Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

BẢO NINH và nỗi BUỒN CHIẾN TRANH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.58 KB, 26 trang )

Bảo Ninh và tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh
MỤC LỤC
Mở đầu
3
Nội dung
3
1. Bảo Ninh và tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh
3
1.1 Tác giả và sự nghiệp sáng tác
3
1.2 Tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh
4
2. Những đổi mới về nội dung
7
2.1 Hiện thực chiến tranh
7
2.2 Cảm hứng bi kịch
8
2.3 Hình tượng con người
11
3. Những đổi mới về nghệ thuật
18
3.1 Cốt truyện
18
3.2 Kết cấu
20
3.3 Ngôn ngữ
24
3.4 Nghệ thuật kể chuyện
28
Kết luận


30
Tài liệu tham khảo
32
Bảng phân công nhóm thuyết trình
34
MỞ ĐẦU
Sau năm 1975, Việt Nam bước vào kỉ nguyên mới: xây dựng đất nước hòa bình,
thống nhất, theo mục tiêu cao đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Cùng với sự chuyển biến về mọi mặt của đời sống, văn học nghệ thuật cũng bước
vào cuộc hành trình đổi mới chính mình nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển văn hóa, tinh
thần của dân tộc. Trong lĩnh vực văn xuôi, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo
Ninh xuất hiện vào năm 1991 được coi “Là thành tựu cao nhất của văn học đổi mới”
(Nguyên Ngọc). Với những tìm tòi cách tân riêng, cuốn tiểu thuyết này xứng đáng là
thành tựu tiêu biểu cho quá trình đổi mới tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1975-2000.
NỘI DUNG
1. Bảo Ninh và tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh
1.1. Tác giả và sự nghiệp sáng tác
2/34
Bảo Ninh tên thật là Hoàng Ấu Phương, sinh năm 1952 ở Nghệ An. Bút danh của
ông được lấy từ tên xã Bảo Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình của quê ông.
Cha ông là Hoàng Tuệ, giáo sư Ngôn ngữ học dạy tại Trường đại học Sư phạm Hà Nội.
Bảo Ninh gia nhập bộ đội năm 1969, chiến đấu ở mặt trận B3 Tây Nguyên, trong
Tiểu đoàn 5, Trung đoàn 24, Sư đoàn 10. Đến năm 1975 thì ông giải ngũ.
Từ năm 1976-1981, ông học đại học ở Hà Nội, sau đó làm việc ở Viện Khoa học
Việt Nam. Từ 1984-1986, ông tham gia học khóa II Trường viết văn Nguyễn Du.
Từ năm 1997, ông làm việc tại tòa soạn báo và là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.
Hiện nay, Bảo Ninh công tác ở báo Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam và Văn nghệ Trẻ.
Bảo Ninh chủ yếu viết truyện ngắn, tác phẩm đầu tay của ông là Trại bảy chú lùn in
năm 1987 và một số truyện khác được viết rải rác như Hà Nội lúc không giờ, Khắc dấu
mạn thuyền, Vô cùng xưa cũ, Tiếng vĩ cầm của quân xâm lăng, Ba lẻ một, Thách đấu…

nhưng chỉ đến tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh (1991), sự nghiệp sáng tác của nhà văn
mới thực sự được chú ý đến và tạo ra làn sóng phê bình sôi động trong giới văn nghệ.
Bảo Ninh là một tài năng văn chương độc đáo, ông có một “điểm nhìn”, một “cách
nhìn” riêng về chiến tranh, mang tính hiện thực và nhân bản sâu sắc, vượt khỏi giới hạn
của những tác phẩm văn học trước đây.
Năm 2008, Văn Mới xuất bản cuốn Lan man trong lúc kẹt xe, tuyển tập các tác
phẩm của ông từ trước tới nay.
1.2. Tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh
1.2.1. Tóm tắt nội dung
Nỗi buồn chiến tranh là câu chuyện viết về cuộc đời và tình yêu trong những năm
trong và sau cuộc kháng chiến chống Mỹ của Kiên và Phương. Kiên, chàng học sinh
trường Bưởi ở Hà Nội, mang trong mình tình yêu đẹp đẽ, trong sáng của tuổi 17 với
Phương, cô bạn học từ niên thiếu của anh. Rời khỏi mái trường, Kiên tình nguyện gia
nhập quân ngũ theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc. Ngày lên đường, Phương đã đưa
Kiên trên một chặng đường dài. Trên tuyến tàu hàng ra tiền tuyến, Phương bị cưỡng
bức. Cảm thấy ở Phương “thái độ điềm nhiên khinh nhờn và thờ ơ lãnh đạm” sau biến
cố ấy, Kiên đã bỏ rơi Phương đi vào cuộc chiến. Trải qua mười năm khốc liệt, cuối cùng
Kiên “may mắn” sống sót trở về với cuộc sống hòa bình. Tuy nhiên, những vết thương
3/34
trên thân thể và trong tâm hồn anh không thể hàn gắn được. Anh không thể hòa nhập
với dòng chảy của cuộc sống đương đại, trở thành “nhà văn cấp phường” kỳ quặc, khó
hiểu. Anh bắt tay vào viết tiểu thuyết, viết về chính cuộc chiến mà anh từng tham gia,
với những đồng đội, những vui buồn, khốc liệt, với mối tình day dứt ở Phương, và cả
những sự thật ghê gớm đã ám ảnh suốt quãng đời còn lại của anh.
Trong hành trình tâm tưởng của Kiên, ký ức về những người đồng đội luôn gắn liền
với cái chết. Họ bị giết ngay trước mắt Kiên như tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 27, cô giao
liên tên Hòa… Họ ngã xuống trong vòng tay anh như Quảng, Thịnh “con”… nhiều
người đã gỡ cho tính mạng Kiên. Và cũng có nhiều người hy sinh bởi lỗi lầm của anh
như Oanh. Tất cả những sự kiện đó đã được anh đưa vào cuốn tiểu thuyết của mình
trong cái hình hài hỗn độn. Người duy nhất có mối quan tâm về cuốn tiểu thuyết này

chính là người đàn bà câm sống trên tầng gác áp mái.
Cùng với những trăn trở về quá khứ, “mảnh đời còn lại sau mười năm bị lửa đạn của
chiến tranh vằm xé lại bị móng vuốt của tình yêu xé nát”. Ngày về, Kiên gặp Phương,
muốn cùng Phương quay lại cái thời yêu nhau “bất chấp tất cả, bất chấp sự khác nhau
quá lớn giữa hai đứa”. Thế nhưng, bấy giờ Phương đã buông rơi mình trong trụy lạc, cô
đi theo một người tình “đã định với nàng một lễ cưới”. Chán chường trước cuộc sống
hiện tại, Kiên tự tay đốt cuốn tiểu thuyết chính tay mình viết ra. Anh ra đi. Mớ bản thảo
như một cuộc sống hỗn loạn với cảm hứng chủ đạo là sự rối bời, mà anh để lại được
người đàn bà câm gom và cất giữ.
1.2.2. Số phận của tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh
Nỗi buồn chiến tranh được coi là một cột mốc sáng chói của văn học thời kỳ Đổi
mới, đồng thời cũng là cuốn tiểu thuyết có số phận đặc biệt của văn học Việt Nam trong
suốt hơn hai thập niên qua. Xuất bản lần đầu tại Việt Nam nó bị đổi tên là Thân phận
của tình yêu (năm 1990), nhưng chỉ một năm sau, lại được tái bản với nhan đề của chính
tác giả: Nỗi buồn chiến tranh và được trao giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam (năm
1991). Nỗi buồn chiến tranh không chỉ được đông đảo bạn đọc Việt Nam biết đến mà
nó còn được dịch ra trên mười thứ tiếng và giới thiệu ở nhiều nước trên thế giới. Bản
dịch tiếng Anh của Frank Palmos và Phan Thanh Hảo với tựa đề The Sorrow of War
xuất bản năm 1994 được các nhà phê bình đánh giá là một trong những tiểu thuyết cảm
4/34
động nhất về chiến tranh. Đây là một trong số ít sách nói về chiến tranh từ quan điểm
phía Việt Nam được đón nhận nồng nhiệt ở phương Tây. Bởi Nỗi buồn chiến tranh
không chỉ lạ về hình thức mà còn mới mẻ về nội dung so với nhiều tác phẩm cùng thời.
Có thể nói, đây là cuốn sách đầu tiên của văn học Việt Nam thể hiện chiến tranh dưới
góc nhìn của một cá nhân.
Đã có nhiều đạo diễn nước ngoài ngỏ ý muốn đưa tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh
lên màn ảnh rộng, nhưng do bất đồng ngôn ngữ và vài lý do khác nên chưa triển khai
được. Hiện tại, nhà biên kịch phim Peter Himmelstein vừa chuyển thể Nỗi buồn chiến
tranh và đã được Bộ Văn hóa Thể thao Du lịch Việt Nam cấp phép.
Mới đây, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh lọt vào top 50 tác phẩm văn học nước

