Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Tài liệu LUẬN VĂN: Bàn về chế độ hạch toán chi phí dự phòng ở Việt Nam ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (394.87 KB, 28 trang )












LUẬN VĂN:

Bàn về chế độ hạch toán chi phí dự
phòng ở Việt Nam









LỜI MỞ ĐẦU


Trong những năm gần đây nền kinh tế Việt Nam đang ngày càng phát triển mạnh
mẽ. Đặc biệt là sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức WTO đã tạo ra một bước ngoặt mới
trong sự phát triển kinh tế của nước ta, nó mở ra trước mắt các doanh nghiệp nhiều cơ
hội nhưng cũng không ít thách thức và khó khăn. Một yếu tố luôn tồn tại trong kinh


doanh ảnh hưởng lớn đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp chính là rủi ro.
Nền kinh tế thị trường càng phát triển, cạnh tranh ngày càng khốc liệt thì mức độ rủi ro
càng cao. Do vậy để có thể đứng vững trên thương trường các doanh nghiệp cần xây
dựng cho mình những chiến lược kinh doanh hợp lý. Một trong số đó là cần phải dự
đoán và có biện pháp hạn chế rủi ro để chủ động hơn về tài chính. Hiện nay biện pháp
chung đang được áp dụng cho các doanh nghiệp đó là việc trích lập các khoản dự
phòng giảm giá, dự phòng phải trả…
Hiện nay chế độ kế toán do Bộ tài chính ban hành đã có những quy định cụ thể và
thống nhất việc tổ chức hạch toán các khoản dự phòng; đồng thời Bộ tài chính cũng đã
ban hành các thông tư hướng dẫn giúp cho các doanh nghiệp có thể vận dụng một cách
dễ dàng hơn. Tuy nhiên trong chế độ kế toán Việt Nam hiện hành được ban hành theo
quyết định Số 15/2006/QĐ-BTC ngày 26/3/2006 vẫn còn tồn tại một số bất cập cần
phải hoàn thiện trong hạch toán các khoản chi phí dự phòng như sau:
Không có sự thống nhất của chế độ kế toán Việt Nam hiện hành và Thông tư hướng
dẫn Số: 13/2006/TT-BTC về quy định hoàn nhập các khoản dự phòng. Thứ nhất, Về
hoàn nhập các khoản dự phòng thì chế độ kế toán hiện hành quy định ghi giảm chi phí
còn thông tư hướng dẫn lại ghi tăng thu nhập.
Thứ hai, Về trích lập dự phòng bảo hành sản phẩm, hàng hoá, công trình xây lắp.
Theo thông tư tại thời điểm lập dự phòng nếu số thực chi bảo hành lớn hơn số đã trích
lập dự phòng thì phần chênh lệch thiếu được hạch toán vào chi phí bán hàng, còn theo


chế độ kế toán thì phần chênh lệch này sẽ được hạch toán vào các chi phí tương ứng
chứ không chỉ riêng chi phí bán hàng.
Điều này gây khó khăn cho người làm kế toán trong doanh nghiệp khi trích lập và
hoàn nhập các khoản dự phòng, không biết nên theo quy định nào.
Thứ ba, quy định về kế toán dự phòng bảo hành sản phẩm hàng hoá, công trình xây
lăp trong thông tư số 21 do bộ tài chính ban hành ngày 20/3/2006 bị chưa phù hợp với
nguyên tắc kế toán dồn tích
Vì vậy, em đã đi sâu nghiên cứu đề tài “Bàn về chế độ hạch toán chi phí dự phòng ở

Việt Nam”.
Với đề tài này bài viết của em gồm 3 phần:
Phần 1: Cơ sở lý luận về kế toán các khoản chi phí dự phòng.
Phần 2: Chế độ kế toán Việt Nam hiện hành về hạch toán chi phí dự phòng.
Phần3: Quan điểm nhằm hoàn thiện hạch toán chi phí dự phòng trong chế độ kế
toán Việt Nam hiện hành.

















Phần 1: Cơ sở lý luận về kế toán chi phí dự phòng.
1.1. Khái niệm và bản chất của dự phòng.
Hiện nay có nhiều định nghĩa khác nhau về dự phòng Mỗi định nghĩa nghiên cứu
dự phòng ở những phạm vi góc độ khác nhau. Dưới đây là một số khái niệm:
Một cách tổng quát nhất, theo định nghĩa của chuẩn mực kế toán quốc tế, IAS37,
thì “Dự phòng là một khoản nợ có giá trị và thời gian không chắc chắn”. Như vậy
khoản dự phòng là bất thường bởi vì sự không chắc chắn về thời gian và số lượng các

khoản phải chi cho việc thanh toán trong tương lai.
Chuẩn mực này cũng chỉ rõ “ Khoản mục được công nhận là dự phòng là sẽ phải là
sự đánh giá chi phí tốt nhất cần có để thanh toán nghĩa vụ hiện tại vào ngày lập bảng
tổng kết tài sản”. Theo mục này thì dự phòng là khoản chi phí được ghi nhận là khoản
chi phí được ghi nhận trước tại ngày lập bảng tổng kết tài sản để đảm bảo khả năng
thanh toán cho các hoạt động bất thường trong tương lai.
Như vậy về bản chất thì dự phòng là ghi nhận trước một khoản chi phí chưa thực
chi vào chi phí sản xuất kinh doanh, giúp cho doanh nghiệp có nguồn tài chính để bù
đắp tổn thất có thể xảy ra trong năm kế hoạch, nhằm bảo toàn vốn kinh doanh; đảm
bảo cho doanh nghiệp phản ánh giá trị vật tư hàng hóa tồn kho, các khoản đầu tư tài
chính không cao hơn giá cả trên thị trường và giá trị của các khoản nợ phải thu không
cao hơn giá trị có thể thu hồi được tại thời điểm lập báo cáo tài chính. Đồng thời dự
phòng sẽ làm tăng tổng chi phí do vậy nó đồng nghĩa với sự tạm thời giảm thu nhập
ròng của niên độ báo cáo, niên độ lập dự phòng.
Ở Việt Nam vấn đề dự phòng được đề cập đến trong chuẩn mực kế toán số 18 “Các
khoản dự phòng, tài sản và nợ tiềm tàng”, Chuẩn mực quy định và hướng dẫn các
nguyên tắc,phương pháp kế toán các khoản dự phòng; Các quy định này cũng tiến dần
tới những quy định chung của quốc tế.
1.2. Phân loại dự phòng:
Căn cứ vào tính chất của dự phòng thì dự phòng được chia thành 2 loại:
* Dự phòng giảm giá tài sản


