Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Quá tình đổi mới hoạt động của các ngân hàng thương mại quốc doanh việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.88 KB, 35 trang )

Mở đầu
Sự chuyển đổi từ một nền kinh tế hành chính tập trung quan liêu bao
cấp sang cơ chế thị trờng có sự quản lí của Nhà nớc theo định hớng xã hội chủ
nghĩa đã tạo nên một bớc ngoặt lớn trong tiến trình phát triển nền kinh tế đất n-
ớc. Kỷ nguyên đổi mới kinh tế đã hình thành nên nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần. Với sự đa dạng hoá các loại hình sản xuất kinh doanh, cùng với sự
chuyển biến mạnh mẽ về chất càng làm nền kinh tế phát triển một cách sôi
động.
Cùng với sự nghiệp đổi mới Đất nớc, sự nghiệp đổi mới ngân hàng
cũng đã đạt đợc những thành tựu đáng kể. Nhất là từ sau khi Pháp lệnh Ngân
hàng ra đời, hoạt động ngân hàng khá toàn diện và tiến bộ ở tầm pháp lý cao
hơn trớc, bao quát đợc vấn đề cốt lõi về tổ chức và hoạt động ngân hàng.
Xuất phát từ đòi hỏi bức thiết của nền kinh tế thị trờng trong điều kiện
mở cửa, việc phát triển các loại hình dịch vụ trong hoạt động ngân hàng của hệ
thống ngân hàng thơng mại Việt Nam là yêu cầu không thể thiếu để hội nhập
với nền kinh tế thế giới.
Nhận thức đợc yêu cầu đó, đề tài lần này mà em chọn lựa cho tiểu luận
bộ môn Lý thuyết tiền tệ là: "Quá trình đổi mới hoạt động của các ngân
hàng thơng mại quốc doanh Việt Nam". Trong quá trình phân tích, với vốn
kiến thức ít ỏi và sự hạn chế về tài liệu tham khảo, nên không tránh khỏi những
thiếu sót. Do đó, em rất mong nhận đợc sự góp ý của các thầy cô giáo .
2
Chơng I
Một số lý thuyết cơ bản về hoạt động
của Ngân hàng Thơng mại.
1. Vài nét về quá trình hình thành và phát triển hoạt động
của Ngân hàng thơng mại:
Ngân hàng ra đời và phát triển là kết quả của sự phát triển sản xuất, trao
đổi hàng hoá, là kết quả của sự phân công lao động xã hội và nó luôn gắn liền
với sự vận động của tiền tệ. Tiền thân của nghề ngân hàng chính là nghề kim
hoàn có từ thế kỷ XIV. Đó là khi lu thông tiền đúc bắt đầu phát triển mạnh và


nghề kim hoàn ra đời với nhiêm vụ chính là cân và thử tiền.
Cùng với sự phát triển của trao đổi lu thông hàng hoá thì khối lợng tiền tệ
trong lu thông ngày một lớn, các thơng gia, điền chủ tích luỹ đợc khối lợng
tiền, vàng ngày một nhiều. Vậy là từ việc chỉ cân và thử tiền, ngời thợ kim
hoàn bắt đầu đổi và bảo quản tiền tệ cũng nh tài sản. Lúc này, họ có thêm một
chức năng mới-cũng là nhiệm vụ đầu tiên của nghề ngân hàng - là "ngời thủ
quỹ của xã hội". Thế nhng, đối với họ, tất cả những dịch vụ đó chỉ đem một
khoản phí rất thấp, cho nên, để tăng thêm thu nhập, họ kiêm luôn việc thanh
toán hộ. Hoạt động này phát triển, nhà kim hoàn liên tục thực hiện thanh toán
cho khách hàng, và trong quỹ của họ bao giờ cũng có một số d nhất định vì
ngoài những khoản xuất ra họ còn thu vào nữa, bởi vậy họ đã nghĩ đến việc
đem số d đó cho vay. Chính hành vi này đã đem đến cho nhà kim hoàn những
khoản lợi nhuận rất lớn nên câu hỏi đầu tiên đợc đặt ra đối với họ lúc này là
làm sao để mở rộng đợc dịch vụ cho vay? Dĩ nhiên là muốn có đầu ra phải có
đầu vào mà đầu vào của hoạt động cho vay chính là nhận tiền gửi. Thế là từ
việc thu phí cho hoạt động thanh toán hộ, họ đã đi từ miễn phí đến trả lãi cho
các khoản tiền gửi. Nhờ vậy, những ngời thợ kim hoàn đã tập trung vào tay
3
mình dợc rất nhiều nguồn vốn trong xã hội. Và Ngân hàng thơng mại bớc đầu
xuất hiện.
