PHÊ BÌNH VĂN HỌC LÀ GÌ???
MỤC LỤC
1.Một số vấn đề của phê bình văn học:
1.1.Phê bình văn học là gì? (Bản chất của phê bình văn học):
1.1.1.Khái niệm:
Theo ngữ nguyên: Trước khi được dùng để chỉ một bộ môn văn học, từ ngữ phê bình
có nghĩa là một trạng thái tinh thần; đó là khuynh hướng phân tích, khuynh hướng mà
tiếng Hi Lạp diễn tả bằng động từ XPRVEIV, ý nói “phân loại ra để rồi phán đoán” từ
ngữ này được dùng trước tiên trong y học.
Theo giáo trình Lý luận văn học – tập 1 – bản chất và đặc trưng văn học thì phê bình
văn học là một hình thức và cấp độ tiếp nhận văn học mang tính chất xã hội hóa cao, gắn
liền với hoạt động đầy ý thức chuyên môn nhằm đánh giá, thẩm định giá trị của đối
tượng, xuất phát từ những đòi hỏi chủ yếu của cuộc sống đương đại. V.G.Biêlinxki quan
niệm phê bình là sự tự ý thức của văn học. Phê bình văn học tác động vào các khâu của
quá trình sáng tác – giao tế văn học. Phê bình là một loại hình hoạt động tinh thần nằm
giữa khoa học và nghệ thuật. Là khoa học, phê bình có hệ thống tiêu chuẩn cùng phương
pháp đánh giá riêng đối với các hiện tượng văn học. Là nghệ thuật, phê bình cũng mang
đậm dấu ấn chủ quan. Từ văn bản của nhà văn, nhà phê bình đã xây dựng nên một siêu
văn bản có giá trị độc lập, làm giàu có thêm cho đời sống văn học, đời sống tinh thần của
con người.
Theo giáo trình Lý luận văn học - tập 1 – văn học, nhà văn, bạn đọc thì phê bình là
hoạt động tác động, là nhân tố tổ chức quá trình văn học. Nền tảng tạo nên sức thuyết
phục của phê bình vẫn là tính khoa học trong việc nhận thức, định giá thẩm mĩ. Phương
pháp luận phê bình hiện đại vũ trang cho nhà phê bình những cơ sở khoa học quan trọng
nhất. Phê bình văn học chính là phân tích, miêu tả những hệ thống tín hiệu của ngôn
Phê bình văn học là gì?
1
ngữ, xác định những quy luật của ngôn ngữ, cho biết tác giả nói lên những gì họ định
nói.
Theo Đại cương phê bình văn học của Lưu Khôn thì:
• Phê bình có nghĩa là tán dương, khen tặng. Phê bình có nghĩa là so sánh.
• Phê bình có nghĩa là phán đoán. Phê bình có nghĩa là thưởng ngoạn
• Phê bình có nghĩa là giải thích, tìm hiểu.
Phê bình văn học có thể hiểu theo nghĩa rộng, nghĩa thông tục của ngôn ngữ thường
nhật hay nghĩa hẹp, nghĩa chuyên môn của khoa học văn học.
Theo nghĩa thứ nhất, phê bình chỉ bất kỳ một sự khen chê, bình phẩm, đánh giá nào đó
về một tác phẩm, một sự kiện văn học, một tác giả, từ vi mô một nhãn tự, một câu văn,
một dòng thơ đến vĩ mô một sự nghiệp sáng tạo, một nền văn học dân tộc. Nó có thể chỉ
là một lời nhận xét thông thường thoát ra từ cái miệng bình dân của con nhà khó, nhưng
cũng có thể là những phương châm, những nguyên lý chỉ đạo văn chương từ một ý thức
hệ triết học hoặc thẩm mỹ nào đó dội xuống giống lời thánh truyền, như lời Khổng Tử về
Kinh Thi, lời Aristote trong Nghệ thuật thơ ca Phê bình văn học ở nghĩa này là kẻ song
sinh với sáng tác, có sáng tác là có phê bình. Và sáng tác thì khó còn phê bình thì dễ.
Phê bình theo nghĩa rộng thường chỉ biết đến tác phẩm. Một thứ tác phẩm không có
liên lạc gì đến tác giả và người đọc. Và người phê bình văn học đứng ngoài hệ thống văn
học này. Hơn nữa, khi nhận xét tác phẩm, người phê bình thường cũng chỉ coi đó là một
cái cớ để phát biểu những ý kiến chủ quan của mình, thoảng hoặc nếu có chiếu cố đến tác
phẩm thì cũng chỉ để so sánh nó với những nguyên lý đã được định trước, những lời chỉ
dạy của thánh hiền, những khuôn vàng thước ngọc của cổ nhân. Bởi vậy, phê bình này rất
chú trọng đến ý nghĩa đạo đức của tác phẩm văn học, đôi khi có để mắt tới một cạnh khía
nghệ thuật nào đó của nó thì cũng chỉ là để đối chiếu với những quy phạm ngặt nghèo của
thể tài, cũng là một thứ đạo đức khác, đạo đức thể loại.
Phê bình văn học theo nghĩa chuyên môn thì mãi đến đầu thế kỉ XIX, khi nhân loại đã
bước vào Thời đại mới mới xuất hiện ở châu Âu. Đó là một loại hình sinh hoạt văn học
gắn liền với văn hóa đô thị. Phê bình này ra đời trên cơ sở báo chí và xuất bản. Chính báo
chí đã biến sách vở với tư cách là sản phẩm văn hóa từ một thứ văn hóa quà tặng thành
Phê bình văn học là gì?
2
văn hóa hàng hóa. Xưa, một bài thơ, một bài văn được tác giả viết ra trước là để cho
mình (di dưỡng tinh thần), sau mới để cho người (thưởng thức và học tập): thi dĩ ngôn
chí, văn dĩ tải đạo. (Đỗ Lai Thúy)
Theo Nguyễn Dương Côn thì phê bình văn học là một hình thái vận động của đời
sống văn hóa văn học. Nó không phải là một thể loại văn học. Nó gắn bó huyết mạch tất
yếu với vận động sáng tạo - hưởng thụ văn học.
1.1.2.Bản chất của phê bình văn học:
Từ lâu chúng ta đã xem phê bình văn học là một trong ba khoa học về văn chương,
bên cạnh lý luận văn học và lịch sử văn học. Tuy nhiên, đứng trước sự phát triển mạnh
mẽ của văn học trên tất cả các lĩnh vực như hiện nay, nhiều nhà nghiên cứu không còn
thỏa mãn với việc xếp phê bình vào một trong ngành khoa học về văn chương nữa. Đã có
rất nhiều ý kiến khác nhau xung quanh vấn đề giải quyết bản chất của phê bình văn học.
Có ý kiến xem phê bình như một loại khoa học, có ý kiến lại xem phê bình là một loại
hình nghệ thuật, cũng có ý kiến xếp phê bình vào lĩnh vực nghệ thuật hay ý kiến khác cho
rằng phê bình là một hiện tượng văn hóa, v.v…Tất cả những ý kiến khác nhau nêu trên
đặt ra một vấn đề lớn mà chúng ta cần giải quyết, đó là đi vào xem xét, nhìn nhận lại bản
chất của phê bình văn học.
1.1.2.1.Tính khoa học của phê bình văn học?
Trước tiên, chúng ta cần phải thấy rằng phê bình là một lĩnh vực độc lập của đời sống
nghệ thuật, tuy gần với khoa học nhưng không phải là khoa học. Nó gắn bó với hoạt động
sáng tác, cảm nhận tác phẩm và mang tính chính luận rõ rệt.
Về nguồn gốc, phê bình xuất phát từ nhu cầu của xã hội muốn có tiếng nói về bản thân
đời sống, về sự vận động của văn học nghệ thuật. Phê bình là cầu nối giữa văn nghệ và
thời đại, là một hình thức tập hợp dư luận. Vì vậy, khác với lý luận và lịch sử văn học,
phê bình văn học bao giờ cũng mang tính thời sự hơn. Có thể thấy rõ rằng phê bình văn
học là tiếng nói chung, là cảm nhận chung của công chúng về nền văn học nói chung và
về những tác phẩm nói riêng. Tiếng nói của nhà phê bình vì thế không phải đơn giản là
tiếng nói cá nhân mà là đại diện cho tiếng nói của cộng đồng, là sự thể hiện tư tưởng xã
hội đối với văn học.
Phê bình văn học là gì?
3
Tuy nhiên, chúng ta không thể phủ nhận hoàn toàn tính khoa học của phê bình. Sự
khác nhau giữa khoa học về văn chương và phê bình là ở chỗ phê bình không thuần lý
thuyết mà tính chất thực tiễn. Phê bình không bao quát toàn bộ hiện tượng văn chương
mà chỉ quan tâm đến tác phẩm. Chính vì vậy, phê bình không nhằm đến mục đích là rút
ra cái bản chất, cái quy luật của văn học mà chỉ hướng tới cái cụ thể. Phê bình cho phép
sự xuất hiện của ấn tượng chủ quan, những tình cảm, cảm xúc mang tính cá nhân. Tuy
nhiên đó phải là những cảm xúc mang tính đại diện mới có giá trị cao.
