Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Chứng minh tính tất yếu trong tư tưởng hồ chí minh là độclập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.61 MB, 25 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

BÀI TẬP LỚN
Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh

Đề bài: Chứng minh tính tất yếu trong tư tưởng Hồ Chí Minh là độc
lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội.

Hà Nội, 11/2021


MỤC LỤC

I. MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 1
1.1. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - Con đường tất yếu của cách
mạng Việt Nam trong thời đại mới...............................................................................1
1.2. Sự tiếp cận của Hồ Chí Minh về vấn đề độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội theo quan điểm Mác Lênin................................................................................3
1.3. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - nội dung cốt lõi xun suốt tồn
bộ tư tưởng Hồ Chí Minh.............................................................................................6
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI............................................................................................................... 6
2.1. Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với tiến lên chủ nghĩa xã hội.........................6
2.2. Những điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
trong quá trình cách mạng Việt Nam...........................................................................9
III. THỰC HIỆN ĐỘC LẬP DÂN TỘC Ở VIỆT NAM, TIẾN LÊN CON ĐƯỜNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA...................................................................................................11
3.1. Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội................................................................................................................................ 11
3.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội trong sự nghiệp đổi mới........................................................................................15


3.2.1. Thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.....................................................................................15
3.2.2. Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong tiến trình đổi mới....................16
IV. KẾT LUẬN QUAN ĐIỂM CỦA BẢN THÂN VỀ VẤN ĐỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC
GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI......................................................................17
4.1. Kết luận................................................................................................................ 17
4.2. Liên hệ thực tiễn..................................................................................................18
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................22


I. MỞ ĐẦU
SỰ TIẾP CẬN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN
VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI THEO QUAN ĐIỂM MÁC LÊNIN
1.1. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - Con đường tất yếu của cách
mạng Việt Nam trong thời đại mới
Giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, độc lập dân tộc bị xâm phạm,
trong tình hình đó, triều đình nhà Nguyễn trong thì sợ nhân dân, ngồi thì bạc nhược
trước kẻ thù, lúc đầu có chống cự yếu ớt, sau đã từng bước nhân nhượng cầu hoà, cuối
cùng là cam chịu đầu hàng để giữ lấy ngai vàng và lợi ích riêng của hồng tộc.
Năm 1883 và 1884, triều đình nhà Nguyễn lần lượt ký các hàng ước với thực dân Pháp,
nước ta bị đặt dưới ách thống trị của chúng. Mặc dầu bị đặt vào tình thế phải chống “cả
triều lẫn Tây" nhưng nhân dân ta với tinh thần yêu nước nhiệt thành và chí căm thù giặc
sơi sục đã dấy lên phong trào vũ trang kháng chiến chống Pháp rầm rộ và lan rộng trong
cả nước: từ Trương Định, Nguyễn Trung Trực… ở miền Nam; Trần Tấn, Đặng Như Mai,
Nguyễn Xuân Ôn, Phan Đình Phùng... ở miền Trung đến Nguyễn Thiện Thuật, Hồng
Hoa Thám, Nguyễn Quang Bích… ở miền Bắc. Nhưng các cuộc khởi nghĩa này đều bị
thất bại vì chưa có một đường lối kháng chiến đúng đắn; lãnh đạo khởi nghĩa là các sĩ
phu văn thân với ý thức hệ phong kiến mang nặng tư tưởng tôn quân.
Sang đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước chống thực dân Pháp của nhân dân ta chuyển
sang xu hướng dân chủ tư sản. Tiêu biểu cho xu hướng này có các phong trào Đông Du,

Đông Kinh nghĩa thục, Duy Tân, Việt Nam Quang phục hội... Các phong trào này chưa
lôi cuốn được mọi tầng lớp nhân dân, tư tưởng dân chủ tư sản chưa có cơ sở xã hội vững
chắc. Do vậy phong trào chỉ rộ lên được một thời gian ngắn rồi lần lượt bị đàn áp và thất
bại.
Khi phong trào chống sưu thuế ở Huế và các tỉnh miền Trung, trong đó có Hồ Chí Minh
tham gia bị đàn áp (1908) cũng là lúc các phong trào yêu nước chống Pháp ở thời điểm
cực kỳ khó khăn, bế tắc. Đứng trước cuộc khủng hoảng con đường cứu nước, Hồ Chí
Minh xác định: “Tơi muốn đi ra nước ngồi xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi
xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”.
Đầu tháng 6-1911, Hồ Chí Minh xuống làm phụ bếp trên chiếc tàu Pháp mang tên
Amiran Latusơ Tơrêvin của hãng Năm Sao đang cập bến cảng Nhà Rồng (Sài Gòn).
Ngày 5/6/1911, con tàu rời Sài Gòn đi Pháp, Hồ Chí Minh bắt đầu một cuộc hành trình
lịch sử - đi tìm con đường cứu nước, con đường giải phóng.
Xuất phát từ lịng u nước ra đi tìm đường cứu nước, trải qua gần 10 năm đầy gian truân
và thử thách, Hồ Chí Minh đã đi khắp các châu lục khảo sát nhiều nước thuộc địa và các
1