Lúc đầu, các ngân hàng chỉ tổ chức lu thông tiền đúc với số lợng có hạn
nên không thể mở rộng dịch vụ cho vay. Vậy nên để làm dợc việc này họ bắt
đầu nghĩ ra tiền giấy. Buổi sơ khai, tiền giấy chỉ là những giấy chứng nhận mà
khi cầm tờ giấy này, ngời sở hữu có thể đổi ra tiền đúc bất cứ lúc nào tại ngân
hàng phát hành ra nó. Sau này, nó đợc gọi là tiền ngân hàng t nhân vì mỗi ngân
hàng phát hành một loại giấy chứng nhận khác nhau. Bởi vậy mà song song với
hàng loạt các ngân hàng là hàng loạt các loại tiền giấy khác nhau. Điều này
buộc ngời trao đổi tiến hành lựa chọn. Kết quả của sự chọn lựa đó là có một số
loại tiền của một số ngân hàng t nhân bị từ chối thanh toán bởi lẽ phạm vi lu
thông của mỗi đồng tiền đợc quy định bằng uy tín, tiềm lực kinh tế của ngân

hàng phát hành ra nó. Điều này gây cản trở và khó khăn rất nhiều cho lĩnh vực
lu thông tiền tệ cũng nh toàn bộ nền kinh tế.
Từ cuối thế kỷ XVIII đến cuối thế kỷ XIX, do sự tác động mạnh mẽ của
cạnh tranh, việc phát hành dần tập trung vào một số ngân hàng lớn và các ngân
hàng này trở thành ngân hàng phát hành, đợc các đạo luật của Nhà nớc hợp
pháp hoá độc quyền phát hành tiền. Đến đây, hệ thống ngân hàng đã đợc
chuyên môn hoá thành ngân hàng phát hành và ngân hàng chuyên doanh. Các
ngân hàng chuyên doanh cũng đợc phân công lao động sâu sắc trong từng lĩnh
vực nh Ngân hàng Công nghiệp, Ngân hàng Thơng nghiệp, v...v...
Từ cuối thế kỷ XIX cho đến nay, các ngân hàng phát hành trở thành các
Ngân hàng trung ơng do có sự can thiệp của Nhà nớc bằng biện pháp quốc hữu
hoá hoặc hợp nhất, các ngân hàng chyên doanh trở thành Ngân hàng thơng mại
hoạt động theo hai xu hớng, hoặc chuyên doanh theo từng lĩnh vực hoặc hoạt
động kinh doanh đa năng.
4
Cho đến ngày nay, hoạt động của các ngân hàng thơng mại đã tiến một b-
ớc khá xa so với hoạt động của các ngân hàng cổ truyền ở những thế kỷ trớc,
nó mang đậm nét của thời đại bùng nổ thông tin và khoa học công nghệ. Cạnh
tranh trong lĩnh vực ngân hàng diễn ra ngày càng khốc liệt, gay gắt. Để có thể
tồn tại và đứng vững, các ngân hàng thơng mại buộc phải ngày nâng cao chất l-
ợng sản phẩm và chú trọng thoả mãn mọi nhu cầu tài chính của khách hàng. Sự
tiến bộ ấy đã tạo nên một nền công nghiệp ngân hàng hoàn chỉnh.
Một số hoạt động phổ biến của hệ thống ngân hàng thơng mại là:
- Nhận tiền gửi và tiền tiết kiệm.