Như đã nói trên, phê bình không thuần túy là khoa học, nó còn là một khâu trong quá
trình văn chương, là cầu nối giữa nhà văn và bạn đọc, là bạn của cả hai. Phê bình là con
đường dẫn nhà văn đến với độc giả. Có một thực tế dễ thấy là công chúng biết đến nhà
văn qua các nhà phê bình nhiều hơn là qua đọc tác phẩm của nhà văn ấy. Trong quá trình
thực hiện công việc phê bình, nhà phê bình cũng đang làm công việc của một nhà văn.
Khi giới thiệu, giải thích tác phẩm cho người đọc, nhà phê bình tiếp tục công việc của
nhà văn bằng cách truyền đạt những tư tưởng, những quan niệm, những cảm xúc của nhà
văn được hình tượng hóa trong tác phẩm đến với bạn đọc, chỉ có khác ở chỗ là ngôn ngữ
của nhà phê bình là ngôn ngữ chính luận, còn nhà văn thì dùng ngôn từ nghệ thuật để thể
hiện tư tưởng, quan niệm, cảm xúc của mình. Phê bình cũng là một hình thức cảm thụ
văn chương. Nó chứa đựng những ấn tượng, ý kiến, suy nghĩ của bạn đọc, của dư luận
đối với tác phẩm. Bằng cách này, phê bình tác động trở lại đến sáng tác, gợi ý hay nêu
vấn đề, kích thích sự tìm tòi, sáng tạo nghệ thuật của nhà văn. Chính vì thế, phê bình góp
phần tạo ra chất lượng văn chương. Nó là hành động tự ý thức của văn chương, cả về tư
tưởng và thẩm mỹ.
Về mối quan hệ giữa phê bình và bạn đọc, ta có thể thấy, một mặt phê bình phản ánh
tâm trạng, suy nghĩ, đánh giá của công chúng đối với sáng tác của nhà văn; mặt khác, nó
giải thích, hướng dẫn để người đọc hiểu được cái hay, cái đẹp của tác phẩm. Từ phương
diện này, phê bình nâng cao thị hiếu của người đọc, hướng dẫn người đọc tham gia vào
quá trình sáng tạo nghệ thuật.
1.1.2.2.Phê bình văn học cũng là văn học:
Phê bình văn học là gì?
4
Phê bình văn học là cảm nhận, đánh giá tác phẩm, thuộc một trong ba bộ phận của đời
sống văn học (sáng tác, phê bình và nghiên cứu), nghĩa là phê bình cũng là văn học. Nhà
phê bình cũng có tác phẩm riêng của mình, và tác phẩm phê bình là một hiện tượng văn
học. Nó vừa như ý thức về cuộc đời, vừa như ý thức về chính bản thân văn học. Tác
phẩm phê bình thể hiện sự tự vấn của văn học và thể hiện một cách tồn tại khác của văn
chương. Đó là sự “tự ý thức xã hội ngoài văn học về văn học” (Lê Ngọc Trà).
Mối quan hệ giữa sáng tác và phê bình văn học là một mối quan hệ bình đẳng trong
văn học, bởi cả hai đều cần cho người đọc. Sáng tác và phê bình là tiếng nói đối thoại, là
gợi ý cho nhau nghĩ tiếp, là để bổ sung cho nhau, để tự điều chỉnh mình. Đặc điểm này
làm cho đời sống văn học thêm phong phú và giàu cho đời sống tinh thần của xã hội. Khi
một tác phẩm ra đời, xuất hiện trước giới phê bình và công chúng, nó đón nhận nhiều
luồng ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau, nhiều lúc dẫn đến tranh cãi. Chính
những sự kiện như vậy cho thấy sự phát triển mạnh mẽ, phong phú và sôi nổi của văn
học, mà trong đó, phê bình là một hoạt động đóng vai trò quan trọng, nó không bao giờ
nằm bên ngoài đời sống của văn học, mà luôn giữ vai trò là một nhân tố quan trọng.
Một điều đáng lưu ý nữa là sự khác nhau giữa dư luận xã hội và phê bình văn học. Phê
bình văn học không phải là xã hội học về văn học. Khi một tác phẩm ra đời, nó đón nhận
dư luận xã hội, bao gồm ba bộ phậ chủ yếu. Đó là phê bình văn học, nhận xét của cơ
quan lãnh đạo xã hội và ý kiến của người đọc. Trong ba bộ phận đó, chỉ có nhà phê bình
là đang làm văn học. Nhà phê bình là một bạn đọc đặc biệt, là một độc giả làm văn, anh
ta không đứng bên ngoài mà đứng trong hàng ngũ các nhà văn, những con người thật sự
trăn trở, suy tư và có trách nhiệm đối với văn học.
Phê bình văn học là cầu nối tác giả và người đọc. Điều này chúng ta đã nói ở trên, tuy
nhiên, ở đây, vì phê bình văn học cũng là văn học, cho nên, nó cũng trở thành đối tượng
nhận thức và cảm thụ của độc giả. Nhà phê bình đọc tác phẩm, tham khảo dư luận xã hội
và cuối cùng nêu lên ý kiến của mình. Công chúng vừa đọc tác phẩm, vừa đọc phê bình
về nó. Họ quan sát cuộc đối thoại giữa nhà văn và nhà phê bình, phán xét và tự làm giàu
vốn sống cũng như tự nâng cao thị hiếu của mình thông qua việc tiếp xúc với cả hai hình
thức khác nhau của văn học.
Phê bình văn học là gì?
5
1.1.2.3.Phê bình, một lĩnh vực của văn hóa:
Trước tiên, ta có thể thấy phê bình cũng là một lĩnh vực sáng tạo của con người nhằm
tạo ra những giá trị tinh thần, mang lại niềm vui và sự bổ ích cho con người, đánh dấu sự
phát triển của con người, thể hiện trình độ văn minh của xã hội. Chính vì thế, phê bình là
một lĩnh vực của văn hóa.
Về phương diện văn hóa, sáng tác và phê bình đều bình đẳng như nhau. Cả hai đều
hướng tới một mục đích là thể hiện tư tưởng, tình cảm cũng như quan niệm của mình. Đó
là cách mà cả nhà văn và nhà phê bình thể hiện tiếng nói cá nhân, tiếng nói về cuộc sống,
bộc lộ tình cảm, cảm xúc của mình. Phê bình vì thế cũng là một hoạt động sáng tạo, chứ
không đơn thuần là kiểu vạch lá tìm sâu, bới móc, chê trách.
Thứ đến, nói “văn hóa phê bình” còn có nghĩa là “trình độ” của người viết, chất lượng
của bài phê bình. Nhà phê bình cũng cần có kiến thức sâu rộng, có tầm tư tưởng bao quát,
và nhất là cần có khả năng cảm nhận văn chương sâu sắc, tinh tế.
Cuối cùng, nói đến văn hóa phê bình còn phải đề cập đến “thái độ, cách ứng xử” của
nhà phê bình.Phê bình trước hết cần cái tâm, cần sự trung thực, cần tấm lòng ưu ái đối
với văn chương và nghệ thuật, chứ không phải là những ý kiến cá nhân chủ quan, thiên
vị, độc đoán. Đó là những chuẩn mực trong cách đánh giá tầm văn hóa, sự văn minh của
nhà phê bình trong hoạt động của mình.
1.2.Phương pháp phê bình văn học:
1.2.1.Bản chất và cấu trúc của phương pháp phê bình văn học:
Đầu tiên, ta có thể thấy phương pháp là công cụ tư duy, là phương tiện nhận thức của
con người. Nền tảng khách quan của phương pháp là quy luật của thế giới hiện thực. Con
người nhận thức những quy luật ấy và sáng tạo ra những phương pháp nhằm điều chỉnh
quá trình nhận thức sao cho phù hợp với quy luật của thế giới khách quan. Nội dung của
phương pháp vừa phản ánh những quy luật khách quan của thế giới, vừa thể hiện sự sáng
tạo của chủ thể nhận thức. Cả chủ thể và khách thể nhận thức đều giữ vai trò quan trọng
quyết định nội dung và cấu trúc của phương pháp.
Cái khách thể được chiếm lĩnh để nhào nặn thành phương pháp của phê bình chính là
bản thân văn học nghệ thuật. Quá trình văn học và quy luật phát triển của nó, tác phẩm
Phê bình văn học là gì?
6
văn học và đặc trưng của sáng tác nghệ thuật là những nhân tố khách quan chi phối cấu
trúc và nội dung của phương pháp phê bình. Những nhân tố ấy bao gồm:
• Cái đương đại của quá trình văn học: Phê bình có thể dựa vào kinh nghiệm của
văn học đương đại để khảo sát toàn bộ quá trình văn học sử. Những cách tân nghệ
thuật trong sáng tác văn học buộc phê bình phải thường xuyên đổi mới phương
pháp chiếm lĩnh đối tượng của mình.
• Hệ thống quan niệm nghệ thuật của nhà phê bình: Đây là nhân tố có tính chất định
hướng hoạt động nghề nghiệp của nhà phê bình. Phê bình không tiếp nhận văn học
một cách trực tiếp theo kiểu sao chép, soi gương chụp ảnh mà thông qua lăng kính
thế giới, thông qua quan niệm nghệ thuật của nhà phê bình. Nó hướng sự chú ý
của nhà phê bình tới những hiện tượng văn học cụ thể, tới khuynh hướng này hay
trường phái nghệ thuật kia.
