốc.
Năm 1929 trong thời gian công tác tại
Thái Lan, Bác đã ở trong một
hiệu thuốc Bắc do Lương y Đặng Văn Cáp
phụ trách, tại đây Bác bắt đầu
học về thuốc và cách chữa bệnh. Người đọc rất nhiều sách thuốc, ghi chép lại cẩn thận
các loại thuốc và được phân ra rất khoa học nên giúp ích rất nhiều cho Người phương
pháp nghiên cứu về Đông y.
Ngày 28/1/1941 sau 30 năm đi tìm đường cứu nước trở về trực tiếp chỉ đạo. Bác sống
và làm việc với bà con dân tộc phía Bắc. Tới các bản làng, điều đầu tiên Bác quan tâm
đến đời sống của nhân dân trong đó đặc biệt là công tác vệ sinh. Ở nhiều bản, trẻ bị
ghẻ, lở, chốc đầu Bác gọi các cháu ra suối và tự Bác kỳ cọ tắm rửa sạch sẽ cho từng
9
cháu một. Bác lặn lội vào rừng tìm cây thuốc để nấu nước tắm rửa cho từng cháu, chỉ
trong thời gian ngắn các cháu hết bệnh, bà con gọi Bác là “Ông Ké có thuốc tiên”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác y tế có một ý nghĩa vô cùng quan trọng định hướng
cho việc phát triển một nền Y học Việt Nam hiện đại. Những quan điểm của Bác về các
nội dung trong chăm sóc sức khỏe nhân dân là kim chỉ nam cho hoạt động của ngành y
tế và tiếp tục là định hướng chiến lược trong thời gian tới.
1.Quan điểm về sức khỏe của Hồ Chí Minh là bao gồm sự lành mạnh cả thể
xác lẫn tinh thần.
Hồ Chí Minh đã định nghĩa sức khỏe: “Khí huyết lưu thông, tinh thần đầy đủ như vậy là
sức khỏe”. Khái niệm này vài chục năm sau rất phù hợp với định nghĩa của Tổ chức Y
tế Thế giới trong tuyên ngôn Alma Ata 1976: “Sức khỏe là trạng thái hoàn toàn thoải
mái về tâm hồn lẫn thể xác, về xã hội”. Như vậy trước Tuyên ngôn Alma Ata gần nửa
thế kỷ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có một quan niệm rất chính xác về sức khỏe. Quan
điểm này luôn thể hiện trong các chỉ đạo của Bác về sức khỏe, trong thư gởi Hội nghị
Quân y tháng 3/1948 Bác viết: “Người thầy thuốc chẳng những có nhiệm vụ cứu chữa
bệnh tật mà còn phải nâng đỡ tinh thần những người ốm yếu”.
Bác Hồ luôn quan tâm đến vấn đề sức khỏe
và những vấn đền liên quan đến
sức khỏe con người, năm 1946 Người căn
dặn: “Giữ gìn dân chủ, xây dựng
nước nhà, xây đời sống mới, việc gì cũng
cần có sức khỏe mới thành công.
Mỗi một người dân yếu ớt, tức là cả nước
yếu ớt. Mỗi một người dân
mạnh khỏe tức là cả nước mạnh khỏe. Vậy
nên, luyện tập thể dục, bồi bổ
sức khỏe là bổn phận của mỗi một người
yêu nước. Việc đó không tốn
kém, khó khăn gì. Gái trai, già trẻ ai cũng
nên làm và ai cũng làm được.
Dân cường thì nước thịnh, tôi nay mong
đồng bào ta ai cũng cố gắng tập
thể dục”.
Bác Hồ tập luyện thể dục
Bác đã phát động phong trào “đời sống mới” với nội dung chủ yếu là giữ gìn vệ sinh.
Bác còn cho rằng vấn đề sức khỏe có mối quan hệ trực tiếp với cuộc kháng chiến và
kiến quốc. Bác nói: “Sức khỏe của cán bộ và nhân dân được bảo đảm thì tinh thần càng
hăng hái. Tinh thần và sức khỏe đầy đủ thì kháng chiến càng gần thắng lợi, kiến quốc
càng mau thành công”. Vì lẽ đó mà đối với tầng lớp nào, lứa tuổi nào, Bác cũng luôn
dặn dò mọi người phải giữ gìn và nâng cao sức khỏe. Đối với các cháu thiếu nhi, Bác
khuyên “Phải siêng tập thể thao cho mình mẩy được nở nang”.
2.Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề y học dự phòng.
Bác nói: “Phòng bệnh cần thiết như chữa bệnh”, có lúc Bác nói: “Phòng bệnh hơn chữa
bệnh”. Đây là quan điểm cơ bản cho sự nghiệp ngành y tế nước ta, phù hợp hoàn toàn
với định hướng của cả nền y học thế giới ngày nay và về sau.
Ngày 2/7/1958 Bác Hồ viết bài vệ sinh yêu nước và được đăng trên Báo Yêu nước
nhân dân số 1572, trong đó có đoạn “điều gì có lợi cho dân thì phải làm cho kỳ được,
10
điều gì có hại cho dân thì phải diệt cho kỳ được”. Sau bài viết của Bác phong trào vệ
sinh yêu nước được dấy lên và mọi người hưởng ứng.
Giai đoạn từ năm 1958 đến năm 1975: Các phong trào 3
sạch (ăn sạch, uống
sạch, ở sạch), 4 diệt (diệt ruồi, diệt muỗi, diệt chuột, diệt
rận), phong trào sạch
làng tốt ruộng, sạch bản tốt nương, sạch đường đẹp phố.