- Cho vay đối với các tổ chức và các cá nhân.
- Chuyển tiền và quản lý các công cụ thanh toán.
- Dịch vụ đối ngoại.
- Các dịch vụ khác.
Với việc thực hiện các nhiệm vụ của mình, ngân hàng thơng mại trong
nền kinh tế thị trờng hiện nay có thể coi là một doanh nghiệp bởi vì các ngân

hàng thơng mại cũng thực hiện kinh doanh để kiếm lời nh các doanh nghiệp
khác. Nhng xét về bản chất các hoạt động dịch vụ ngân hàng thì thấy rằng ngân
hàng thơng mại là một doanh nghiệp đặc biệt. Các "sản phẩm" mà ngân hàng
thơng mại cung ứng đợc chế biến từ "nguyên liệu chính" là tiền với công nghệ
đặc biệt là tiền tạo ra tiền (T' > T). Chúng giống những sản phẩm thông thờng ở
chỗ không ngừng cải tiến về mẫu mã, quy cách, chất lợng để tạo ra sự đa dạng,
hấp dẫn, phù hợp với thị hiếu, nhu cầu sử dụng và túi tiền của khách hàng.
Trên cơ sở đó, các dịch vụ chính của một ngân hàng thơng mại là:
- Dịch vụ cung cấp "nguyên liệu chính" cho công nghiệp ngân hàng-dịch
vụ nhận tiền gửi.
5
- Dịch vụ cung cấp phơng tiện thanh toán làm tăng khả năng luân chuyển
vốn.
- Các dịch vụ hỗ trợ khác.
2. Hoạt động thực hiện các chức năng của ngân hàng
thơng mại và vai trò của các hoạt động đó:
2.1/ Đối với nền kinh tế:
Trong nền kinh tế hàng hoá, các doanh nghiệp, các nhà sản xuất là ngời
bán đồng thời cũng là ngời mua. Họ mua nguyên vật liệu, sức lao động, nhà x-
ởng, máy móc, công nghệ... để tiến hành sản xuất kinh doanh và họ bán sản
phẩm tạo ra sau quá trình sản xuất đó để thu lợi nhuận. Quy trình đó đợc lặp đi
lặp lại và nguồn vốn dợc quay vòng từ chủ thể này sang chủ thể khác. Vì vậy,
trong quan hệ kinh doanh, tất yếu các doanh nghiệp phải thực hiện thanh toán
với nhau về các khoản mua bán hàng hoá-dịch vụ. Các cá nhân cũng vậy, mỗi
ngời đều có những nhu cầu về ăn, mặc, ở, đi lại, học hành..., họ cần phải thực
hiện chi trả hay thanh toán cho các nhu cầu đó. Thế nhng, không phải lúc nào
việc thanh toán trực tiếp giữa các chủ thể cũng diễn ra dễ dàng và thuận lợi bởi
lẽ việc mua bán không còn dừng lại ở mớ rau hay con cá nữa mà nó là những
khoản thanh toán lớn hơn rất nhiều. Và ngời ta cũng không thể dự trữ một số
tiền quá lớn nh thế ở trong nhà để chờ đợi một cơ hội mua thích hợp. Vì vậy,

ngân hàng ra đời với nhiệm vụ đầu tiên là cung cấp và quản lý vốn, đồng thời
thực hiện thanh toán hộ các khoản giao dịch cho khách hàng.
6
Khi nền kinh tế ngày càng phát triển thì tần số giao dịch ngày càng tăng
nhanh, khối lợng tiền tệ ngày một lớn, phạm vi kinh doanh ngày càng mở rộng.
Trong điều kiện đó, các doanh nghiệp hay các cá nhân không thể tự thanh toán
trực tiếp với nhau đợc mà cần có sự tham gia của các ngân hàng trong nớc và
quốc tế. Bởi vậy, Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán cho nền kinh tế.
