LUẬN VĂN:
Việc làm, thất nghiệp ở đô thị
thực trạng và giải pháp
Lời Mở Đầu
Ngày nay dân tộc ta, nhân dân ta đang bớc vào một cuộc chiến đấu mới vì
cuộc sống âm no hạnh phúc, vì công bằng xã hội. Đất nước ta, thời cơ lịch sử phát
triển đã đến. Công cuộc đổi mới đang diễn ra nhanh chóng và vững chắc. Chủ
trương xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị
trừơng có sự quản lý của nhà nước theo định hớng xã hội chủ nghĩa đã tạo ra động
lực va môi trường thuận lợi cho mọi thành phần kinh tế, mọi loại hình tổ chức sản
xuất - kinh doanh thật sự bình đẳng trước pháp luật và hoạt động có hiệu quả. Nhiều
tiền đề cần thiết cho công nghiệp hiện đại hoá được tạo ra. Nhưng thách thức lớn
đối với nước ta là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu
vực là nguy cơ nổi lên rất gay gắt do điểm xuất phát của ta quá thấp kéo theo hiệu
quả xấu về công ăn việc làm.
Việc làm và thất nghiệp là một trong những vấn đề xã hội có tính chất toàn
cầu, là mối quan tâm lớn của hầu hết các quốc gia. Việc làm ở nước ta được coi là
một trong những vấn đề xã hội gốc rễ quan trọng nhất. Giải quyết đủ việc làm cho ngời
lao động tiến tới việc làm có hiệu quả, được tự do lựa chọn việc làm chính là giải quyết
tận gốc những căn nguyên, nguồn gôc sâu xa nhất của các vấn đề xã hội gay cấn, đảm
bảo giữ gìn kỷ cương và an toàn xã hội.
đề tài :
"Việc làm, thất nghiệp ở đô thị thực trạng và giải pháp"
Nội dung đề tài gồm 3 phần:
- Phần 1: Những khái niệm chung.
- Phần 2: Thực trạng việc làm và thất nghiệp ở đô thị.
- Phần 3: Mục tiêu phương hướng và các giải pháp về vấn đề
việc làm và thất nghiệp.
Nội dung
Phần 1
Những khái niệm chung
i- Khái niệm
1- Việc làm
Mọi hoạt động lao động tạo ra thu nhập không bị pháp luật ngăn cấm gọi là
việc làm.
Các hoạt động lao động được xác định là việc làm bao gồm:
-Làm các công việc được trả công dưới dạng bằng tiền hoặc hiện vật
-Những công việc tự làm để thu lợi nhuận cho bản thân hoặc tạo thu nhập cho
gia đình mình, nhưng không được trả công (bằng tiền hoặc hiện vật) cho công việc
đó.
2- Dân số hoạt động kinh tế:
-Dân số hoạt động kinh tế hay còn gọi là lực lượng lao động bao gồm: Toàn bộ
những người từ đủ 15 tuổi trở lên đang có việc làm hoặc không có việc làm nhưng
có nhu câù làm việc.
Dân số hoạt động kinh tế trong độ tuổi lao động (lực lượng lao động trong độ
tuổi) bao gồm những người trong độ tuổi lao động (nam từ đủ 15 đến hết 60 tuổi, nữ
từ đủ 15 đến hết 55 tuổi) đang có việc làm hoặc không có việc làm, nhưng có nhu
cầu làm việc.
Dân số hoạt động kinh tế thường xuyên trong 12 tháng qua là những người từ
đủ 15 tuổi trở lên có tổng số ngàylàm việc và nhu cầu làm vecj lớn hơn hoặc bằng
183 ngày.
3- Dân số không hoạt động kinh tế.
-Bao gồm toàn bộ số người từ đủ 15 tuổi trở lên không thuộc bộ phận có việc
làm và không có việc làm. Những người này không hoạt động kinh tế vì các lý do
sau:
-Đang đi học
-hiện đang làm công việc nội trợ gia đình.
-Già cả, ốm đau.
-Tàn tật, không có khả năng lao động.
-Hoặc ở vào tìng trạng khác.
4- Người thất nghiệp
Là người từ đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm dân số hoạt động kinh tế trong thời
điểm điều tra không có việc làm nhưng có nhu câù làm việc.
5- Tỷ lệ người có việc làm
Là tỷ lệ % của số ngưòi có việc làm so với dân số hoạt động kinh tế
6- Tỷ lệ người thất nghiệp
Là tỷlệ % số người thất nghiệp so với dân số hoạt động kinh tế.
ii- Sự cần thiết phải tạo việc làm cho người lao động ở khu vực đô thị.
-Tạo việc làm cho người lao động ở khu vực đô thị nhằm tăng thêm thu nhập.
Chúng ta biết rằng khu vực đô thị - Trung tâm văn hoá và phát triển kinh tế sôi động
nhất, còn con người vừa là mục tiêu vừa la động lực của sự phát triển kinh tế xã hội.
Song con người chỉ trở thành động lực cho sự phát triển khi và chỉ khi họ có điều
kiện đã sử dụng sức lao động của họ để tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã
hội. Quá trình kết hợp sức lao động và điều kiện để sản xuất là quá trìng người lao
động làm việc hay nói cách khác là khi họ có được việc làm. Như vậy nếu không có
việc làm, nguồn nhân lực sẽ bị lãng phí, tăng trưởng kinh tế bị kìm hãm, thu nhập
của người lao động bị giảm sút, phân hoá giàu nghèo tăng nhanh vậy thì có việc làm
thu nhập của ngươì lao động tăng nhanh, đời sống của họ được cải thiện, xã hội
phát triển góp phần đẩy nhanh quá trình đô thị hoá tại khu vực đó. Đi đôi với thất
nghiệp là tệ nạn xã hôị và tội phạm phát triển. . . Không có việc là và thiếu việc làm
gia tăng, kéo dài sẽ trở thành mầm mống gây nên “những điểm nóng” có thể dẫn đến
mất ổn định về kinh tế xã hội.