Phong trào xây dựng
hố xí 2 ngăn trở thành phổ biến ở miền Bắc. Từ năm 1975
đến nay, Đảng và Nhà
nước tiếp tục quan tâm y tế dự phòng với các Chiến lược
Quốc gia về vệ sinh
môi trường, y tế dự phòng. Các tiêu chí vệ sinh được đưa
vào phong trào toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa và gần đây là
chương trình xây dựng
nông thôn mới do Bộ Chính trị phát động. Cách đây 47 năm
tại xã Nam Chính
huyện Nam Sách tỉnh Hải Dương Bác Hồ đã về nói chuyện về vệ sinh phòng bệnh.
Ngày 2/7 hàng năm được chọn là “Ngày vệ sinh nâng cao
sức khỏe nhân dân”
theo Quyết định s ố 730/QĐ ngày 19/6/2012 của Thủ tướng Chính phủ.
Công tác vệ sinh phòng bệnh, chăm sóc sức khỏe nhân dân
được Bác Hồ cho là
việc quan trọng bậc nhất. Bác Hồ đã đưa phong trào vệ sinh phòng bệnh là yêu nước.
Trong 5 điều dạy thiếu niên, nhi đồng. Bác cũng dành một điều dạy thứ năm là “Phải
giữ gìn vệ sinh thật tốt”.
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức của người thầy thuốc là “lương y phải
như từ mẫu” nghĩa là “thầy thuốc phải như mẹ hiền”. Đây là vấn đề cốt lõi trong tư
tưởng của Người về y đức.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nghề thầy thuốc là một nghề đặc biệt, nó trực tiếp quan hệ
đến sức khỏe, đến tính mệnh của con người. “Thầy thuốc phải như mẹ hiền” là một đòi
hỏi khách quan trong việc thực hành y nghiệp. Vì tính chất của nghề nghiệp mà người
thầy thuốc phải giàu lòng nhân ái, chẳng những có nhiệm vụ cứu chữa bệnh tật mà
còn phải nâng đỡ tinh thần người bệnh, yêu thương người bệnh và săn sóc họ như anh
em ruột thịt của mình, coi họ đau đớn như mình đau đớn.
Trong thư gởi ngành y tế, Bác căn dặn các thế
hệ thầy thuốc rằng: “Người bệnh phó thác
tính mệnh của họ cho các cô, các chú việc
chữa bệnh tật và giữ gìn sức khỏe cho đồng
bào, đó là nhiệm vụ rất vẻ vang…”. Chủ tịch
Hồ Chí Minh quan niệm vấn đề quyết định y
đức của người thầy thuốc là lương tâm đạo
đức, là trách nhiệm bổn phận của người thầy
thuốc. Bác dặn dò các y tá “Y tá chẳng những là một nghề nghiệp, mà là một nghĩa vụ.
Người y tá chẳng những chữa bệnh mà còn phổ biến vệ sinh. Việc giữ gìn, bồi dưỡng
sức khỏe của dân tộc, người y tá phải gánh một phần quan trọng. Vì vậy, y tá là những
chiến sĩ đành giặc ốm, bảo vệ sự khang kiện của giống nòi. Những chiến sĩ y tá phải có
chí chịu khổ, chịu khó, phải giàu lòng bác ái, hy sinh”.
Theo Bác nhân ái hay bác ái là nét nổi bật trong nhân cách của người thầy thuốc, một
nền y học tiến bộ phải tồn tại trên cái nền của lòng nhân ái. Trong thư gởi Hội nghị
11
cán bộ y tế toàn quốc tháng 2/1955, Bác đã căn dặn cán bộ y tế 3 điều: “Một là, phải
thật thà đoàn kết. Hai là, phải thương yêu, chăm sóc người bệnh. Ba là, xây dựng một
nền y học của ta”.
3.Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng nền y tế nước ta là nền
y tế nhân dân.
Bác Hồ nói: “Xây dựng một nền y học của ta”, Bác nói với các cán bộ y tế phải: “Giúp
đồng bào, giúp Chính phủ xây dựng một nền y tế thích hợp với nhu cầu của nhân dân
ta”. Tư tưởng của Người thể hiện ở việc xây dựng một nền y học xuất phát từ nhân
dân của nhân dân vì nhân dân đây là một quan điểm rất sâu sắc.
Tư tưởng này còn thể hiện việc phải xây dựng một nền y học mang bản sắc Việt Nam,
xuất phát từ những điều kiện Việt Nam. Theo Bác Hồ, nhân tố nhân dân và nhân tố
Việt Nam là cơ sở cho việc xây dựng một nền y học Việt Nam. Chính vì vậy, Chủ tịch Hồ
Chí Minh nêu ra nguyên tắc phải xây dựng một nền y học dân tộc, đại chúng.
Nguyên tắc khoa học của nền y học Việt Nam thể hiện trên 5 quan điểm cơ bản của
Đảng và Nhà nước:
Sức khỏe là vốn quý nhất của mỗi con người và toàn xã hội;
Đầu tư phát triển kinh tế xã hội;
Thực hiện công bằng trong chăm sóc sức khỏe, dự phòng tích cực và chủ động;
Kết hợp y học hiện đại với y học cổ truyền dân tộc;
Xã hội hóa công tác y tế và đa dạng hóa các hình thức chăm sóc sức khỏe.
Nguyên tắc dân tộc của nền y học Việt Nam là phục vụ nhân dân, trong đó đa số là
nông dân. Vì vậy, y học Việt Nam phải hướng về nông thôn, hướng về cơ sở để nghiên
cứu và xây dựng chiến lược chăm sóc sức khỏe nhân dân theo định hướng công bằng
và hiệu quả.