Mặt khác, theo đặc điểm tuần hoàn vốn tiền tệ trong quá trình tuần hoàn
vốn xã hội đã phát sinh hiện tợng cùng lúc có những chủ thể có vốn tiền tệ tạm
thời nhàn rỗi (nh tiền bán hàng của các doanh nghiệp nhng cha mua nguyên vật
liệu, tiền trích khấu hao cha sử dụng, tiền lơng cha đến kỳ trả...) và có những
chủ thể có nhu cầu cần bổ sung vốn trong một thời gian ngắn (nh doanh nghiệp
cần mua nguyên vật liệu nhng cha bán đợc sản phẩm, cần sửa chữa hoặc mua
sắm tài sản cố định nhng nguồn tích luỹ và khấu hao cha đủ, cá nhân cần tiền
cho nhu cầu mua sắm tài sản có giá trị nhng tiền tích luỹ còn hạn chế...). Ngân
hàng thơng mại đã giải quyết mâu thuẫn này bằng cách đứng ra làm trung gian
tín dụng để chuyển dịch vốn từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn. Nhiệm vụ của
ngân hàng là nhận tiền gửi và đem tiền gửi đó đáp ứng những nhu cầu về vốn
cho nền kinh tế. Hoạt động này đã làm tăng hiệu quả sử dụng vốn của toàn bộ
nền kinh tế, cụ thể là trên cơ sở nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các doanh
nghiệp, các cá nhân, ngân hàng có điều kiện thực hiện điều hoà vốn từ nơi thừa
vốn đến nơi thiếu vốn, làm cho vốn đợc sử dụng hiệu quả và triệt để hơn, tận
dụng tốt hơn những nguồn lực sẵn có về vốn. Đồng thời, việc sử dụng vốn triệt
để sẽ làm giảm hao phí sản xuất và lu thông tiền tệ, tiết kiệm chi phí xã hội.
Hơn thế nữa, từ nhng nguồn vốn nhỏ, lẻ tẻ, ngân hàng có thể tập trung thành
những nguồn vốn lớn cung cấp cho các doanh nghiệp thc hiện tái sản xuất mở
rộng, thúc đẩy quá trình sản xuất, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo
thêm việc làm, tăng sản lợng và giảm nhập khẩu hàng hoá.
7

Chức năng trung gian thanh toán cũng đợc thực hiện trên cơ sở chức năng
trung gian tín dụng bởi vì thông qua việc nhận tiền gửi, ngân hàng đã mở cho
khách hàng một tài khoản để theo dõi các khoản thu - chi và đó chính là tiền đề
cho chức năng trung gian tín dụng của ngân hàng. Mặt khác, với phơng thức
thanh toán trực tiếp, chủ thể sử dụng vốn phải chịu nhiều lãng phí nh: vốn nhàn
rỗi trớc khi thanh toán không đợc sử dụng, phải chi phí nhiều khoản về kho
quỹ, bảo quản, sổ sách kế toán, vận chuyển, đếm nhận... Nhng nhờ có hoạt
động của ngân hàng mà quy mô thanh toán trực tiếp ngày càng bị thu hẹp, nh-
ờng chỗ cho quá trình phát triển không giới hạn của các nghiệp vụ thanh toán
gián tiếp qua ngân hàng. Khi thực hiện thanh toán qua ngân hàng, họ không
còn phải giữ tiền trong túi hay chịu những khoản chi phí trên nữa. Ngợc lại, họ
còn đợc hởng một khoản lợi, dù nhỏ bé, từ nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của
mình, lại có thể thực hện thanh toán một cách an toàn, nhanh chóng, tiết kiệm.
Nh vậy, chức năng này đã góp một phần công sức to lớn vào việc thúc đẩy lu
thông hàng hoá, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ luân chuyển vốn do đó
góp phần thúc đẩy tăng trởng kinh tế.