- Dự phòng giảm giá hàng tồn kho
- Dự phòng giảm giá chứng khoán đầu tư
- Dự phòng nợ phải thu khó đòi
* Dự phòng rủi ro và phí tổn
- Dự phòng rủi ro kiện tụng
- Dự phòng lỗ về hợp đồng bán chịu
- Dự phòng về tái cơ cấu doanh nghiệp

1.3. Vai trò của dự phòng
Khoản mục dự phòng là khoản mục trọng yếu trên bảng cân đối kế toán. Nó không chỉ
quan trọng đối với doanh nghiệp mà còn quan trọng đối với các nhà đầu tư, các đối tác
của doanh nghiệp, nhà nước. Vai trò của dự phòng như được thể hiện trên các phương
diện sau:
Phương diện kinh tế:
Các khoản dự phòng là khoản mục trọng yếu trên bảng cân đối kế toán của doanh
nghiệp. Nó giúp cho những người sử dụng thông tin tài chính: nhà đầu tư, ngân hàng,
khách hàng, nhà cung cấp…có thể phân tích đánh giá chính xác kết quả hoạt động của
doanh nghiệp trong quá khứ và dự đoán xu hướng trong tương lai thông qua quy mô
của từng khoản mục dự phòng cụ thể người sử dụng thông tin tài chính đánh giá rủi ro
trong các hoạt động khác nhau từ đó ra quyết định đầu tư hoặc hợp tác kinh doanh với
doanh nghiệp
Phương diện tài chính:
Dự phòng có tác dụng làm giảm lãi của niên dộ nên doanh nghiệp tích luỹ được một
quỹ tiền tệ đáng lẽ đã được phân chia nhưng lại được giữ lại. Số vốn này được sử dụng
để bù đắp các khoản giảm giá tài sản và các rủi ro phát sinh trong niên độ sau. Thực
chất các khoản dự phòng là một nguồn tài chính của doanh nghiệp tạm thời nằm trong
tài sản lưu động trước khi sử dụng.
Ngoài ra dự phòng còn là một công cụ đắc lực để các nhà quản lý điều chỉnh lợi
nhuận trong niên độ hiện tại phục vụ cho mục đích của mình. Khi doanh nghiệp cần
thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài thì kế toán sẽ ghi giảm chi phí, tăng lợi nhuận làm cho


tình hình tài chính của doanh nghiệp sáng sủa hơn, có triển vọng hơn. Ngược lại khi
cần doanh nghiệp có thể làm tăng dự phòng, làm tăng chi phí, giảm lợi nhuận để nhận
được sự hỗ trợ của nhà nước hay để đạt được những mục đích khác.
Phương diện thuế:
Dự phòng được ghi nhận như một khoản chi phí trước thuế làm giảm lợi nhuận tức
phát sinh để tính ra thuế phải nộp và lợi nhuận thực tế. Nhờ có dự phòng mà doanh

nghiệp giảm được một khoản thuế phải nộp cho ngân sách nhà nước.
Đồng thời dự phòng cũng được sử dụng như một công cụ để điều chỉnh mức thuế nộp
cho ngân sách.
Phương diện quản lý:
Dự phòng là chính sách tài chính cần thiết cho doanh nghiệp có thể đối phó linh hoạt
hơn đối với các sự kiện bất thường trong tương lai. Nó giúp cho nhà nước quản lý tốt
hơn hoạt động của doanh nghiệp.




Phần 2 Chế độ kế toán Việt Nam hiện hành về hạch toán chi phí dự phòng
2.1. Khái quát lịch sử chế độ kế toán về chi phí dự phòng.
2.1.1. Giai đoạn từ 1995 tới 2002
Các khoản dự phòng (dự phòng giảm giá hàng tồn kho, dự phòng phải thu khó đòi,
dự phòng giảm giá chứng khoán) lần đầu tiên được đề cập trong thực hành kế toán vào
năm 1997. Đánh dấu sự ra đời của dự phòng là thông tư 64/TC/TCDN ngày
19/9/1997, thông tư 33/1998/TT/BTC ban hành ngày 17/3/1998 đây là các thông tư
đầu tiên hướng dẫn việc trích lập và sử dụng dự phòng dựa trên quyết định Số:
1141/TC-QĐ-CĐKT về ban hành chế độ kế toán doanh nghiệp. Tuy nhiên do hạn chế
về điều kiện phát triển kinh tế (nước ta mới chuyển sang nền kinh tế thị trường) và
trong nhận thức nên lúc này dự phòng mới chỉ được xây dựng để áp dụng cho các
doanh nghiệp nhà nước hoạt động sản xuất kinh doanh bao gồm: Tổng công ty, doanh
nghiệp nhà nước hoạt động độc lập, doanh nghiệp thành viên của tổng công ty. Đồng
thời đối tượng lập dự phòng mới chỉ giới hạn ở vật tư hàng hoá có giá thị trường thấp
hơn giá đang hạch toán trên sổ kế toán, các chứng khoán do doanh nghiệp đầu tư bị
giảm giá so với giá đang hạch toán trên sổ kế toán và các khoản phải thu khó đòi. Qua
đây chúng ta có thể thấy trong thời gian này thì dự phòng đã phần nào thực hiện được
vai trò của dự phòng, tuy nhiên cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì dần dần
những quy định về trích lập dự phòng được sửa đổi, bổ sung theo thời gian phù hợpvới