ngoài dịch sang tiếng Anh hay nhất trong nửa thế kỷ qua. Ở vị trí thứ 37, cuốn sách
được đứng chung với những kiệt tác lớn của thế giới như Chiến tranh và hòa bình (Lev
Tolstoy), Trăm năm cô đơn (Gabriel Garcia Marquez)
Tháng 5/2011 Bảo Ninh, với tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh, được trao giải Nikkei
Asia của Nhật Bản - giải thưởng dành cho những người Châu Á có cống hiến xuất sắc
trong sự nghiệp cải thiện cuộc sống của người dân khu vực này trên ba lĩnh vực kinh tế,
kỹ thuật và văn hóa.
Tháng 9/2011, Nỗi buồn chiến tranh lại được trao giải thưởng Sách hay. Theo nhà
văn Nguyên Ngọc, “Về mặt nghệ thuật, đó là thành tựu cao nhất của văn học đổi mới”.
Còn Nguyễn Quang Thiều, trong tạp chí Thông tin và Văn hóa, số ra ngày 28/10/2006,
cho rằng: “Nỗi buồn chiến tranh đã chạm vào mẫu số chung của nhân loại - đó là câu
chuyện của thân phận, của mất mát, của tình yêu và của chiến tranh…”.
Như vậy là sau hai thập niên tồn tại với không ít những thăng trầm, tiểu thuyết Nỗi
buồn chiến tranh của Bảo Ninh đã có được những vị trí xứng đáng trên văn đàn trong và
ngoài nước.
2. Những đổi mới về nội dung
2.1. Hiện thực chiến tranh
Sau ngày miền Nam giải phóng, đặc biệt là từ sau Đổi mới (1986), đời sống văn học
nước ta đã có những thay đổi quan trọng trong quá trình nhận thức và tiếp nhận nghệ
thuật.
5/34
Nếu trong văn học giai đoạn trước, hiện thực chiến tranh là những bản hùng ca về
một thời hoa lửa của dân tộc thì với Nỗi buồn chiến tranh, hiện thực chiến tranh đã
được nhìn từ góc độ mới - chân thật, sống động, thẳng thắn đến từng câu chữ. Tất cả
những gì khốc liệt nhất, đau thương, tăm tối nhất của chiến tranh đều được Bảo Ninh
phơi bày một cách trần trụi qua Nỗi buồn chiến tranh. Đó là cảnh chết chóc, cảnh đói
rét: “ Mùa thu não nề, lê thê, ê ẩm khổ sở vì đói, vì sốt rét triền miên, thối hết máu,
vì quần áo bục nát tả tơi và những lở loét khắp người như phong hủi, cả trung đoàn
chẳng còn ai ra hồn. Mặt mày ai nấy như lên rêu, ủ dột, yếm thế, đời sống mục ra” Rồi
“bệnh đào ngũ tràn lan khắp trung đội, chẳng khác nào những cơn ói mửa, không thể

chắn giữ, ngăn bắt nổi ”. Là người trong cuộc, Bảo Ninh nhìn thấy bộ mặt gớm ghiếc
của chiến tranh, sự bất an của con người. Đúng như dự cảm của Phương trong một buổi
đi dạo bên Hồ Tây với Kiên: “Em nhìn thấy tương lai - Đấy là sự đổ nát”, “Ngọn lửa
thiêu các bức tranh, thiêu đốt cha và luôn cả đời em”.
Sự tăm tối của chiến tranh còn được khắc đậm thêm ở sự huyền bí, man rợ của núi
rừng như đồng lõa với cuộc chiến tàn khốc Bút pháp đặc tả cộng với những chi tiết
đắc địa, khiến cho Nỗi buồn chiến tranh có những tác động kép, những thông điệp đa
tầng, nhiều chiều về chiến tranh. Bảo Ninh đã tìm được một định nghĩa về chiến tranh
một cách hiện thực nhất: “Chiến tranh là cõi không nhà không cửa, lang thang khốn khổ
và phiêu bạt vĩ đại, là cõi không đàn ông, không đàn bà, là thế giới thảm sầu, vô cảm, là
tuyệt tự khủng khiếp nhất của dòng giống con người”.
Trong Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh xác lập một cái nhìn mới về hiện thực lịch sử
- hiện thực chiến tranh mới trong sự đối chiếu với văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa
trong chiến tranh và trước 1986. Nhà văn không mô tả trực tiếp hiện thực mà “ghi lại”
hình chiếu của hiện thực qua tấm gương một ý thức cá nhân.
Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh nằm trong dòng chảy chung của văn học viết về
chiến tranh từ cái nhìn thời hậu chiến, đã nêu lên được một loạt vấn đề lớn về: thân
phận con người, sự sám hối, suy tư về nhân tính, cũng như cái nhìn về mặt trái của hiện
thực chiến tranh.
Nỗi buồn chiến tranh không phải là tượng đài văn học thời chiến, văn học hiện thực
xã hội chủ nghĩa. Nó là một sự đào sâu hiện thực chiến tranh bằng những trải nghiệm cá
6/34
nhân để làm phong phú thêm cái nhìn của cộng đồng về hiện thực lịch sử với ngòi bút
sắc sảo và một cảm hứng sáng tác mới được khai sinh trong giai đoạn này.
2.2 Cảm hứng bi kịch
Trước năm 1975, nếu như chiến tranh được miêu tả bằng cái nhìn sử thi và cảm
hứng lãng mạn với những chiến thắng vẻ vang và lòng tự hào dân tộc, thì sau năm 1975,
các nhà văn thời hậu chiến đã trút bỏ vai trò chính trị của văn học và đi sâu vào khắc
họa hình ảnh chiến tranh với cảm hứng bi kịch. Dưới cái nhìn hiện thực thay cho cái
nhìn lãng mạn, họ soi chiếu ngòi bút vào từng ngóc ngách của cuộc chiến và tâm hồn

người lính, để nói lên những gai góc, đau thương mất mát khốc liệt mà chiến tranh đã
tạo nên.
Các tác phẩm văn học mang cảm hứng bi kịch là những tác phẩm chú trọng đi sâu
thể hiện cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt, căng thẳng, thường trực của nhân vật. Cuộc đấu
tranh nội tâm ấy được nhà văn xây dựng từ những xung đột về mối quan hệ giữa lý
tưởng cao đẹp mà bản thân con người luôn khát khao vươn tới với các thế lực khác đang
cố tình ngăn cản, hủy hoại nhằm làm cho lý tưởng ấy chệch xa khỏi tầm với ban đầu.
Nó khiến nhân vật rơi vào trạng thái tận cùng của sự mất mát, đớn đau và thất vọng.
Chính những đấu tranh, dằn vặt nội tâm sâu sắc và dai dẳng với bản thân của nhân vật
đã làm nảy sinh ý thức về cảm hứng bi kịch và khi nhà văn tái hiện những mâu thuẫn bi
kịch trong tác phẩm của mình, lý giải chúng, điển hình hóa chúng, nhà văn đã tô đậm
những xúc cảm của các nhân vật, làm gia tăng tính khốc liệt của các sự kiện diễn ra
trong đời sống.
Trong Nỗi buồn chiến tranh, cảm hứng bi kịch trước hết được Bảo Ninh thể hiện
qua những cái chết khủng khiếp đầy ám ảnh “Máu tung xối, chảy tóe, ồng ộc, nhoe
nhoét… thân thể giập vỡ, tanh bành, phùn phụt phì hơi nóng”, cũng như sự hành hạ về
tinh thần và thể xác khi người lính phải đối mặt với lằn ranh mong manh giữa sự sống
và cái chết, khiến họ trở nên điên loạn và sợ hãi, như cái chết của tiểu đoàn trưởng ngay
trước mắt Kiên “anh ta tự đập vào đầu, phọt óc ra khỏi tai”, hay như Quảng phải chịu
một cái chết kéo dài đầy đau đớn: “… bụng rách trào ruột… xương xẩu dường như gẫy
hết, mạng sườn lõm vào, tay lủng liểng và hai đùi tím ngắt… cái chết như nhất định bắt
7/34
Quảng phải tỉnh để chịu đến cùng sự hành hạ của nó… mắt mở trừng trừng như muốn
mà không nhắm lại được”.
Khi miêu tả về những cái chết nát vụn và đau đớn, tác giả đã phơi bày ra hiện thực
khốc liệt của chiến tranh và hơn nữa là những ám ảnh khôn nguôi về cuộc chiến luôn
thường trực trong tâm trí Kiên, không ngừng bị khuấy đảo và buộc anh lần hồi về quá
khứ để chiêm nghiệm lại những điều đã trải qua. Cuộc đời của Kiên chính là cuộc đời
đã qua, cuộc đời gửi lại trong cuộc chiến, là cuộc đời đã mất đi trong nỗi đau buồn
chiến tranh.