• Kinh nghiệm và thành tựu phương pháp luận của những lĩnh vực khoa học
khác:Muốn xác định vị trí thế xã hội, số phận lịch sử của tác phẩm văn học, muốn
tìm hiểu thị hiếu của người đọc hoặc muốn khảo sát cơ cấu của các tầng lớp độc
giả, phê bình buộc phải sử dụng phương pháp của hướng nghiên cứu xã hội học
văn học. Hay phê bình phải sử dụng phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ do văn
học là nghệ thuật của ngôn từ.
1.2.2.Phương pháp phê bình như một hệ thống nguyên tắc, thao tác, thủ pháp:
1.2.2.1.Phương pháp phê bình như một hệ thống nguyên tắc, thao tác phân tích, giải thích
tác phẩm văn học:
Miêu tả nội dung của phương pháp phê bình, trước hết phải miêu tả hệ thống nguyên
tắc thao tác phân tích, giải thích tác phẩm văn học nghệ thuật.
Tác phẩm văn học là một chỉnh thể nghệ thuật. Về mặt phương pháp, để chiếm lĩnh
tác phẩm như một hệ thống chỉnh thể, nhà phê bình phải tiến hành phân tích, giải thích
theo bốn bước, bốn công đoạn, hoặc có thể gọi là bốn thao tác tư duy như sau:
• Lựa chọn quan điểm xuất phát, xác định nguyên tắc và phương hướng phân tích
tác phẩm.
• Tiếp cận tác phẩm.
• Thâm nhập vào cấu trúc nội tại của tác phẩm nghệ thuật
Phê bình văn học là gì?
7
• Chiếm lĩnh nội dung cơ bản của sáng tác văn học
1.2.2.1.1.Thao tác tư duy thứ nhất: Lựa chọn quan điểm xuất phát, xác định nguyên tắc
và phương hướng phân tích tác phẩm:
Đây là thao tác của thế giới quan nhằm tạo ra cho chủ thể một trường nhìn rộng lớn và
bao quát nhất đối với khách thể nhận thức. Quan điểm xuất phát của nhà phê bình phải
được đặt trên nền tảng của một hệ thống quan niệm nhất quán về thế giới.
1.2.2.1.2.Thao tác tư duy thứ hai: Tiếp cận tác phẩm:
Đây là công đoạn tạo nên sự tiếp xúc trực tiếp giữa các chủ thể và khách thể nhận
thức. Để tạo nên sự tiếp xúc như thế, phê bình phải xem xét, phân tích một cách toàn diện
những mối liên hệ bên ngoài của tác phẩm văn học. Phê bình phải tiếp cận tác phẩm từ
nhiều phía, trên nhiều bình diện, cấp độ. Tuy nhiên, nếu xét từ xa đến gần, từ cái chung
đến cái riêng, vẫn có thể chia những mối liên hệ vô cùng phong phú, đa dạng giữa tác
phẩm văn học với thế giới bên ngoài thành ba lớp cơ bản. Ba lớp quan hệ này quy định
ba nhóm phương pháp tiếp cận chủ yếu của phê bình đối với tác phẩm văn học.
• Nhóm thứ nhất tiếp cận tác phẩm từ góc độ xã hội học và nhận thức luận. Hai
hướng tiếp cận này sử dụng khái niệm tính hiện thực làm chìa khóa để giải thích
tác phẩm. Nghĩa là phê bình phải tiếp cận văn học từ góc độ quyết định luận để
xem xét tính chân thực nghệ thuật của hiện thực đời sống được miêu tả và tái hiện
trong tác phẩm.
• Nhóm thứ hai tiếp cận tác phẩm từ góc độ văn hóa-lịch sử và so sánh-lịch sử văn
học. Nó sử dụng khái niệm văn hóa làm chìa khóa để phân tích, giải thích tác
phẩm. Tác phẩm văn học là một môi trướng văn hóa đặc thù. Nó chỉ có thể được
đọc, được hiểu, chỉ có thể xuất hiện và tồn tại như một nhân tố xã hội trong môi
trường văn hóa ấy. Chính vì thế, phê bình phải tiếp cận tác phẩm bằng con đường
nghiên cứu, so sánh lịch sử-văn học.
• Nhóm thứ ba tiếp cận tác phẩm từ góc độ tiểu sử tác giả, quá trình sáng tác. Nó sử
dụng khái niệm số phận nghệ sĩ, số phận tác phẩm làm chìa khóa để phân tích, giải
thích các hiện tượng văn học. Cho nên, cũng có thể gọi đó là hướng tiếp cận tác
phẩm từ góc độ bản thể luận. Mỗi tác phẩm có một lịch sử sáng tạo riêng. Nghiên
Phê bình văn học là gì?
8
cứu một cách toàn diện, kỹ lưỡng lịch sử sáng tạo văn bản nghệ thuật là điều kiện
quan trọng để nhà phê bình phân tích tác phẩm văn học một cách sâu sắc.
1.2.2.1.3.Thao tác tư duy thứ ba: Thâm nhập vào cấu trúc nội tại của tác phẩm nghệ
thuật:
Đây là công đoạn chia cắt, bóc tách chỉnh thể nghệ thuật của tác phẩm thành các bình
diện, thành phần, bộ phận để phân tích ở cấp độ vi mô. Khảo sát các phương tiện, phương
thức tổ chức thế giới nghệ thuật, phân tích phong cách (bao gồm phong cách dân tộc,
phong cách cá nhân, phong cách của các trào lưu, trường phái, phong cách thời đại) và
cấu trúc ngữ nghĩa là những công việc chủ yếu khi phân tích tác phẩm ở cấp độ này. Về
nguyên tắc, khi phân tích tác phẩm ở cấp độ này cần kết hợp phương pháp logic với
phương pháp lịch sử, xem xét các thành phần, yếu tố, cấu trúc của tác phẩm trong mối
liên hệ với tổng thể.
1.2.2.1.4.Thao tác tư duy thứ tư: Chiếm lĩnh nội dung cơ bản của sáng tác văn học:
Đây công đoạn hoàn tất cả một chuỗi mắt xích thao tác tư duy phân tích, giải thích tác
phẩm. Thao tác này đòi hỏi sự tham gia của hàng loạt thủ pháp như khái quát, tổng hợp,
giả thiết, biện luận, hệ thống hóa tất cả những gì đã được phân tích.
1.2.2.2.Phương pháp phê bình như một hệ thống thao tác, thủ pháp xác định giá trị của
văn học:
Phương pháp phân tích giá trị của tác phẩm văn học cũng bao gồm bốn công đoạn,
bốn thao tác tư duy cho phép khám phá cơ cấu giá trị của sáng tác nghệ thuật. Bốn thao
tác tư duy định giá có quan hệ mật thiết với bốn thao tác tư duy phân tích, giải thích.
• Thao tác thứ nhất là lựa chọn quan điểm xuất phát làm nền tảng định giá. Đó là
công đoạn xác định chuẩn mực và lý tưởng thẩm mỹ của phê bình. Trong phê bình
chân chính, quan điểm xuất phát làm nền tảng định giá văn học bao giờ cũng là
những lý tưởng về chân, thiện, mỹ.
• Thao tác thứ hai là ghi nhận sự chuyển hóa của cái hữu ích thành cái thẩm mỹ.
Nghiên cứu sự chuyển hóa của cái hữu ích thành cái thẩm mỹ tức là nghiên cứu
giá trị của những mối liên hệ bên ngoài của tác phẩm. Công đoạn này có nhiệm vụ
đánh giá tầm sâu rộng, sự phong phú, đa dạng của những quan hệ thẩm mỹ giữa
Phê bình văn học là gì?
9
nhà văn và thế giới trong một tác phẩm cụ thể. Để làm được điều đó, phê bình phải
đối sánh sự phong phú của những quan hệ thẩm mỹ trong tác phẩm được phân tích
với những mực thước đã ổn định trong thực tiễn nghệ thuật của thời đại.
• Thao tác thứ ba có nhiệm vụ phát hiện của những mối liên hệ nội tại của tác phẩm
văn học. Đó là những giá trị của kết cấu, của giọng điệu, của khả năng mở rộng và
làm phong phú thêm những quy cách sáng tạo nghệ thuật được thể hiện trong tác
phẩm.
• Thao tác thứ tư có nhiệm vụ khám phá giá trị của quan niệm nghệ thuật được thể
hiện trong tác phẩm. Đặt trên cái nền chung của văn hóa, nghệ thuật để so sánh với
cái nhìn phổ biến về thế giới thì giá trị của một quan niệm nghệ thuật được thể
hiện trong tác phẩm là ở sự mới mẻ, độc đáo, in đậm dấu ấn của một cá tính sáng
tạo. Thao tác này có nhiệm vụ khái quát kết quả của những công đoạn trước đó để
chuẩn bị đưa ra những nhận định về giá trị của tác phẩm. Giá trị cao nhất của tác
phẩm là giá trị được thể hiện ở một quan niệm nghệ thuật độc đáo, in đậm cá tính
sáng tạo của nhà văn. Về mặt phương pháp luận, việc xác định giá trị của quan
niệm nghệ thuật giúp nhà phê bình đánh giá chính xác giá trị của tác phẩm văn
học.