Nguyên tắc đại chúng là phục vụ mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội, thực hiện chăm
sóc sức khỏe toàn dân, đảm bảo mọi người dân đều được chăm sóc sức khỏe sớm nhất,
ở nơi gần nhất
Tư tưởng của Bác Hồ còn thể hiện quan
điểm xây dựng nền y học kết hợp
giữa Đông y và Tây y. Bác nói: “Ông cha
ta ngày trước có nhiều kinh
nghiệm quý báu về cách chữa bệnh
bằng thuốc ta, thuốc bắc. Để mở
rộng phạm vi y học, các cô, các chú cũng
nên chú trọng nghiên cứu và phối
hợp thuốc đông và thuốc tây bên nào
cũng có các ưu điểm, hai cái ưu
điểm thì chữa bệnh tốt cho đồng bào,
cho nhân dân. Thầy thuốc Tây
phải học Đông y – Thầy thuốc Ta phải
học Tây y, thầy thuốc Ta và thầy
thuốc Tây đều phục vụ nhân dân như có
hai tay cùng làm việc thì việc làm
được tốt, phải đoàn kết thuốc ta và
thuốc tây để chữa bệnh cho đồng
bào…”
Năm nay là năm thứ 43 Bác Hồ đã đi xa, thế nhưng những tư tưởng, đạo đức sáng
ngời của Người đặc biệt là những lời dặn thiết tha, trong đó có những lời dặn, tư
tưởng của Người về chăm sóc sức khỏe nhân dân về công tác y tế vẫn còn ngay giá trị
cho hôm nay, ngày mai và mãi mãi về sau.
12
Học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cán bộ, công chức, viên chức ngành y tế
phải quán triệt tư tưởng của Bác Hồ về công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân
dân theo định hướng công bằng và hiệu quả, góp phần phát huy bản chất tốt đẹp và
định hướng XHCN của nền y tế Việt Nam.
Phần III.Kết quả thực hiện trong công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân.
1.Thành tựu chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Sức khỏe nhân dân luôn được Bác quan tâm đầu tiên.Vì vậy mà Đảng và Chính phủ đã
đưa ra các nghị quyết và giải pháp trong công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân. Sau
nhiều năm cải biến và thực hiện các nghị quyết, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu
quan trọng trong công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Đầu tiên, tình trạng sức khỏe nhân dân được cải thiện rõ rệt. Tuổi thọ trung
bình năm 2005 (năm đầu thực hiện Nghị quyết 46) là 70 tuổi, kết quả đạt được năm
2010 là 72,8 tuổi, năm 2014 tăng lên 73,2 tuổi. Tỷ lệ mắc các bệnh truyền nhiễm ngày
càng giảm, nhiều bệnh dịch nguy hiểm trước đây đến nay đã được khống chế và đẩy
lùi, đã đạt được nhiều mục tiêu Thiên niên kỷ giai đoạn từ 1990 đến 2015 liên quan
đến lĩnh vực y tế. Theo báo cáo của TS. Trần Chí Liêm - Thứ trưởng Bộ Y tế, số ca mắc
tiêu chảy cấp đã giảm 55,3% so với năm 2007. Sốt rét giảm mắc 14,9%, số ca ác
tính/tử vong giảm 22% so với cùng kỳ. Các bệnh truyền nhiễm gây dịch đã giảm
34,6% số mắc và giảm 5% số tử vong so với năm 2007. Theo đánh giá của Liên hợp
quốc, Việt Nam là một trong 9 quốc gia đạt tiến độ giảm tử vong mẹ, và một trong 23
quốc gia đạt tiến độ về giảm tử vong trẻ em, thành tựu giảm suy dinh dưỡng trẻ em
nhanh và bền vững của Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Nhân dân
ở hầu hết các vùng, miền đã được chăm sóc sức khoẻ tốt hơn; chỉ số phát triển con
người (HDI) và phần lớn các chỉ tiêu tổng quát về sức khoẻ của nước ta đều vượt các
nước có cùng mức thu nhập bình quân đầu người.
Mạng lưới y tế cơ sở từ chỗ bị xuống cấp trầm trọng trong những năm 1980-1990 do
tác động của sự chuyển đổi cơ chế kinh tế, từ năm 1995 trở đi, nhất là từ khi có Quyết
định 58/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và đặc biệt Nghị quyết 46-NQ/TW, y tế cơ
sở đã dần dần được củng cố và nâng cấp, trở thành nhân tố quyết định những thành
công trong lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ nhân dân nước ta những năm gần đây. Tính
đến nay, 99% xã, phường, thị trấn đã có nhà trạm; 74,9% trạm y tế xã có bác sĩ làm
việc; 96% trạm y tế xã có nữ hộ sinh hoặc y sĩ sản nhi; 75% thôn, bản, tổ dân phố đã có
nhân viên y tế hoạt động, trong đó tỷ lệ này là 94,6% số thôn, bản ở khu vực nông thôn,
miền núi, khoảng 80% trạm y tế xã đã thực hiện khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế, thí
13
điểm thực hiện quản lý một số bệnh mạn tính như hen, tăng huyết áp, đái tháo đường...
tại trạm y tế, góp phần giảm tải cho tuyến trên.Để đạt được kết quả trên,Nhà nước ta
đã đào tạo Y sĩ xã,Bác sĩ xã để có đủ Y sĩ, nữ hộ sinh ở Trạm y tế xã và có Bác sĩ ở Hợp
tác xã nông nghiệp. Cũng ngay từ năm 1960, các Trạm y tế dân lập đã được thành lập
tại tất cả các xã trên toàn miền Bắc. Chỉ trong một thời gian không dài, Nhà nước ta
đã đào tạo được một đội ngũ cán bộ y tế đủ đáp ứng phục vụ chăm sóc sức khỏe ban
đầu cho nhân dân trên toàn quốc, kể cả miền núi, vùng sâu, vùng xa.