Với Kiên, quá khứ đã thành sức mạnh ghê gớm kéo anh quay cuồng trong những hồi
ức triền miên không dứt với “Biết bao kỷ niệm bi thảm, bao nhiêu là nỗi đau mà từ lâu
lòng đã nhủ lòng phải cố gắng cho qua, rốt cuộc đầu dễ dàng bị lay thức bởi những mối
liên tưởng tuồng như là không đâu nảy sinh một cách khôn lường…”. Đối với con
người khốn khổ luôn bị dằn vặt bởi quá khứ ấy, những gì của hiện tại chỉ là ảo, là không
thực. Tâm hồn Kiên từ lâu đã chết trong cuộc chiến cùng với Từ, Oanh, Tâm, Quảng…
và những đồng đội khác, khiến anh càng thêm đau khổ và nặng nề trong những hồi ức
“…chút lòng tin và lòng ham sống còn lại trong tôi không phải do những ảo tưởng mà
là nhờ sức mạnh của những hồi tưởng”. Từ đó Kiên đắm chìm vào quá khứ như là liều
thuốc giúp anh tiếp tục duy trì sự sống, và vì vậy mà “tương lai đã nằm lại ở phía sau xa
kia rồi”.
Những người lính trong trang viết của Bảo Ninh được nhìn dưới góc độ cá nhân chứ
không phải những con người anh hùng mang tiếng nói đại diện cho cả cộng đồng. Do
vậy mà họ không những trở nên sống động, chân thực, gần gũi như những con người
của đời thường mà còn ám ảnh hơn khi xuất hiện cùng với những bi kịch tinh thần dồn
nén.
Đó là những bi kịch tinh thần của bao nhiêu người như Kiên đã quăng mình cho
cuộc chiến tranh bảo vệ dân tộc, lăn xả vào cuộc chiến đấu bảo vệ lý tưởng, đối mặt với
những cái chết thương tâm của đồng đội… để khi định thần ngoảnh lại, thì họ đều đã
“vĩnh biệt với chính mình”, với cuộc đời từ trong trận chiến ấy. Nơi có “những con
người xứng đáng hơn ai hết quyền được sống trên cõi dương này, những đã lẳng lặng
chấp nhận quy luật đơn giản của chiến tranh: mình chết thì bạn mình sống”.
8/34
Bên cạnh đó, cảm hứng bi kịch còn được Bảo Ninh đi sâu làm rõ ngay cả khi chiến
tranh đã kết thúc, hòa bình lập lại và những người lính may mắn được trở về với cuộc
sống, nhưng trong tâm trí họ lại xuất hiện những mâu thuẫn giữa quá khứ đau thương và
một hiện tại còn xa lạ, khó hòa nhập, khiến nhân vật không ngừng trăn trở, day dứt và
tìm mọi cách để được sống lại một thời bom đạn hãi hùng qua những hồi tưởng, ký ức.
Nhưng cũng chính những giấc mơ cùng những ám ảnh, dư âm, ác mộng về một thời
khói lửa đã không ngừng vắt kiệt sức lực và tâm hồn họ. Đến nỗi Kiên phải tự mình thú

nhận một sự thật đau đớn “không phải mình đang sống mà là đang bị mắc kẹt lại trên
cõi đời này” và toàn bộ cuộc sống trong thời hiện tại thực chất “được rọi sáng trong
luồng tâm tưởng ngược chiều thời gian”. Còn gì bi kịch hơn cho một người lính chiến
trong tư thế chiến thắng trở về lại mang trong mình “nỗi buồn được sống sót” trong
“chuỗi bất tận ngày qua ngày nhạt thếch, buồn tẻ và êm đềm đến phát ốm”. Có thể nói,
bi kịch mà Kiên phải hứng chịu là bi kịch giữa quá khứ và hiện tại, giữa sự sống và cái
chết, giữa chiến tranh và hòa bình. Mà Kiên đã thể hiện hết vào những sáng tác bất chợt
của mình, cuốn sách chính là cánh cửa bước vào tâm hồn sâu kín của Kiên, nơi mà
những ký ức, tình cảm, suy nghĩ, mộng mị tuồng như “cứ nghĩ đến chuyện gì là lại đặt
bút ghi ngay chuyện ấy, không màng đến sự logic trước sau”.
Bi kịch đến với Kiên không chỉ từ những trận đánh đẫm máu hay từ những âm vang
dội về từ quá khứ đau thương mà còn ở mối tình đầu đầy trắc trở và thấm đẫm nước mắt
đối với cô gái tên Phương, khiến cho Kiên “Nhiều khi trông thấy Phương tự dưng anh
lại thấy trước mắt hiện ra những kỷ niệm thời chiến của bản thân…Những sự kiện,
những hình ảnh chẳng liên quan gì tới Phương thế mà nhờ nàng mà anh liên tưởng đến”.
Bi kịch tình yêu của anh và Phương chính là bi kịch đau đớn nhất mà chiến tranh
gây nên và để lại. Hai người họ đã “đi nốt với nhau những cây số cuối cùng của mối
tình đầu”, và đã cập bến một cuộc chiến tranh vô cùng tàn khốc.
Bảo Ninh không viết về chiến tranh chỉ để nói đến chiến tranh. Ông đã đào sâu vào
góc nhìn cá nhân, tâm tình cá nhân, số phận cá nhân… vì vậy những người lính hiện lên
trong Nỗi buồn chiến tranh không mang dáng dấp của những biểu tượng bất diệt đôi khi
khô khan, giáo điều mà rất thực tế, sống động và gần gũi hơn hẳn. Bi kịch mà chiến
tranh gieo rắc lên cuộc đời họ chính là những vết thương âm ỉ cùng những nỗi đau
không bao giờ được hàn gắn, in đậm trong tâm hồn và trên thể xác của những người
9/34
lính. Chính vì vậy mà hình tượng con người trong Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh
đã có nhiều sự cách tân, đổi mới.
2.3. Hình tượng con người
Thông thường, trước những bước ngoặt lịch sử quan trọng, ý thức xã hội có sự thay
đổi, con người sống trong xã hội đó phải thẩm định lại những bậc thang giá trị. Văn học

với tư cách là một hình thái ý thức xã hội cũng vận động và biến đổi cùng với sự biến
đổi của đời sống con người. Đổi mới quan niệm về con người là một trong những biểu
hiện nổi bật trong đổi mới tư duy của lĩnh vực văn học thời hậu chiến. Và hình tượng
con người trong Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh là minh chứng cụ thể.
2.3.1. Con người gắn với lý tưởng anh hùng thời chiến
Từ ngày nước nhà thống nhất, văn học đã dành trọn mười năm (1975-1985) để ngợi
ca cuộc chiến chính nghĩa bằng cảm hứng sử thi. Trong Nỗi buồn chiến tranh, vẫn
phảng phất dư âm hình tượng con người gắn với lý tưởng anh hùng thời chiến. Mở đầu
tác phẩm là hành trình thu nhặt hài cốt tử sĩ của Kiên và đồng đội. Họ đi qua những địa
danh gắn liền với một thời chiến đấu oanh liệt của mình. Trong đó, đáng chú ý là truông
Gọi Hồn. Nó gợi lại trong Kiên về hoàn cảnh ác liệt cuối mùa khô năm 1969 của tiểu
đoàn 27. Cái ký ức ám ảnh của Kiên về người tiểu đoàn trưởng: “Thà chết không
hàng… Anh em, thà chết…?”. Tiếng gào to đầy sức lay động như gợi lại cái khí chất
anh hùng xả thân của người chiến sĩ mà giai đoạn 1945-1975 tập trung xây dựng.
Trong văn học 1945-1975, con người được nhìn nhận chủ yếu trong mối quan hệ
với cộng đồng, với quê hương, đất nước ở phẩm chất chính trị, mà biểu hiện tập trung
nhất, cao nhất là sự xả thân vì sự nghiệp đấu tranh, giải phóng đất nước. Cảm thức lịch
sử này có lẽ là một trong những hạt nhân tâm lý thôi thúc Kiên đi theo tiếng gọi thiêng
liêng của Tổ quốc. Kiên “say mê cuộc chiến tranh đến đứng ngồi không yên”, và anh
cũng đã phê phán cha mình là “không thấy được những giá trị cao đẹp của cuộc đấu
tranh hiện nay”. Có lẽ âm hưởng của chất sử thi và cảm hứng lãng mạn trong văn học
thời kỳ trước đã đem lại một vài hình ảnh hùng tráng trong cuốn tiểu thuyết của Bảo
Ninh: “Đạn nổ inh tai. Song cả ba chục viên đạn quạt căng rát kỳ thay không một viên
gãi vào Kiên”. Thậm chí nó còn khơi gợi một đời sống linh thiêng “Các quân hai, quân
10/34
ba, quân bốn này chứa hồn thiêng của trung đội đấy, bọn tớ sẽ phù hộ cho cậu trăm trận
trăm thắng”. Ca ngợi chiến tranh, ca ngợi hình tượng con người gắn với lý tưởng anh
hùng thời chiến có thể là một nội dung “sa đà” theo quán tính của văn học thời kỳ trước,
nhưng dẫu sao đó vẫn là một cảm xúc tự hào đối với con người và văn học thời hậu
chiến.