sự đổi mới quy chế tài chính và kế toán.
2.2.1. Giai đoạn từ 2002 đến nay
Kể từ đầu năm 2002, trích lập các khoản dự phòng được thực hiện theo Thông tư số
107/2001/TT-BTC ngày 31/12/2001 và sau đó được bổ sung bởi thông tư số
21/2006/TT-BTC, thay thế bằng Thông tư số 13/2006/TT-BTT ngày 27/3/2006. Trong
giai đoạn này chế độ kế toán chi phí dự phòng dần hoàn thiện hơn về tất cả mọi mặt
như: mở rộng phạm vi áp dụng không chỉ giới hạn trong các đơn vị nhà nước mà áp
dụng cho các thành phần kinh tế khác theo quy định của pháp luật trong nền kinh tế
bao gồm cả các công ty có vốn đầu nước ngoài. Đồng thời đối tượng trích lập dự
phòng cũng được mở rộng (bao gồm cả dự phòng phải trả) kèm theo các quy định cụ


thể mới phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế. Một số điều kiện và phương pháp trích
lập dự phòng giảm giá được thay đổi : Tỷ lệ trích lập dự phòng phải thu khó đòi, mức
trích lập dự phòng cho các loại đầu tư chứng khoán. Các quy định đó ngày càng chặt
chẽ hơn, tuy chưa thực sự đầy đủ nhưng đã được vận dụng có hiệu quả trong các
doanh nghiệp.
2.2. Kế toán chi phí dự phòng trong chế độ kế toán Việt Nam hiện hành
2.2.1.Dự phòng phải thu khó đòi:
* Một số vấn đề chung về dự phòng phải thu khó đòi.
* Khái niệm: Dự phòng phải thu khó đòi: là dự phòng phần giá trị bị tổn thất của các
khoản nợ phải thu mà có thể không thu hồi được do khách nợ không có khả năng
thanh toán.
* Điều kiện và căn cứ lập dự phòng
Điều kiện: Để lập dự phòng thì đơn vị cần phải có những bằng chứng đáng tin cậy về
các khoản nợ phải thu khó đòi (khách hàng bị phá sản hoặc bị tổn thất, thiệt hại lớn về
tài sản…nên không có khả năng thanh toán.Các khoản nợ phải thu được theo dõi cho
từng đối tượng, từng nội dung, từng khoản nợ trong đó chi tiết nợ phải thu khó đòi.
Phải có chứng từ gốc hoặc các chứng từ khác xác minh số nợ mà khách hàng chưa trả.
Căn cứ lập dự phòng: Khi doanh nghiệp có các khoản nợ phải thu quá hạn thanh toán

ghi trong hợp đồng kinh tế, các khế ước vay nợ, bản cam kết hợp đồng hoặc cam kết
nợ doanh nghiệp đã đòi nợ nhiều lần nhưng vẫn chưa thu được hoặc là các khoản nợ
phải thu chưa đến hạn thanh toán nhưng khách nợ đang lâm vào tình trạng phá sản
hoặc đang làm thủ tục giải thể, mất tích, bỏ trốn thì lúc này doanh nghiệp tiến hành thì
doanh nghiệp dự kiến mức tổn thất không thu hồi được để trích lập dự phòng
Phương pháp tính mức dự phòng cần lập
Dự phòng ph
ải thu Sợ nợ % Nợ có
khó đòi = phải thu

thể
cần lập khó đòi bị mất
Tỷ lệ nợ có thể bị mất được tính theo quy định chung của bộ tài chính (thông tư Số:
13/2006/TT-BTC)


*Tài khoản sử dụng hạch toán dự phòng phải thu khó đòi
TK 139 - Dự phòng phải thu khó đòi
Bên nợ: - Hoàn nhập dự phòng nợ khó đòi
- Xoá các khoản nợ phải thu khó đòi.
Bên có: Số dự phòng nợ phải thu khó đòi được lập vào chi phí quản lý doanh
nghiệp.
Dư có: Số dự phòng các khoản nợ phải thu khó đòi hiện có cuối kỳ
*Phương pháp hạch toán kế toán một số nghiệp vụ kinh tế chủ yếu
- Cuối kỳ kế toán năm hoặc cuối kỳ kế toán giữa niên độ (đối với doanh nghiệp có lập
báo cáo tài chính giữa niên độ), doanh nghiệp căn cứ các khoản nợ phải thu được xác
định là không chắc chắn thu được ( Nợ phải thu khó đòi), kế toán tính, xác định số dự
phòng nợ phải thu khó đòi cần trích lập hoặc hoàn nhập.
- Nếu số dự phòng nợ phải thu khó đòi cần trích lập ở kỳ kế oán trước chưa sử
dụng hết, thì số chênh lệch lớn hơn được hạch toán vào chi phí, ghi:

Nợ TK 642
Có TK 139
- Nếu số dự phòng nợ phải thu khó đòi cần trích lập ở kỳ kế toán này nhỏ hơn số dự
phòng nợ phải thu khó đòi đã trích lập ở kỳ kế toán trước chưa sử dụng hết, thì số
chênh lệch được hoàn nhập ghi giảm chi phí, ghi:
Nợ TK 139
Nợ TK 642
Trong niên độ kế toán sau, khi đơn vị xác định các khoản nợ phải thu khó đòi thực sự
là không đòi được được phép xóa nợ. Việc xoá khoản nợ phải thu khó đòi phải theo


chính sách tài chính hiện hành. Căn cứ vào quyết định xoá nợ về các khoản nợ phải
thu khó đòi, ghi:
Nợ TK 139
Nợ TK 642
Có TK 131,138
Đồng thời ghi vào bên Nợ TK 004 “ Nợ khó đòi đã xử lý” (Tài khoản ngoài bảng cân
đối kế toán)
Đối với những khoản nợ phải thu khó đòi đã được xử lý xoá nợ, nếu sau đó lại thu hồi
lại được nợ, kế toán căn cứ vào giá trị thực tế của khoản nợ đã thu hồi được, kế toán
tiến hành ghi nhân khoản tiền thu được
Nợ TK 111, 112
Có TK 711 đồng thời ghi đơn vào bên có TK 004
Đơn vị có thể bán các khoản nợ phải thu khó đòi cho Công ty mua, bán nợ. Khi các
doanh nghiệp hoàn thành thủ tục bán các khoản nợ phải thu (đang phản ánh trên bảng
cân đối kế toán) cho công ty mua, bán nợ và thu được từ tiền
Nợ TK 111,112
Nợ TK 139
Nợ các tk liên quan( số chênh lệch giữa)
Có TK 131,138

* Sơ đồ khái quát



2.2.2. Dự phòng giảm giá hàng tồn kho
* Một số vấn đề chung về dự phòng giảm giá hàng tồn kho
Khái niệm: Dự phòng giảm giá hàng tồn kho là dự phòng phần giá trị bị tổn thất do
giảm giá hàng tồn kho có thể xảy ra.
Thời điểm và đối tượng lập dự phòng : Việc lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho được
tiến hành vào cuối kỳ kế toán năm khi lập báo cáo tài chính. Khi lập dự phòng giảm
giá hàng tồn kho phải được thực hiện theo đúng các quy định của chế độ,Dự phòng
giảm giá hàng tồn kho được lập khi giá trị thuần có thể thực hiện được của hàng tồn
kho nhỏ hơn giá trị gốc và được ghi nhận vào giá vốn hàng bán trong kỳ. Việc lập dự
phòng giảm giá hàng tồn kho phải tính theo từng thứ vật tư, hàng hoá, sản phẩm tồn
kho
M
ức dự phòng
giảm giá vật tư
hàng hóa

=


ợng vật t
ư hàng hóa
thực tế tồn kho tại thời
điểm lập báo cáo tài
chính

x

Giá g
ốc
hàng tồn kho
theo sổ kế
toán

-
Giá tr
ị thuần có
thể thực hiện
được của hàng
tồn kho
* Tài khoản và Phương pháp kế toán một số nghiệp vụ kinh tế chủ yếu.
TK 159 - dự phòng giảm giá hàng tồn kho.
TK 139
TK 642
lập dự phòng
TK 642
Hoàn nhập dự phòng
TK 415
Số đã lập dự phòng
Trừ vào quỹ dự phòng
tài chính
Số còn thiếu
TK 131…


Bên nợ: Giá trị dự phòng giảm giá hàng tồn kho được hoàn nhập ghi giảm giá
vốn hàng bán trong kỳ.
Bên có: Giá trị dự phòng giảm giá hàng tồn kho đã trích lập tính vào giá vốn

hàng bán trong kỳ.
Số dư bên có: Giá trị dự phòng giảm giá hàng tồn kho hiện có ở cuối kỳ.
Cuối kỳ kế toán năm (hoặc quý), khi lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho lần đầu tiên
ghi :
Nợ TK 632
Có TK 159

Cuối kỳ kế toán năm ( hoặc quý) tiếp theo:
+ nếu khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho phải lập ở cuối kỳ kế toán năm nay lớn
hơn khoản dự phòng giảm giá hàn tồn kho đã lập ở cuối kỳ kế toán trước chưa sử dụng
hết thì số chênh lệch lớn hơn, ghi:
Nợ TK 632
Có TK 159
+ nếu khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho phải lập ở cuối kỳ kế toán năm nay nhỏ
hơn khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho đã lập ở cuối kỳ kế toán trước chưa sử
dụng hết thì số chênh lệch nhỏ hơn ghi:
Nợ TK 159
Có TK 632
*sơ đồ khái quát



2.2.3: Dự phòng giảm giá chứng khoán và các khoản đầu tư dài hạn
* Một số vấn đề chung về dự phòng giảm giá hàng chứng khoán và các khoản đẩu
tư dài hạn
Khái niệm:Dự phòng giảm giá chứng khoán là dự phòng phần giá trị bị tổn thất do
chứng khoán doanh nghiệp nắm giữ có thể bị giảm giá.
Dự phòng các khoản đầu tư dài hạn: là dự phòng tổn thất về giảm giá các khoản
đầu tư dài hạn hoặc là doanh nghiệp nhận vốn đầu tư bị thua lỗ phải gọi thêm vốn (trừ
lỗ kế hoạch dự kiến trước khi đầu tư, không đựơc tính vào)

Đối tượng, điều kiện và phương pháp lập dự phòng
Việc lập và xử lý các khoản chứng khoán thường được thực hiện vào cuối năm tài
chính nếu các chứng khoán do doanh nghiệp nắm giữ có giá trị thường xuyên bị giảm
sút so với giá gốc ghi trên sổ kế toán.
Để lập dự phòng giảm giá chứng khoán và các khoản đầu tư dài hạn thì Chứng
khoán của doanh nghiệpđược doanh nghiệp đầu tư đúng quy định của pháp luật và
được mua bán tự do trên thị trường mà tại thời điểm kiểm kê, lập báo cáo tài chính có
giá trị thị trường giảm so với giá gốc ghi trên sổ kế toán.
TK 159 TK 632
lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho

Hoàn nhấp dự phòng giảm giá hàng tồn kho


(n
ếu số phải trích lập thấp h
ơn s
ố d
ư kho
ản dự phòng)



Khi lập dự phòng doanh nghiệp cần lập dự phòng cho từng loại chứng khoán và các
khoản đầu tư dài hạn khi có biến động giảm giá tại thời điểm cuối năm tài chính theo
công thức:
Các loại chứng khoán đầu tư:
Mức dự phòng
giảm giá đầu tư
chứng khoán