Bên cạnh việc phát triển về quy mô, gần đây, Bộ Y tế đã có các giải pháp quyết liệt để
nâng cao chất lượng khám chữa bệnh ở các tuyến và giảm quá tải bệnh viện tuyến
trên. Bộ Y tế đã ban hành thông tư số 19/2013/BYT-TT hướng dẫn quản lý chất lượng
dịch vụ khám chữa bệnh và thí điểm Bộ tiêu chí đánh giá chất lượng bệnh viện theo
Quyết định số 4858/QĐ-BYT ngày 3-12-2013. Sau một thời gian thực hiện, Bộ tiêu chí
được đông đảo các cơ sở y tế trong và ngoài công lập, y tế ngành thực hiện, góp phần
từng bước cải tiến chất lượng dịch vụ y tế, nâng cao chất lượng khám bệnh chữa bệnh
tại các bệnh viện. Tình trạng quá tải bệnh viện Trung ương đã được giải quyết cơ bản
như: Bệnh viện K, Bệnh viện Nội tiết Trung ương, Bệnh viện Nhi Trung ương (giảm từ
60-70% số giường phải nằm ghép nay còn 6-7%)….
Đặc biệt, Bộ Y tế đã trình và được Chính phủ cho phép đưa nội dung kết hợp quân dân
y thành một dự án thuộc chương trình mục tiêu quốc gia. Bộ Y tế phối hợp chặt chẽ
với Bộ Quốc phòng và đã thực hiện mô hình kết hợp quân dân y một cách có hiệu quả.
Mạng lưới cơ sở y tế quân dân y kết hợp được xây dựng và tiếp tục được duy trì, phát
triển, nhất là ở vùng sâu, vùng biên giới, hải đảo, vùng có thiên tai bão lụt (phòng dịch,
khám chữa bệnh, đào tạo và nghiên cứu). Bộ Y tế cũng đã đưa y tế biển đảo thành Đề
án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (QĐ 317/QĐ-TTg) và thành lập Ban chỉ đạo
quốc gia về y tế biển đảo, thực hiện phong trào “Ngành y tế cùng ngư dân bám biển”.
Cùng với các chiến sĩ bộ đội, biên phòng, quân y, cán bộ y tế ở cơ sở không chỉ đơn
thuần làm nhiệm vụ chăm sóc sức khoẻ nhân dân, mà còn làm tốt công tác dân vận,
vận động nhân dân tham gia các phong trào chính trị, xã hội ở cơ sở.
14
Khoa học và công nghệ lĩnh vực y- dược tiếp tục đạt được những thành công nổi bật ở
tầm quốc gia và thế giới: Công nghệ sản xuất vắc-xin sản xuất trong nước đã đáp ứng
được 10/11 loại vắc-xin được sử dụng trong Chương trình tiêm chủng mở rộng quốc
gia, các vắc-xin mới tiếp tục được nghiên cứu thay thế và cạnh tranh với hàng nhập
ngoại. Công nghệ ghép tiếp tục đạt thành công với ca ghép khối tụy- thận, góp phần
cùng với thành tựu về ghép tim, gan, thận, giác mạc, tủy,… đưa công nghệ ghép tạng
được thực hiện ở cả 3 miền. Các công nghệ ứng dụng trong lĩnh vực y học cơ sở tập
trung vào nghiên cứu về gen, bước đầu nghiên cứu về ứng dụng tế bào gốc, các công
nghệ sinh học phân tử được ứng dụng đã góp phần xác định nhanh, chính xác các tác
nhân gây bệnh tay- chân- miệng, sởi, cúm,.. phục vụ công tác chẩn đoán và điều trị
hiệu quả các bệnh, dịch nguy hiểm. Kết quả nghiên cứu, sản xuất thuốc từ dược liệu
như trinh nữ hoàng cung, cây thìa canh, diệp hạ châu đắng.. đã đạt được những kết
quả cao, thương mại hóa được sản phẩm, xuất khẩu và đạt doanh thu cao. Một số
công nghệ bào chế mới, hiện đại đã được nghiên cứu áp dụng vào sản xuất công
nghiệp dược. Nhiều công trình khoa học được tặng giải thưởng Nhân tài Đất Việt,
được tặng giải thưởng Kovalevskai, công trình khoa học về y- dược luôn là một trong
10 thành tựu nổi bật hằng năm của khoa học và công nghệ Việt Nam.
Ngoài ra, Y học dự phòng đã hoàn toàn chủ động kiểm soát tốt các dịch bệnh nguy
hiểm mới nổi; Công tác khám, chữa bệnh đã phát triển được nhiều công nghệ kỹ thuật
15
cao, ngang tầm khu vực. Nhiều phương pháp phẫu thuật mang “nhãn hiệu Việt Nam”
được ứng dụng sáng tạo, tiết kiệm chi phí mà hiệu quả cao, được các bác sĩ nước
ngoài đến học hỏi và đồng nghiệp quốc tế đánh giá cao. Mặc dù chuyên ngành ghép
tạng của Việt Nam ra đời muộn hơn nhưng hiện nay kỹ thuật ghép tạng, ghép nối các
bộ phận trên cơ thể người của các bác sỹ Việt Nam không thua kém bất cứ một nước
nào trên thế giới, khiến bạn bè quốc tế thán phục. Ngoài ra, Việt Nam còn là một trong
số rất ít quốc gia trong khu vực có thể tự sản xuất được vắc xin để phòng chống dịch
bệnh, ngày 22/6/2015 Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 37 được Tổ
chức Y tế thế giới (WHO) công nhận đạt tiêu chuẩn cơ quan quản lý quốc gia về văcxin
(NRA)...