- ở khu vực thành thị lực lượng lao động đang có sự gia tăng đáng kể cả về
tương đối và tuyệt đối. Sự gia tăng này không chỉ thuần tuý mà còn do tác động của
quá trình đô thị hoá, còn do quá do ảnh hưởng của luồng di dân lao động tự do từ
nông thôn ra thành thị tìm kiếm việc làm. Sự phát triển quá nhanh của lực lưưọng
lao động ở khu vực thành thị trong bối cảnh hiện tại đang gây sức ép lớn về nhu cầu
đào tao và việc làm, làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội vốn đã phức tạp lại cang phức tạp
vì thế tạo việc làm cho người lao động ở khu vực đô thị để giảm bớt các tệ nạn xã hội.
Khu vực đô thị tâjp trung rất nhiều người dễ nảy sinh các tệ nạn nếu không tạo công ăn
việc làm cho họ.
Như vậy tạo việc làm cho người lao động ở khu vực đô thị là quan trọng và rất
cần thiết.
Phần 2
Thực trạng việc làm và thất nghiệp ở đô thị
i- đặc điểm nguồn nhân lực ở khu vực đô thị.
Dân số và lao động thành thị nước ta không lớn. Song tình trạng việc làm ở
khu vực thành thị luôn luôn diễn ra căng thẳng và cấp bách, do tính chất và quy mô
số người chưa có việc làm rất lớn và nghiêm trọng. Theo tính toán của liên hiệp
quốc năm 1993 tỷ thất nghiệp ở Việt Nam khoảng trên 6% so với tổng số lao động,
riêng khu vực thành thị tỷ lệ đó là tư 9%-12% gấp đôi so với cả nước. Tỷ lệ lực
lượng lao động ở khu vực thành thị chiếm trong tổng lực lượng lao động cả nước có
xu hướng tăng dần với tỷ lệ tăng thêm hàng năm là 0, 7%. Năm 1998, lực lượng lao
động ở thành thị có khoảng 6838, 2 nghàn người chiếm 19, 06%, năm 1999 có
7333, 1 ngàn người chiếm khoảng 20, 2%, năm 2000 có 7649, 6 nghàn người chiếm
20, 45%.
Số lượng lao động ở khu vực đô thị mỗi năm một tăng, trong khi đó về chất
lượng lao động ở khu vực thành thị thì :
-Năm 2000 số lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật ở thành thị là: 2578,
4chiếm 33, 7% so với tổng lực lượng trong khu vực; so với năm 1998 bình quân
hàng năm tăng thêm được 210, 25 người, với tốc độ tăng là 9, 31% và tỷ lệ so với
tổng số lực lượng trong khu vực tăng thêm được 1, 07%.
Cùng với những thành quả của sự nghiệp đổi mới và sự phát triển nguần nhân
lực đã đạt được nhiều tiến bộ trên các lĩnh vực từ đào tạo dạy nghề đến tuyển dụng,
bố trí sử dụng và phát huy năng lực của đội ngũ lao động đã qua đào tạo. Tuy nhiên
do chưa quy hoạch một cách tỏng thể và đông bộ ở tầm vĩ mô nên cũng để lại những
hậu quả không tốt gây nên những trở ngại cho quá trình phát triển. Quá trình chuyển
dịch cơ cấu số lượng và chất lượng của lực lượng lao động cũng như cơ cấu lao
động theo hướng công nghiệp hoá chưa theo kịp được yêu cầu cua sự nghiệp phát
triển.
ii- Thực trạng về việc làm và thất nghiệp ở đô thị hiện nay.
1- Một số đặc điểm của tình trạng lao động chưa có việc làm và thất nghiệp
ở khu vực thành thị
Số người chưa có việc làm phần lớn (80%)tập trung vào lứa tuổi thanh niên. đó
là lực tượng lao động trẻ, mới bước vào tuổi lao động, đại bộ phận chưa lập thân mà
sống dựa vào gia đình là chính. Trong đó về cơ bản là chưa có nghề (80%) mặc dù
trình độ văn hoá thường là cấp ii, iii trở lên, cao hơn cá vùng nông thôn, họ rất thụ
động trong tìmkiếm việc làm và tâm lý lựa chọn nghề khá phổ biến. Có nhiều việc
thu nhập thấp, tính chất lao động nặng nhọc. . . thì thanh niên thành thị thà chịu thất
nghiệp không muốn làm, nhường việc đó cho thanh niên nônh thôn tràn ra làm. Rất
nhiều nhười lao vào con đường chờ thi cử vào các trường đại học, xô vào học ngoại
ngữ, vi tính. . để mong tìm được việc làm có thu nhập cao, làm cho thị trường lao
động thành thị càng căng thẳng.
Hiện tượng thất nghiệp trong giới có học có xu hướng ngày cang mở rộng ở
khu vực thành thị. Đó là hiện tượng hcọ sinh tất nghiệp các trường đại học không
muốn xa thành phố hoặc khong muốn chấp nhận việc làm có thu nhập thấp. theo
báo cáo hàng năm có khoảng hàng nghàn học sinh tốt nghiệp ra trường chen nhau
tìm việc làm ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. . nhưng không tìm được việc rơi vào
tình trạng thất nghiệp. Thậm chỉ ở thành phố Hồ Chí Minh hàng trăm bác sĩ khong
có việc làm. Trng khi đó các vùng nông thôn, vùng miền núi lại thiếu nghiêm trọng
lao động khoa học kỹ thuật. Số này muốn có việc làm với thu nhập cao phẩi học
thêm ít nhất 2-3 băng nữa như :ngoại ngữ, vi tính, lái xe. . để thi, tuyển vào các văn
phòng đại diện nước ngoài, công ty có vôn đầu tư nược ngoài.