=
Số lượng chứng
khoán bị giảm giá tại
thời điểm lập báo cáo
tài chính

x
Giá chứng
khoán hạch
toán trên sổ
kế toán

-
Giá chứng
khoán thực tế
trên thị
trường
Các khoản đầu tư tài chính dài hạn:
Mức dự phòng
tổn thất các khoản
đầu tư tài chính

=
Vốn góp thực tế
của các bên tại
tổ chức kinh tế


-


Vốn chủ
s
ở hữu
thực có

x
Vốn đầu tư của DN

Tổng vốn góp thực tế
của các bên tại tổ chức
kinh tế
Mức trích tối đa cho mỗi khoản đầu tư tài chính bằng số vốn đã đầu tư
*Tài khoản sử dụng hạch toán dự phòng giảm giá các khoản đầu tư tài chính.
Tk 129- Dự phòng giảm giá đầu tư ngắn hạn
Bên nợ: Hoàn nhập số dự phòng giảm giá chứng khoán đầu tư ngắn hạn kỳ
này phải lập nhỏ hơn số đã lập kỳ trước
Bên có: Trích lập dự phòng giảm giá chứng khoán đầu tư ngắn hạn(Số cần
trích lập lần đầu và số chênh lệch giứa số dự phòng kỳ này phải lập
lớn hơn số đã lập cuối kỳ trước).
Số dư bên có : Số dự phòng giảm giá chứng khoán đầu tư ngắn hạn hiện có
cuối kỳ.
TK 229 - Dự phòng giảm giá đầu tư dài hạn:


Bên nợ: Hoàn nhập chênh lệch giữa số dự phòng giảm giá chứng khoán đầu
tư dài hạn năm nay phải lập nhỏ hơn số dự phòng đã trích lập năm
trước.
Bù đắp giá trị khoản đầu tư dài hạn bị tổn thất khi có quyết định
dùng số dự phòng đã lập để bù đắp

Bên có: Trích lập dự phòng giảm giá chứng khoán đầu tư dài hạn
Số dư bên có: Giảm giá chứng khoán đầu tư dài hạn hiện có cuối kỳ.
*Phương pháp hạch toán một số nghiệp vụ chủ yếu.
Cuối niên độ kế toán hoặc quý xác định mức dự phòng cần lập lần đầu về dự phòng
giảm giá các khoản đầu tư ngắn hạn hoặc dài hạn.
Nợ TK 635
Có TK 129,229
Trong niên độ kế toán sau hoặc quý sau, nếu các khoản đầu tư tài chính dài hạn thực
sự bị tổn thất do doanh nghiệp nhận vốn đầu tư bị phá sản hoặc thiên tai hoả hoạn
Doanh nghiệp không thu lại được vố đầu tư hoặc thu hồi ít hơn số lượng vốn góp phải
xử lý thiệt hại trừ vào quỹ dự phòng.
Nợ TK 111,112 Số thực thu.
Nợ TK 229 Số chênh lệch trừ vào quỹ dự phòng tài chính.
Nợ TK 635 Số còn lại
Có TK 222,223,228 Xử lý các khoản đầu tư không thu hồi được
Cuối niên độ kế toán sau hoặc cuối quý sau hoặc cuối quý sau phải dự kiến mức dự
phòng cần lập.
- Nếu khoản dự phòng cần lập ở kỳ kế toán này lớn hơn khoản dự phòng đã lập ở
kỳ kế toán trước còn lại chưa sử dụng thì bổ sung số thiếu, ghi:


Nợ TK 635 số chênh lệch còn thiếu
Có TK 129,229
- Nếu khoản dự phòng cần lập ở kỳ kế toán này nhỏ hơn khoản dự phòng đã trích
lập ở kỳ kế toán trước còn lại chưa sử dụng hết thì số chênh lệch nhỏ hơn phải được
hoàn nhập
Nợ TK 129,229
Có TK 635
* Sơ đồ khái quát hạch toán dự phòng tổn thất các khoản đầu tư tài chính
2.2.4 Dự phòng phải trả bảo hành sản phẩm, hàng hoá, công trình xây lắp.

* Một số vấn đề chung về dự phòng phải trả bảo hành sản phẩm,hàng hóa công
trình xây lắp
Khái niệm: Dự phòng nợ phải trả là khoản nợ phải trả bảo hành không chắc chắn về
giá trị thời gian.
Thời điểm, điều kiện lập dự phòng:Dự phòng phải trả được lập mỗi năm khi một lần
vào cuối niên độ kế toán hoặc tại ngày kết thúc tại ngày kết thúc kỳ kế toán giữa niên
độ.
Dự phòng bảo hành sản phẩm hàng hoá, sản phẩm công trình xây lắp được tiến hành
trích lập khi doanh nghiệp bán hàng cho khách hàng có kèm theo giấy bảo hành sửa
TK 129,229 TK 635
lập dự phòng tổn thất

đầu tư tài chính
Hoàn nhấp dự phòng tổn thất đầu tài chính

(nếu số phải trích lập thấp hơn số dư khoản dự phòng)


chữa cho các khoản hỏng hóc do lỗi sản xuất được phát hiện trong thời gian bảo hành
sản phẩm, hàng hoá,doanh nghiệp phải xác định cho từng mức chi phí sửa chữa cho
toàn bộ nghĩa vụ đó.
Theo quy chế độ kế toán thì các khoản dự phòng phải trả về các chi phí sửa chữa bảo
hành sản phẩm được ghi nhận vào chi phi bán hàng, đối với khoản dự phòng phải trả
chi phí bảo hành công trình xây lắp ghi nhận vào chi phí sản xuất chung.
*Tài khoản sử dụng
TK 352 - Dự phòng phải trả
Bên nợ: - Ghi giảm dự phòng phải trả khi phát sinh khoản chi phí có liên
quan đến dự phòng đã lập ban đầu.
- Hoàn nhập dự phòng phải trả khi doanh nghiệp chắc chắn không còn phải
chịu sự giảm sút về kinh tế do không phải chi trả cho nghĩa vụ nợ