2.3.2. Con người - nạn nhân của chiến tranh
Ở Nỗi buồn chiến tranh, hình tượng con người gắn với lý tưởng anh hùng thời chiến
có được nhắc đến, nhưng đó không phải là chủ thể chính của tác phẩm mà chỉ là một
thứ “gia vị” nhằm tô đậm thêm cho hình tượng con người cá nhân trong đời sống phong
phú, phức tạp. Thực ra hình tượng con người gắn với lý tưởng anh hùng thời chiến được
đặt trong mối quan hệ so sánh đối lập với hiện thực chiến tranh và hệ quả của nó chính
là con người nạn nhân chiến tranh.
Chiến tranh đã giáng một đòn chí tử vào chất “người” trong những người lính, đẩy
họ đi ngược dòng tiến hóa. Đọc Nỗi buồn chiến tranh, chúng ta không khỏi bị ám ảnh
bởi hình ảnh “người đàn bà” bị Thịnh “con” giết -“Một con vượn rất to, phải bốn người
kéo ra mới khiêng nổi”, “nhưng lạy Chúa tôi, đến khi ngả nó ra, cạo sạch lông thì ôi giời
đất ôi, con vật hiện nguyên hình là một mụ đàn bà béo xệ, da sùi lở nửa xám nửa trắng
hếu, cặp mắt trợn ngược”. Nguyên hình “con người” thời loạn ly phơi bày ra khiến nhân
vật, tác giả và cả người đọc phải sửng sốt, day dứt, thậm chí là kinh tởm.
Trong Nỗi buồn chiến tranh, có lẽ xác chết, đạn bom, máu lửa cũng không diễn tả
nổi sự khốc liệt của chiến tranh bằng hình ảnh “loài quỷ rừng”, “ma óm” hay “quỷ cùi”:
“hình thù lồm xồm lông lá, đúng hơn là râu tóc quá dài, trần truồng đang ngồi trên một
thân cây”. Đặc biệt, đó không chỉ là một người, mà là một “cặp uyên ương mất trí” sống
vất vưởng trong túp lều ở sâu thẳm trong rừng. Tội ác chiến tranh của Mỹ được Bảo
Ninh phơi bày bằng những hình ảnh ghê rợn như thế.
Trong chiến tranh con người bị biến dạng nhân hình đã đành nhưng ngay cả khi may
mắn vượt qua cuộc chiến, sống sót về với thời bình thì người ta cũng bị cơn bão lửa
thiêu rụi đi phần nhân tính: “Tâm hồn mỗi ngày một thêm hoang phế, tranh tối tranh
sáng vật vờ toàn những hồn ma bóng quỷ”. Trở về từ cuộc chiến, Kiên “chưa định hình
cuộc sống mới”, “còn chưa lại hồn” và “bước đi chập chững vào đời dân sự”. Xung
11/34
quanh anh, những người đồng đội gần như không còn là lớp chiến sĩ kiên trung trên
chiến trận. Họ là Vượng “tồ”, “loại người bị ký ức quá kinh khủng đè bẹp và làm cho
suy đốn”; là Hưng, anh cán bộ chỉ huy đội bị “lưu manh hóa” thành “những tên ác ôn
kín đáo, trác táng và nguy hiểm…”. Sống trong hòa bình nhưng Kiên luôn bị dùng dằng

bởi những ám ảnh của năm tháng chiến tranh. Tình cảnh tha hóa tâm hồn của anh đúng
như Bảo Ninh nói: “… khi hồi ức đã nổi cộm lên và trở nên dai dẳng, không rũ bỏ được
có nghĩa là ta đã suy sụp, cảm thấy hết sức chịu đựng, cảm thấy tuyệt vọng vô
phương…”.
Con người trải qua chiến tranh bị tước đoạt đi cái phần nhân tính, xem giết chóc như
một nhu cầu thường nhật. Họ sống giữa bãi tha ma mà không bao giờ cảm thấy lo ngại
hay sợ sệt. Thậm chí họ còn giẫm đạp lên cái tôn nghiêm đáng có đối với người đã
khuất. Nói như Can “cứ bắn giết mãi thế này thì chết hoại tình người”. Và cũng rất
nhiều lần như thế, tác giả đã thông qua các nhân vật cảnh tỉnh Kiên: “Hãy coi chừng mà
xem lại nhân tính”. Có thể nói con người trong Nỗi buồn chiến tranh là nạn nhân của
chính cuộc chiến mà họ xông xáo lao vào.
2.3.3. Con người trong dòng chảy cá nhân hóa
Sự vận động và phát triển của một nền văn học thể hiện ở trình độ chiếm lĩnh, sự
khám phá về con người. Trong đó, việc nhận thức, lý giải và thể hiện đời sống cá nhân
là một vấn đề quan trọng. Sau năm 1985, các nhà văn đã chú ý đến con người cá nhân,
đời sống riêng tư của mỗi con người.
Con người cá nhân trong Nỗi buồn chiến tranh biểu hiện ở các phương diện: con
người đa diện; con người tự nhận thức bản thân và đề cao đời sống tâm hồn; và con
người có phẩm chất, năng lực riêng
Ở phương diện thứ nhất, một trong những khám phá của Bảo Ninh và các nhà văn
cùng thế hệ là việc đổi mới cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ về số phận con người trong
chiến tranh, đặc biệt là hình tượng người lính. Trong Nỗi buồn chiến tranh, tác giả đã đi
sâu vào thế giới bên trong, soi rọi những mảng tối, mảng sáng của tâm hồn họ. Nếu như
trong văn học giai đoạn trước, người lính ít có những suy nghĩ riêng tư thì trong Nỗi
buồn chiến tranh người lính đã sống thực với đời tư của họ. Ở bình diện đạo đức xã hội,
với quan niệm con người chức năng, con người phận vị, ý thức ham sống của Can đáng
12/34
bị coi là hèn nhát. Tuy nhiên, từ góc độ cá nhân, Can hoàn toàn được hưởng quyền lựa
chọn con đường riêng cho mình. Hành động của anh có thể hiểu được rằng anh đã nhận
thức sâu sắc và sớm nhìn ra thực trạng thảm hại mà chiến tranh gây cho con người.

Quan sát ở những góc độ khác nhau, ta mới thấy tác giả đã có một cái nhìn đổi mới
không đơn giản, xuôi chiều mà trong mối quan hệ phức tạp, đa diện. Đó là kết quả của
sự tìm tòi, suy ngẫm về con người thời hậu chiến.
Ở phương diện thứ hai, con người cá nhân trong Nỗi buồn chiến tranh không những
là con người đa diện mà còn là con người biết tự nhận thức về bản thân. Có thể nói, toàn
bộ thiên tiểu thuyết là một chuỗi những dòng tâm tưởng, những hồi ức, hoài niệm của
nhân vật Kiên. Trong thế giới tinh thần đó, anh ý thức về mình, về những điều mình trải
qua từ thuở 16, 17 tuổi đến khi bước vào ngưỡng ngoại tứ tuần. “Đời anh từ bấy lâu nay
không còn gì hơn là viết, mặc dù viết khổ viết sở, như đập đầu vào đá, như tự tay tước
vụn trái tim mình, như là tự lộn trái con người mình ra”, “viết về những khoảng trời
khác nhau, tương phản nhau trong đời sống và trong tâm hồn”. Chính vì vậy, con người
trong dòng chảy cá nhân hóa ở Nỗi buồn chiến tranh, mà tiêu biểu là Kiên, đề cao cái
đời sống tâm hồn. Khi tâm hồn bị dằn vặt, “đôi khi anh nghĩ chỉ có cái chết mới tạo cảm
giác yên nghỉ thật sự”.
Ở phương diện thứ ba, xây dựng con người cá nhân, điều quan trọng là phải khắc
họa được phẩm chất, năng lực riêng của họ. Ở Nỗi buồn chiến tranh, năng lực cá nhân
biểu hiện cả ở hai dạng năng lực hoạt động và năng lực tinh thần. Kiên nhập ngũ từ tuổi
17 phơi phới thanh xuân, tương lai rộng mở và ôm ấp một mối tình trong sáng tuyệt vời.
Anh trải “mười năm dằng dặc còn dài hơn cả một đời người” để được quay về với cuộc
sống hòa bình. Trên chiến trường anh đã tỏ rõ mình không phải một tên trí thức tiểu tư
sản vô dụng như mọi người đánh giá. Điều đó đã âm thầm cho thấy năng lực chiến đấu
đáng chú ý của anh. Với Kiên là thế, còn với Phương, cô nổi lên ở thế mạnh biểu hiện
năng lực tinh thần, là một con người nhạy cảm, trực giác mạnh mẽ, Phương là người
duy nhất có mối liên hệ tinh thần với bố Kiên. Cũng chỉ mình Phương được chứng kiến
cái “nghi lễ cuồng tín” của ông và “nhìn vào cuộc đời mình, cuộc đời Kiên, nhìn lại tình
yêu của hai đứa, Phương thấy được tính chất tiên tri của cảnh tượng đêm ấy, một sư linh
ứng, một điềm báo trước…”, thông qua cảm giác bén nhạy đó cô đã ngộ ra ý nghĩa “vẻ
đẹp lạc thời và lạc loài” của mình.
13/34
Con người đa diện, con người tự nhận thức bản thân và đề cao đời sống tâm hồn