Sự kết hợp giữa hai chức năng trung gian tín dụng và trung gian thanh
toán là cơ sở để ngân hàng thơng mại thực hiện chức năng thứ ba - chức năng
tạo tiền gửi thanh toán. Với chức năng này, hệ thống ngân hàng thơng mại đã
làm tăng phơng tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán,
chi trả xã hội. Thông qua chức năng làm trung gian tín dụng, ngân hàng sử
dụng vốn huy động đợc để cho vay, khoản vay đó đợc khách hàng sử dụng để
mua hàng hoá dịch vụ. Và chỉ khi thực hiện cho vay, ngân hàng mới bắt đầu
tạo tiền. Tuy vậy, để tạo ra tiền gửi thanh toán, ngân hàng phải làm đợc chức
năng trung gian thanh toán thì số tiền trên tài khoản tiền gửi thanh toán của
khách hàng mới là một bộ phận của lợng tiền giao dịch. Do vậy, khái niệm về
"tiền", "tiền giao dịch" không chỉ là giấy bạc do ngân hàng trung ơng của mỗi
8
nớc phát hành ra mà bộ phận quan trọng là lợng tiền ghi sổ do các ngân hàng
thơng mại tạo ra.

Ngày nay, do thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công
nghệ, các ngân hàng đã và đang ứng dụng những kỹ thuật hiện đại, tiên tiến
vào hoạt động nhằm mục tiêu phục vụ tốt nhất khách hàng của mình. Theo đó,
các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt lần lợt ra đời từ những công cụ cổ
truyền nh séc thanh toán cho đến các công cụ hiện đại nh thẻ thanh toán. Việc
sử dụng các công cụ thanh toán này đã làm giảm chi phí lu thông tiền mặt,
đồng thời góp phần tiết kiệm chi phí xã hội. Với việc luôn đổi mới và ứng dụng
công nghệ cao trong thanh toán, các ngân hàng ngày càng có thể cho hàng
triệu khách hàng các dịch vụ hiệu quả nhất với giá cả hợp lý nhất. Họ thực hiện
môi giới, đại lý cho các cá nhân, các tổ chức kinh tế trên thị trờng chứng
khoán, thực hiện các dịch vụ về thông tin t vấn cho khách hàng và các dịch vụ
khác, giúp cho các khách hàng của mình trong việc quản lý tài sản, tài chính
một cách có lợi nhất. Hơn thế, với t cách là một cơ quan chuyên trách, chuyên
kinh doanh về lĩnh vực tiền tệ và tín dụng, các ngân hàng thơng mại hoạt động
nh một "chất bôi trơn", dẫn vốn từ kênh tiết kiệm đến kênh đầu t trên thị trờng
tài chính, giải quyết mọi mối quan hệ về cung-cầu tiền tệ, góp phần ổn định
nền kinh tế, đảm bảo cho thị trờng tài chính hoạt động nhịp nhàng, trôi chảy và
hữu hiệu, giúp cải thiện đời sống kinh tế cho mỗi cá nhân trong xã hội.
2.2/ Đối với ngân hàng:
Nếu nh đối với nền kinh tế, ngân hàng là ngời đi vay và cho vay, là ngời
dảm bảo lợi ích của tất cả các chủ thể thì với chính bản thân mình, ngân hàng
cũng tìm kiếm đợc những nguồn lợi không nhỏ. Nguồn lợi ở đây không chỉ
dừng lại ở lợi nhuận mà nó còn ở rất nhiều khía cạnh khác nữa. Đó là việc mở
rộng thị trờng, phân tán rủi ro, khai thác tiềm năng v...v. Nhng có lẽ khía cạnh
đầu tiên cần nói đến không gì khác vẫn là lợi nhuận bởi lẽ ngân hàng chẳng
9
qua cũng chỉ là một doanh nghiệp mà mục đích hàng đầu của mọi doanh
nghiệp luôn là kinh doanh để kiếm lời.
Cũng giống nh tất cả các tổ chức kinh doanh khác, một ngân hàng khi có
số lợng khách ngày một nhiều nghĩa là doanh thu của họ ngày một tăng. Doanh

thu tăng lên sẽ giúp ngân hàng tập trung đợc nguồn vốn to lớn thông qua tiền
gửi tiết kiệm và tiền gửi thanh toán để ngân hàng có điều kiện mở rộng quy mô
tín dụng-là hoạt động trọng tâm của ngân hàng. Qua đó, lợi nhuận của ngân
hàng tăng lên rõ rệt.