1.3.Vai trò, tác động của phê bình văn học đối với đời sống văn học:
Tiếp nhận văn học là giai đoạn cuối cùng của hình tượng, giai đoạn hoàn tất quá trình
sáng tác-giao tiếp văn học. Khác với hoạt động tiếp nhận của công chúng bình thường,
phê bình là một loại cảm thụ, một loại tiếp nhận văn học đặc biệt. Sự xuất hiện của phê
bình phản ánh một trình độ phát triển cao của văn học, nó đánh dấu giai đoạn văn học tự
nhận thức, tự đánh giá chính mình để từ đó phát triển hơn nữa. Chính vì thế, vai trò quan
trọng nhất của phê bình là thúc đẩy sự vận động, phát triển của đời sống văn học. Ta có
thể thấy rõ vai trò của phê bình thông qua sự tác động của nó trên từng phương diện của
đời sống văn học như sau.
1.3.1.Phê bình tác động đến hoạt động sáng tạo của nhà văn:
Đối với nhà văn, phê bình tác động đến quá trình sáng tạo của họ trên các phương diện
như sự thụ cảm thế giới, cá tính sáng tạo và quá trình sáng tác của nhà văn.
Phê bình văn học là gì?
10
• Về phương diện sự cảm thụ thế giới của nhà văn, phê bình thường gợi mở hệ
thống đề tài, đặt ra những vấn đề triết học đời sống, những vấn đề chính trị-xã hội
bức thiết cho nhà văn. Nó hướng sự chú ý của nhà văn tới phương diện này hay
phương diện kia của hiện thực đời sống.
• Về phương diện cá tính sáng tạo của nhà văn, phê bình tạo nên sự giám sát của xã
hội đối với sự hoạt động sáng tạo của nhà văn. Nó tồn tại như một cơ chế giám sát
đầy hiệu năng của xã hội bên cạnh nhà văn nhằm động viên, khuyến khích hay
cảnh tỉnh, cảnh báo. Sự giám sát đó nhiều khi gây khó chịu cho nhà văn là tạo nên
những quan niệm không hay về công việc của các nhà phê bình, tạo nên sự bất hóa
giữa giới sáng tác và giới phê bình. Tuy nhiên, nếu gạt bỏ định kiến, hẳn phải thừa
nhận sự giám sát đó, về cơ bản là có ích, nó giúp cho nhà văn biết quay lại tự giám
sát, tự điều chỉnh hoạt động sáng tạo của mình.
• Về phương diện quá trình sáng tạo nghệ thuật của nhà văn, phê bình chẳng những
không bỏ qua phương diện tâm lý sáng tạo của nhà văn mà còn quan tâm đến vấn
đề kỹ thuật, hình thức của tác phẩm văn học.
Qua những phương diện trên, ta có thể thấy phê bình quan tâm đến hầu hết những lĩnh
vực thuộc về quá trình sáng tác của nhà văn. Cả nhà văn và nhà phê bình đều là những
con người hoạt động trong lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật. Phê bình là đồng sáng tạo, là
tiếng nói tri âm của nhà văn. Nhà phê bình là những người hiểu sâu, hiểu kỹ và thông
cảm với những gì nhà văn thể hiện trong tác phẩm.
1.3.2.Phê bình tác động trực tiếp đến tác phẩm văn học:
Ta đều biết tác phẩm văn học tồn tại như một chỉnh thể hoàn chỉnh mà trong đó nhà
văn thể hiện tư tưởng, tình cảm của mình thông qua một hệ thống hình tượng với nhiều
tầng ý nghĩa khác nhau. Nhiệm vụ của phê bình là phân tích, giải thích, cắt nghĩa để nắm
bắt quan niệm và tư tưởng nghệ thuật chìm sâu trong các tầng nghĩa của văn bản tác
phẩm. Nó vừa phát hiện, vừa góp phần cấu tạo ra một tác phẩm tồn tại trong ý thức của
chủ thể tiếp nhận. Chẳng những thế, phê bình còn tạo ra xung quanh tác phẩm những dư
luận xã hội nhất định để tác phẩm vừa tồn tại như một đối tượng hiện hữu, cụ thể, cảm
tính, vừa tồn tại như một hiện tượng tinh thần đầy chất lý tưởng. Phê bình mang lại cho
Phê bình văn học là gì?
11
tác phẩm một số phận lịch sử, làm cho các kiệt tác không ngừng lớn lên cùng với thời
gian. Như vậy, đối với tác phẩm văn học, phê bình không những chỉ giải thích, đánh giá
mà còn khẳng định vị trí của nó trong đời sống văn học và trong tinh thần của người đọc.
1.3.3.Phê bình có tác động giáo dục đối với người đọc:
Phê bình văn học có tác động mạnh mẽ đến người đọc. Nhà phê bình không phải là
người đọc đơn thuần mà là một dạng “người đọc đặc biệt”, “người đọc tinh hoa”, bởi vậy,
nhà phê bình còn có thêm tư cách của người hướng dẫn việc đọc của công chúng. Sự cắt
nghĩa của nhà phê bình không chỉ làm rõ giá trị của tác phẩm mà còn có tác dụng cung
cấp một cách nhìn, một phương pháp tiếp cận văn học hữu hiệu, bồi dưỡng, nâng cao thị
hiếu thẩm mỹ cùng tính tích cực cho công chúng.
1.3.4.Tiểu kết:
Thông qua những tác động của phê bình trên các phương diện của đời sống văn học, ta
có thể thấy phê bình đóng một vai trò rất quan trọng đối với văn học. Sáng tạo nghệ thuật
và tiếp nhận văn học là những hoạt động mang tính cá thể cao độ. Cho nên, phê bình mới
xuất hiện như một bộ phận hợp thành của quá trình văn học, chịu trách nhiệm tổ chức quá
trình ấy. Nó tác động tới tất cả các khâu, các mắt xích, các yếu tố tạo thành quá trình văn
học thông qua vai trò tổ chức của mình. Phê bình tổ chức ý kiến cá nhân thành dư luận xã
hội, tạo ra những tình huống văn học nhiều khi có tác dụng quyết định tới số phận sáng
tạo của từng cá nhân nghệ sĩ. Phê bình đưa những tác phẩm riêng lẻ vào một hệ thống
văn học để chúng trở thành một chỉnh thể vận động.
Phê bình văn học tác động một cách tích cực nhất vào động lực vận động của văn học
và là nhân tố tác động và sự phát triển của nó. Chính phê bình chứ không phải một bộ
phận nào khác thường xuyên tiến hành các cuộc đấu tranh văn học, tổ chức các trào lưu,
khuynh hướng sáng tác, phát ngôn cho các quan niệm văn chương, tuyên bố về sự mở
đầu hay kết thúc cho một giai đoạn nghệ thuật. Tóm lại, sự hiện diện của phê bình chính
là sự hiện diện của một nhân tố cách tân luôn cần thiết cho hoạt động sáng tạo nghệ thuật.
Phê bình văn học là gì?
12
2.Lịch sử phê bình văn học thế giới:
2.1.Lịch sử phê bình văn học phương Đông (Trung Quốc):
2.1.1.Phê bình văn học Trung Quốc thời cổ trung đại:
Là một nền văn học lớn, ngay từ thời cổ trung đại, văn học Trung Quốc đã có những
tác phẩm phê bình nổi tiếng và cho tới nay vẫn được xem là những chuẩn mực trong lịch
sử tư tưởng lý luận phê bình văn học của đất nước này.
2.1.1.1.Thời Ngụy Tấn Nam Bắc triều:
Được hình thành từ rất lâu đời, ngay từ thời Tiên Tần, ở Trung Quốc đã xuất hiện
nhiều quan niệm về văn học, như quan niệm của Khổng Tử, Mặc Tử, Lão Tử, Trang Tử
về văn học. Nhưng chỉ đến đời Ngụy Tấn Nam Bắc triều mới xuất hiện hệ thống quan
niệm hoàn chỉnh, trong đó bao gồm cả phê bình văn học. Đây là thời kỳ mà tư tưởng lý
luận phê bình văn học Trung Quốc phát triển mạnh, kế thừa tinh hoa từ giai đoạn trước và
có bước chuyển mình vượt bậc. Những tác gia, tác phẩm lý luận phê bình đáng chú ý
trong thời kỳ này gồm có: Tào Phi với Điển luận, Luận văn; Tào Thực với Thư gửi
Dương Đức Tổ; Lục Cơ với Văn phú, Lưu Hiệp với Văn tâm điêu long, Chung Vinh với
Thi phẩm, v.v…Lý luận và phê bình văn học giai đoạn này đề cập đến những nội dung
sau:
• Thứ nhất, đề cao địa vị và đặc trưng của văn học;
• Thứ hai, luận về sáng tác và luận về thể loại;
• Thứ ba, luận về tác gia và luận về phê bình; phê phán loại văn chương hình thức
chủ nghĩa.
2.1.1.1.1.Tào Phi: Điển luận, Luận văn
Tào Phi (187-226) là nhà thơ, nhà phê bình tiêu biểu nhất của văn học Kiến An. Tác
phẩm của ông được người sau biên tập lại có tên là Ngụy văn đế tập, trong đó trước tác
có liên quan đến lý luận phê bình văn học là Điển luận, Luận văn.