- Ghi giảm dự phòng phải trả về số chênh lệch giữa số dự phòng phải trả lập
năm nay nhỏ hơn số dự phòng phải trả đã lập năm trước chưa sử dụng hết.
Bên có: Phản ánh số dự phòng phải trả trích lập tính vào chi phí
Số dư bên có: phản ánh số dự phong phải trả hiện có
Tài khoản này được mở chi tiết cho từng khoản dự phòng phải trả.
* Phương pháp hạch toán một số nghiệp vụ chủ yếu
Cuối kỳ kế toán năm hoặc cuối kỳ kế toán giữa niên độ, doanh nghiệp phải tính, xác
định số dự phòng phải trả cần lập ở cuối kỳ kế toán,
Trường hợp số dự phòng phải trả cần lập ở kỳ kế toán nàylớn hơn số dự phòng phải
trả đã lập ở kỳ kế toán trước nhưng chưa sử dụng hết thì số chênh lệch hạch toán vào
chi phí:
Nợ TK 641


Có TK 352
Trường hợp số dự phòng phải trả cần lập ở kỳ kế toán này nhỏ hơn số dự phòng phải
trả đã lập ở kỳ kế toán trước nhưng chưa sử dụng hết thì số chênh lệch hoàn nhập dự
phòng ghi giảm chi phí:
Nợ TK 352
Có TK 641
Cuối kỳ kế toán giữa niên độ hoặc cuối kỳ kế toán năm, khi xác định số dự phòng
phải trả về bảo hành công trình xây lắp cần lập cho từng công trình, ghi:
Nợ TK 627
Có TK 352
Khi phát sinh các khoản chi phí liên quan đến khoản dự phòng phải trả đã lập ban
đầu, nếu là chi bằng tiền, ghi:
Nợ TK 352
Có TK 111,112
Khi phát sinh các khoản chi phí liên quan đến khoản dự phòng phải trả về bảo hành
sản phẩm, công trình xây lắp đã lập ban đầu, thì tuỳ theo đơn vị có tổ chức bộ phận

xây lắp độc lập hay không độc lập để hạch toán các chi phí này.
- Nếu đơn vị không có bộ phận xây lắp độc lập về bảo hành sản phẩm, hàng hoá,
công trình xây lắp. Khi phát sinh các khoản chi phí liên quan đến việc bảo hành
sản phẩm hàng hoá, công trình xây lắp ghi:
Nợ TK 621,622,627
Nợ TK 133
Có TK 111,112,152,214,331,334,338


Cuối kỳ kết chuyển chi phí bảo hành sản phẩm, hàng hoá, công trình xây lắp
thực tế phát sinh trong kỳ, ghi:
Nợ TK154
Có TK 621,622,627
Khi sửa chữa bảo hành sản phẩm hàng hoá, công trình xây lắp hoàn thành bàn
giao cho khách hàng, ghi:
Nợ TK 352
Nợ TK 641 : Phần dự phòng phải trả còn thiếu.
Có TK 154
- Nếu đơn vị có bộ phận độc lập về bảo hành sản phẩm, hàng hoá, công trình xây
lắp, số tiền phải trả cho bộ phận bảo hành về chi phí bảo hành sản phẩm, hàng hoá,
công trình xây lắp hoàn thành bàn giao cho khách hàng, ghi:
Nợ TK 352
Nợ TK 641 : Phần dự phòng phải trả còn thiếu.
Có TK 336
Hết thời hạn bảo hành công trình xây lắp, nếu công trình không phải bảo hành hoặc số
dự phòng phải trả về bảo hành công trình xây lắp lớn hơn chi phí thực tế phát sinh thì
số chênh lệch hoàn nhập:
Nợ TK 352
Có TK 711
Trong trường hợp có một bên thứ 3 thanh toán một phần hay toàn bộ chi phí cho

khoản dự phòng, bên thứ 3 có thể hoàn trả lại những gì mà doanh nghiệp đã thanh
toán. Khi doanh nghiệp nhận được khoản bồi hoàn của một bên thứ 3 để thanh toán
một phần hay toàn bộ chi phí cho khoản dự phòng.


Nợ TK 111,112
Có TK 711.
* sơ đồ khái quát:

Phần 3. Quan điểm hoàn thiện chế độ kế toán Việt Nam hiện hành.
3.1. Đánh giá chế độ kế toán Việt Nam hiện hành về kế toán chi phí dự phòng.
3.1.1. Ưu điểm.
Hiện nay chế độ kế toán hiện hành được ban hành theo quyết định số 15 của bộ tài
chính ban hành ngày 20/3/2006, và thông tư hướng dẫn mới nhất là thông tư số 13 do
bộ tài chính ban hành ngày 27/2/2006. Những văn bản này đã khắc phục được những
tồn tại trong văn bản hướng dẫn về trích lập dự phòng trước đây và giúp chế độ kế
toán Việt Nam tiến gần hơn tới các chuẩn mực kế toán quốc tế.
Khác biệt lớn nhất của Thông tư này so với các văn bản hướng dẫn trước đó là quy
định cụ thể về điều kiện và mức trích lập dự phòng phải thu khó đòi và quy định về
trích lập dự phòng đối với các công trình xây dựng, cụ thể là
TK 154,336 TK 352 TK 641
TK 627
TK 711
Kết chuyển chi phí bảo hành

c
ô
ng tr
ình


x
â
y l
ắp

Lập DP phải trả phí bảo

h
ành

s
ản

ph
ẩm

h
àng

ho
á

Phần DP phải trả về phí bảo hành SP, HH còn thiếu
lập DP thêm phần CL
Ghi giảm CF phần CL
kết chuyển CL
lập DP phải trả CF bảo
hành sản phẩm xây lắp