Tái tất nghiệp tất nghiệp ở đô thị cũng là hiện tượng đáng lưu ý. Bởi vì trong
cơ chế thị trường để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp (kể cả doanh nghiệp nhà
nứơc ) buộc phải thay đổi công nghệ và từ đó đòi hỏi đội ngũ lao động mới có chất
lượng cao hơn, từ đó dẫn đến việc sa thải lao động cũ. Số lao động này muốn có
việc làm nhất thiết phải đào tạo lại hoặc nâng cao trình độ tay nghề. Điều tra các
doanh nghiệp ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh cho thấy, về cơ bản phải đào tạo lại
hoặc nâng cao trình độ tay nghề cho hầu hết đọi ngũ cán bộ hiện có. Song công tác
này dang là khâu yếu và chưa có một cơ quan nào của nhà nước chuyên lo. Trong
khi khu vực thành thị đang dư thừa rất lớn lao động phổ thông, lại thiếu nghiêm
trọng lao động kỹ thuật cao cấp, lao động chất xám để cung cấp cho các xí nghiệp,
liên doanh nước ngoài các khu chế xuất. . Nhu cầu đào tạo loại lao động này cũng
rất bức bách và ngày càng lớn. Nhiều nước phải xây dựng các trung tâm huấn luyện
cao cấp để cung ứng loại lao động này. ViÊT NAM bây giờ mới đặt vấn đề là đã rất
muộn. Nếu chúng ta không quan tâm đúng mức thì trên tổng thể sẽ thiếu trầm trọng
lao động kỹ thuật cao, đồng thời sẽ diễn ra hiện tượng “chảy máu chất xám “từ khu
vực nhà nước ra ngoài, sang các khu chế xuất, xí nghiệp liên doanh. .
Vấn đề nhức nhối đối với khu thành thị là cần phải giải quyết việc làm cho số
người mắc phải các tệ nạn xã hội (cờ bạc, số đề, nghiện hút, mại dâm. ) số tội phạm
mãn hạn tù, dòng người từ nông thôn vào thành phố tìm kiếm việclàm hình thành
các chợ lao động. Số người sống lang thang, sống bụi đời. . . Đó là hiện tượng xã hội
rất phức tạp cần phải có chính sách và biện pháp giải quyết có hiệu quả đẻe đảm
bảo văn minh mỹ quan đô thị và an toàn xã hội. Hiện nay cả nước có khoảng trên 80
nghàn gái mại dâm (số kiểm soát được khoảng 26 ngàn) 70-80 ngàn người nghiện,
50 ngàn người lang thang cơ nhỡ, ăn xin sống bụi đời. . chủ yếu tập trung ở các
thanh phố, thị xã khu công nghiệp tập trung và du lịch số này thường rơi vào lứa
tuổi thanh niên, đa số chưa có việc làm. Dòng di chuyển lao động tự do từ nông
thôn vào thành phố tìm kiếm việc làm cũng đang tăng lên nhanh chóng. Tại thời
điểm điều tra ở Hà Nội năm 1993 là 16340 người trong đó:
- Đạp xích lô có : 2157 người
- Làm thợ mộc : 1872 người
- Làm thợ xây : 4324 người
- Bới rác, đồng nát :1044 người
- Làm cơ khí sửa chữa vặt : 2355 người
- Nghề khác: 4023 người
Theo báo cáo của thành phố Hồ Chí Minh, có lúc cao điểm lên tới 40-45 vạn
lao động tự do vào thành phố tìm công ăn việc làm
Tạo việc và tái hoà nhập người xuất trái phép hồi hương, người lao động hợp
tác trở về là vấn đề rất lớn đối với nước ta, song lại càng khó khăn với thành thị.
Hơn chục năm qua chúng ta đã đưa gần 30 vạn lao động đi làm việc có thời hạn ở
nước ngoài, hiện nay số này về cơ bản đã trở về cần có việc làm.
Có thể nói, việc làm ở khu vực thành thị nhày càng căng thẳng và bức bách, vì
nótập trung vào thanh niên, đại bộ phận không có nghề, một số lớn rơi vào đối
tuợng tệ nạn xã, nếu không được giải quyết sẽ dẫn đến bất ổn đinhj về kinh tế xã
hội.
2- Việc làm và thất nghiệp cần được nghiên cứu trên các giác độ.
Trên các vùng, tổng số người thất nghiệp trong 7 ngày qua tính đến thời điểm
điều tra1/9/97của lựclượng lao động trong độ tuổi ở khu vựcthành thị trong cả nước
là 427067 người chiếm 6, 01% tăng so với năm 1998 là 38615 người hay 0, 13%.
Trong 7 vùng lãnh thổ, 4vùng có tỷ lệ thất nghiệp giảm nhẹ so với năm 1998 (Đồng
bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ, Duyên Hải miên Trung và Đồng băng sông cửu
long ) 3 vùng còn lại trừ vùng núi và trung du phía Bắc tăng không đáng kể, còn tây
nguyên và Đông nam Bộ, tỷ lệ gia tăng ở mức trên dưới 0, 5%.
Các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu, Cần Thơ,
tỷ lệ thất nghiệp có xu hướng gia tăng. Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh tỷ lệ thất
nghiệp vẫn đang ở mức báo động (7-8%).
Nghiên cứu xu hướng biến động về tỷ lệ thất nghiệp của các nhóm lưc lượng
lao động trong độ tuổi chia theo trinh độ chuyên môn kỹ thuật năm 1999 so với năm
1998 cho thấy: nguyên nhân của sự gia tăng tỷ lệ thất nghiệp là do tỷ lệ thất nghiệp
cao ở nhóm lựclượng lao động khong có chuyên môn kỹ thuật, dịch vụ tăng thêm
13, 61% với quy mô tăng là 996, 6 nghàn người và tỷ lệ so với tông số tăng bình
quân hàng năm là 2, 47%. Như vậy số lao động làm việc thường xuyên trong nhóm
nghành dịch vụ tăng nhanhhơn khá nhiều so vơí quy mô và tốc độ tăng của số lao
động làm việc thường xuyên trong nhóm nghành Công nghiệp và xây dựng.
Tuy nhiên, sự gia tăng của số lao động làm việc trong nhóm nghành công
nghiệp và xây dựng vẫn còn chậm và chưa đủ mức để tạo việc làm. Sự tăng trưởng
việc làm chập chạp trong các khu vực đã làm cho con số thất nghiệp và thiếu việc
làm ở thành thị cao.
ii- Nguyên nhân dẫn đến thực trạng thất nghiệp.