Điển luận, Luận văn là tác phẩm lý luận cực kỳ quan trọng trong lý luận phê bình văn
học Trung Quốc. Trước Điển luận, Luận văn, những tác phẩm chuyên về phê bình văn
học chỉ có: Thi đại tự (khuyết danh), Ly tao tự, Lưỡng đô cứ (Ban Cố)…chỉ là từng bài
đơn lẻ, bàn về một thể loại. Còn Điển luận, Luận văn của Tào Phi mặc dù không dài lắm,
Phê bình văn học là gì?
13
nhưng lại bàn nhiều về thể loại và nhiều tác gia văn học khác nhau. Tác phẩm này đã mở
ra một phong cách mới trong phê bình văn học.
Tào Phi là người đầu tiên trong phê bình văn học Trung Quốc bàn về đặc trưng thể
loại văn học. Cách phân loại và bàn về đặc trưng thể loại của Tào Phi có ảnh hưởng sâu
rộng sau này. Ông cũng đưa ra thuyết: “Văn phi nhất thể, tiển năng bị thiện” (Văn không
chỉ có một thể, khó có ai có thể giỏi hết cả). Khi bàn về quan hệ giữa tác giả và tác phẩm,
Tào Phi rất nhấn mạnh tác dụng của Khí. Với thuyết “Văn dĩ khí vi chủ”, Tào Phi cho
rằng phong cách tác phẩm được hình thành từ khí chất tài tình của tác giả, và theo Tào
Phi, điều ấy có vẻ là tiên thiên, bất khả truyền. Thuyết “Văn khí” của Tào Phi ảnh hưởng
rất sâu rộng đối với lý luận phê bình văn học văn học sau này mà thuyết “Phong cốt” của
Lưu Hiệp là một ví dụ rõ rệt.
2.1.1.1.2.Lưu Hiệp và Văn tâm điêu long :
Trong lịch sử phê bình văn học Trung Quốc, Văn tâm điêu long của Lưu Hiệp chiếm
địa vị quan trọng. Nó tổng kết kinh nghiệm sáng tác và phê bình văn học Trung Quốc từ
thời Nam Tề trở về trước, bàn bạc khá toàn diện, hệ thống hóa tương đối hoàn chỉnh, mở
ra một kỷ nguyên mới cho phê bình văn học Trung Quốc. Toàn bộ quyển sách đã đề cập
tới nhiều vấn đề quan trọng của lý luận văn học như: quan hệ giữa văn học và hiện thực,
văn học và thời đại, quan hệ giữa nội dung và hình thức, những tiêu chuẩn tư tưởng và
nghệ thuật của tác phẩm văn học, quan hệ giữa phong cách tác phẩm, cá tính nhà văn và
thể loại văn học, quan hệ giữa xác lập phong cách của tác phẩm, kế thừa và cách tân, thái
độ và phương pháp phê bình văn học, v.v…
Lưu Hiệp (466-532), tự Ngạn Hòa, người đất Cử, quận Đông Hoàn, nước Lương. Lúc
nhỏ nhà nghèo, ham học, sau lớn lên có làm một chức quan nhỏ rồi xuất gia làm sư.
Trước tác có Văn tâm điêu long và hai tác phẩm lẻ khác. Ông nghiên cứu tinh thông Phật
giáo, hiểu sâu sắc Nho học, tuy nhiên khi bàn về văn học ông lấy tư tưởng Nho gia làm
cơ sở.
Văn tâm điêu long gồm có 50 thiên, trong đó thiên Tri âm chuyên bàn về phương pháp
và thái độ cần có khi tiến hành phê bình văn học, đề ra những nguyên tắc phê bình văn
học tương đối có hệ thống. Đây là một thiên quan trọng trong toàn bộ Văn tâm điêu long.
Phê bình văn học là gì?
14
Thiên Tri âm mở đầu bằng việc cho rằng trong văn học là khó gặp được tri âm. Điều
ấy cũng có nghĩa là rất khó gặp được người phê bình công bằng hợp lý. Tiếp theo, kết
hợp với những ví dụ cụ thể, Lưu Hiệp chỉ ra ba nguyên nhân khó gặp được tri âm:
• Một là quý xưa coi thường nay (quý cổ tiên kim)
• Hai là đề cao mình, hạ thấp người (Sùng kỷ ích nhân)
• Ba là tin điều giả mê lầm điều thật (tín giả mê chân)
• Ngoài ba điểm trên, thiên Tri âm còn đưa ra nguyên nhân từ tính cách, hứng thú
của người ta không giống nhau, từ việc thưởng thức văn học thiên lệch, và đó cũng
là những nguyên nhân quan trọng dẫn đến việc phê bình văn học không công
bằng.
Lưu Hiệp cũng đưa ra ý kiến cụ thể của mình về vấn đề người có tài năng như thế nào
thì có thể khắc phục được thiên kiến, có thể phê bình được công chính và toàn diện. Đó là
“Lục quan” (sáu vấn đề phải xem xét) như sau:
• Vị thể: xem tác phẩm sử dụng thể tài nào
• Tri từ: khảo sát tác phẩm vận dụng từ ngữ như thế nào.
• Thông biến: khảo sát tác phẩm đã kế thừa những gì của các tác phẩm trước đó và
sáng tạo được cái gì.
• Kỳ chính: khảo sát phương pháp biểu hiện với hai loại kỳ (kỳ lạ) và chính (bình
thường, chính thống), tức là vấn đề “giữ điều chính và chế ngự điều kỳ lạ” (chấp
chính ngự kỳ)
• Sự nghĩa: khảo sát vấn đề “căn cứ sự việc vào những sự việc tương tự, viện dẫn
chuyện cổ để làm chứng cho chuyện ngày nay” (Cứ sự dữ loại nghĩa, viện cổ dĩ
chứng kim).
• Cung thương: khảo sát thanh luật của tác phẩm.
Lưu Hiệp cho rằng, khi tiếp cận với tác phẩm cần dựa vào Lục quan, nhưng ông cũng
kết hợp chặt chẽ sáng tác với phê bình. Trong sáng tác, ông yêu cầu xem rộng để làm
giàu kiến thức, trong phê bình, ông cũng yêu cầu quan sát rộng để có thể hiểu biết được
đầy đủ, tức là đều nhấn mạnh đến việc đọc rộng rãi, kiến thức phong phú. Theo Lưu
Hiệp, người sáng tác trước tiên cần phải có tư tưởng tình cảm, nhưng sau đó thể hiện nó
trong một hình thức văn từ nhất định; nhưng người phê bình tiếp xúc trước tiên là với
hình thức văn từ của tác phẩm, nhưng sau đó thông qua nó để hiểu tư tưởng tình cảm của
Phê bình văn học là gì?
15
tác giả. Hai quá trình này hoàn toàn trái ngược nhau, nhưng có chung một mắt xích là tác
giả và người phê bình đều cần phải nắm chắc đó là hình thức của tác phẩm.
Những vấn đề mà Lưu Hiệp nêu ra trong Văn tâm điêu long đã hấp thu những thành
quả nghiên cứu của người đi trước và làm cho nó phong phú, mới mẻ hơn lên. Văn tâm
điêu long xứng đáng có một vị trí quan trọng trong lịch sử phê bình văn học Trung Quốc.
2.1.1.1.3.Chung Vinh và Thi phẩm :
Thi phẩm của Chung Vinh là sách chuyên luận về thơ cổ nhất của Trung Quốc hiện
còn, nó trình bày một cách có hệ thống về thơ ngũ ngôn từ thời Hán, Ngụy đến Nam
triều, Tề, Lương với nhiều kiến giải thấu đáo, có ảnh hưởng rất lớn đối với thi luận đời
sau.
Thi phẩm bao gồm hai nội dung chính. Thứ nhất, tác phẩm trình bày về tiêu chuẩn tư
tưởng, nghệ thuật và lịch sử phát triển của thơ ngũ ngôn. Thứ hai, luận về tác giả và các
dòng phái thơ ngũ ngôn. Thi phẩm có ba quyển phê bình 122 nhà thơ từ Hán đến Lương,
phân ra thành 3 phẩm: Thượng phẩm gồm 11 người, Trung phẩm có 39 người và Hạ
phẩm có 72 người. Thông qua việc bình luận các nhà thơ này, Chung Vinh thể hiện cách
nhìn của mình đối với thi ca, cũng trình bày quan hệ kế thừa giữa các nhà thơ, chỉ ra các
dòng phái quan trọng trong lịch sử phát triển của thơ ngũ ngôn.
Thi phẩm của Chung Vinh thông qua việc phê bình, phân tích cụ thể nhiều nhà thơ,
trình bày một cách tường tận tinh tế các dòng phái và sự phát triển của thơ ngũ ngôn từ
Hán Ngụy đến Tề Lương, đưa ra ý kiến của mình một cách có hệ thống. Việc làm ấy mở
ra một con đường mới trong phê bình, nghiên cứu văn học. Việc xếp thứ bậc các nhà thơ
còn có chỗ chưa hợp lý, việc phân tích phê bình cũng còn có chỗ phiến diện và khiên
cưỡng, nhưng trong đó cũng có không ít những ý kiến hay, có ảnh hưởng rất lớn đến các
công trình thi luận và thi thoại đời sau, rất đáng để người đời sau học tập.