- Đối với nợ phải thu quá hạn thanh toán, mức trích lập dự phòng như sau:
+ 30% giá trị đối với khoản nợ phải thu quá hạn từ 3 tháng đến dưới 1 năm.
+ 50% giá trị đối với khoản nợ phải thu quá hạn từ 1 năm đến dưới 2 năm.
+ 70% giá trị đối với khoản nợ phải thu quá hạn từ 2 năm đến dưới 3 năm.
Quy định này tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể áp dụng một cách dễ dàng
hơn các khoản dự phòng phải thu khó dòi, thay vì bị hạn chế mức trích lập tối đa 20%
như trước đây. Do đó doanh nghiệp có thể chủ động hơn, linh hoạt hơn để trích lập dự
phòng khi doanh nghiệp có khả năng về tài chính.
Ngoài ra Thông tư cũng bổ sung các chi tiêt liên quan tới việc trích lập dự phòng giảm
giá hàng tồn kho, thay vì sử dụng giá trị thực tế trên thị trường khi trích lập dự phòng
kế toán sử dụng giá trị thuần có thể thực hiện được của hàng tồn kho, trong trường hợp
nguyên vật liệu có giá trị thuần có thể thực hiện được thấp hơn so với giá gốc nhưng
giá bán sản phẩm dịch vụ được sản xuất từ nguyên vật liệu này không bị giảm giá thì
không được trích lập dự phòng giảm giá nguyên vật liệu tồn kho đó. Điều này thể hiện
sự nhận thức về phương pháp ghi nhận giá trị của hàng tồn kho đã có sự thay đổi cho
phù hợp với chuẩn mực kế toán quốc tê.
Đồng thời chế độ kế toán hiện hành cũng bổ sung thêm dự phòng phải trả về bảo
hành sản phẩm hàng hoá , công trình xây lắp. Đây cũng là một khoản dự phòng mới
được xây dựng so với chế độ kế toán cũ, việc trích lập dự phòng này đảm bảo cho
doanh nghiệp có khả năng tài chính khi xảy ra rủi ro sản phẩm, hàng hoá bị hỏng trong
thời gian bảo hành sản phẩm, và một số khoản chi cho tái cơ cấu doanh nghiệp, hợp
đồng có rủi ro lớn. Tất cả đều chi mà doanh nghiệp có thể phải trả trong tương lái, mà
nếu không trích lập dự phòng thì doanh nghiệp có thể gặp khó khăn thậm chí là phá
sản.
3.1.2. Nhược điểm
Mặc dù có rất nhiều ưu điểm như trên đã nêu nhưng chế độ kế toán hiện hành vẫn
không tránh khỏi một số tồn tại cần hạn chế cần phải khắc phục


Ở Việt Nam, trích lập các khoản dự phòng được quy định trong các thông tư của Bộ

tài chính, chế độ kế toán chỉ quy định về cách thức hạch toán. Sự phân chia này đã dẫn
tới một số vấn đề không thống nhất trong lý thuyết và thực hành kế toán, cụ thể là có
những vấn đề không thống nhất giữa thông tư và quy định của chế độ kế toán hiện
hành về vấn đề dự phòng. Sự không thông nhất này có thể đơn cử ra hai trường hợp
sau:

*Về hoàn nhập dự phòng:
Theo thông tư số 13/2006 việc hoàn nhập các khoản dự phòng được ghi tăng doanh
thu (thu nhập) tương ứng với các hoạt động có liên quan đến đối tượng dự phòng(
hoàn nhập dự phòng giảm giá hàng tong kho vào dự phòng phải thu khó dòi, dự phòng
bảo hành sản phẩm hàng hoá vào thu nhập khác, dự phòng giảm giá các khoản đầu tư
tài chính vào doanh thu tài chính . Trong khi đó, theo chế độ kế toán doanh nghiệp
2006, hoàn nhập các khoản dự phòng bằng cách ghi giảm chi phí hoạt động có liên
quan đến các đối tượng lập dự phòng.
*Về trích lập dự phòng bảo hành sản phẩm hàng hóa:
Thông tư số 13 quy định. Nếu số dự phòng bảo hành phải trích lập cao hơn số dư của
khoản dự phòng bảo hành, thì doanh nghiệp trích thêm vào chi phí bán hàng của doanh
nghiệp phần chênh lệch này. Trong khi đó chế độ kế toán hiện hành lại quy định tách
riêng khi trích lập dự phòng phải trả bảo hành công trình xây lắp được hạch toán vào
TK 627 – chi phí sản xuất chung.
Cả thông tư và chế độ kế toán hiện hành đều là những cơ sở để cho doanh
nghiệp dựa vào để tổ chức hạch toán tại đơn vị , mọi nghiệp vụ kinh tế phát sinh nói
chung đề hải tuân thủ theo quy định của các văn bản nói trên. Vì vậy hai điểm khác
biệt này sẽ khiến cho kế toán trong doanh nghiệp lúng túng không biết nên tuân theo
quy định nào. Sự không thống nhất giữa thông tư và chế độ kế toán hiện hành không


chỉ có một vấn đề vì vậy cần phải nhanh chóng tạo nên sự thống nhất để doanh nghiệp
có thể có văn bản hướng đẫn đúng đắn nhất.
Bên cạnh đó, Dự phòng phải trả về bảo hành hàng hoá, sản phẩm cũng còn tồn