Hơn nữa, việc phát triển các loại hình dịch vụ ngày một đa dạng mà đặc
biệt là những dịch vụ hỗ trợ nh môi giới, đại lý chứng khoán, t vấn, thông tin,
bảo quản, ký gửi... sẽ tạo điều kiện cho khách hàng có những mối quan hệ
khách hàng lâu dài, bền vững. Đây là điều mà một ngân hàng thơng mại dặc
biệt quan tâm bởi điều đó quyết địnhphần lớn sự thành công của hoạt động
ngân hàng. Cho nên, mục tiêu của các ngân hàng thơng mại luôn là làm sao để
khai thác và mở rộng các khoảng trống trên thị trờng, phát triển các mối quan
hệ với những khách hàng đã, đang và sẽ có.
Thực hiện đợc tốt các chức năng của mình, một ngân hàng còn có khả
năng để phân tán mọi rủi ro. Có thể nói, hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực
ngân hàng là hoạt động gặp rủi ro nhiều nhất bởi mọi biến động trên các thị tr-
ờng đều liên quan đến tiền tệ. Có một số loại rủi ro ngân hàng thờng gặp nh rủi
ro lãi suất, rủi ro tỷ giá, rủi ro hệ thống, rủi ro chính sách, rủi ro môi trờng...
Trong đó rủi ro lãi suất và rủi ro tỷ giá là hiện tợng thờng gặp nhất đối với ngân
hàng bởi trong cơ chế thị trờng, lãi suất và tỷ giá luôn biến động. Nhng không
chỉ có vậy, có nhiều loại rủi ro không phải do bản thân ngân hàng hay hệ thống
ngân hàng tự gây nên. Rủi ro nhiều khi phát sinh từ những biến động trong đời
sống kinh tế-xã hội của một quốc gia, một khu vực hoặc trên thế giới nh sự
thay đổi về chính sách thuế, ngoại thơng v...v. Nhng đáng lo ngại nhất là rủi ro
10
hệ thống. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, một hoặc một số tổ chức tài chính
bị phá sản, lây lan đến toàn bộ hệ thống tài chính mà trong đó ngân hàng nằm
ở vị trí trung tâm của phản ứng dây chuyền này. Vốn của khách hàng bị rút
khỏi ngân hàng một cách ồ ạt trong khi các khoản nợ cha thu hồi đợc làm hàng
loạt ngân hàng bị mất khả năng thanh toán. Bởi vậy, việc mở rộng về phạm vi
và loại hình hoạt động là "phơng thuốc" hữu hiệu nhất mà "vị thuốc chính" là

lợi nhuận. Lợi nhuận thu đợc từ các dịch vụ khác nhau, ở những khu vực khác
nhau sẽ bổ sung cho nhau khi thị trờng biến động. Nó có khả năng giúp hàn
gắn những vết rạn và giữ vững sự ổn định cho ngân hàng.
11
Chơng II
Quá trình đổi mới của hệ thống ngân hàng th-
ơng mại quốc doanh Việt Nam.
1. Vài nét về hệ thống ngân hàng thơng mại quốc doanh Việt
Nam:
Sau khi pháp lệnh về ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính
ra đời vào tháng 5/1990, hệ thống ngân hàng thơng mại Việt Nam đợc hình
thành với t cách là các pháp nhân thực hiện kinh doanh tiền tệ, cung ứng dịch
vụ ngân hàng cho các doanh nghiệp và các thể nhân để thông qua đó tìm kiếm
lợi nhuận.
Đến nay hệ thống ngân hàng thơng mại Việt Nam đã bao gồm một mạng
lới rộng lớn nh sau:
- 6 ngân hàng thơng mại quốc doanh;
- 51 ngân hàng thơng mại cổ phần ( gồm 31 ngân hàng cổ phần đô thị và
20 ngân hàng cổ phần nông thôn);
- 10 công ty tài chính;
- 4 ngân hàng liên doanh;
- 25 chi nhánh ngân hàng nớc ngoài;
- Hệ thống quỹ tín dụng và hợp tác xã tín dụng với 16 quỹ tín dụng khu
vực và 966 quỹ tín dụng cơ sở.