2.1.1.2.Thời Tùy, Đường, Ngũ đại:
Trong lịch sử Trung Quốc, thời Tùy (581-618) và thời Ngũ đại (907-960) là hai thời
kỳ ngắn, sáng tác và phê bình văn học ít có thành tựu, cho nên trong chương này chủ yếu
Phê bình văn học là gì?
16
nói đến thời Đường (618-907). Điều đặc biệt chú ý trong giai đoạn này là sự phát triển
của phê bình thơ ca và sự phân chia phê bình thơ và phê bình văn.
Ở thời Ngụy Tấn, Nam Bắc triều phê bình chung thơ phú, biền văm và tản văn, trừ có
trường hợp duy nhất là Thi phẩm của Chung Vinh chuyên phê bình thơ. Đến đời Đường,
sáng tác thơ ca rất phong phú, vì thế phê bình thơ cũng rất phong phú, không chỉ là bài
đơn lẻ, mà cả tập sách chuyên biệt, có cả những tuyển tập thơ có thêm lời bình, hình thức
rất đa dạng, quang cảnh rất phồn vinh, trước nay chưa hề thấy. Bên cạnh đó, các nhà cổ
văn khi tiến hành hoạt động lý luận, lại chỉ bàn đến tản văn. Điều ấy cho thấy việc phân
chia giữa phê bình văn và thơ khá rõ nét. Hiện tượng này gây ảnh hưởng đến cả đời
Tống, Nguyên, Minh, Thanh sau này.
Ở giai đoạn này nổi lên hiện tượng phê phán văn phong khuynh diễm ủy mị thời Tề
Lương. Tập hợp xung quanh hiện tượng này có nhiều tác giả thuộc những khuynh hướng
tư tưởng và nghệ thuật khác nhau. Có những nhà thơ có khuynh hường đề cao nội dung
tư tưởng mạnh mẽ có ích như Trần Tử Ngang, Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị; cũng có
những nhà nho thuần túy phê phán văn học Tề Lương vì coi nó là xa rời đạo Nho, tiêu
biểu như Vương Thông, phần nào đó là Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên.
Đồng thời với khuynh hướng phê phán thi phong phù diễm của Tề Lương, lại xuất
hiện một loại lý luận thơ ca khác đề cao âm vận và vẻ đẹp của thơ ca. Khuynh hướng này
xuất phát từ Ân Phan. Ân Phan một mặt vẫn nhấn mạnh đến phong cốt, nhưng mặc khác
lại tán thưởng “Hứng tượng”. “Hứng tượng” chủ yếu để chỉ tình cảm và hứng thú của các
nhà thơ thuộc phái sơn thủy điền viên trong hoàn cảnh u tĩnh. Ân Phan tán dương toàn
diện đối với những nhà thơ thuộc thi phái này.
2.1.1.3.Thời Tống, Nguyên:
Trong thời Tống, Nho học phát triển mạnh mẽ, cho nên lý luận phê bình văn học thời
kỳ này đi sâu bàn về mối quan hệ giữa văn và đạo. Ở thời này, chúng ta có những tên tuổi
nổi tiếng về phê bình như sau:
• Âu Dương Tu: Tác phẩm phê bình văn học đáng chú ý là Lục Nhất thi thoại.
Trước kia bàn về thơ người ta chỉ chú trọng đến bình phẩm, hoặc là cách lệ (luật
lệ), cách làm, hoặc nội dung của bài thơ ấy. Âu Dương Tư là người mở ra thể “thi
Phê bình văn học là gì?
17
thoại”, đồng thời mở ra phong khí thơ bàn về thơ (thi luận thi) của người đời
Tống.
• Mai Thánh Du là nhà thơ, cũng là nhà phê bình nổi tiếng đời Tống. Bàn về thơ,
ông nhấn mạnh đến hai yếu tố “ý mới và lời khéo”.
• Tô Đông Pha thì chủ trương thơ phải tự nhiên.
Đến thời Nguyên thì lý luận phê bình văn học không phát triển lắm do lúc này đất
nước Trung Quốc nằm dưới ách thống trị của một ngoại tộc, đó là người Mông Cổ.
2.1.1.4.Thời Minh, Thanh:
Ở thời kỳ này có phái Đồng Thành là văn phái lớn nhất đời Thanh với cơ sở triết học
quan phương. Thơ ca có hai dòng phái lớn là Tông Đường (theo thơ Đường) và Tông
Tống (theo thơ Tống). Thời kỳ này có nổi lên một số tác gia phê bình và nghiên cứu văn
học như sau:
• Tiền Khiêm Ích, Ngô Vĩ Nghiệp (Thanh sơ) chú trọng thời đại của thơ ca và
những suy nghĩ, cảm xúc về thân thế.
• Vương Sĩ Chân (thời Khang Hy) chủ trương thuyết “thần vận”.
• Diệp Tiếp (thời Càn Long) dùng Lý, Sự, Tình, Tài, Đảm, Lực để phân tích thơ ca.
• Chương Học Thành trong Văn sử thông nghĩa chủ trương kế hợp ba vấn đề Nghĩa
lý, Bác học, và Văn chương.
• Liêu Yến phản đối việc dùng văn bát cổ để tuyển kẻ sĩ, cho đó là chính sách ngu
dân; coi sáng tác là “bày tỏ sự phẫn uất và tính linh”, tìm tự do sáng tác, học ở thế
giới khách quan, có nhân tố yêu cầu giải phóng cá tính.
• Viên Mai với thuyết “Tính linh” đề cao việc bày tỏ tình cảm chân thật của con
người.
• Triệu Dục tôn sùng sự sáng tạo mới mẻ.
Ngoài ra đời Thanh còn xuất hiện quan niệm chính thống coi trọng kinh sử thi văn mà
khinh tiểu thuyết, hí khúc. Đời Thanh xuất hiện Mao Tôn Cương bình Tam quốc diễn
nghĩa, Trương Đạo Thâm bình Kim bình mai, Nhàn Trai Lão bình Nho lâm ngoại sử,
Phùng Trấn Loan bình Liêu trai chí dị.
2.1.1.4.1.Kim Thánh Thán, bình điểm cổ thư:
Kim Thánh Thán (1608-1661) là nhà phê bình văn học cuối đời Minh đầu đời Thanh.
Ông nổi tiếng nhờ bình điểm cổ thư. Các tiểu thuyết, hí khúc được ông bình điểm có “Đệ
Phê bình văn học là gì?
18
ngũ tài tử thư Thủy Hử truyện”, Đệ lục tài tử thư Tây sương ký. Ông còn có các trứ tác
khác như Ngữ lục toán, Thánh nhân thiên án, Tùy thủ thông, Trầm ngâm lâu tá Đỗ thi,
Tả truyện thích,v.v…
Những đóng góp của Kim Thánh Thán cho phê bình văn học Trung Quốc:
• Cống hiến đầu tiên của ông là làm cho bản Thủy hử 70 hồi mà ông bình điểm được
lưu hành rộng và thành một giai tác có ảnh hưởng lớn.
• Cống hiến thứ hai là khi ông bình điểm bao quát cả tư tưởng văn học. Ông đánh
giá Thủy hử và tác giả của nó rất cao. Theo ông tính cách nhân vật sáng sủa là tiêu
chuẩn quan trọng của nghệ thuật tiểu thuyết. Ông còn nhấn mạnh ý nghĩa phổ biến
của nhân vật điển hình. Cuối cùng, ông minh xác sự khác biệt và liên hệ giữa tiểu
thuyết và sách sử.
• Cống hiến thứ ba là ông nhấn mạnh tình cảm có tác dụng quan trọng trong sáng
tác, ông cho rằng văn của Tây sương ký sâu sắc ở tình.
Tính sáng tạo trong phê bình văn học của Kim Thánh Thán phát huy thành lý luận văn
họ của Lý Chí, Viên Hoằng Đạo sau này.
2.1.1.4.2.Nhà bình điểm tiểu thuyết Trương Trúc Pha:
Trương Trúc Pha (1670-1690), vốn tên Đạo Thâm, nổi tiếng nhờ bình điểm bộ Kim
bình mai, gọi là “Bành Thành Trương Trúc Pha phê bình Kim bình mai đệ nhất kỳ thư”,
đây có thể coi là tác phẩm nghiên cứu phân tích toàn diện Kim bình mai.
Cống hiến của ông là ở điểm đề xuất ra thuyết “Đệ nhất kỳ thư”, bác bỏ dư luận coi
đây là “dâm thư”, ông chỉ ra Kim bình mai chỉ có một tội là “có tài và có sắc”, là tác
phẩm nói lên lòng căm phẫn. Ông còn so sánh Kim bình mai với Sử ký, khẳng định dứt
khoát địa vị của Kim bình mai trong lịch sử văn học.
Trương Trúc Pha còn tiến hành tổng kết đặc sắc nghệ thuật của bộ tiểu thuyết này, từ
đó quy ra đặc trưng cơ bản của loại văn học chợ búa (thị tỉnh văn học), phân tích cụ thể
kết cấu “ngàn gian nan đau khổ” “máu lệ liên tiếp” và các thủ pháp miêu tả đặc điểm cá
tính nhân vật, v.v…Lần đầu tiên Trương Trúc Pha đánh giá, khẳng định sự kiệt xuất của
tiểu thuyết trường thiên Kim bình mai, tạo ảnh hưởng rất lớn, chẳng những giúp cho Kim
bình mai lưu truyền rộng rãi mà còn làm phong phú thêm cho lý luận tiểu thuyết Trung
Phê bình văn học là gì?