cũng như con người có năng lực, bản lĩnh riêng là những biểu hiện của con người trong
dòng chảy cá nhân hóa thuộc thời hậu chiến. Đó cũng là cơ sở để soi chiếu đời sống
phong phú, phức tạp của con người trong Nỗi buồn chiến tranh.
2.3.4. Con người với đời sống phong phú, phức tạp
Trong văn học Việt Nam sau 1975, cùng với việc khám phá con người cá nhân, nhà
văn còn nhìn nhận con người ở nhiều chiều, nhiều hướng khác nhau. Trong Nỗi buồn
chiến tranh, người chiến sĩ là những anh hùng nhưng họ cũng tồn tại nhiều mặt tiêu cực.
Họ sống say sưa với thú vui bài bạc, với khói thuốc hồng ma, họ ham muốn niềm hạnh
phúc chung đụng trai gái, họ đắm chìm trong sự khát máu thô bạo, trong ý tưởng thoát
ly nghĩa vụ… tất cả đều là một phần trong bản chất cố hữu của con người bình thường.
Thứ hai, sự phong phú phức tạp của con người bình thường còn biểu hiện ở khát
vọng tình yêu và mưu cầu hạnh phúc. Không bằng lòng với cách nghĩ công thức, rập
khuôn về con người thời trước, người cầm bút trăn trở trên từng trang viết, sống với nỗi
niềm tâm sự, nắm bắt nhu cầu khát vọng của từng con người giữa cuộc đời. Trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, đâu đâu cũng là “súng nổ, bom rơi, mùa mưa, mùa khô, quân
địch, quân ta” người lính phơi phới tuổi xuân lại bị chôn vùi cảm xúc. Thậm chí, họ đã
phải thốt lên “cả đời đi đánh nhau, thú thật tôi chẳng thấy cái trò này có gì là vinh”. Họ
bắt đầu nhung nhớ tới cuộc sống êm ấm nơi quê hương, “cuộc đời rất dài và bao nhiêu
hạnh phúc lạc thú phải hưởng”. Tiếng gọi hạnh phúc đó lôi kéo họ rời khỏi vị trí chiến
tuyến và chấp nhận sự ô nhục hèn yếu như Can. Hoặc để giành lấy chút hạnh phúc hư
ảo giữa chiến trường, họ phải say đắm vào trong khói hồng ma và mơ tưởng về cảnh
đoàn tụ, về người yêu, hay chỉ giản đơn là đàn bà, là thức ăn. Để rồi khi giống hồng ma
không còn nữa, họ lâm vào tình trạng mất phương bấu víu.
Khát vọng hạnh phúc còn là khát vọng về một tình yêu tự do. Suốt thời chiến, hình
bóng Phương vẫn không nguôi ngoai trong tâm tưởng Kiên: “Vì nhớ Phương, nhớ đến
tình yêu của mình mà Kiên đã không ngăn cấm những mối hoang tình ấy, đồng thời tự
cản mình để không nhập cuộc. Hằng đêm khi cánh trinh sát giấu anh rời khỏi lán, bí mật
băng rừng xuyên núi để đến với người tình, Kiên như thể dõi theo như thể tham gia vào
hạnh phúc bất hạnh của họ bằng những giấc mộng yêu đương mờ ảo bóng hình
14/34

Phương”. Khi bắt được những tên thám báo sát hại các cô gái anh đã toan giết chúng
những lại thôi “bởi tự nhiên lúc đó anh chợt nhớ tới Phương”. Quan tâm đến tình yêu và
hạnh phúc, Bảo Ninh không ngần ngại đề cập nhu cầu tính dục của con người. Nhu cầu
ấy xuất hiện trong “mối duyên tình chung đụng, dan díu san sẻ” của đội trinh sát và các
cô gái miền núi. Nhu cầu ấy đáng lẽ là rất bình thường đối với những chàng trinh sát
tuổi không quá đôi mươi, ấy vậy mà trong chiến tranh, đó lại bị xem là điềm gở. Chính
Kiên và Phương, đôi tình nhân từng thốt lên rằng “hai đứa mình có khi chết vẫn còn
trong trắng” cũng đã trải qua những cuộc gắn bó xác thịt với kẻ khác để thêm nhớ về
nhau, khắc sâu tình yêu vào nhau, “là hồn ma của nhau”.
Thứ ba, sự phức tạp trong đời sống con người bình thường còn biểu hiện bởi tính
chất giằng co giữa quan niệm về thiện - ác trong họ. Trong văn học giai đoạn trước,
hình tượng con người trong mối quan hệ đối lập: ta - thiện, địch - ác rạch ròi phân minh.
Thế nhưng quan niệm bạn - thù trong Nỗi buồn chiến tranh đã bị Bảo Ninh xóa nhòa.
Chúng ta dễ dàng nhận thấy mẫu hình ảnh tên lính ngụy truyền thống với những nét tính
cách gian xảo, hèn hạ… ở tên thám báo mà Kiên cùng đội trinh sát bắt được nhằm trả
thù cho các cô gái miền núi. Thế nhưng ở phần tiếp theo tác phẩm, hình ảnh tên lính
ngụy lại khơi sâu tấm lòng trắc ẩn ở Phán, anh xông pha lửa đạn tìm bông băng cứu
chữa cho y như thể y chính là đồng đội mình. Thậm chí khi để lạc y, Phán đã nuôi một
niềm day dứt “cứ nhìn cảnh mưa lũ là tim tôi như bị chọc dùi”.
Cuối cùng, con người với đời sống phức tạp còn được biểu hiện ở khía cạnh đời
sống tâm linh. Có nhiều ý kiến cho rằng Nỗi buồn chiến tranh viết theo khuynh hướng
hiện thực huyền ảo. Sở dĩ có nhận định như thế là do thế giới mà nhân vật Kiên hồi
tưởng đầy rẫy những yếu tố kỳ ảo: đêm đêm Kiên nghe thấy Can trở về thì thào bên
võng, cái xác bỗng chốc hóa thành làn khói trắng Theo như lời Kiên bộc bạch, lòng
tín ngưỡng vào các bóng ma, các hiện tượng tâm linh trong anh bắt đầu từ sau khi
chứng kiến cái chết của Quảng. Do đó anh giải thích cái chết của Thịnh “con” và toàn
tiểu đoàn như là sự báo oán của “người đàn bà” bị hóa thú. Từ phương diện con người
của đời sống tâm linh, ta có thể lý giải những hiện tượng kỳ ảo trên chính là sự ám ảnh
tâm lý của nhân vật qua cuộc chiến tàn khốc, “theo dần năm tháng những luồng sinh khí
chết ấy đã đậm lại trong lòng anh, hòa vào tiềm thức, trở thành bóng tối của tâm hồn

anh”.
15/34
3. Những đổi mới về nghệ thuật
3.1. Cốt truyện
Những cách tân trong sáng tác của các cây bút giai đoạn sau 1975 thể hiện sự tìm
tòi, khám phá và khả năng sáng tạo không ngừng của họ. Bên cạnh đổi mới nội dung,
nghệ thuật cũng được thay đổi cho phù hợp với ý đồ sáng tạo của tác giả. Và điều đó đã
làm nên sự khác biệt trong sáng tác của giai đoạn này so với các sáng tác của giai đoạn
trước. Là phần không thể thiếu làm nên tính hấp dẫn của loại tác phẩm tự sự, cốt truyện
“là hình thức tổ chức cơ bản nhất của truyện bao gồm các giai đoạn phát triển chính, các
sự kiện chính và hành động chính trong tác phẩm”.
Trong Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh đã cho người đọc tiếp cận với một cốt truyện
mới mẻ. Phần đông người đọc cảm thấy mơ hồ khó hiểu khi theo dõi mạch truyện, bởi
cốt truyện lỏng lẻo, dường như là không có cốt truyện. Nó không có những tình huống
cao trào với những thắt nút, mở nút, đỉnh điểm… toàn bộ câu chuyện chỉ là những mảng
ghép rời rạc trong dòng hồi ức của Kiên, như chính nhân vật này bộc bạch: “Ngay từ
chương đầu tiên cuốn tiểu thuyết của anh đã buông lơi cốt truyện truyền thống, không
gian và thời gian tự ý khuấy đảo không kể gì đến tính hợp lý, bố cục bấn loạn, dòng đời
các nhân vật bị phó mặc cho ngẫu hứng…”. Ở đây, tiểu thuyết không chỉ là tiếng nói
của ý thức, mà còn là tiếng nói của tiềm thức, của giấc mơ, của cả hiện tại đang vận
động và không hề khép kín. Tuy nhiên, không phải vì thế mà cuốn tiểu thuyết này mất
đi tính hợp lý, chặt chẽ của nó. Ngược lại, thông qua dòng ý thức của nhân vật, người
đọc vẫn tìm được sợi dây liên kết vô hình kết dính các mảng vỡ của ký ức lại với nhau.
Điều này vừa giữ được mạch câu chuyện, vừa tránh được sự nhàm chán cũ kỹ.
Với những nỗ lực nhằm biểu đạt tâm hồn của con người thời đại, các nhà văn giai
đoạn này nói chung và Bảo Ninh nói riêng đã thể hiện rõ ý thức cách tân nghệ thuật, đổi
mới tư duy, lạ hóa cách viết của mình. Với Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh đã xây
dựng cốt truyện theo dòng tâm trạng nhân vật, “bao gồm cả ý thức lẫn vô thức. Sáng tạo
dựa trên trực giác, linh cảm để ngòi bút phiêu lưu trong thế giới tâm linh của con
người”. Cuốn tiểu thuyết hình thành từ những mảng vụn trong ký ức của Kiên, với quá