- Cuộc khủng hoảng tài chíng ở Châu A bắt đầu từ năm 1999 đang làm đông
tiền ở đa số các nước Đông Nam A bị sụt giá mạnh, thị trường sức lao động bị mất
cân đối nghiêm trọng giữa cung và cầu, thất nghiệp nặng nề ở khắp các nước trong
khu vực. Trong khi đó tình trạng thất nghiệp ở thủ đo Ha Nội cũng bị ảnh hưởng
không nhỏ. Vào đầu tháng 4/2000 Sở lao động thương binh và xã hội phối hợp với
cục thống kê Hà Nội tiến hành cuộc điều tra việc làm ở khu vực Hà Nội. Theo báo
cáo kết quả điều tra :Số thất nghiệp ở khu vực đô thị là 51000 người (khong tính số
người từ nông thôn vào đô thị tìm việc làm) tỷ lệ vào thời điểm này là 8, 64% so với
năm 1999 tăng 0, 08%, tỷ lệ thất nghiệp cao nhất so với các thành phố trong cả nước
do chất lượng lao động thấp, cơ cấu đào tạo không hợp lý. Hơn nữa nhu cầu việc
làm ngày càng lớn với khả năng giải quyết còn rất hạn chế trong tiềm năng phát
triển kinh tế, tạo mở việc làm cũng rất lớn song lại chưa được khai thác và phát huy.
Giữa lao động và việc làm ngày càng gay gắt khi đất nước tiến hành công cuộc đổi
mới cùng với điều chỉnh cơ cấu kinh tế phải tổ chức lại lao động trên phạm vi toàn
xã hội, chuyển dịch cơ cấu lao đọng cho phù hợp với cơ cấu mới của nền kinh tế.
Trong quá trình dịch chuyển này chúng ta vừa thiéu lao động có kỹ thuật, lại vừa
thừa khá lớn lao động phổ thông. Điều này đã dẫn đến nạn “thất nghiệp kết cấu “ rất
nghiêm trọng lao động kỹ thuật cao, lao động chất xám lại thiếu nghiêm trọng vì vậy
để giải quyết vấn đề này phải thông qua việc đào tạo lại, phổ cập nghề cho người
lao động song cần phải có thời gian. Nguyên nhân chủ yếu là nhà nước chưa có
chính sách vĩ mô như:thuế, đất đai tín dụng, thị trường. . . chưa có các chính ssáh cụ
thể khuyến khích các lĩnh vực, nghành nghề và hình thức thu hút được nhiều lao
động theo yêu cầu của thị trường lao động, chưa có hệ thống đào tạo, đào tạo lại và
phổ cập nghề phù hợp với cơ chế thị trường.
Lực lượng lao động thành thị đang ngày một tăng ngoài ra do dicư từ nông
thôn ra thành thị đã gây ra tỷ lệ thất nghiệp cao ở đô thị.
Không những người thất nghiệp do trình độ chuyên môn thấp không theo kịp sự
phát triển của khoa học công nghệ. Bên cạnh đó còn có thất nghiệp trong số người
được đào tạo. Mức thất nghiệp trong số những người được giáo dục liên quan tới
việc thị trường điều chỉnh theo dòng người tốt nghiệp phổ thông, giáo dục mở rộng
nhưng hiến khi có đủ việc làm cho họ khi ra trường. Nguyện vọng về việc làm trong
những người được giáo dục khong đáp ứng được. Trạng thái diễn ra ở các đô thị
hiện nay là tốc độ tăng của nguần nhân lực lớn hơn tốc độ tăng công việc làm.
- Nhân lực ở nông thôn thiếu việc làm, thu nhập thấp do đó tràn ra đô thị kiếm
việclàm và một cuộc sống dễ chịu hơn so với nông thôn. Đây là nguyên nhân
thường gặp ở nhiều nước chậm phát triển. Trong khi đó ở đô thị, nhười ta lại chú
trọng nhiều đến loại doanh nghiệp công nghiệp hệ số vốn đầu tư cao nhưng thường
chỉ số có chỉ số sử dụng nhân lực thấp, coi nhẹ tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp,
các hoạt động dịch vụvà tổ chức sản xuất của các hộ gia đình. ở đô thị tồn tại một
khu vực, được gọi là “khu vực không kết cấu “. Đặc điểm của khu vực này :
Chứa đựng một nguần nhân lực lao động đông đảo (bên cạnh nguần nhân lực
làm việc tại các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước hoặc liên doanh, các
doanh nghiệp nước ngoài )
Có kết cấu về nghề nghiệp, về dạng hoạt động rất đa dạng, phức tạp và thường
năng động trong sự chuyển đổi từ sản xuất nhỏ đến sửa chữa, buân bán vừa và nhỏ,
dịch vụ các loại. Khong tạo được giá trị tổng sản phẩm và thu nhập quốc dân gì lớn
mà nhiều hoạt động chỉ là hoạt đoọng tái phân phối nhằm có thu nhập để sống
(nhiều người có mức thu nhập dưới mức sống tối thiểu ). Ngoài ra, vấn đề quan
trọng được đặc biệt chú ý tại đô thị là còn tồn tại nạn thất nghiệp, tỷ lệ số người này
nhiều khi chiếm khá cao (12-15% các nguần nhân lực ở đô thị ). Cơ cấu cũng biến
đổi nhưng thường thanh niên chiếm đại bộ phận. Sự mất cân bằng giữa cung và cầu
về các nguần nhân lực ở đô thị là một trong nhiều nguyên nhân làm nảy sinh những
vấn đề phức tạp về kinh tế, xã hội ở đô thị và cuộc sống của những người thất
nghiệp.
Việc sử dụng nguần nhân lực đô thị còn biểu hiện ra ở một dạng thất nghiệp
khác gọi là “thất nghiệp trá hình “ ẩn náu trong biên chế của các cơ quan nhà nước,
các doanh nghiệp nhà nước có quá nhiều người so với yêu cầu của công việc.