19
Quốc. Vì vậy, trong lịch sử phê bình tiểu thuyết Trung Quốc, ông chiếm địa vị quan
trọng, chỉ kém Kim Thánh Thán chút ít.
2.1.2.Phê bình văn học Trung Quốc thời kỳ cận hiện đại:
Tiếp bước những thành tựu rực rỡ của lý luận phê bình văn học thời cổ trung đại, lý
luận phê bình văn học Trung Quốc thời kỳ cận hiện đại cũng đã có những bước tiến nhất
định góp thêm vào để lý luận phê bình phương Đông ngày càng phát triển rực rỡ hơn.
Qua phần lịcn sử phê bình văn học Trung Quốc thời cổ trung đại, ta có thể thấy tên tuổi
của Lưu Hiệp với Văn tâm điêu long hay Chung Vinh với Thi phẩm, Kim Thánh Thán…
là những tiền đề quan trọng để đến thế kỉ XX thì phê bình văn học Trung Quốc đã thực sự
bước vào quỹ đạo của nó với những phương pháp thực sự của một môn khoa học nghiên
cứu – nghiên cứu phê bình lí luận văn học.
Giới phê bình lí luận Trung Quốc xem sự bắt đầu của lý luận phê bình văn học thời
kỳ cận hiện đại là từ khoảng những thế kỷ XVIII, XIX nhưng nó chỉ được coi là thực sự
phát triển và có những hoạt động sôi nổi nhất là vào thế kỷ XX mà cụ thể là thập kỷ 80,
90 của thế kỷ XX đánh dấu bằng cái mốc “hội nghị toàn thể trung ương khóa 11 Đảng
cộng sản Trung Quốc” tháng 11 năm 1978 với cái tên gọi “văn học thời kỳ mới” và gắn
liền với đường lối cải cách mở của của Trung Hoa thời kỳ này. Nhưng cũng có người cho
rằng “văn học thời kỳ mới” được bắt đầu từ khi “lũ bốn tên” bị lật đổ tháng 10 năm
1976. Song lại có người đặt dấu chấm cho văn học thời kỳ mới vào cuối thập kỷ 90 và
gọi là “ cửu thập niên văn học”, “ tân thời kỳ hậu văn học”, “ thế kỷ mạt văn học”…
nhưng kỳ thực tên gọi văn học thời kỳ mới này được đưa ra chỉ là do nhất thời chưa tìm
được tên gọi nào thích hợp hơn mà thôi vì vậy mà nó mang đậm sắc thái chính trị, với các
trào lưu văn học chính như “ văn học viết thương”, “văn học phản tư” , “văn học tầm
can” …
Phê bình văn học cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã dần bắt đầu và đi vào những trật
tự chung , tập trung vào các nội dung chính là văn nghệ và chính trị , vấn đề tính chủ thể
trong văn học , nhân tính và nhân đạo (phê phán tính vô nhân đạo trong xã hội chuyên
chế phong kiến Trung Quốc mà nổi bật cho nội dung này là nhà văn Lỗ Tấn )… nhưng
nhìn chung văn học cũng như lý luận phê bình văn học Trung Quốc thời kỳ này chưa có
Phê bình văn học là gì?
20
những định hướng rõ ràng cho bước phát triển của mình nên ta có thể dễ dàng bắt gặp
phong cách các nhà văn, nhà phê bình Tây Âu trong cách sáng tác của các nhà văn cũng
như cách phê bình thẩm định, đánh giá các tác phẩm văn học của các nhà phê bình
Trung Quốc, chính vì vậy sau một thời gian thử nghiệm tìm tòi , từ chỗ mô phỏng rập
khuôn một cách ngấu nghiến thì nay văn học Trung Quốc đã tự chiêm nghiệm và đúc rút
ra rằng : “Văn học Trung Quốc sau khi trải qua giai đoạn bộc lộ, gào thét , sẽ đi vào giai
đoạn khái quát, hồi cố, suy ngẫm lại”. (Vương Mông).
Bước sang thế kỷ XX ,được cho là thời kỳ phát triển rực rỡ và sôi nổi nhất của của
phê bình văn học Trung Quốc thời kỳ cận hiện đại, đặc biệt là những thập niên 80, 90
của thế kỷ XX khi phê bình văn học Trung Quốc đã ở một bước cao hơn với những trào
lưu và khuynh hướng rõ ràng hơn, đây chính là cái mốc để đánh giá bươc phát triển của
phê bình văn học Trung Quốc trong thời kỳ mới - thời kỳ cận hiện đại và cũng là bước đi
mở đường một cách rõ ràng nhất cho các trào lưu phê bình văn học các giai đoạn sau
phát triển một cách có định hướng.
Nói phê bình văn học thời kỳ này phát triển nhất ở thế kỷ XX nhưng thực chất nó chỉ
thực sự thăng hoa, phát triển và có những thành tựu rực rỡ nhất vào những thập kỷ 80, 90
của thế kỷ XX , vì vậy để tiện cho viêc nghiên cứu chúng ta có thể chia phê bình văn học
Trung Quốc thời kỳ cận hiện đại này ra làm hai giai đoạn chính sau :
• Giai đoạn 1: thập kỷ 80 của thế kỷ XX .
• Giai đoạn 2: thập kỷ 90 của thế kỷ XX.
2.1.2.1.Giai đoạn 1 : Thập kỷ 80 của thế kỷ XX:
Thập kỷ 80 , giới phê bình văn học Trung Quốc đánh dấu sự thay đổi lớn lao, sự xuất
hiện một hiện tượng kỳ lạ, đó là sự chuyển đổi vị trí giữa quan niệm văn học và phương
pháp nghiên cứu của Trung Quốc với phương pháp nghiên cứu của Âu Mỹ , cố gắng
thoát ra khỏi cái khung lý luận vốn có, tìm tòi những điểm tựa mới về phê bình văn
học, giải thích các hiện tượng văn học, bên cạnh đó là sự ảnh hưởng của lý luận văn học
chủ nghĩa cấu trúc Phê bình văn học Trung Quốc thập kỷ 80 đã giới thiệu ồ ạt các
trường phái phê bình lưu hành ở Âu Mỹ gần trăm năm qua, đó là sự chuyển đổi lý luận
Phê bình văn học là gì?
21
phê bình văn học Trung Quốc từ nghiên cứu lí luận kiểu nhân văn chủ nghĩa sang
nghiên cứu xã hội học; chủ nghĩa tân lịch sử, lý luận phê bình văn học chủ nghĩa Mác,
chuyển sang nghiên cứu phê bình văn học chủ nghĩa phản chủng tộc mang đậm khuynh
hướng chính trị; nghiên cứu văn học nữ quyền chủ nghĩa, trong đó có lý luận phê bình
của trường phái hình thức chủ nghĩa “ phê bình mới” lí luận chủ nghĩa cấu trúc và tự sự
học được ca ngợi và được cho là điểm tựa cho phê bình văn học Trung Quốc thời kỳ
này .
Nhìn chung trong thập kỷ 80 của thế kỷ XX được các nhà phê bình Trung Quốc tập
trung vào hai vấn đề chính sau:
• Thứ nhất : Những vấn đề chính trong văn học Trung Quốc thời kỳ cận hiện đại.
• Thứ hai : Tính hiện đại trong phê bình lí luận văn học Trung Quốc thời kỳ mới.
2.1.2.1.1. Những vấn đề chính trong văn học trung quốc thời kỳ cận hiện đại.
Các nhà phê bình văn học thời kỳ này chỉ ra một số nội dung chính và có ảnh hưởng
sâu sắc tới phát triển của lý luận phê bình văn học, đó là các nội dung sau:
• Mối quan hệ giữa văn nghệ với chính trị.
• Vấn đề nhân tính và nhân đạo chủ nghĩa
• Tính chủ thể trong văn học
Những vấn đề nêu trên không chỉ được các nhà văn quan tâm mà con thu hút cả giới
lý luận phê bình Trung Quốc nữa. Những vấn đề như mối quan hệ giữa văn nghệ và
chính trị, tính nhân đạo trong văn chương, tính chủ thể của văn học, văn học có cần thiết
cho chính trị hay không, giai đoạn này tư tưởng “ văn dĩ tải đạo” có còn chiếm vị trí chủ
đạo nữa hay không, trong văn học tính nhân đạo giữ vị trí như thế nào hay chủ thể của
văn học là gì ,đặc biệt là văn học ngày nay là những vấn đề được đặt ra trong giai đoạn
này? Cũng xin nói luôn rằng ngày nay “văn dĩ tải đạo” không còn là tư tưởng sáng tác
chính cho các nhà văn nữa. Nhưng văn học lại là một một phần của chính trị, nó khích lệ
động viên nhân dân. Bên cạnh đó, các nhà phê bình cũng quan tâm đến tính nhân đạo và
tính chủ thể trong văn học, đi xa hơn nữa phê bình còn nghiên cứu cả sự hình thành cũng
như phát triển của ngôn từ trong các sang tác của nhà văn …
Phê bình văn học là gì?