khứ và thực tại đan xen, hòa lẫn vào nhau.
Văn học Việt Nam sau 1975, cốt truyện không còn chứa đựng những tình huống gay
cấn hay những xung đột gay gắt mà chỉ đơn thuần là những câu chuyện về những điều
bình thường, nhỏ nhặt, vụn vặt. Nó đi sâu vào nội tâm nhân vật, tạo nên cốt truyện giàu
16/34
tâm trạng mà Nỗi buồn chiến tranh là một điển hình. Tác phẩm đã phá vỡ giới hạn của
cốt truyện truyền thống để mạnh mẽ dấn bước sang một lãnh địa khác dựa trên thi pháp
hiện đại. Không những thế, trong Nỗi buồn chiến tranh, ta còn nhận thấy sự giản lược
cốt truyện so với các tác phẩm giai đoạn trước đó, nó nảy sinh từ sự dồn nén dung
lượng, từ khát vọng muốn tự giải tỏa của nhà văn.
Cuối cùng, một nét mới mẻ trong cốt truyện của Nỗi buồn chiến tranh là phần kết.
Nếu như các sáng tác của giai đoạn trước đó hầu như thiên về các kết thúc có hậu, các
vấn đề được nêu lên và giải quyết một cách trọn vẹn thì đến với tác phẩm này, người
đọc có dịp suy ngẫm về sự ra đi của “nhà văn cấp phường” sau khi anh đã có một quãng
thời gian dài đắm mình trong những hồi ức về chiến tranh, được trăn trở và sống lại với
những giờ phút ăm ắp kỷ niệm trong quá khứ. Một cái kết để ngỏ với những ấn tượng
mạnh mẽ trong lòng người đọc.
Sự cách tân sáng tạo trong cốt truyện ấy có được là từ sự kế thừa, tiếp nối của những
mô hình truyền thống đã có trước đó. Đồng thời đã góp phần tạo ra những biến đổi mới
mẻ trong kết cấu của tiểu thuyết, nhằm khẳng định giá trị đích thực của mình.
3.2. Kết cấu
Kết cấu được xem là mối liên hệ cơ bản trong quan hệ giữa hình thức và nội dung
tác phẩm văn học. Tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh có hai kiểu
kết cấu nổi bật và xuyên suốt trong toàn bộ tác phẩm là kết cấu theo dòng tâm tưởng và
kết cấu tiểu thuyết trong tiểu thuyết. Đây là những kiểu kết cấu không những đặc sắc và
mới lạ đối với tiểu thuyết giai đoạn 1975-2000 nói chung mà còn là thành công nghệ
thuật của Nỗi buồn chiến tranh.
3.2.1. Kết cấu theo dòng tâm tưởng
Sau năm 1986, kiểu kết cấu theo dòng tâm tưởng đã được sử dụng rất có hiệu quả
trong sự thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người. Các yếu tố về không gian, thời

gian, điểm nhìn… được phối hợp chặt chẽ trong kết cấu theo dòng tâm tưởng, phát huy
tối đa vai trò của ký ức. Do đó rất phù hợp với những tác phẩm viết về đề tài chiến tranh
và Nỗi buồn chiến tranh là một ví dụ điển hình.
Thời gian trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh là một thời gian bị đảo lộn giữa
quá khứ - hiện tại, giữa chiến tranh - hòa bình theo dòng ký ức cuồn cuộn, thay đổi liên
17/34
tục của nhân vật Kiên. Điểm độc đáo của tiểu thuyết là tác giả đã không nêu ra chi tiết
mở đầu câu chuyện, tất cả chỉ là sự tái hiện những đoạn hồi ức ngẫu nhiên của Kiên.
Chính lối kết cấu ấy, Bảo Ninh đã thực sự đưa người đọc vào một “mê cung” mà ở đó
chỉ cần dòng suy tưởng của nhân vật chạm vào một điểm nào đó của ký ức thì hình ảnh
của quá khứ hiện ra ngay, làm cho người đọc không thể biết được kết quả.
Do có sự đan xen giữa hiện tại và quá khứ, mà Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh
đã thể hiện được sự phân thân trong đời sống tinh thần con người, khắc họa đậm nét nỗi
ám ảnh quá khứ chiến tranh trong từng nhân vật, khiến cho hiện tại rất nhiều lần mờ đi
trước hình ảnh của quá khứ. Trong dòng chảy của ký ức là không gian bên trong của
nhân vật, không gian tâm tưởng. Mà nơi đó chứa đựng những hồi ức của chiến tranh
đeo bám Kiên suốt những tháng ngày sống trong hòa bình. Cái quá khứ hãi hùng cùng
với tuổi trẻ và tình yêu một đi không trở lại, vẫn luôn song hành trong tâm tưởng của
Kiên, khiến anh cảm giác “không phải mình đang sống mà là đang bị mắc kẹt lại trên
cõi đời này” và chỉ được “rọi sáng trong luồng tâm tưởng ngược chiều thời gian”.
Như vậy, kết cấu theo dòng tâm tưởng có thể xem là kết cấu về thế giới tinh thần
của nhân vật. Ở nơi đó, không gian và thời gian bị đảo lộn, xoay chiều bất chợt theo
từng suy nghĩ của nhân vật. Kết cấu theo dòng tâm tưởng với những diễn biến bất ngờ,
không đoán trước được của tác phẩm được xem như một cách tân nghệ thuật, tạo nên
một lối kết cấu mới - hấp dẫn, đa tầng nghĩa.
3.2.2. Kết cấu tiểu thuyết trong tiểu thuyết
Đây là một kiểu kết cấu tiểu thuyết mới lạ, chỉ xuất hiện rải rác trong một vài tác
phẩm được sáng tác ở Việt Nam trong giai đoạn từ 1986-2000. Kết cấu tiểu thuyết trong
tiểu thuyết hay còn gọi là kết cấu “lồng truyện” chỉ là một hướng thử nghiệm của những
nhà văn có khuynh hướng tìm tòi, đổi mới thể loại tiểu thuyết… Và Nỗi buồn chiến

tranh là tác phẩm đầu tiên được xây dựng theo kiểu kết cấu này.
Thoát khỏi lối kết cấu truyền thống, trong đó các bộ phận của tác phẩm liên kết với
nhau và với toàn thể trong mạch vận động của thời gian vật lý, dựa theo cấu trúc đơn
của các sự kiện lịch sử, Bảo Ninh đã triển khai cốt truyện Nỗi buồn chiến tranh theo
hành trình sáng tác đầy đau đớn của nhà văn Kiên - nhân vật chính của tiểu thuyết.
18/34
Một đề tài chính, xuyên suốt toàn bộ tác phẩm là đề tài chiến tranh, được viết từ hai
quyển tiểu thuyết trong một tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh. Đó là quyển tiểu thuyết của
nhà văn Kiên, và tiểu thuyết của chính Bảo Ninh.
Nỗi buồn chiến tranh là tác phẩm có bốn nhân vật chủ đạo có ảnh hưởng quyết định
đối với tác phẩm (nhân vật - người kể chuyện, Kiên, Phương và người đàn bà câm), với
tần suất xuất hiện khác nhau. Trong đó nhân vật dẫn dắt câu chuyện là Kiên, vốn là một
người lính còn sống sót sau chiến tranh nhưng lại sống một cách “thờ ơ” với thời hậu
chiến. Cuộc sống hiện tại của Kiên chỉ đơn thuần là sự “tồn tại đến trót đời với thiên
chức là một cây bút của những người đã hy sinh, là nhà tiên tri những năm tháng đã đi
qua, người báo trước thời quá khứ”.
Nhưng trong tiểu thuyết mà Kiên là tác giả thì hệ thống nhân vật bị xáo trộn, vỡ
vụn, chắp vá và rối loạn. Vì Kiên viết tiểu thuyết của mình trong cơn say, trong sự vật
vã đau đớn của những chấn thương tinh thần nặng nề mà quá khứ chiến tranh mang lại.
Về mặt hình thức, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh được mở đầu bằng đoạn tả tâm
trạng của Kiên trong những ngày đi nhặt hài cốt của tử sĩ sau chiến tranh. Tiếp sau đó là
một hành trình dài sáng tạo tiểu thuyết của nhà văn Kiên nhằm “làm sống dậy những
linh hồn đã mai một, những tình yêu đã tàn phai, làm bừng sáng lại những giấc mộng
xưa” với ý thức phản chiếu hình ảnh chiến tranh ở góc độ khác: “Mai sau ví dụ có viết
khác đi thì cũng là bởi vì thâm tâm luôn muốn viết về chiến tranh sao cho khác trước”.
Đoạn hồi ức dài đầy khổ sở để quay về với những quá khứ đau thương trong quyển tiểu
thuyết nhỏ của nhà văn Kiên và đồng thời là nhân vật chính được khép lại bằng lời “trần
thuật” của nhân vật xưng tôi. Đây là nhân vật ghi chép, hoàn chỉnh lại tập bản thảo của
nhà văn Kiên được trao từ tay người đàn bà câm. Liệu có thể xem nhân vật xưng tôi này
là chính tác giả hay không? Khi ngay trong lời nói của mình sau khi hoàn tất tập bản