2.Hạn chế trong công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Bên cạnh những thành tựu mà nước ta đã đạt được trong công tác chăm sóc sức
khỏe nhân dân cũng có những hạn chế và khó khăn.
Một trong những hạn chế là công tác quản lý Nhà nước về hoạt động khám, chữa bệnh
còn nhiều bất cập, chưa kiểm soát hết được hoạt động khám, chữa bệnh của các cơ sở
y tế ngoài công lập; việc cải tiến chất lượng hoạt động bệnh viện còn chậm, một số đơn
vị chưa quan tâm tập trung cải tiến chất lượng khám, chữa bệnh theo các tiêu chí do
Bộ Y tế ban hành, cung ứng vật tư y tế thuốc, hóa chất sinh phẩm còn hạn chế. Công
tác xã hội hóa còn nhiều khó khăn, đa số các bệnh viện mới chỉ liên kết máy móc các
khoa cận lâm sàng, chạy thận nhân tạo mà các lĩnh vực khác chưa thực hiện được.
Chất lượng khám, chữa bệnh của các cơ sở y tế ở cả ba tuyến còn hạn chế, tuyến xã,
phường ít bệnh nhân đến khám và điều trị, chất lượng khám, chữa bệnh của tuyến
huyện chậm được cải thiện, dẫn đến tình trạng bệnh nhân khám và điều trị vượt
tuyến, một số kỹ thuật chuyên sâu tại các bệnh viện tuyến tỉnh chưa thực hiện được, tỷ
lệ bệnh nhân phải chuyển đi tuyến Trung ương còn cao; tỷ lệ người dân tham gia
BHYT đạt thấp, thấp hơn mức bình quân chung của cả nước; thủ tục hành chính về
khám, chữa bệnh còn phức tạp, tình trạng lạm dụng thuốc, xét nghiệm cận lâm sàng,
lạm dụng kỹ thuật chưa được kiểm soát chặt chẽ; trách nhiệm, thái độ ứng xử, y đức
của một bộ phận y bác sỹ chưa cao, gây ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín của ngành và
gây mất niềm tin đối với nhân dân.
Hệ thống mạng lưới y tế còn nhiều đầu mối đang được sắp xếp lại nên chưa ổn định.
Cơ sở hạ tầng còn nhiều bất cập, hầu hết các bệnh viện tuyến tỉnh và tuyến huyện đều
thiếu nơi làm việc, không đủ diện tích sàn theo quy định, một số cơ sở khám chữa bệnh
phải ở nhờ, ở tạm trong hoàn cảnh trật trội, nhiều cơ sở khám chữa bệnh quy hoạch
không hợp lý, các công trình phụ trợ, đặc biệt là khu xử lý rác thải, chất thải lỏng, khu
vệ sinh chưa đạt yêu cầu; trang thiết bị thiếu và không đồng bộ, các trang thiết bị
tuyến tỉnh chỉ đạt từ 30 - 65%, tuyến huyện đạt từ 30 - 40% so với quy định của Bộ Y
tế, một số trang thiết bị còn thiếu cả về danh mục và số lượng, có loại đủ danh mục
nhưng thiếu về số lượng. Đội ngũ cán bộ y tế chưa đáp ứng yêu cầu, thiếu bác sỹ, dược
sỹ và cán bộ có trình độ chuyên môn cao, tỷ lệ bác sỹ, dược sỹ/vạn dân còn thấp, đến
nay, các cơ sở y tế mới được giao 80% biên chế theo Thông tư số 08/2007/TT-BYT16
BNV còn 462 chỉ tiêu đã giao nhưng chưa được tuyển dụng; sự phân bổ cán bộ y tế
theo trình độ chuyên môn ở 3 tuyến không đều. Nguồn lực để đầu tư phát triển cho
ngành Y tế còn thấp, chưa tương xứng với sự phát triển của tỉnh (chiếm khoảng 3 4% tổng kinh phí chi đầu tư phát triển hàng năm của tỉnh, trong khi ở một số tỉnh là 7
- 10%).
Phần 4.Vận Dụng
Trên cơ sở hiểu một cách đúng đắn về sức khỏe, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng vào
sức khỏe và vị trí của công tác chăm sóc sức khỏe của nhân dân trong thời kháng
chiến và hiện nay : Mỗi một người dân yếu ớt, tức là cả nước yếu ớt, mỗi một người
dân mạnh khỏe tức là cả nước mạnh khỏe". "Dân cường thì quốc thịnh". "Sức khỏe của
cán bộ và nhân dân được bảo đảm thì tinh thần càng hăng hái. Tinh thần và sức khỏe
đầy đủ thì kháng chiến càng nhiều thắng lợi, kiến quốc càng mau thành công". Với Chủ
tịch Hồ Chí Minh, con người là vị trí trung tâm của mọi hoạt động và quyền được sống
là quyền cao nhất của con người. Khi được sống thì sức khỏe là yếu tố quan trọng
nhất, nếu không có sức khỏe thì chẳng làm được gì. Chính vì vậy mà Người dạy chúng
ta: "Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức
khỏe mới làm thành công". Ðó chính là tư tưởng nhân văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
vận dụng của sức khỏe và vị trí của công tác chăm sóc sức khỏe. Có một điều mà
chúng ta cần nhận thức sâu sắc, đó là ngay khi cách mạng còn nhiều khó khăn, gian
khổ, đời sống của nhân dân còn gian nan, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất coi trọng
vị trí của công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe. Người đã vận dụng vào những điều
bình dị hàng ngày cho rằng: "Sạch sẽ thì ít ốm đau.Có sức khỏe thì làm được việc, làm
được việc thì có ăn". Như vậy, không phải chỉ khi nào "có ăn" mới lo giữ sức khỏe.