22
Thập kỷ 80 của thế kỷ XX, theo Mạnh Phồn Hoa, thì mọi sự thay trong đời sống xã
hội đều được phản ánh trong các sáng tác. Phê bình văn học trong thời kỳ này nhìn chung
là nhất trí đồng bộ với nhau, mọi người làm gì là cùng nhau đổ xô lại làm, nào là “văn
học vết thương”, “văn học cải cách”, “văn học thực nghiệm”…Những vấn đề chính
những xuất phát điểm mà mọi người suy nghĩ , phương pháp phê bình mà mọi người sử
dụng , vốn tư tưởng chủ yếu của mọi nguời nhìn chung về đại thể là giống nhau . Ở thời
kỳ này có những nhà phê bình lớn như là Vương Mông , Mạc Ngôn, Lí Kiến Bình và đặc
biệt là Tiền Trung Văn với một số những tác phẩm như “Chủ nghĩa hiện thực và chủ
nghĩa hiện đại” , “Văn học nguyên lí- phát triển luận”,” Lý luận văn học” ,” Tân lý tính
tinh thần văn học luận” …Những tác phẩm của Tiền Trung Văn đã nói lên đươc tính đa
dạng của lý luận phê bình văn học, những quan niệm về văn học trong thời kỳ mới,
những hướng đi mới cho văn học cũng như phê bình văn học trong thời kỳ này của văn
học Trung Quốc nói chung và phê bình văn học Trung Quốc nói riêng . Bên cạnh đó
trong giai đoạn này phê bình văn học Trung Quốc cũng chịu ảnh hưởng của một số trào
lưu văn học và phê bình văn học phương Tây, điển hình như chủ nghĩa cấu trúc và một
số các cuốn sách như “tương lai của lý luận văn học” (1989) của một học giả người Mỹ
Ralf Cohen và cuốn “Phê bình của phê bình” của Tzvetan Todorov- nhà lí luận chủ nghĩa
cấu trúc. Những cuốn sách trên nói về lí do tại sao mà phải thay đổi thực tiễn của văn
học, chúng ta nên tiếp nhận những gì và nên từ bỏ những gì trong thời kỳ văn học của
chúng ta đang phát triển cùng với sự phát triển của những ngành kghoa học khác .
2.1.2.1.2.Tính hiện đại trong lý luận phê bình văn học Trung Quốc thời kỳ mới:
Ở giai đoạn này cùng với sự phát triển để hướng tới một nền văn học hiện đại, lý luận
phê bình văn học Trung Quốc vừa cố gắng nỗ lực để phát triển nền văn học mang tính
hiện đại cao, cả về nội dung lẫn hình thức, đồng thời phê bình Trung Quốc cũng không
quên đi lịch sử văn học cũng như lịch sử của chính mình,với những cuốn sách như Văn
học mã luận của Mã Tôn Hoắc (1925), Thi luận của Chu Quang Tiềm (1942), hay một số
cuốn sách khác như Trung Quốc văn học phê bình sử của Phương Hiếu Nhạc, Trung
quốc phê bình văn học sử của Quách Thiệu Nhu, Đàm Lục Nghệ. Bên cạnh đó còn có
một số những cuốn sách khác được xuất bản do những nhà phê bình tên tuổi viết như
Phê bình văn học là gì?
23
Trung Quốc văn học phê bình thông sử 7 quyển, 8 tập do Vương Vận Huy, Cố Dịch Sinh
chủ biên, bộ Trung Quốc mỹ học tư tưởng sử 3 quyển của Mẫn Trạch và bộ Văn học tư
tưởng sử nhiều quyển của La Tôn Cường được xem là những sự kiện lớn trong nghiên
cứu lý luận phê bình văn học cổ. Ngoài ra còn một số những tác phẩm khác như Trung
Quốc thi học thông luận của Viên Hành Bái , bộ Trung Quốc thi học phê bình sử của Trần
Lương Vận và bộ Trung Quốc lý luận phê bình phát triển sử của Trương Thiếu Khang…
Đó là những sự nỗ lực phấn đấu của thời kỳ này. Song bên cạnh đó cũng cần nói tới một
số trào lưu văn học trong lịch sử như là “văn học viết thương” , “văn học tầm căn” , “văn
học phản tư”(suy ngĩ lại) … trong đó đặc trưng cá thể hóa của ý thức thẩm mỹ được biểu
hiện khá rõ ở chỗ nhà văn bắt đầu quan tâm đến số phận con người, ý thức về giá trị của
con người bắt đầu được thức tỉnh, đồng thời trong phương diện phê phán thẩm mỹ đã
xuất hiện sưc sống mới … Đó cũng là những trào lưu nổi bật được nhắc tới trong thời kỳ
này.
Nhìn chung phê bình văn học Trung Quốc thập kỷ 80 của thế kỷ XX tuy phát triển
mạnh và có những hoạt động hết sức sôi nổi nhưng có thể nói đó mới chỉ là sự phát triển
của hình thức bên ngoài cũng như những nội dung một cách chung chung và thực sự
chưa có hệ thống một cách rõ ràng nhất, thêm vào đó, sự ảnh hưởng khá sâu sắc của
những phong cách và phương pháp phê bình của các nhà phê bình Âu Mỹ, cũng như sự
du nhập một cách ồ ạt những trào lưu phê bình văn học phương tây làm cho lý luận phê
bình văn học Trung Quốc thời kỳ này trở nên đa dạng nhưng cũng rất phức tạp. Đây
cũng chính là điểm hạn chế của phê bình văn học giai đọan này và cần được khắc phục.
2.1.2.2.Giai đoạn 2: thập kỷ 90 của thế kỷ XX:
Trong giai đoạn này, phê bình văn học Trung Quốc có bước phát triển hơn so với giai
đoạn trước cả về nội dung lẫn hình thức. Phê bình văn học giai đoạn này xét về mọi mặt
đều phát triển hơn hẳn so với thập kỷ trước, các nhà lý luận phê bình văn học đều có một
hướng đi cho riêng mình, tuy không sôi động nhưng nó lại tạo ra được nhiều vấn đề cho
giới lý luận phê bình, thời kỳ này cũng xuất hiện rất ít những trào lưu, những khuynh
Phê bình văn học là gì?
24
hướng văn học chủ yếu. Trong thập kỷ này, phê bình văn học tập trung vào những vấn đề
như con người và hiện thực xã hội Trung Quốc, văn học quan tâm nhiều hơn tới đời sống
hiện thực của nhân dân mà tập trung chủ yếu trong các tiểu thuyết. Khác với giai đoạn
trước, các nhà lý luận phê bình văn học Trung Quốc thời kỳ này đã tự đi bằng chính đôi
chân của mình chứ không đi theo, bắt chước những trào lưu, phong cách của những nhà
phê bình phương Tây. Trong giai đoạn này, lý luận phê bình văn học Trung Quốc đã
mang đậm tính dân tộc hơn, cuộc sống của người dân và những nỗi đau khổ của họ cũng
được nói tới. Vì vậy mà phê bình văn học giai đoạn này mang đậm tính dân tộc cao cả
với những tiểu thuyết “ xung kích ba”(tiểu thuyết như làn sóng va đập của chủ nghĩa hiện
thực ). Thời kỳ này nổi lên một số cây viết lớn như Mạc Ngôn, một số nhà phê bình mới
như Vương Quang Minh, Mạnh Phồn Hoa, Đào Đông, Phong Hạ, Thiệu Tuấn … đã góp
phần làm phong phú và đa dạng hơn cho nền phê bình văn học thời kỳ này.
Nhìn chung trong giai đoạn thập kỷ 90 của thế kỷ XX phê bình văn học dường như
chỉ đặt sự quan tâm của mình tới một vấn đề duy nhất đó là các vấn đề trong tiểu thuyết
thời kỳ mới, cụ thể như sau :
• Thứ nhất : diễn tiến các trào lưu tiểu thuyết Trung Quốc trong giai đoạn này .
• Thứ hai : các vấn đề chính trong tiểu thuyết Trung Quốc được nói tới trong thập
kỷ này.
Nói về diễn tiến các trào lưu tiểu thuyết Trung Quốc trong giai đoạn này, khi văn học
thời kỳ mới đi qua giai đoạn lịch sử đầu tiên của nó, giới phê bình văn học từng lấy “sự
xung đột giữa văn minh và mu muội”, “sự phát hiện và hun đúc đối với linh hồn dân tộc”,
“chủ nghĩa phản phong kiến” và “chủ nghĩa nhân đạo” để khái quát các trào lưu văn học
chính của mười năm đầu thời kỳ mới. Đối tượng bàn luận chính của các nhà phê bình
chủ yếu nhằm vào các trào lưu tiểu thuyết “ viết thương”(thương ngấn), “phản tư”(suy
nghĩ lại), “cải cách” và “tầm căn”( tìm về cội nguồn)…Chủ đề cơ bản của những trào lưu
trên và việc đề xướng giải phóng tư tưởng trong giới văn hóa tư tưởng hoàn toàn nhất trí
với nhau và cùng quan tâm tới một vấn đề chính đó là lý tính , dân chủ và nhân đạo.
Chung quy lại những điều mà từ tiểu thuyết “viết thương” đến “phản tư” và “cải cách”
thể hiện chủ yếu là một kiểu khai sáng xã hội,được xác lập dựa trên tính hợp pháp của
Phê bình văn học là gì?
25