nước tư bản phát triển Mỹ, Anh, Pháp... Người nhận rõ: chủ nghĩa đế quốc là một hệ
thống thế giới, chúng vừa tranh giành, xâu xé thuộc địa, vừa vào hùa với nhau để nô dịch
các dân tộc nhỏ yếu trong hệ thống thuộc địa của chúng. Mỗi thuộc địa là một mắt khâu
của chủ nghĩa đế quốc, do vậy cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của mỗi nước chỉ tiến
hành riêng rẽ thì khơng thể giành thắng lợi.
Cuối năm 1917, Hồ Chí Minh từ Anh về Pari, thủ đơ nước Pháp, một trung tâm văn hố
khoa học và cách mạng của châu Âu. Hồ Chí Minh hoạt động trong phong trào công nhân
Pari, đến với phái tả của cách mạng Pháp, gia nhập Đảng Xã hội Pháp, một chính đảng
bênh vực các thuộc địa.
Năm 1919, nhân danh những người yêu nước Việt Nam, Hồ Chí Minh gửi tới Hội nghị
hồ bình Vécxây bản u sách của nhân dân An Nam đối các quyền tự do, dân chủ tối
thiểu cho Việt Nam. u sách đó khơng được chấp nhận. Người đã rút ra bài học “muốn

được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trơng cậy vào bản thân mình”.
Hồ Chí Minh nghiên cứu những cuộc cách mạng xã hội lớn trên thế giới. Với cách mạng
giải phóng dân tộc năm 1776 của Mỹ và cách mạng nhân quyền và dân quyền Pháp năm
1789, Người rút ra kết luận: cách mạng Pháp và cách mạng Mỹ là cách mạng tư sản, cách
mạng khơng đến nơi, khơng giải phóng những người lao động mà lại đi áp bức các dân
tộc khác. Cách mạng Việt Nam không thể đi theo con đường đó.
Đầu tháng Mười năm 1917, cách mạng vơ sản Nga thành công. Tháng 3 năm 1919,
Lênin sáng lập Quốc tế Cộng sản. Rồi nhà nước Xôviết chiến thắng cuộc chiến tranh can
thiệp của 14 nước đế quốc. Từ năm 1920 tiếng vang và ảnh hưởng của cuộc Cách mạng
tháng Mười lan rộng ra châu Âu và toàn thế giới. Nghiên cứu Cách mạng tháng Mười
Nga năm 1917, Hồ Chí Minh nhận rõ: chỉ có Cách mạng tháng Mười Nga mới thành
cơng đến nơi, mang lại tự do bình đẳng thật cho tất cả nhân dân lao động và giúp đỡ giải
phóng các dân tộc thuộc địa. Hồ Chí Minh đi đến kết luận: Cách mạng Việt Nam phải đi
theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga - con đường cách mạng vô sản.
Tháng 7-1920, Người đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và
vấn đề thuộc địa của Lênin đăng trên báo L’Humanité. Luận cương của Lênin đã giúp Hồ
Chí Minh tìm ra “cái cẩm nang thần kỳ cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc” con đường giải phóng dân tộc theo quỹ đạo cách mạng vơ sản. Con đường đó được Hồ
Chí Minh khẳng định rõ ràng trong những văn kiện thông qua tại Hội nghị hợp nhất ngày
3-2-1930 “làm tư sản dân quyền cách mệnh và thổ địa cách mệnh để đi tới xã hội cộng
sản”.
Sự xác định trên đây của Hồ Chí Minh là một sáng tạo lớn về con đường cách mạng ở
một nước thuộc địa nửa phong kiến. Đó là con đường giải phóng dân tộc một cách triệt
để, con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đó là kết quả tất yếu q
trình tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh. Đây là sự lựa chọn duy nhất đúng, phù hợp
2


với đòi hỏi và nguyện vọng của dân tộc, nhân dân Việt Nam, phù hợp với xu thế phát
triển của thời đại mới, mở ra từ Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917.
1.2. Sự tiếp cận của Hồ Chí Minh về vấn đề độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa

xã hội theo quan điểm Mác Lênin
Trong quá trình bơn ba tìm đường cứu nước, ngồi việc nghiên cứu các cuộc cách mạng
trên thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm nhiều đến Cách mạng Tháng Mười Nga
năm 1917. Người khẳng định: Trên thế giới bây giờ chỉ có cách mạng Nga là đã thành
cơng và thành cơng đến nơi đến chốn vì dân chúng được hưởng tự do và độc lập.
Đến khi bản Yêu sách đòi các quyền tự do, dân chủ tối thiểu cho Nhân dân An Nam được
Hồ Chí Minh thay mặt những người yêu nước Việt Nam gửi tới Hội nghị hịa bình
Vécxây (1919) không được các nước đế quốc chấp nhận. Sau việc này, Nguyễn Ái Quốc
càng nhận ra bộ mặt thật của giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản. Người thấy rằng, nó
khơng như những gì giai cấp tư sản thường rao giảng là “Tự do - bình đẳng - bác ái” cho
mọi người và cho các dân tộc. Điều này đối lập hoàn toàn với tư tưởng của Lênin. Từ đó,
Chủ tịch Hồ Chí Minh rút ra bài học “Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trơng
cậy vào bản thân mình”. Đồng thời “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, khơng có con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.
- Quyết tâm giành độc lập cho dân tộc:
Từ một người yêu nước và khát vọng giải phóng dân tộc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin,
Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thu bản chất học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội, và mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội khoa học trên cơ sở quan điểm duy vật lịch sử. Người đã thấy trong
học thuyết của chủ nghĩa Mác - Lênin con đường chân chính để giải phóng dân tộc. Năm
1920, sau khi đọc tác phẩm “Những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa”
của Lênin, Người rút ra chân lý: Muốn cho nước nhà được độc lập phải đi theo con
đường cách mạng vơ sản và chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải
phóng được các dân tộc bị áp bức và giai cấp cơng nhân tồn thế giới. Hay, “Bây giờ học
thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách
mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Kể từ đây, người hoàn toàn tin theo Lênin và tin theo
quốc tế thứ ba.
Với tư tưởng biện chứng, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định giữa cách mạng dân tộc dân
chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Giai đoạn trước
làm tiền đề cho giai đoạn sau. Giai đoạn sau kế tiếp và củng cố, phát triển giai đoạn
trước. Tư tưởng độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội trở thành cốt lõi, xuyên suốt

trong quá trình hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.

3


Thấm nhuần tư tưởng đó, năm 1930 trong văn kiện thông qua tại Hội nghị thành lập
Đảng, bản Chánh cương vắn tắt do Người soạn thảo ghi rõ con đường của cách mạng
Việt Nam là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng
sản”. Con đường cách mạng này trải qua hai giai đoạn là cách mạng dân tộc dân chủ và
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Người xác định: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn
phong kiến. Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”.
Việc lựa chọn con đường cách mạng vơ sản cho Việt Nam cịn xuất phát từ thực tế của
đất nước thời kỳ đó khi các phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến, hệ tư
tưởng tư sản đều không thành công. Đến như nhà yêu nước Phan Bội Châu, người theo
con đường nhờ nước Nhật đánh Pháp để cứu lấy Tổ quốc đang bị người Pháp đô hộ phải
thốt lên rằng: “Than ôi! Đời tôi một trăm lần thất bại mà không một lần thành công!”. Chỉ
đến khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đi theo con đường cách mạng vơ sản, Cách mạng Tháng
Mười Nga vĩ đại năm 1917 thì nước ta mới giành được độc lập, dân ta mới có tự do, ấm
no và hạnh phúc.
Khi thời cơ giành độc lập cho Tổ quốc đã đến, vào khoảng tháng 7 năm 1945, dù đang
ốm nặng, Bác vẫn nói với đồng chí Võ Nguyên Giáp rằng: “… dù hy sinh tới đâu, dù
phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”. Trong
Bản Tuyên ngôn độc lập được Bác thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hịa
cơng bố trước quốc dân đồng bào năm 1945, cũng là lúc Người dự liệu được tình hình đất
nước sẽ khó khăn trong việc giữ gìn độc lập của Tổ quốc trước dã tâm tái xâm lược của
đế quốc Pháp cũng như của chủ nghĩa đế quốc. Người đã tuyên bố với thế giới rằng:
“Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải
để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Trong Lời kêu gọi gửi Liên hợp quốc (11/1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt dân
tộc Việt Nam thể hiện quyết tâm khi khẳng định rằng: “Nhân dân chúng tôi cũng kiên

quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho
Tổ quốc và độc lập cho đất nước”. Đến tháng 12 năm 1946, trong Lời kêu gọi tồn quốc
kháng chiến, Hồ Chí Minh đã gửi đi thơng điệp cho đế quốc Pháp sẽ cùng tồn thể dân
tộc Việt Nam bảo vệ độc lập chủ quyền đất nước bằng ý chí sắt đá: “Khơng! Chúng ta thà
hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”. Nối tiếp mạch tư duy về
nền độc lập cho dân tộc, ngày 17 tháng 7 năm 1966, chân lý đó tiếp tục được Người
khẳng định khi tuyên bố trong Lời kêu gọi chống Mỹ cứu nước: “Không có gì q hơn
độc lập tự do”.
Độc lập dân tộc là giá trị thiêng liêng, bất khả xâm phạm đối với bất kỳ một quốc gia, dân
tộc nào trên thế giới cũng như của dân tộc Việt Nam. Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Người đã giành cả cuộc đời để phấn đấu cho chân lý: “Khơng có gì q hơn độc lập tự
do!”.
- Đưa Việt Nam đi lên CNXH sau khi giành được độc lập cho dân tộc:
4


Chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng của V.I.Lênin về quyền tự quyết của các dân tộc và ủng
hộ các nước đi lên CNXH, Hồ Chí Minh đã phát hiện ra quy luật phát triển của cách
mạng Việt Nam trong thời đại mới: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Người
chỉ rõ: con đường cách mạng của Việt Nam là tiến tới chủ nghĩa xã hội, quá độ bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa.
Vì sao Người lại chọn đi lên CNXH chứ không phải đi lên CNTB mặc dù Người đã sống
ở các nước TBCN phát triển như Anh, Pháp, Mỹ… trong suốt phần lớn thời gian 30 năm
đi tìm đường cứu nước? Điều này đã được Người khẳng định rằng, đấu tranh giành độc
lập để gắn với con đường phát triển tư bản chủ nghĩa hồn tồn khơng phải là con đường
phát triển của dân tộc Việt Nam.
Sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, mặc dù đất nước ta tiếp tục cuộc
kháng chiến chống đế quốc Pháp nhưng toàn Đảng, toàn dân ta vẫn khẳng định đi lên chủ
nghĩa xã hội là hợp quy luật, hợp lòng dân của cách mạng Việt Nam. Chính Hồ Chí Minh
từng khẳng định: Đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của các dân tộc không ai

ngăn nổi.
Sở dĩ Người chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội sau khi nước ta giành được độc lập
như Người từng lý giải rằng: chủ nghĩa xã hội sẽ giải phóng con người khỏi mọi áp bức,
bóc lột của chủ nghĩa tư bản; khỏi áp bức, bóc lột, bất cơng, nghèo đói, lầm than và trả lại
cho họ tính người vốn có, đầy đủ trong q trình phát triển. Chính chủ nghĩa xã hội là
niềm tin, là ước mơ, là lý tưởng cao đẹp của tất cả những người lao động đang bị giai cấp
tư sản áp bức, bóc lột trên tồn thế giới. Ở đó, con người sống với nhau thân ái, hịa bình,
bình đẳng, cùng tiến bộ và được tơn trọng. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới có điều kiện để
con người thể hiện “sự phát triển tự do của mỗi con người là điều kiện tự do cho tất cả
mọi người”.
Việc Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội không phải là sự
áp đặt khiên cưỡng mà có cội nguồn trong chiều sâu văn hóa dân tộc. Bởi vì ở Việt Nam
đã từng tồn thuyết xã hội đại đồng của Nho giáo quan niệm “Thiên hạ vi công” (thiên hạ
là của chung). Về quan hệ sở hữu, ở đất nước chúng ta đã tồn tại hàng nghìn năm chế độ
cơng điền, cơng thổ, chế độ tỉnh điền; nguyên tắc vần công, đổi công trong lao động nơng
nghiệp... Đây là những cơ sở chính trị và kinh tế quan trọng để Nguyễn Ái Quốc đưa ra
tư tưởng độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội. Người tin rằng điều đó sẽ thành công.
Và thực tế ở Việt Nam đã chứng minh quan điểm đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Như vậy, trên cơ sở các nhân tố khách quan và chủ quan, kinh tế và chính trị, lịch sử và
hiện tại để Hồ Chí Minh đưa ra quan điểm độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Tư tưởng của Người còn là sự thỏa mãn khát vọng của dân tộc Việt Nam trong việc vươn
lên những giá trị vĩnh hằng mà nhân loại ước muốn như độc lập, tự do, ấm no, hạnh
phúc! Cho đến nay, dù tình hình đất nước và quốc tế có những đổi thay nhanh chóng,
5


nhưng chân lý của Chủ tịch Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội vẫn giữ nguyên giá trị. Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng của Người là nền
tảng, là kim chỉ nam tiếp tục soi đường chỉ lối cho cách mạng Việt Nam đi đến bến bờ
vinh quang. Toàn Đảng, toàn dân, ta đang nỗ lực cố gắng quyết tâm thực hiện mong ước