Khả năng tạo ra cầu về công việc làm của doanh nghiệp lớn hiện đại để sử
dụng nguần nhân lực mới tăng hàng năm ở cả nước chậm phát triển còn yếu. Đó là
bức tranh chưa có gì sáng sủa tại đô thị ở nước châm phát triển.
iii- Tác động của việc làm thất nghiệp lên đời sống của người lao động ở đô thị
và phát triển kinh tế xã hội.
Thật vậy, khi nói đến ảnh hưởng cửa thất nghiệp, người ta tập thường trung
vào ảnh hưởng tiêu cực của nó, thất nghiệp ảnh hưởng đến kinh tế lẫn xã hội. Việc
xác định cụ thể và chính xác ảnh hưởng của nó đến phát triển kinh tế xã hội rất khó
khăn và phức tạp. Xét về mặt kinh tế, thất nghiệp gắn chặt với nghèo đói. Tỷ lệ thát
nghiệp cao không những gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế mà còn gây nhiều khó
khăn đối với cuộc sống cá nhân người lao đoọng. Những người thâts nghiệp tuy
không sản xuất ra sản phẩm nhưng vẫn phải tiêu dùng một lượng nhất địng, đặc biệt
ở độ tuổi trưởng thành, mức tiêu dùng thương lớn hơncác độ tuổi khác. Bởi lẽ ở đô
thị dân số trẻ có nhu cầu làm việc nếu họ không có việc làm thì đây là một vấn đề
phức tạp. Nếu người thất nghiệp tiêu dùng ở mức tối thiểu, tương ứng với mức
lương tối thiểu 144000đ/tháng như hiện nay, thì một năm tiêu dùng hết gần 2triệu
đồng.
Thất nghiệp không chỉ ảnh hưởng nền kinh tế mà còn ảnh hưởng đến cuộc
sống của những người thất nghiệp. Đói với nước ta, những người thất nghiệp là
những người không có thu nhập phải sống nhờ vào thu nhập cửa những người khác
trong gia đình. Hơn nữa những người thất nghiệp phần lớn là những người chủ trong
gia đình nguần thu nhập của họ ảnh hưởng rất lớn nhiều khi có tính quyết định đến
đời sốngkinh tế của cả gia đình họ nữa. Do tính chất quyết định của kinh tế, khi đời
sống kinh tế gia đình khó khăn, thất nghiệp tác động đén mọi mặt củacuộc sống gia
đình. Đây chính là nguyên nhân và nguần gốc của những phức xã hội. Xét về mặt xã
hội thất nghiệp gây nên những hậu quả nặng nề. Khi xét các nguyên nhân cỷa tệ nạn
xã hội người ta nhận thấy rằng những người thất nghiệp tham gia một cách đáng
kểvào các tệ nạn đó. ở thành những người thất nghiệp tham gia vào các tệ xã hội
như:cờ bạc, ma tuý, số đề, trộm cướp. . đều mang lại thu nhập ít nhiều cho người
tham gia. Trong lúc các con đường khác để tạo việc làm mọt cách chính đáng bị
khép lại, thì con đường đến với các tệ nạn xã hội lại rộng mở hơn và khó bị kiểm
soát và ngăn chặn hơn. Thất nghiệp đẩy con người đến một sự lựa chọn bắt buộc
hoặc chịu ngồi chết đói hoặc phải tìm cách làm bất cứ công việc gì kể cả tham gia
vào các tệ nạn xã hội để có thu nhập khỏi chết đói. Vì thế, thất nghiệp gây nhiều
khó khăn phức tạp cho công tác quản lý xã hội, làm đảo lộn nhiều nếp sống lành
mạnh và ảnh hưởng xấu thuần phong mỹ tục của một dân tộc. Đến lượt nó, chính nó
lại tác động trở lại nền kinh tế, kìm hãm nền kinh tế phát triển. Thất nghiệp còn tác
động đến tâm tư tình cảm, suy nghĩ của người lao động, người thất nghiệp gây cho
người lao động tâm lý luân luân lo lắng, bị de doạ bởi thất nghiệp làm mất niềm tin
của họ vào sự tốt đẹp của tương lai.
Phần 3
Mục tiêu phương hướng và các giải pháp về vấn đề việc làm và thất nghiệp.
i- Mục tiêu về vấn đề việc làm và thất nghiệp ở đô thị
Các mục tiêu phấn đấu:
-Khống chế tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị không vượt quá 7%. Nâng cao tỷ lệ lao
động qua đào tạo lên 20%trong đó tỷ lệ lao động được đào tạo nghề đạt 14%, tăng
19%so với năm 2000, giảm tỷ lệ số hộ đói nghèo. Tạo mọi điều kiện để đến năm
2005 có công có mức sống bằng và cao hơn mức sống trung bình của dân cư cùng
phường nơi cư trú.
-Nhằm khắc phục tình trạng thất nghiệp Chính phủ đã phê duyệt “Chương
trình quốc gia về việc làm thời kỳ 2000-2005” nhằm tạo việc làm mới, duy trì bảo
đảm việc làm cho người lao động có khả năng lao động có yêu cầu làm việc. Thực
hiện các biện pháp trợ giúp người thất nghiệp nhanh chóng có việc làm, người thiếu
việc làm hoặc người làm việc có hiệu quả thấp sẽ có việc làm đủ hơn và hiệu quả
cao hơn. Đồng thời từng bước giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh
tế với giải quyết việc làm cho người lao động, góp phần thực hiện công bằng và tiến
bộ xã hội Phấn đấu đến năm 2005 giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống còn 5%,
giải quyết việc làm cho khoảng 7triệu người, trong đó cần tạo mở 6 triệu chỗ làm
việc mới. Trước mắt, trong năm 2000 cần tạo mở 1triệu chỗlàm mới để giải quyết
việc làm cho 1, 3-1, 5 triệu người, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở đô thị xuống 5, 68%,
nâng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động để làm việc có hiệu quả.
-Mục tiêu giải quyết vệc làm thời kỳ 2000-2005 và 2010 là làm sao giảm tỷ lệ thất
nghiệp ở thành thị xuống còn 5% vào năm 2005 và 3% vào năm 2010.