Người còn dạy: "Mình dù nghèo, ai cấm mình ăn ở sạch sẽ".Với tư tưởng của Chủ Tịch
Hồ Chí Minh mà cán bộ lãnh đạo các cấp, đặc biệt ở địa phương, chúng ta đã vận dụng
vào công tác chăm sóc sức khỏe của nhân dân. Hơn thế, câu nói trên của Chủ tịch Hồ
17
Chí Minh còn cho thấy: Chăm sóc sức khỏe cũng góp phần tạo ra của cải xã hội chứ
không phải là một công việc chỉ tiêu tốn của cải xã hội.
Ngay từ tổ chức Chính phủ đầu tiên ra đời ngày 25-8-1945, Chính phủ lâm thời được
cải tổ từ Uỷ ban dân tộc giải phóng đã có một cơ cấu tổ chức các bộ nhằm phát triển
tốt sức khoẻ toàn dân mà cơ quan nòng cốt phụ trách công tác này là Bộ Y tế. Từ
Chính phủ đầu tiên cho tới ngày nay, Bộ Y tế luôn luôn được hình thành và giữ trọng
trách được Chính phủ "uỷ nhiệm" cho việc trực tiếp chǎm sóc, bảo vệ và phát triển sức
khoẻ cho nhân dân .Vận dụng vào tư tưởng Hồ Chí Minh,Bộ trưởng Bộ Y tế khẳng định
bảo đảm sức khỏe cho người dân không chỉ là trách nhiệm của Chính phủ và các cơ
quan Nhà nước mà còn là trách nhiệm của từng cá nhân, doanh nghiệp Chính phủ đã
vận dụng vào tư tưởng Hồ Chí Minh chăm sóc sức khỏe nhân dân đưa nền y tế thích
hợp với nhu cầu của nhân dân ta. Y học càng phải dựa trên nguyên tắc: khoa học, dân
tộc và đại chúng. Bộ Y tế khuyến khích doanh nghiệp tham gia vào chương trình này
với mong muốn đây sẽ trở thành danh hiệu uy tín có tác dụng thúc đẩy các doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực y - dược nâng cao trách nhiệm với xã hội; đồng thời
kêu gọi các cá nhân tích cực tham gia chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của nhân dân.
Trên cơ sở tư tưởng, quan điểm chỉ đạo của Bác Hồ, Đảng, Nhà nước, ngành y tế đã có
nhiều chỉ thị, nghị quyết, chủ trương, vận dụng sáng tạo, khoa học phù hợp, tổ chức
thực hiện nhiệm vụ được giao, đặc biệt là công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân ;
cụ thể hóa bằng các hành động thiết thực. Qua các giai đoạn phát triển của đất nước,
cùng với các hoạt động tuyên truyền cho người dân thực hiện các biện pháp vệ sinh
phòng bệnh như: Phong trào “sạch làng, tốt ruộng”; “sạch bản, tốt nương”; “sạch phố,
tốt đồng”; phong trào “ba sạch”, “bốn diệt”; xây dựng ba công trình vệ sinh; mạng lưới
vệ sinh phòng dịch tại các tỉnh được thành lập; phong tục tập quán mất vệ sinh dần
được khắc phục, các bệnh nguy hiểm dần được thanh toán.
Những năm gần đây, Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm đến công tác chăm sóc sức
khỏe nhân dân và cộng đồng hiện nay . Chính phủ đã ban hành Chiến lược Chăm sóc và
Bảo vệ sức khỏe nhân dân, Các tiêu chí về chăm sóc sức khỏe nhân dân và sức khỏe
cộng đồng hiện nay nội dung chỉ đạo của Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa; chương trình Làng văn hóa sức khỏe.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chăm sóc sức khỏe nhân dân.Một số hoạt động thể
thao được tổ chức trên khắp cả nước, để thể hiện rèn luyện tinh thần sức khỏe cho
nhân dân và công đồng.Nhằm tạo sân chơi cho mọi người ,làm cho tinh thần thoải mái
sau những giờ làm việc ,giúp ích cho đất nước phát.
Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định sức khoẻ là vốn quý nhất của con người, nó là tiền đề
cho sự phát triển của một cá nhân, gia đình và của toàn xã hội. Con người khoẻ mạnh
mới có điều kiện học tập và làm việc tốt. Sức khoẻ của nhân dân chỉ có thể tốt hơn khi
mọi người có hiểu biết và sống theo khoa học, và trên bình diện toàn xã hội phải có
một nền y học phát triển bảo đảm chǎm sóc tốt cho sức khoẻ toàn dân. Người dù bận
trǎm công ngàn việc vẫn đi đầu, gương mẫu trong các phong trào và thường xuyên
luyện tập thể dục. Qua lời chỉ huấn và thực tiễn lãnh đạo nước nhà của Hồ Chí Minh
18
cho thấy rất rõ vai trò to lớn của tổ chức nhà nước đối với việc chǎm sóc, bảo vệ và
phát triển sức khoẻ nhân dân.Sức khoẻ của nhân dân là khâu then chốt, là yếu tố cơ
bản của dân tộc trong việc giữ gìn độc lập và phát triển đất nước. Tư tưởng đó của Hồ
Chí Minh thể hiện rất rõ trong việc xây dựng một tổ chức Chính phủ. Dưới ánh sáng
của tư tưởng Hồ Chí Minh về sức khoẻ nhân dân, về chǎm sóc, bảo vệ và phát triển sức
khoẻ toàn dân, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước luôn luôn đề cao và tổ
chức tốt công tác chǎm sóc sức khoẻ toàn dân qua các thời kỳ cách mạng. Bộ y tế
trong suốt hơn nửa thế kỷ qua đã hoàn thành xuất sắc trọng trách là người trực tiếp
chǎm lo sức khoẻ cho toàn dân. Người dân từ khi sinh ra, lớn lên và lúc trở về già được
chǎm lo tốt về sức khoẻ. Do vậy dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh, quán triệt
Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng, để Chính phủ có thể hoàn thành trọng trách là người
chǎm sóc, bảo vệ và phát triển sức khoẻ cho nhân dân thì phải lấy mục đích bảo vệ và
phát triển sức khoẻ của nhân dân hoạch định và thực thi các chính sách kinh tế, xã hội;
phải có biện pháp đồng bộ và kiên quyết từng bước hạn chế đi đến thủ tiêu các tệ nạn
xã hội giáo dục về y học và sức khoẻ phải được phổ cập ở tất cả các cấp học với nội
dung thích hợp; giáo dục, tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân truyền thống của dân
tộc, tôn trọng và biết ơn những người chǎm sóc sức khoẻ cho nhân dân; củng cố ngành
y tế - cơ quan thay mặt Chính phủ trực tiếp chǎm lo sức khoẻ cho toàn dân. Đối với vấn
đề sức khoẻ của nhân dân , Hồ Chủ tịch nêu lên phương châm "phòng bệnh là chính".