của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Điều mong muốn cuối cùng của tơi là: Tồn Đảng, tồn dân
ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hịa bình, thống nhất, độc lập, dân
chủ và giàu mạnh”.
1.3. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - nội dung cốt lõi xuyên suốt toàn
bộ tư tưởng Hồ Chí Minh
Độc lập dân lộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội thể hiện sự nhất quán trong tư duy lý luận
và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh. Từ khi trở thành người cộng sản cho đến khi trở
thành lãnh tụ, nguyên thủ quốc gia, mối quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh là gắn độc
lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội phù hợp với từng thời kỳ của cách mạng Việt Nam. Hồ
Chí Minh chỉ rõ các bài viết của Người chỉ có một “đề tài” là: chống thực dân đế quốc,
chống phong kiến địa chủ, tuyên truyền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội thể hiện một cách tập trung những luận
điểm sáng tạo lớn về lý luận của Hồ Chí Minh. Những luận điểm đó có giá trị lâu dài chỉ
đạo đường lối cách mạng Việt Nam và đóng góp quan trọng vào việc phát triển lý luận về
cách mạng vô sản. Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Trong khi giải quyết những
vấn đề của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần phát triển chủ nghĩa
Mác - Lênin trên nhiều vấn đề quan trọng, đặc biệt là lý luận về cách mạng giải phóng
dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội ở các nước thuộc địa và phụ thuộc”(2).
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự phản ánh chính xác mục đích, lý
tưởng, khát vọng và ham muốn tột bậc của danh nhân văn hoá Hồ Chí Minh: nước ta
được hồn tồn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo
mặc, ai cũng được học hành.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội phản ánh tính triệt để cách mạng của tư
tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó đặt vấn đề giải phóng con người, hạnh phúc của con
người ở mục tiêu cao nhất của sự nghiệp cách mạng.

II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
2.1. Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với tiến lên chủ nghĩa xã hội
- Độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết, là cơ sở tiền đề để tiến lên chủ

nghĩa xã hội:
6


Theo Hồ Chí Minh, con đường cách mạng Việt Nam có hai giai đoạn: cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong cách mạng dân tộc dân chủ có
hai nhiệm vụ chiến lược cơ bản, trong đó giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, nhiệm
vụ dân chủ được rải ra thực hiện từng bước và phục tùng nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Vì
thế, ở giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ thì độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước
mắt, cấp bách. Kết luận này được Hồ Chí Minh rút ra từ sự phân tích tình hình thực tế và
những mâu thuẫn khách quan tồn tại của xã hội Việt Nam thuộc địa nửa phong kiến.
Lịch sử phát triển loài người chứng tỏ, độc lập dân tộc là khát vọng mang tính phổ biến.
Với dân tộc Việt Nam, đó cịn là một giá trị thiêng liêng, được bảo vệ và giữ gìn bởi máu
xương, sức lực của biết bao thế hệ người Việt Nam.
Với Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao hàm trong đó cả nội dung dân tộc và dân chủ. Đó
là nền độc lập thật sự, độc lập hồn tồn, chứ khơng phải là thứ độc lập giả hiệu, độc lập
nửa vời, độc lập hình thức. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn liền
với thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, độc lập dân tộc bao giờ
cũng gắn với tự do, dân chủ, ấm no hạnh phúc của nhân dân lao động.
Khi nhấn mạnh mục tiêu độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh khơng bao giờ coi đó là mục tiêu
cuối cùng của cách mạng Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giành độc lập để đi tới
xã hội cộng sản; độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là
mục tiêu cốt yếu, trực tiếp của cách mạng dân tộc dân chủ, là mục tiêu trước hết của quá
trình cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo, đồng thời là điều kiện hàng đầu,
quyết định để cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chuyển sang giai đoạn kế tiếp - cách
mạng xã hội chủ nghĩa.
Do vậy, cách mạng dân tộc dân chủ càng triệt để thì những điều kiện tiến lên chủ nghĩa
xã hội càng được tạo ra đầy đủ. Tính chất tạo tiền đề của cách mạng dân tộc dân chủ
được thể hiện:
- Về chính trị: xác định và xây dựng các yếu tố của hệ thống chính trị do giai cấp công

nhân lãnh đạo.
- Về kinh tế: bước đầu xây dựng được các cơ sở kinh tế mang tính chất xã hội chủ nghĩa,
từng bước cải thiện đời sống nhân dân.
- Về văn hoá, xã hội, đời sống tinh thần: trong cách mạng dân tộc dân chủ, khối quần
chúng công - nơng - trí thức và các giai tầng xã hội khác đã có ý thức giác ngộ, đồn kết
trong một mặt trận dân tộc thống nhất; những nhân tố mới của văn hố, giáo dục đã được
hình thành dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