-Trong 13 năm (1988-2005) giải quyết việc làm cho gần 30 triệu lao động,
riêng 3 năm 2000-2005 giải quyết việc làm cho gần 6 triệu lao động. Đào tạo nghề
cho lao động, để người lao động có trình độ, chuyên môn. Bên cạnh đó sắp xếp và
bố trí lao động một cách hợp lý, quy mô và cơ cấu nghành phù hợp. Bên cạnh đó thu
hút vốn đầu tư nước ngoài để tạo việc làm thông qua các chính sách, luật lệ phù
hợp.
ii- Phương hướng và các giải pháp chủ yếu về vấn đề việc làm và thất nghiệp
ở đô thị.
1- Phương hướng chủ yếu giải quyết việc làm hiện nay trong thời gian tới ở
khu vực đô thị.
Phương hướng cơ bản có tính chất chiến lược để sử dụng hiệu quả nhuần lao
động và giải quyết việc làm ở nước ta thực tốt chiến lược phát triển kinh tế xã hội, tổ
chức lại toàn bộ lao động xã hội để phát huy tiềm năng các thành phần kinh tế kết
hợp giải quyết việc làm tại chỗ là chính với phân bố lại lao động theo vùng lãnh thổ,
xây dựng các vùng kinh tế xã hội, đồng thời mở rộng sự nghiệp lao động đi làm việc
có thời hạn ở nước ngoài. Tổ chức đào tạo, đào tạo lại đội ngũ lao động hiện có và
phổ cập lao động xã hội, trước hết là cho thanh niên nhăm hình thành đội ngũ lao
động có cơ cấu, số lượng và chất lượng phù hợp với cấu trúc của hệ thống kinh tế
mới và yêu cầu lao động của thị trường lao động đang hình thành và phát triển ở
nước ta. Đa dạng hoá việc làm trên cơ sở đó mà đa dạng hoá thu nhập, phát triển các
hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh phong phú và đa dạng trong mối quan hệ đan
xen giữa các thành phần kinh tế, coi trọng khuyến khích các hình thức thu hút được
nhiều lao động và phù hợp với quy luật phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta
(xí nghiệp vừa và nhỏ, khu vực phi kết cấu ). Thành thị bao gồm các thành phố, thị
xã, các khu công nghiệp tập trung và du lịch. . mặc dù có tỷ trọng về dân số và lao
động không lớn so với khu vực nông thôn (khoảng 20-22% dân số cả nước) nhưng
lại là địa bàn tạp trung có mật độ dân cư, lao động cao, cũng là nơi chịu tác động
mạnh mẽ của cơ chế thị trường, thường dễ nảy sinh những điểm nóng về các vấn đề
kinh tế-xã hội, nhất là vấn đề việc làm. Vì vậy giải quyết việc làm cho lao động
thành thị vừa có tính chất cơ bản lâu dài, vừa rất cấp bách trước mắt, đặc biệt là giải
quyết việc làm cho lao động thôi việc trong quá trình sắp xếp lại lao động khu vực
nhà nước, bộ đội xuất ngũ, lao động ở nước ngoài trở về, thanh niên mới đến tuổi
lao động, đối tượng tệ nạn xã hội.
-Phương hướng rất quan trọng để giải quyết việc làm cho lao động thành thị là
phải gắn với chương trình phát triển các doanh nghiệp quy mô lớn, nhất là ở các địa
bàn có điều kiện lập các khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung, phát triển các tập
đoàn sản xuất mạnh của nhà nước ở các vùng hoặc trên phạm vi cả nước, các công
ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, các dự án thu hút vốn đầu tư nước ngoài
để tạo việc làm có giá trị kinh tế cao và giá trị lao động cũng cao, phải phù hợp tính
chất đặc thù của lao động thành thị. Hướng này tuy phải đầu tư lớn, xuất đầu tư cho
một xuất làm việc cao, nhưng giải quyết được lao động có tay nghề, đồng thời cũng
tạo ra các tầng thu hút trình độ thấp trước hết là lao động dịch vụ. Theo hướng này
phải đặc biệt quan tâm đào tạo và hoàn thiện kỹ năng nghề nghiệp cho người lao
động thành thị ở trình độ cao thông qua phát triển các trung tâm huấn nghiệp cao
cấp ở một số địa bàn trọng điểm. Các trung tâm này chuyên bổ túc, nâng cao trình
độ tay nghề phù hợp với công nghệ cao hoặc hoàn thiện kỹ năng nghề nghiệp cho
người lao động để cung ứng cho các khu chế xuất, các xí nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài (ngoại ngữ, sử dụng máy vi tính, kiến thức về quản lý doanh nghiệp. . . ).
Trung tâm hoạt động theo cơ chế thị trường, người học và người sử dụng lao động
phải trả tiền. Cũng có thể dùng các trung tâm này để đào tạo (người ) đội ngũ lao
động đưa đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, từng bước hoà nhập với thị trường
thế giới.
- Giải quyết việc làm cho lao động thành phố, trước hết là thanh niên, theo
hướng trên tuy có nhiều khả năng nhưng không phải là hướng thu hút nhiều lao
động. Vì vậy cần thiết phải phát triển các lĩnh vực, các nghành nghề có khả năng thu
hút được nhiều lao động và phù hợp với đặc điểm của lao động thành thị. Trong đó,
phát triển các khu vực phi kết cấu, các doanh nghiệp nhỏ và vừa hoạt động trong
lĩnh vực sản xuất-kinh doanh và dịch vụ là hướng cần được đặc biệt quan tâm. Theo
kinh nghiệm của các nước phát triển như cộng hoà liên bang Đức, Nhật Bản,
Malaysia. . , khu vực này thường giải quyết viẹc làm cho khoảng 55-75% lực lượng
lao động xã hội. Đó là loại hình hoạt động rất phát triển, linh hoạt, tính thích nghi
cao, con đường phát triển là từ thấp lên cao phù hợp với khả năng tích luỹ và huy
động vốn trong dân. Khi nền kinh tế dang trong quá trình chuyển đổi, trong khu vực
nhà nước đang sắp xếp lại sản xuất và lao động, lao động dư thừa tăng lên rất lớn,
thì đây là lĩnh vực thu hút vốn lao động và giải quyết việc làm cho nhiều người nhất.