Các ngân hàng thơng mại quốc doanh (bao gồm Ngân hàng ngoại thơng,
Ngân hàng công thơng, Ngân hàng đầu t và phát triển, Ngân hàng phát triển
nông nghiệp và hai ngân hàng mới thành lập là Ngân hàng phục vụ ngời nghèo
12
và Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long) chủ yếu đợc cải tổ từ
các ngân hàng chuyên doanh cũ thực hiện chức năng kinh doanh với vai trò chủ

đạo trong hệ thống. Sau gần 10 năm đổi mới thực sự hạch toán kinh tế và kinh
doanh độc lập, các ngân hàng thơng mại quốc doanh Việt Nam đã phát triển
và lớn mạnh không ngừng, doanh số hoạt động chiếm 85% hoạt động ngân
hàng trong cả nớc và có đủ sức mạnh để cạnh tranh với ngân hàng nớc ngoài có
mặt ở Việt Nam, nâng cao đợc uy tín với bạn hàng trong nớc và quốc tế.
Quán triệt nguyên tắc đa dạng hoá và đa phơng hoá hoạt động, các ngân
hàng thơng mại quốc doanh đã mở rộng tín dụng cho mọi thành phần kinh tế,
tín dụng không chỉ dành riêng cho khu vực kinh tế quốc doanh mà còn đợc
thực hiện cho các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và dân c, các loại cho
vay cũng đợc cơ cấu lại một cách hợp lí, các hình thức huy động vốn có nhiều
thay đổi, từ đó mà khối lợng và chất lợng tín dụng tăng lên đáng kể, tỷ lệ nợ
quá hạn giảm đi rõ rệt. Một số các dịch vụ mới đã bớc đầu phát triển nh thanh
toán quốc tế, dịch vụ kiều hối, dịch vụ uỷ thác đầu t, tài trợ xuất nhập khẩu...
đóng góp một nguồn thu đáng kể trong hoạt động kinh doanh của các ngân
hàng. Ngoài ra các ngân hàng còn chú trọng mở mang quan hệ với quốc tế
bằng việc nhận làm đại lí cho các ngân hàng nóc ngoài, đặc biệt, Ngân hàng
ngoại thơng còn mở một công ty tài chính tại Hồng Kông và một số văn phòng
đại diện tại các nớc trên thế giới.
Song song với việc đổi mới và mở rộng các nghiệp vụ kinh doanh có
hiệu quả, các Ngân hàng thơng mại quốc doanh đã dành vốn tích luỹ để đầu t
đáng kể cho cơ sở vật chất kĩ thuật nhằm đổi mới bộ mặt của một ngân hàng
thơng mại. Các ngân hàng đã tích cực ứng dụng khoa học kĩ thuật hiện đại vào
các hoạt động mở đầu bằng việc đa hàng ngàn máy tính vào ứng dụng để thu
thập, khai thác, xử lí, truyền dẫn, lu trữ thông tin, dữ liệu, các phần mềm ứng
dụng do các ngân hàng tự thiết lập đợc chạy trên các hệ thống trong mạng vi
13
tính của ngân hàng. Sự xuất hiện của các loại thẻ nhựa nh Visa, Mastercard...
đã tạo thêm công cụ thanh toán mới trong nền kinh tế. Việc ứng dụng công
nghệ mới vào hoạt động đã bớc đầu phát huy đợc hiệu quả không những giúp
đợc cho ngân hàng nhanh chóng hội nhập với các ngân hàng trên thế giới mà

còn có tác dụng tích cực đối với nền kinh tế.