Đây là đường lối cơ bản của công tác chǎm sóc sức khoẻ mà Người nêu ra ngay từ sau
Cách mạng Tháng Tám. Người nhấn mạnh trách nhiệm của mọi người trong công tác
vệ sinh phòng bệnh và thể dục thể thao để chủ động giữ gìn và nâng cao sức khoẻ...
Thực tế ngày càng chứng minh rằng muốn bảo vệ và không ngừng nâng cao sức khoẻ
của nhân dân, phòng bệnh, chữa bệnh và giải quyết thuốc men đạt kết quả tốt, thì phải
tự lực xây dựng một nền y học thích hợp với đặc điểm sinh lý của người Việt Nam, với
điều kiện thiên nhiên vô cùng phong phú về dược liệu, với tình hình kinh tế, chính trị xã hội của đất nước trên con đường phát triển. Lời dạy của Hồ Chủ tịch đã nêu lên rất
súc tích và sáng tỏ ý nghĩa, nội dung của nhiệm vụ xây dựng nền y học Việt Nam trên
cơ sở tận dụng được thành tựu của y học hiện đại và y học dân tộc. Người đã tập thể
dục tay không, thể dục với dụng cụ, tập chạy, nhảy, đi bộ, leo núi, tập bơi, tắm nước
lạnh, đánh bóng, cưỡi ngựa, tập một số bài võ, xoa bóp và tập thở... Những lời bình dị
mà sâu sắc, nhiều điều cǎn dặn ân cần nhưng rất khoa học cũng như những hoạt động
và nếp sống, nếp làm việc vô cùng phong phú, khoa học của Người đã là những bài học
vô cùng quý giá đối với nhân dân ta, trước hết là đối với giới y học Việt Nam về chǎm
sóc và bảo vệ sức khoẻ cộng đồng.
Sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh không ngoài một
mục đích cao cả là giành lại quyền sống, quyền tự do và hạnh phúc cho con
người.Ngay từ những nǎm đầu thế kỷ XX, Người luôn đấu tranh để xây dựng một nền
y tế tiến bộ và hiện đại, mà người thầy thuốc được coi như "chiến sĩ đánh giặc ốm, để
bảo vệ khang kiện của giống nòi". Xuất phát từ truyền thống nhân nghĩa "thương
người như thể thương thân" và quan điểm "con người là vốn quý nhất của xã hội",
19
"con người làm nên tất cả", song ở con người thì sức khoẻ lại là vốn quý nhất. Nếu
không có sức khoẻ thì không làm được gì có ích cho bản thân và xã hội, từ "giữ gìn dân
chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khoẻ mới làm thành
công", có sức khoẻ mới sản xuất tốt. Vì vậy, Người luôn tin tưởng ở nhân dân, chǎm lo
bồi dưỡng sức dân. Trong khi cuộc kháng chiến đang còn tiếp tục chống kẻ thù xâm
lược, vấn đề y tế lại càng được đặt lên quan trọng hàng đầu. Người khuyên cán bộ y tế
cần phải " thương yêu người bệnh như anh em ruột thịt". Cần phải tận tâm, tận lực
phụng sự nhân dân. "Lương y kiêm từ mẫu". Người đặc biệt quan tâm đến những
thương bệnh binh, vì họ đã đóng góp nhiều công lao cho đất nước "để bảo vệ Tổ quốc,
bảo vệ đồng bào. Vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào, mà các đồng chí chịu ốm yếu,
què quặt". Thực hiện lời dạy và phương châm của Hồ Chủ tịch, ngành y tế đã lớn mạnh
và từng bước đi vào hoàn thiện với mục tiêu "vì sức khoẻ toàn dân". Ngành đã cụ thể
hoá đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước như "công bằng trong chǎm sóc, bảo
vệ sức khoẻ nhân dân". Người nghèo được khám chữa bệnh, người có công với nước
phải được quan tâm chǎm sóc sức khoẻ. Khẩu hiệu chǎm sóc sức khoẻ cho mọi người
phải ưu tiên cho hai đối tượng trên.. Do vậy chǎm sóc sức khoẻ là một hình thức đầu
tư vào nguồn lực con người, tạo điều kiện giữ gìn và nâng cao sức khoẻ, phát huy tiềm
nǎng lao động để cuộc sống của bản thân và gia đình tốt hơn, tiến tới đạt được mục
tiêu "dân giàu, nước mạnh".Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Thiện Nhân: Hoàn
thành những chỉ tiêu thật cụ thể
Giải quyết dứt điểm những vấn đề nóng về vệ sinh như phóng uế bừa bãi tại khu dân
cư, sử dụng cầu tiêu - ao cá, vệ sinh tại các làng nghề, chợ, nhà vệ sinh trong trường
học, trạm y tế xã, nơi công sở.