thảo đã có một nhận xét “Dường như do sự tình cờ của câu chữ và của bố cục, tôi và tác
giả đã ngẫu nhiên trở nên hòa đồng tư tưởng, trở nên rất gần nhau”…
Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh là tác phẩm khơi mào cho một loạt những sáng
tác theo kết cấu tiểu thuyết trong tiểu thuyết cũng như kết cấu theo dòng tâm tưởng, với
kiểu nhân vật đảm nhiệm hai vai trò trong một tiểu thuyết nhân vật - nhà văn. Theo Đỗ
Đức Hiểu, với lối kết cấu tiểu thuyết trong tiểu thuyết, Nỗi buồn chiến tranh đã làm
“một cuộc phiêu lưu muốn hòa nhập với văn học hiện đại thế giới”.
19/34
3.3. Ngôn ngữ
3.3.1. Ngôn ngữ tự sự
Ngôn ngữ là chất liệu làm nên tác phẩm văn học. Nó là công trình sáng tạo vĩ đại
của con người trải qua hàng ngàn năm lịch sử. Văn hào Nga M. Gorky đã từng nói:
“Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên của văn học”, vì nếu không có ngôn ngữ thì nhà văn
không có phương tiện thể hiện bức tranh đời sống và truyền đạt thông điệp tư tưởng
thẩm mỹ đến người đọc. Tuy nhiên, cũng kho từ vựng ấy nhưng dưới cảm quan của mỗi
người, sẽ có những cách cấu tứ khác nhau, làm thành những văn bản ngôn từ khác nhau.
Chính sự khác nhau này tạo nên sự đa dạng về phong cách sáng tác của các nhà văn,
nhà thơ.
Trong văn học Việt Nam giai đoạn 1975-2000, loại hình tự sự chiếm ưu thế. Do vậy
nghệ thuật tự sự không chỉ là một trong những yếu tố quan trọng trong phương thức
biểu hiện mà còn là yếu tố cơ bản thể hiện cá tính sáng tác của mỗi tác giả. Trong những
tác giả tiểu thuyết lớn của giai đoạn như Lê Lựu, Khôi Vũ, Ma Văn Kháng, Chu Lai,
Dương Hướng, Nguyễn Khắc Trường… thì Bảo Ninh thuộc một kiểu người viết đặc
biệt của văn học Việt Nam đương đại. Đồng thời, ông cũng là nhà văn từng đi qua chiến
tranh với tư cách người lính. Có lẽ, chính điều ấy đã giúp Bảo Ninh hiểu rõ hơn về
chiến tranh, về sự tàn khốc và đau khổ của nó mang lại. Bảo Ninh đã khai thác những
trải nghiệm thực tế của mình để miêu tả sự thật chiến tranh trong tác phẩm Nỗi buồn
chiến tranh của ông.
Ngôn ngữ tự sự hay là ngôn ngữ trần thuật trong tác phẩm này được biểu hiện tập
trung ở ngôn ngữ độc thoại và ngôn ngữ đối thoại. Trong đó, ngôn ngữ độc thoại thể

hiện rõ nhất qua những dòng suy nghĩ của nhân vật Kiên, lúc nghĩ về Phương, lúc thì
nghĩ về chiến tranh: “Ôi, cái ngày tháng tư nóng hổi, nồng nàn. Những lần ôm xiết ngắn
ngủi chuyếnh choáng trong làn nước màu lục nhạt, những sợi trong lập lờ. Tiếng cá
quẫy đuôi. Và khuôn mặt trắng mịn của Phương hòa trong nước, những chùm bong
bóng thở, mái tóc ướt nặng, bờ vai, đôi chân dài, thân thiết tuyệt mĩ đến đau nhói trong
lòng… tiếng đồng ca từ sân trường vang lên…”. Đôi lúc Kiên ngẫm tâm trạng của
người lính: “Nỗi buồn chiến tranh trong lòng người lính có cái gì tựa như nỗi buồn của
tình yêu, như nỗi nhớ nhung quê nhà, như biển sầu lúc chiều buông trên bến sông bát
20/34
ngát. Nghĩa là buồn, là nhớ, là niềm đau êm dịu, có thể làm cho con người ta bay bổng
trong thời gian quá khứ, tuy nhiên với điều kiện không được dùng nỗi buồn chiến trận ở
cụ thể một điểm nào, một sự việc nào, bởi vì khi dừng lại thì không còn là nỗi buồn nữa
mà là sự đau xé lòng”.
Nhưng cũng có lúc nhân vật Kiên nghĩ về thời đại của mình: “Đêm đêm giữa chừng
giấc ngủ tôi nghe thấy tiếng chân tôi từ những thuở nào đó rất xa xôi rồi vang trên hè
phố lát đá… Ôi năm tháng của tôi, thời đại của tôi, thế hệ của tôi! Suốt đêm nước mắt
tôi ướt đầm gối bởi nhớ nhung, bởi tiếc thương, cay đắng ngậm ngùi”.
Chính những dòng độc thoại này giúp ta đi sâu hơn vào thế giới nội tâm của Kiên,
khám phá những bí mật tuổi thơ và tuổi trẻ mà anh muốn che giấu, thậm chí phủ nhận.
Trong tiểu thuyết này ngoài ngôn ngữ độc thoại ra thì còn có ngôn ngữ đối thoại, ta thấy
cuộc đối thoại giữa Kiên và Phương, giữa Kiên với những người đồng đội, những người
thân… Chính những dòng đối thoại này giúp cho người đọc hiểu rõ hơn về tính cách
nhân vật. Và cũng nhờ vào những thủ pháp nghệ thuật này mà nhân vật đã bộc lộ được
những tâm tư, suy nghĩ của mình về cuộc đời.
Chúng ta dễ dàng nhận ra trong tác phẩm còn có rất nhiều lời kể của tác giả: “một
cách máy móc anh cần lấy bút, và thay vì viết thư, anh viết một cái gì hoàn toàn khác…
anh đã viết một mạch trọn vẹn với thần hứng không bao giờ còn lại…”.
“Anh” ở đây chúng ta có thể hiểu là nhân vật Kiên nhưng cũng có thể là chính bản
thân tác giả. Vì thế, tiểu thuyết như một tự bạch, trong tác phẩm vừa có ngôn ngữ tác
giả, vừa có ngôn ngữ nhân vật vì thế đã tạo nên tính đa thanh cho ngôn ngữ.

Tác phẩm viết về chiến tranh nên tác giả đã tả thực diện mạo tàn khốc mà chiến
tranh gây ra: “lềnh bềnh xác người sấp ngửa”, “linh hồn lở loét”, “Gờ núi lạnh lẽo”,
“nấm mồ bồ đội mọc lên nhấp nhô tựa sóng cồn”… Những từ ngữ này gây cảm giác
ghê rợn, khiến người đọc bị ám ảnh. Bên cạnh những ngôn ngữ tả thực còn có trường
ngôn ngữ tạo sắc thái kì ảo như “ma cà rồng”, “hoa hồng ma”, “ma quái”… đã tạo nên
hình ảnh rùng rợn, ly kì… Sự kết hợp tài tình giữa hai nguyên tắc này đã tạo nên những
câu văn mang đậm màu sắc huyền thoại: “Đêm nay hồn ai gọi hồn ai. Tiếng hú cất lên
từ đâu đó trong rừng thẳm, âm u truyền dọc theo gờ núi lạnh lẽo…”.
Tiềm thức về chiến tranh luôn tồn tại ở Kiên và giờ đây, dù sống trong hòa bình,
những kỉ niệm đó trở về trong Kiên: “Ngồi xuống ở bìa rừng trong bóng hoàng hôn…
21/34
lặng lẽ Kiên trông thấy toàn cảnh của những gì mà trí nhớ đã lảng tránh bao năm… Anh
cảm thấy lại có trái lựu đạn đã rút chốt mà không dám phát nổ…”. Đấy là hình ảnh của
cô giao liên Hòa trong trí nhớ của Kiên lúc anh trở lại hồ Cá Sấu, tham gia vào đội thu
nhặt hài cốt tử sĩ. Một lần khác, trong giấc mơ anh lại gặp Hòa: “Trong màn sương mù
đặc của giấc mơ, tôi chỉ thấy Hòa thấp thoáng, xa vời…”. Nỗi buồn chiến tranh của Bảo
Ninh vì vậy là một tác phẩm về ký ức cá nhân. Trong khi trần thuật, tác giả đã sử dụng
ngôn ngữ kể là ngôn ngữ chủ đạo xuyên suốt tác phẩm, và còn nhiều loại ngôn ngữ khác
nữa để tạo nên cuốn tiểu thuyết đa thanh. Tính đa thanh là một bước trưởng thành trong
tư duy nghệ thuật tiểu thuyết Bảo Ninh.
3.3.2. Độc thoại nội tâm
Độc thoại nội tâm là một hiện tượng đã thấy xuất hiện trong kịch cổ đại và nhất là
trong kịch của Shakespeare. Trong văn tự sự cận đại, độc thoại nội tâm vẫn còn mang
tính chất sân khấu, một sự tự bộc lộ, chân thành và khách quan. Trong tiểu thuyết sử thi
của Lev Tolstoy, độc thoại nội tâm đã truyền đạt gần như không có sự can thiệp của tác
giả, phản ánh được cả ý thức lẫn vô thức của nhân vật. Vậy như thế nào là độc thoại nội
tâm? Theo Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, trong Từ điển thuật ngữ văn
học, (2010) NXB Giáo Dục, Hà Nội, “Độc thoại nội tâm là lời phát ngôn của nhân vật
nói với chính mình, thể hiện trực tiếp quá trình tâm lí nội tâm, mô phỏng hoạt động cảm
xúc, suy nghĩ của con người trong dòng chảy trực tiếp của nó”.