7


Tóm lại, độc lập dân tộc tạo tiền đề, điều kiện để nhân dân lao động tự quyết định con
đường đi tới chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong thời đại mới chủ nghĩa xã hội là xu hướng phát triển
tất yếu của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Điều này làm cho con đường cứu nước
giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh khác biệt về chất với con đường cứu nước những
năm đầu thế kỷ ở nước ta và nhiều nhân vật nổi tiếng trên thế giới.
Cách mạng Việt Nam thuộc phạm trù cách mạng vơ sản. Điều đó quyết định vai trị lãnh
đạo cách mạng tất yếu thuộc về giai cấp công nhân mà đội tiên phong của nó là Đảng
Cộng sản Việt Nam. Lực lượng tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc là tồn dân Việt
Nam u nước mà nịng cốt là khối liên minh cơng - nơng - trí thức. Những nhân tố này
lại quy định tính tất yếu dẫn đến phương hướng phát triển lên chủ nghĩa xã hội của cách
mạng giải phóng dân tộc. Rõ ràng định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam được chi phối và chế định bởi các nhân tố bên trong
của cuộc cách mạng đó.
- Chủ nghĩa xã hội là con đường củng cố vững chắc độc lập dân tộc, giải phóng dân
tộc một cách hoàn toàn triệt để:
Về lý luận, độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội thể hiện mối quan hệ giữa mục tiêu
trước mắt và mục tiêu cuối cùng; mối quan hệ giữa hai giai đoạn của một q trình cách
mạng. Lơgíc lịch sử khách quan cho thấy: thực hiện mục tiêu trước mắt là điều kiện tiên

quyết để đi tới mục tiêu cuối cùng và chỉ thực hiện được mục tiêu cuối cùng thì mục tiêu
trước mắt mới củng cố vững chắc một cách hoàn toàn, triệt để. Giữa hai giai đoạn cách
mạng khơng có bức tường ngăn cách, cách mạng dân tộc dân chủ xác lập cơ sở, tiền đề
cho cách mạng xã hội chủ nghĩa, cách mạng xã hội chủ nghĩa khẳng định và bảo vệ vững
chắc nền độc lập dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn liền với đời sống ấm no, hạnh phúc
của quần chúng nhân dân, những người đã trực tiếp làm nên thắng lợi của cách mạng dân
tộc dân chủ. Để đảm bảo vững chắc độc lập dân tộc, để không rơi vào lệ thuộc, đói nghèo
lạc hậu, chặng đường tiếp theo chỉ có thể là đi lên chủ nghĩa xã hội. Do những đặc trưng
nội tại của mình, chủ nghĩa xã hội sẽ củng cố những thành quả đã giành được trong cách
mạng dân tộc dân chủ, tạo điều kiện để bảo đảm cho độc lập và phát triển dân tộc.
Tư tưởng độc lập dân tộc của Hồ Chí Minh mang một nội dung sâu sắc, triệt để: độc lập
tự do, ấm no, hạnh phúc. Chủ nghĩa xã hội không chỉ củng cố những giá trị nêu trên, mà
còn làm phong phú thêm về mặt nội dung, xác lập các điều kiện để hiện thực hố các nội
dung đó. Hồ Chí Minh khẳng định: chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải
phóng triệt để các dân tộc bị áp bức khỏi ách nơ lệ; chỉ có cách mạng xã hội chủ nghĩa
mới bảo đảm cho một nền độc lập thật sự, chân chính.
8


Chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh là một xã hội tốt đẹp, xoá bỏ mọi áp bức,
bóc lột; cơng bằng hợp lý - làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, khơng làm khơng
hưởng; bảo đảm phúc lợi cho người già, trẻ mồ côi; một xã hội có nền sản xuất phát triển
gắn liền với sự phát triển khoa học - kỹ thuật và không ngừng nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của nhân dân lao động. Đó là một xã hội có kỷ cương, đạo đức, văn minh trong
đó người với người là bạn bè, đồng chí, anh em, mọi người được phát triển hết khả năng
của mình; hịa bình hữu nghị, làm bạn với các nước; một xã hội do nhân dân lao động
làm chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Theo Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội chính là xây dựng tiềm lực phát triển của
dân tộc trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội. Với các thiết chế đó và

nền tảng tinh thần riêng có, chủ nghĩa xã hội có khả năng vận động liên tục, tự bảo vệ
vững chắc các thành quả cách mạng của nhân dân. Trên phạm vi quốc tế, chủ nghĩa xã
hội lớn mạnh sẽ có sức hấp dẫn thu hút các dân tộc, đặc biệt các dân tộc chậm phát triển
đi theo con đường chủ nghĩa xã hội; mặt khác chủ nghĩa xã hội sẽ là bệ đỡ của hồ bình
thế giới, hạn chế và ngăn chặn các cuộc chiến tranh đế quốc, chiến tranh xâm lược, xố
bỏ tình trạng dân tộc này đi áp bức dân tộc khác.
Hồ Chí Minh chỉ rõ, chủ nghĩa xã hội càng phát triển, càng đạt đến độ chín muồi thì các
tiềm lực, nhất là tiềm lực vật chất kỹ thuật của dân tộc càng mạnh, đất nước càng có điều
kiện củng cố độc lập của mình, tăng cường khả năng phịng thủ. Khơng có một chế độ xã
hội nào có thể đảm bảo vững chắc độc lập dân tộc bằng chủ nghĩa xã hội. Trong toàn bộ
cấu trúc nội tại của mình, chủ nghĩa xã hội thể hiện khả năng tự bảo vệ và biết cách bảo
vệ.
Hồ Chí Minh khẳng định, trong chủ nghĩa xã hội, nhân dân lao động là người chủ duy
nhất. Đó là sự khác biệt về chất giữa chủ nghĩa xã hội với các chế độ xã hội trước đó. Chế
độ dân chủ là chế độ do nhân dân làm chủ, dân chủ là vấn đề thuộc bản chất của nhà nước
ta. Theo Hồ Chí Minh, dân chủ xã hội chủ nghĩa phải được phát huy trên tất cả các lĩnh
vực, phải được thể chế hố bằng pháp luật, được hồn thiện, nâng cao trong quá trình
phát triển kinh tế, xã hội và nâng cao dân trí. Đây là điều kiện cơ bản và quyết định vận
mệnh của dân tộc, tạo ra sức đề kháng trên phạm vi xã hội, loại trừ và có khả năng chống
trả bất kỳ một hành động nào đe dọa độc lập, tự do của dân tộc. Thực hiện được một xã
hội như vậy thì độc lập dân tộc mới thực sự vững chắc, sự nghiệp giải phóng dân tộc mới
thắng lợi một cách hoàn toàn và triệt để.
2.2. Những điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
trong quá trình cách mạng Việt Nam
Độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một tất yếu lịch sử. Nhưng để
hiện thực hóa tính tất yếu này, theo Hồ Chí Minh cần phải có những điều kiện cơ bản sau
đây:
9