Các đồng chí Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố, quận, huyện, phường, xã cần làm rõ ở
địa phương của mình 3 câu hỏi: Bao giờ thì 100% hộ dân, 100% trường học có nhà
tiêu hợp vệ sinh? Bao giờ 100% hộ dân có nước sạch để dùng hằng ngày? Bao giờ rác
thải của 100% xã, phường được xử lý đảm bảo tiêu chuẩn môi trường? Hãy lấy năm
2015, tức là 40 năm ngày đất nước thống nhất làm mốc thời gian để đạt cho được 3
yêu cầu nói trên.
20
Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến: Duy trì Phong trào có hiệu quả và bền vững
Tại buổi phát động hôm nay, sự có mặt của đồng chí Chủ tịch nước, các đồng chí lãnh
đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ đã thể hiện sự quan tâm chỉ đạo, là niềm cổ vũ động
viên để ngành y tế cùng các ngành, các địa phương và toàn thể nhân dân hưởng ứng
thực hiện tốt Phong trào “Vệ sinh yêu nước nâng cao sức khỏe nhân dân”. Thực hiện
sự chỉ đạo của Đảng, Nhà nước và của Thủ tướng Chính phủ tại Quyết định số
730/QĐ-TTg, Bộ Y tế sẽ xây dựng kế hoạch cụ thể để triển khai Phong trào này.
Bộ Y tế cũng mong nhận được sự chỉ đạo của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước
để ngành y tế cùng với các ban, ngành, các địa phương và toàn thể nhân dân triển
khai thực hiện Phong trào một cách có hiệu quả và duy trì bền vững. Bộ Y tế cũng
mong nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của các tổ chức quốc tế cho các hoạt động
thuộc lĩnh vực vệ sinh nâng cao sức khỏe của Việt Nam.
Chủ tịch UBND tỉnh Hải Dương Nguyễn Mạnh Hiển: Đến 2015, 100% hộ dân trong tỉnh
có 3 công trình vệ sinh đạt chuẩn
Tỉnh ủy, UBND tỉnh Hải Dương sẽ chỉ đạo các sở, ban, ngành, đoàn thể và tất cả các
địa phương, đơn vị trong tỉnh tích cực tham gia phong trào bằng những hoạt động cụ
thể, thiết thực. Tăng cường công tác tuyên truyền, gắn Phong trào “Vệ sinh yêu nước
nâng cao sức khỏe nhân dân” với việc thực hiện Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hoá”, chương trình xây dựng nông thôn mới và các chương trình
phát triển kinh tế - xã hội khác của tỉnh.
21
Vận động nhân dân thực hiện tốt vệ sinh cá nhân, vệ sinh gia đình và cả cộng đồng dân
cư. Phấn đấu đến 2015, 100% số hộ dân trong tỉnh có đủ 3 công trình vệ sinh đạt tiêu
chuẩn; hạn chế đến mức thấp nhất sự phát sinh bệnh dịch và các bệnh liên quan đến vệ
sinh môi trường...
KẾT LUẬN
1.Nhận xét và đánh giá.
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề sức khỏe con người ,Người coi đây là
một nhân tố rất quan trọng có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi của sự nghiệp cách
mạng .Người chỉ rõ : “ giữ gìn dân chủ xây dựng nước nhà ,gây đời sống mới ,việc gì
cũng cần cũng khỏe mới thành công ”.Đây là điều hoàn toàn đúng ,“ Mỗi một người
dân yếu ớt là cả một nước yếu ớt ,dân cường thì nước mạnh ”.Đi từ đầu cho tới cuối
những quan điểm của bác thể hiện Bác Hồ trong chúng ta đã đánh giá rất cao vai trò
của sức khỏe .Chính đi theo và làm theo tư tưởng của bác mà sức khỏe của nhân dân
ta được chú trọng , mỗi người dân đã hiểu rõ vai trò của sức khỏe và tư bản thân gìn
giữ đồng thời nền y tế được quan tâm phát triển hơn .
Trên thực tế tình hình sức khỏe của người dân Việt Nam nói chung cũng không phải
là tự hào .Rất biểu dương những trường hợp luôn làm theo tấm gương của bác nhưng
bên cạnh đó cũng rất phê bình lên án một số trường hợp bác sĩ ,y tế ,bệnh viện không
quan tâm chú trọng sức khỏe người dân .
2.Đề xuất của nhóm.
Để làm theo và phát huy tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về vấn đề chăm sóc sức
khỏe .Nhóm 1 chúng tôi còn đề xuất để nền y tế được hoàn thiện và sức khỏe của người
22
dân Việt Nam được tốt hơn,chúng ta truyền thông với người dân bảo vệ sức khỏe.Cần
tuyên truyền các hoạt động bảo vệ sức khỏe cộng đồng .Tổ chức các hoạt động khám
bệnh cho người nghèo,các gia đình khó khăn miễn phí.Tuyên truyền rộng các hoạt
động hiến máu nhân đạo.Nên mở thêm các lớp học võ miễn phí cho mọi lứa tuổi .
Tài liệu tham khảo:
1- Hồ Chí Minh với quan điểm về sức khỏe, y tế và đạo đức của người thầy thuốc (Đỗ
Nguyên Phương).
2- Tư tưởng Hồ CHí Minh về CSSK nhân dân (Trung Kiên).
3- Bác đã từng học và làm thầy thuốc (Bích Ngọc).
4- Ngành Y tế với cuộc vận động học tập và làm theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh
(Từ Thanh Chương).
23