Nhà nước cần có chính sách khuyến khích lĩnh vực này phát triển và tạo điều kiện
cho dân tự do sản xuất kinh doanh theo pháp luật, mặt khác cần tổ chức và quy
hoạch lại phố phường, vỉa hè, chợ ở các thành phố, lợi dụng triệt để các nhà mặt phố
để tổ chức sản xuất-kinh doanh, tạo thêm việc làm cho người lao động. Phát triển
hình thức gia công sản xuất hàng hoá tiêu dùng cho xuất khẩu cũng là hướng rất lớn
để giải quyết việc làm cho lao động thành thị. Phải coi gia công xuất khẩu cũng là
một quốc sách và lợi dụng tối đa ưu thế của nước ta là lao động rẻ, dễ tiếp thu kỹ
thuật và công nghệ mới, lại có nguồn nguyên liệu trong nước, tại chỗ dồi dào. Vì
vậy hướng phát triển gia công sản xuất ở Việt Nam là phải đa dạng hoá mặt hàng có
công nghệ sử dụng được nhiều lao động như: may mặc, giầy da, gốm sứ, lắp ráp
điện tử. . và mở rộng thị trường, nhất là thị trường các nước phát triển, trong đó coi
trọng thị trường Châu á-Thái Bình Dương. Bước đi của hướng này là từ thấp đến
cao, có thể theo các giai đoạn sau:
Giai đoạn 1: Chúng ta có lao động, đất, mặt bằng nhận gia công cho nước
ngoài để có việc làm, lấy tiền công là chủ yếu, còn công nghệ, trang thiết bị, vốn thị
trường do đối tác nước ngoài lo.
Giai đoạn 2. Sau khi tích luỹ được vốn, chúng ta có một phần vốn cùng với
đối tác nước ngoài tổ chức sản xuất-kinh doanh, xuất khẩu để lấy tiền công là chủ
yếu và một phần ăn chia theo lợi nhuận. ở giai đoạn này đối tác nước ngoài vẫn là
người chủ yếu đảm bảo đầu tư vốn, công nghệ, trang thiết bị và thị trường tiêu thụ.
Giai đoạn 3. Khi trong nước chủ động thị trường, tích luỹ vốn đadàu tư ban đầu
thì chuyển sang giai đoạn liên doanh với đối tác nước ngoài hoặc tự tổ chức sản xuất
các mặt hàng xuất khẩu, tiến tới hội nhập với thị trường thế giới.
Trong những năm trước mắt, hình thức gia công ở giai đoạn một là chủ yếu, vì
vậy chúng ta phải tích toán giá gia công để để có thể cạnh tranh đúng đối tác nước
ngoài, thu hút được nhiều nguồn đầu tư. Trong điều kiện đó nhiều khi chúng ta phải
chấp nhận giá gia công thấp hơn so với một so nước khác trong khu vực. Theo
hướng đó có thể áp dụng được hình thức làm việc tại nhà cho phụ nữ, vừa để kết
hợp với phát triển kinh tế, vừa tạo điều kiện cho phụ nữ chăm sóc con cái, phục vụ
gia đình.
Phát triển các cơ sở dịch vụ công cộng và sự nghiệp nhà ở trong các thành
phố, thị xã sẽ tạo ra rất nhiều việc làm cho thanh niên thành thị đặc biệt là ở một số
thành phố lớn ( Hà Nội, Hải Phòng, . . ), các khu công nghiệp tập trung kể cả khu
chế xuất. Nhà nước cần sớm có quy hoạch tổng thể mặt bằng, có chính sách hợp lý
về đất đai tạo điều kiện cho dân được phép xây nhà hợp pháp. . Sẽ tạo ra khả năng
to lớn trong việc huy động vốn trong dân để phát triển việc làm thông qua việc phát
triển nhà ở, các dịch vụ công cộng. . Khai thác tiềm năng kinh tế vùng ven thành
phố, thị xã trong mối quan hệ và liên kết kinh tế giữa nội ngoại thành là hướng quan
trọng để tạo việc làm cho lao động thành thị. Theo hướng này cần hình thành các
vành dai cung cấp và tiêu thụ sản phẩm giữa thành thị và nông thôn đồng thời
chuyển những cơ sở sản xuất công nghiệp thích hợp từ nội thành ra ngoại thành, tạo
cụm kinh tế vệ tinh của các thành phố thị xã. Mặt khác, hình thành hệ thống dịch vụ
con thoi giữa nội, ngoại thành để giải quyết việc làm cho lao động thành thị.
Ban hành và tổ chức hệ thống pháp luật, chủ trương chính sách đồng bộ nhằm
thúc đẩy nền kinh tế phát triển hướng về xuất khẩu và phát triển bền vững để tạo mở
việc làm mới, kết hợp hài hoà tăng trưởng kinh tế với giải quyết việc làm.
Duy trì, bảo đảm việc làm cho người lao động, chống sa thải công nhân, từng
bước hình thành chính sách bảo hiểm thất nghiệp.
Tăng cường các hoạt động hỗ trợ trực tiếp để tạo việc làm cho người thất
nghiệp, thiếu việc làm.
2- Các giải pháp chủ yếu về vấn đề việc làm và thất nghiệp ở đô thị.
Giải quyết việc làm phảo được coi là quốc sách hàng đầu của chính phủ, chính
sách giải quyết việc làm phải được đặt thành một hệ thống xuyên suất từ giáo dục
đào tạo, dạy nghề, chăm sóc sức khoẻ đến tạo việc làm bố trí sử dụng hợp lý lực
lượng lao động và được xem xét đồng bộ trong hệ thống các chính sách kinh tế- xã
hội phù hợp với mục tiêu của chiến lược phát triển đã được nêu ra trong văn kiện
đại hội Viii của đảng. Do vậy giải quyết việc làm không chỉ đơn thuần là nhiệm vụ
của nghành lao động mà còn trách nhiệm của tất cả các cấp các nghành, các đơn vị
cơ sở phường quận cũng như của mỗi gia đình và cá nhân của mỗi người lao động.