Trước hết, Hồ Chí Minh khẳng định, xác lập, tăng cường vai trò lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng Cộng sản là điều kiện cơ bản để độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội. Khơng có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì cách mạng Việt Nam không thể vận
động theo cách mạng vô sản và chắc chắn sự nghiệp độc lập dân tộc sẽ đi theo vết xe đổ
của các phong trào cứu nước trước đó. Một khi Đảng Cộng sản đánh mất vai trị lãnh đạo
thì chế độ xã hội chủ nghĩa sẽ sụp đổ, cách mạng bị phản bội và hoàn toàn chệch hướng.
Thực tiễn ở Liên Xô và các nước Đông Âu, đầu những năm 90 của thế kỷ XX đã chứng
tỏ điều đó.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, với tư cách là điều kiện cơ bản bảo đảm để độc lập dân tộc tiến
lên chủ nghĩa xã hội, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản được thể hiện trên các mặt chủ
yếu sau đây:
- Hoạch định cương lĩnh, đường lối, chủ trương để đưa sự nghiệp của dân tộc phát triển
đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Lãnh đạo xã hội, trước hết là lãnh đạo nhà nước thực hiện thắng lợi cương lĩnh độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội bằng cách thông qua tổ chức và đội ngũ cán bộ,
đảng viên của mình.
- Thơng qua công tác kiểm tra, kể cả kiểm tra trong nội bộ Đảng và lãnh đạo công tác
kiểm tra trong các tổ chức của hệ thống chính trị để lãnh đạo toàn dân giành độc lập dân
tộc đi lên chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh chỉ rõ vai trị lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam mang tính
khách quan. Để hồn thành sứ mệnh của mình, Đảng phải trong sạch, vững mạnh và
thường xuyên chỉnh đốn để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, đủ trí tuệ, đủ bản
lĩnh vượt qua những thử thách gay gắt nhất, phải thực hiện xây dựng Đảng về mọi mặt:
chính trị, tư tưởng và tổ chức, trong đó cơng tác cán bộ bao giờ cũng là vấn đề cốt tử.
Hai là, xây dựng, củng cố và tăng cường khối liên minh giai cấp cơng nhân, nơng dân và
trí thức làm nền tảng khối đại đoàn kết dân tộc.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về lực lượng cách mạng Việt Nam trong quá trình thực hiện
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội là hết sức sáng tạo. Người
xác định: công - nông là gốc, là chủ lực của cách mạng, các giai tầng, cá nhân yêu nước
là bầu bạn của cách mạng. Khi đất nước bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội Người địi

hỏi cơng nơng trí thức đồn kết lại. Tất cả được tập hợp trong Mặt trận dân tộc thống
nhất.
Hồ Chí Minh cho rằng trong cách mạng dân tộc dân chủ cũng như cách mạng xã hội chủ
nghĩa đều cần đến và không thể thiếu được Mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt trận được
xây dựng theo tư tưởng Hồ Chí Minh có hạt nhân cốt lõi là liên minh cơng - nơng và trí
10