tại. Nếu theo quy định về kế toán dự phòng bảo hành trong thông tư hướng dẫn số 21
sẽ không phù hợp với quy định của nguyên tăc kế toán dồn tích, bởi cả doanh thu và
chi phí liên quan đến việc bảo hành sản phẩm, hàng hoá đã được ghi nhận tại thời
điểm mà chúng chưa thật sự phát sinh. Chi phí bảo hành sản phẩm, hàng hoá là các
khoản chi phí sẽ phát sinh sau giao dịch bán hàng, khoản chi phí. Điều này cũng không
đúng với quy định không được trích lập dự phòng cho những hoạt động lỗ trong tương
lai của chuẩn mực kế toán quốc tế.
3.2. Một số ý kiến đóng góp nhằm hoàn thiện chế độ kế toán việt Nam hiện hành
về chi phí dự phòng.
* Vê hạch toán hoàn nhập các khoản chi phí dự phòng,Về bản chất trích lập dự phòng
là việc ghi trước một khoản chi phí chi ra như có thể xảy ra trong tương lai. Nếu chi
phí không chi ra tức là không xảy ra tổn thất thì khoản trích lập phải được hoàn nhập.
Ngược lại với việc trích lập dự phòng làm giảm lợi nhuận trong kỳ và việc hoàn nhập
sẽ làm tăng lợi nhuận trong kỳ. Do đó khi hoàn nhập dự phòng,dù hoàn nhập ghi giảm
chi chí hay ghi tăng doanh thu đều ảnh hưởng đến lợi nhuận như nhau. Do đó trong
các văn bản hướng dẫn của bộ tài chính khi thì hoàn nhập ghi tăng thu nhập, khi thì
ghi tăng chi phí. Theo em thì ghi giảm chi phí là phương pháp phù hợp hơn vì khi trích
lập dự phòng là ta đã ghi trước một khoản chi phí nhưng khi khoản chi phí ấy không
thực sự phát sinh thì khoản chi phí ấy sẽ được ghi giảm. Vì vậy Bộ tài chính nên tạo ra
một quy định chung về kế toán hoàn nhập các khoản dự phòng này cho tất cả các
doanh nghiệp đơn vị thực hiện thống nhất tránh khỏi những vấn đề chồng chéo của chế
độ.
*Về trích lập dự phòng phải trả bảo hành sản phẩm, hàng hoá, công trình xây
lắp,Theo em nếu cả sản phẩm,hàng hoá và công trình xây lắp đều hạch toán chi phí dự


phòng phải trả bảo hành vào chi phí bán hàng, nhưng trong thông tư là không chính
xác. Đối với công trình xây lắp, khi có nghiệp vụ về trích lập dự phòng bảo hành công
trình thì cần phải ghi vào chi phí sản xuất chung. Do đặc điểm của đơn vị xây lắp thì
công trình xây lắp là thành phẩm của họ nên chi phí bảo hành sản phẩm xây lắp cũng

là chi phí để tạo ra sản phẩm. Các công trình xây lắp thường có giá trị, quy mô lớn, kết
cấu phức tạp , thời gian sản xuất sản phẩm lâu dài, ngoài ra còn chịu ảnh hưởng của
các nhân tố môi trường như nắng, mưa Vì thế sản phẩm xây lắp luôn yêu cầu phải có
bảo hành sản phẩm từ phía đơn vị xây lắp. Ghi nhận trước chi phí bảo hành vào chi phí
sản xuất sẽ hợp lý hơn là chi phí bán hàng. Theo em thì việc trích lập dự phòng này
cũng nên thông nhất theo như trong chế độ kế toán hiện hành để thực hiện.
* Về việc trích lập dự phòng bảo hành sản phẩm hàng hoá vi phạm nguyên tắc kế toán
dồn tích, Ta có thể thay đổi về nguyên tắc kế toán như sau: Không tiến hành lập dự
phòng về bảo hành sản phẩm hàng hoá. Khoản ngầm định trước trong giá bán của sản
phẩm hàng hoá phải được chuyển vào doanh thu chưa thực hiện được căn cứ vào mức
chi phí thay thế cho toàn bộ nghĩa vụ bảo hành.
Các khoản chi phí bảo hành sản phẩm, hàng hoá khi phát sinh được hạch toán vào chi
phí sản xuất kinh doanh trong kỳ(chi phí bán hàng). Khi đó khoản doanh thu chưa thực
hiện (TK 3387) sẽ được ghi nhận vào doanh thu trong kỳ tương ứng với phần chi phí
bảo hành thực tế phát sinh, khoản doanh thu được ghi nhận này sẽ được bù đắp chi
phí.
Khi hết thời hạn bảo hành phần doanh thu chưa thực hiện nếu không được ghi nhận hết
vào doanh thu do không phát sinh hoặc phát sinh ít hơn so với số đã dự kiến thì được
ghi nhận vào doanh thu khác. Như vậy thì doanh thu và chi phí sẽ không vi phạm quy
định nguyên tắc kế toán dồn tích.

KÊT LUẬN




Qua nghiên cứu về chế độ kế toán chi phí dự phòng, ta thấy dược vai trò quan trọng
của dự phòng trong quá trình sản xuất kinh doanh và thậm chí cả trong công tác quản
lý doanh nghiệp. Các khoản dự phòng có ảnh hưởng tới tình hình và khả năng tài
chính của doanh nghiệp, vì thế cần tiến hành các nghiên cứu về dự phòng nhằm tăng

thêm sự hiểu biết dự phòng để có thể vận dụng dự phòng như một công cụ tài chính
đắc lực của doanh nghiệp.
Hiện nay, chế độ kế toán Việt Nam hiện hành về chi phí dự phòng đã tương đối hoàn
thiện, tuy nhiên vẫn tồn tại một số thiếu xót nhỏ cần khắc phục để chế độ kế toán của
nước ta tiến kịp với chuẩn mực kế toán quốc tê nói chung và các nước phát triển trong
khu vực nói chung.









TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thông tư hướng dẫn số 64 TC/TCDN
2. Thông tư hướng dẫn số 33/1998-TT-BTC
3. Thông tư hướng dẫn số 107/2001/TT-BTC
4. Thông tư hướng dẫn Số: 21/2006/TT-BTC

×