Chỉ có trên cơ sở huy động đồng bộ trong một thể thống nhất mọi nguồn lực xã hội
mới có thể tạo được môi trường và điều kiện thuận lợi về kinh tế, xã hội và pháp lý
nhằm khuyến khích duy trì làm việc, tự tạo việc làm và tạo mở thêm nhiều chỗ làm
việc mới phát triển việc làm thường xuyên, ổn định và có hiệu quả.
Tổ chức có hiệu quả các cuộc điều tra lao động việc làm của trung ương quy
định. Từ cuộc điều tra của nghành lao động-Thương Binh xã hội thành phố về lao
độngchưa có việc làm, việc thực hiện công tác thống kê, tổng hợp, lập danh sách lao
động chưa có việc làm của thành phố để chuyển giao cho quận, huyện, phường
đồng thời hướng dẫn quy trình tổ chức cập nhập lao động chưa có việc làm thành
phố theo địng hướng 6 tháng, năm.
Hướng dẫn các doanh nghiệp báo cáo nhu cầu thu hút lao động theo định kỳ 6
tháng, năm. Từ đó đối chiếu cung cầu thị trường lao động để cung cấp những thông tin
lập kế hoạch dự báo nhu cầu đào tạo gắn giải quyết việc làm trên địa bàn thành phố.
Phát triển hoạt động tổ thông tin thống kê dự báo lao động.
Tổ chức thực hiện và giám sát thi hành các chính sách đối với lao động nữ.
Tiếp tục phát triển chương trình xuất khẩu lao động, tổ chức có hiệu quả các
chương trình dự ánnhỏ vay vốn quỹ việc làm quốc gia, chương trình xoá đối giảm
nghèo và các chương trình liên tục về việc làm giữa nghành lao động-thương binh
xã hội và các đoàn thể.
Nghiên cứu đề xuất các giải pháp việc làm nâng cao thu nhập trong cá doanh
nghiệp vừa và nhỏ khu vực kinh tế phi chính quy.
Giải quyết việc làm phải gắn liền với việc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ
cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá.
KếT LUậN
Với toàn bộ nội dung đã trình bày ở trên chúng ta thấy rằng việc xem xét thực
trạng đưa ra các phương hướng giải quyết vấn đề về việc làm, thất nghiệp ở đô thị
có vai trò quan trọng trong giai đoạn hiện nay của nước ta. Vì cùng với quá trình đô
thị hoá thì vấn đề giải quyết sắp xếp việc làm cho người lao động ở đô thị là cần
thiết, người lao động có thu nhập dẫn đến thu nhập quốc dân hàng năm tăng. Một xã
hội có nền kinh tế phát triển tỷ lệ thát nghiệp thấp, những người thất nghiệp được
bảo hiểm thất nghiệp, kỷ luật, kỷ cương xã hội được thiết lập, duy trì và đẩy mạnh
thì các tệ nạn xã hội bị đẩy lùi dần.
Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của vấn đề này trong nhiều năm qua Đảng
và nhà nứơc ta đã kiên trì thực hiện chính sách đổi mới, phát triển nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần nên đã làm thay đổi đáng kể cơ cấu việc làm và gia tăng việc
làm trong mọi thành phần kinh tế. Trong điều kiện hiện nay- việc làm thát nghiệp ở
đô thị luôn được các nhà lãnh đạo quan tâm hàng đầu và đưa ra những phương pháp
giải quyết phù hợp với tình hình thực tế.
Tài liệu tham khảo
1-/ Giáo trình kinh tế lao động - NXB Giáo dục - 2001
2-/ Về chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam
3-/ Đề cương báo cáo vấn đề giải quyết việc làm và xoá đói giảm nghèo.
4-/ Tạp chí lao động và xã hội.
- Số tháng 4 - 2000
- Số tháng 2 - 2001
- Số tháng 3 - 2000
- Số tháng 1 - 2001
5-/ Tạp chí thông tin thị trường lao động số tháng 6 - 2001
6-/ Tạp chí con số và sự kiện số 3 - 2001
mục lục
Lời Mở Đầu 1
Nội dung 3
Phần i - Những khái niệm chung 3
i- Khái niệm 3
1- Việc làm 3
2- Dân số hoạt động kinh tế 3
3- Dân số không hoạt động kinh tế. 3
4- Người thất nghiệp 4
5- Tỷ lệ người có việc làm 4
6- Tỷ lệ người thất nghiệp 4
ii- Sự cần thiết phải tạo việc làm cho người lao động
ở khu vực đô thị. 4
Phần ii - Thực trạng việc làm và thất nghiệp ở đô thị 6
i- đặc điểm nguồn nhân lực ở khu vực đô thị. 6
ii- Thực trạng về việc làm và thất nghiệp
ở đô thị hiện nay. 6
1- Một số đặc điểm của tình trạng lao động chưa có việc làm và thất nghiệp ở
khu vực thành thị 7
2- Việc làm và thất nghiệp cần được nghiên cứu trên các giác độ. 9
ii- Nguyên nhân dẫn đến thực trạng thất nghiệp. 10
iii- Tác động của việc làm thất nghiệp lên đời sống của
người lao động ở đô thị và phát triển kinh tế xã hội. 12
Phần iii - Mục tiêu phương hướng và các giải pháp về vấn đề
việc làm và thất nghiệp. 14
i- Mục tiêu về vấn đề việc làm và thất nghiệp ở đô thị 14
ii- Phương hướng và các giải pháp chủ yếu về vấn đề việc
làm và thất nghiệp ở đô thị. 15
1- Phương hướng chủ yếu giải quyết việc làm hiện nay trong thời gian tới ở
khu vực đô thị. 15
2- Các giải pháp chủ yếu về vấn đề việc làm và thất nghiệp ở đô thị. 18
Kết Luận 21
Tài liệu tham khảo 22