Với cách hiểu như vậy, Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh đã cho ta thấy
một nghệ thuật thể hiện độc thoại nội tâm đặc sắc. Toàn bộ tác phẩm là niềm khắc khoải
khôn nguôi của một người lính bước ra từ cuộc chiến vô cùng khắc nghiệt với một câu
hỏi nhức buốt: “Chiến tranh đã để lại gì khi con người bước ra khỏi vòng xoáy dữ dội
của nó?”.
Đặt Kiên là nhân vật trung tâm trong tác phẩm của mình với một cái nhìn đa chiều,
Bảo Ninh đã xây dựng thành công bi kịch của một người lính. Vừa mới bước ra khỏi
cuộc chiến, Kiên lại phải đối mặt với những phũ phàng của thời hậu chiến, những mặt
trái của xã hội. Chính nó làm cho anh có một suy nghĩ: “Tại sao lại không viết tiểu
thuyết về cái cộng đồng kỳ thú những người hàng xóm ở tầng trên, tầng dưới và ở
chung tầng với anh trong ngôi nhà này?”. Những dòng suy tư, những giấc mơ đứt nối,
22/34
những hồi tưởng gấp gáp, thật hỗn loạn nhưng dường như nó lại thống nhất trong một
dòng chảy, dòng chảy của nội tâm nhân vật.
Với Nỗi buồn chiến tranh nhà văn Bảo Ninh đã vượt lên trên một số nhà văn cùng
thời về kĩ thuật tiểu thuyết. Nỗi buồn chiến tranh đã cho người đọc thấy được một cây
bút tiểu thuyết vô cùng sắc sảo, có chiều sâu.
Trong tác phẩm, ta thấy có sự xuất hiện của hai người kể chuyện xưng “tôi”, một là
Kiên và một là người kể lại câu chuyện của Kiên. Dường như xuyên suốt mọi hành
động kể là lời người kể ngôi thứ ba là Kiên: “Đã đành đánh nhau thì phải đánh nhau
thôi, một khi không còn cách nào khác, nhưng dù sao thì… Trai đất Việt thực ra không
ham chiến trận lắm đâu như người ta hay đồn, hăng chiến phải nói tới mấy ông trí thức
tuổi sồn sồn bụng to chân ngắn. Còn với dân chúng, cơn binh lửa vừa rồi đã đủ đau thấu
tới ngàn năm. Tuy nhiên nói vậy chứ cũng chẳng biết là thế nào”. Ngôi kể thứ ba này
thực chất là rất phức tạp, đó chính là ngôi thứ ba của nhân vật Kiên tự chuyển từ “tôi”
để kể chuyện “tôi”, một cái tôi có sự dịch chuyển của hai thái cực tôi - ta, vừa là tôi
nhưng đồng thời cũng lại là người khác. Câu chuyện chủ yếu vẫn nghiêng về dòng nội
tâm của Kiên, và những lúc này Kiên hiện lên với tư cách là một người kể độc thoại nội
tâm: “Dù đã trầm mình trong rượu, dù đã hàng trăm lần tự cầu xin lòng mình hãy lặng
yên đi cho, thì trong tâm trí anh vẫn không ngừng nhói đau những hồi tưởng tan nát về

thời gian sống cùng nhau sau chiến tranh của anh và Phương. Mảnh đời còn lại sau
mười năm bị lửa đạn của chiến tranh vằm xé lại bị móng vuốt của tình yêu xéo nát”. Lời
độc thoại nội tâm này thực chất là thao tác phân tích tâm trạng của người kể, mà người
kể ở đây ta có thể thấy đó lại chính là nhân vật Kiên. Cái tôi, cái ta dường như hòa
quyện vào nhau để làm rõ cho cùng một nhân vật, chiếu rọi vào nội tâm của nhân vật,
để qua đó mọi góc khuất bên trong đời sống của nhân vật được bộc lộ một cách sáng rõ.
Thủ pháp độc thoại nội tâm trong Nỗi buồn chiến tranh đã cho người đọc một cái
nhìn sâu hơn về thế giới bên trong của các nhân vật. Qua đó người đọc cũng thấy rõ hơn
hiện thực tàn khốc của cuộc chiến tranh cũng như thân phận con người trong chiến
tranh.
3.4. Nghệ thuật kể chuyện
23/34
Với Nỗi buồn chiến tranh Bảo Ninh đã tạo được một bút pháp kể chuyện mới mẻ,
với cách kể chuyện song hành, người kể chuyện và nhà văn Kiên. Một số nét hiện đại
trong sáng tạo của Bảo Ninh là: trí nhớ, sự hồi tưởng. Tất cả câu chuyện như một mô
hình lắp ráp. Nó đa phần phụ thuộc vào mớ trí nhớ hỗn độn thuận theo chiều cảm xúc
của nhân vật, tạo cho người đọc một cảm giác gần gũi. Bởi lẽ cách phản ứng ấy hoàn
toàn giống với suy nghĩ của con người bình thường không còn chỉ đơn giản là hình
tượng nhân vật trên trang giấy mà tác giả phải đi “xin” từng cử chỉ, hành động, thái độ,
diễn biến tâm trạng của con người chỉ để cho nhân vật trên trang sách sống động hơn.
Dưới ngòi bút của Bảo Ninh, cảm xúc nhân vật diễn ra rất tự nhiên không hề gượng
ép, nó ngập ngừng, lộn xộn, đầy bí ẩn gây cho người đọc nhiều suy nghĩ. Với Kiên cuộc
sống được cảm nhận bằng rất nhiều giác quan - khứu giác và thị giác: “Mùi hôi hám pha
tạp của đường phố bị cảm giác nồng lên thành mùi thối rữa. Tôi tưởng mình đang đi qua
đồi (Xáo Thịt) la liệt người chết sau trận xáp lá cà tắm máu cuối tháng Chạp 72”, “một
ngày nọ rất bất ngờ, nhờ vào phép liên tưởng nhiệm màu của hồi ức, khi đang xem một
nghệ sĩ kịch câm uốn lượn thân mình một cách quằn quại, gào thét một cách âm thầm
thống thiết nỗi đời tuyệt vọng …” .
Bảo Ninh để cho nhân vật được tự do vẫy vùng trong hồi ức của bản thân với nhiều
cung bậc cảm xúc, gây cho người đọc vừa có những cảm giác mơ hồ về ký ức vừa căng

người sử dụng hết tất cả các giác quan (thị giác, thính giác, xúc giác…) để cảm nhận
“mùi” của chiến tranh cùng nhân vật, mà không theo một logic hay một trình tự nhất
định. Thông qua cách kể chuyện đó, tác phẩm như đang lật từng ô cửa tâm hồn của
Kiên và đến lúc mở xong những ô cửa đó ta mới thắm thía “nỗi đau buồn của chiến
tranh”.
Nhà văn sử dụng rất nhiều cụm từ có ý nghĩa khơi gợi làm cho người đọc ý thức
được giá trị của con người, tinh thần phản kháng trước chiến tranh: “chết cho đồng đội
của mình sống”, “vĩnh viễn tình người”.
Bảo Ninh đã xây dựng thành công sự dằn vặt nội tâm trong nhân vật này bằng
những ngôn từ, cách kể chuyện đơn giản, đời thường, không hoa mỹ, nhưng mang lại
hiệu quả gợi tả không nhỏ. “Khi đọc lướt nhanh lại bản thảo, anh ngỡ ngàng và kinh hãi
thấy điều mà mình vừa khẳng định ở trang trước đã bị phủ định ở trang này. Và các
nhân vật của anh không ngừng mâu thuẫn. Tuồng như càng trăn trở càng trượt nhanh ra
24/34
vấn đề làm anh trăn trở”. Bảo Ninh đã cho ta thấy sự giày vò trong tâm khảm một nhà
văn chân chính, mang nỗi đau lên trang giấy cho người đọc đối diện với chính mình.
Nghệ thuật kể chuyện của nhà văn tinh túy ở chỗ bên cạnh việc diễn tả hành động,
sự hồi tưởng và sự hỗn loạn trong tâm trí nhân vật, ông còn âm thầm đưa ra những “lời
bình” của mình. Đặc biệt, sự xuất hiện rõ ràng nhất là ở cuối tác phẩm. Bảo Ninh không
giống như Nam Cao không “tàng hình” vào trong tác phẩm để nhân vật làm cả câu
chuyện. Bảo Ninh đã xuất hiện mặc dù ít nhưng ông đã đưa ra những ý kiến của mình,
làm cho tác phẩm của ông khác với những tác phẩm còn lại vì nó nói lên một cái gì đó
mới mẻ, một hướng đi chưa được khai thác nhiều. Và đó là điều tạo nên thành công cho
Nỗi buồn chiến tranh.
Ngay chính tác giả cũng đau đáu về những vấn đề mà Kiên gặp phải, ông cũng hòa
mình vào dòng suy nghĩ: “Tôi cảm thấy ghen tỵ với niềm cảm hứng, niềm lạc quan
quay ngược về quá khứ của anh”. Nhà văn cùng hòa mình vào nhân vật như bao con
người khác.
Ông đưa đôi tay của mình vào tác phẩm giúp Kiên hoàn thành bản thảo. Bảo Ninh
đã cho người đọc thấy được một cái nhìn mới về chiến tranh, người lính và những mất

mát của họ trong và sau cuộc chiến.
Cách kể chuyện của Bảo Ninh trong tác phẩm này phần nào đã giúp người đọc mở
ra một thế giới mới khi đến gần với những thứ gần như đã bỏ quên trong chiến tranh. Ta
tiếp nhận tác phẩm trong tâm thế tò mò, mới mẻ và có phần thoải mái hơn. Đó là sự táo
bạo trong lối viết mới, chấp nhận nương theo ký ức - thứ vô định không thể nào điều
khiển được.
KẾT LUẬN
Trong hoàn cảnh mới của đất nước, người sáng tác có nhiều thuận lợi, đó là tiếp thu
đầy đủ hơn về vốn văn nghệ phong phú của dân tộc, có điều kiện giao lưu rộng rãi hơn
với các nền văn hóa nước ngoài. Cuộc sống mới ấy đòi hỏi người cầm bút phải đáp ứng
nhu cầu mới của độc giả.
Đọc Nỗi buồn chiến tranh chúng ta hiểu con người đau khổ, trăn trở, nhận thức như
thế nào về quá khứ, về chiến tranh, về những gì được mất trong cuộc đời. Đó là một
bước tiến trên con đường hiện đại hóa nội dung tiểu thuyết Việt Nam - con đường đi tới
25/34

×