Những hoạt động trên đã mang đến cho các ngân hàng thơng mại quốc
doanh Việt Nam một diện mạo mới, một sắc thái mới hết sức khả quan trong
giai đoạn khởi đầu của thế kỉ 21. Có đợc ngày hôm nay, trớc hết phải kể đến sự
lãnh đạo đúng đắn của Đảng và Nhà nớc, thứ đến là sự nỗ lực của toàn thể cán
bộ tại các ngân hàng thơng mại quốc doanh. Trong những năm qua, hệ thống
ngân hàng thơng mại quốc doanh Việt Nam đã thực hiện cải tổ bộ máy theo h-
ớng gọn nhẹ, xoá bỏ cấp quản lí trung gian gắn với địa d hành chính tỉnh, thành
phố, thực hiện mô hình quản lí tập trung thống nhất từ một trung tâm chỉ huy
với hội sở chính tại Trung ơng thực hiện hai chức năng là quản lí, chỉ đạo hoạt
động toàn hệ thống và thực hiện nhiệm vụ kinh doanh. Đội ngũ cán bộ đã đợc
sắp xếp lại và đợc trang bị những kiến thức phù hợp với cơ chế mới thể hiện
qua các lớp đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ. Qua đó, trình độ và phong
cách của một cán bộ ngân hàng đợc nâng lên rõ rệt.
Nhìn lại chặng đờng hơn 10 năm (từ 1990 đến nay), có thể thấy rằng các
ngân hàng thơng mại quốc doanh cùng với toàn bộ hệ thống ngân hàng đã góp
một phần to lớn trên con đờng đổi mới nền kinh tế. Đó là: góp phần kiềm chế
và đẩy lùi lạm phát, thúc đẩy tăng trởng kinh tế, góp phần chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc.
2. Hoạt động cung cấp dịch vụ của các ngân hàng thơng mại
quốc doanh Việt Nam hiện nay:
14
Qua những trình bày trên có thể thấy rằng hoạt động của các ngân hàng
thơng mại quốc doanh Việt Nam đã khởi sắc hơn so với trớc đây rất nhiều. Tuy
nhiên, họ chỉ tập trung vào hai loại dịch vụ chính là dịch vụ nhận tiền gửi và
dịch vụ thanh toán, các dịch vụ khác hầu nh không đáng kể.
Sau đây ta sẽ tập trung vào nghiên cứu thực trạng hoạt động ở các ngân
hàng thơng mại quốc doanh qua hai dịch vụ chủ yếu này.
2.1/ Dịch vụ nhận tiền gửi của khách hàng :
Trớc đây, khi pháp lệnh ngân hàng cha ra đời, việc nhận tiền gửi của

khách chỉ bó hẹp trong hai loại là tiền gửi các tổ chức kinh tế và tiền gửi tiết
kiệm. Ngày nay, các hình thức và công cụ huy động vốn của các tổ chức tín
dụng đã không ngừng đợc cải tiến và ra đời thêm một số công cụ huy động vốn
mới, đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng của nền kinh tế. Các công cụ đó là:
* Kỳ phiếu ngân hàng có mục đích: Là một công cụ huy động vốn ngắn
hạn rất linh hoạt của các ngân hàng thơng mại tuỳ theo yêu cầu đầu t vốn tín
dụng của từng thời kì hoặc từng dự án đối với khách hàng. Lãi suất huy động
vốn cũng linh hoạt theo yêu cầu đầu t vốn của dự án cho vay. Đây là một công
cụ thích hợp đối với ngân hàng và đợc công chúng a dùng nên trong những
năm qua, các ngân hàng thơng mại sử dụng phổ biến loại này. Kì phiếu ngân
hàng là loại công cụ phát hành bằng chứng chỉ nên còn có tác dụng dùng để
cầm cố vay vốn, chiết khấu và mua bán trên thị trờng, nhng việc mua bán loại
này cha phổ biến do nớc ta cha có thị trờng mua bán chứng từ có giá - cha hình
thành thị trờng thứ cấp các công cụ nợ.
* Trái phiếu ngân hàng thơng mại: Là công cụ để huy động vốn dài hạn
dùng cho đầu t các dự án vay vốn trung và dài hạn. Năm 1994, công cụ huy
động vốn này mới đợc ra đời, các ngân hàng thơng mại và nhất là Ngân hàng
Đầu t và phát triển đã sử dụng công cụ này để thu hút tiền gửi và đạt đợc một
15

×