thức để đoàn kết toàn dân thành một khối. Hạt nhân và toàn dân là mối quan hệ biện
chứng được Hồ Chí Minh quan tâm đúng mức cả hai, khơng coi nhẹ hoặc thiên lệch bên
nào. Mặt trận đó được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ba là, Hồ Chí Minh chỉ rõ Việt Nam là một bộ phận của thế giới, cách mạng Việt Nam và
cách mạng thế giới liên hệ chặt chẽ với nhau. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của
mình, Hồ Chí Minh ln có những chủ trương, đường lối và biện pháp phù hợp để tranh
thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các lực lượng cách mạng, hồ bình dân chủ trên thế giới.
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam Tháng Tám 1945, trong những năm chống Pháp,
chống Mỹ, trong thời kỳ hồ bình, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều không tách rời sự
ủng hộ, giúp đỡ quốc tế.
Ba nhân tố nêu trên gắn bó chặt chẽ với nhau tạo nên sức mạnh tổng hợp quyết định mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh kết luận: “Đó là ba bài học lớn mà mỗi
cán bộ và đảng viên ta cần ghi sâu vào lòng và phát huy thêm mãi”(3).
Như vậy, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan. Tính
tất yếu đó chỉ được hiện thực hố khi gắn liền với những điều kiện bảo đảm, trong đó yếu
tố quan trọng nhất là xác lập và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam.

III. THỰC HIỆN ĐỘC LẬP DÂN TỘC Ở VIỆT NAM, TIẾN LÊN CON
ĐƯỜNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
3.1. Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội

Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ra đời và phát
triển ở thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới. Tư
tưởng đó hình thành ở Hồ Chí Minh từ đầu những năm 20 và đến mùa xuân năm 1930
với sự kiện Hồ Chí Minh sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam thì con đường cách mạng
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã thành ngọn cờ dẫn dắt giai cấp cơng
nhân và tồn thể dân tộc Việt Nam liên tục giành những thắng lợi lịch sử suốt hơn 70 năm
qua. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được thể
hiện trên thực tế, có thể chia ra làm ba thời kỳ.
Thời kỳ 1930-1945: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, thông qua cương lĩnh vắn tắt, sách
lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Trong đó, Đảng Đảng
Cộng sản Việt Nam tuyên bố sẽ làm cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng ruộng
đất, đấu tranh xây dựng một xã hội tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ cập giáo dục.
Đảng xác định mục tiêu đánh đổ thực dân Pháp và chế độ phong kiến, lấy ruộng đất chia
cho dân nghèo.
11


Dưới sự lãnh đạo của Đảng, 20 triệu nhân dân Việt Nam đã tiến hành cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc, đỉnh cao là cuộc tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám
1945 thành công, chấm dứt chế độ phong kiến kéo dài hàng nghìn năm, chấm dứt
sự đơ hộ của thực dân Pháp sau gần một thế kỷ. Thắng lợi vĩ đại này của dân tộc
Việt Nam đã đưa nước ta bước sang một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Ở thời kỳ này tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được thể hiện
qua những hoạt động lý luận và thực tế chủ yếu sau đây của Hồ Chí Minh:
- Xác định tính chất cách mạng Việt Nam: giải phóng dân tộc bằng con đường
cách mạng vơ sản, gắn giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, nhân dân lao
động, với toàn thể dân tộc bị nô lệ dưới ách đế quốc Pháp và tay sai của chúng;
xác định nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng Việt Nam “làm tư sản dân quyền cách
mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Con đường cách mạng Việt

Nam được Hồ Chí Minh thể hiện rõ nét trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng.
- Xác định đối tượng đấu tranh của cách mạng Việt Nam là đế quốc xâm lược,
phong kiến tay sai, tầng lớp tư sản và địa chủ chống lại độc lập dân tộc.
- Xác định rõ lực lượng cách mạng Việt Nam là toàn thể nhân dân, bao gồm công
nhân, nông dân, tầng lớp tiểu tư sản, tư sản dân tộc, trung, tiểu địa chủ, các cá
nhân yêu nước, trong đó nịng cốt là liên minh cơng - nơng. Lực lượng cách mạng
hùng hậu này được tập hợp dưới ngọn cờ giải phóng dân tộc do đảng của giai cấp
công nhân lãnh đạo.
- Xác định đúng đắn cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam là một bộ phận của
cách mạng vơ sản thế giới, có mối quan hệ khăng khít với cách mạng vơ sản
“chính quốc”, cách mạng giải phóng dân tộc có tính chủ động, có thể giành thắng
lợi trước cách mạng vơ sản “chính quốc", tác động tích cực tới cách mạng “chính
quốc".
Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Hồ Chí Minh, Cách mạng Tháng Tám 1945 đã giành thắng
lợi. Đó là thắng lợi lịch sử đầu tiên của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng
giải phóng dân tộc thuộc phạm trù cách mạng vô sản. Thắng lợi này đã mở ra kỷ nguyên
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Thời kỳ 1945-1954: Đảng lãnh đạo toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược kết thúc thắng lợi bằng chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ chấn động địa
cầu.
12


Mục tiêu của giai đoạn này là tiến hành thành cơng cuộc cách mạng giải phóng dân tộc,
giành độc lập, tự do, cụ thể hóa tư tưởng của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, mục tiêu này mới đạt được ở miền Bắc. Sau hiệp định
Giơnevơ (20/7/1954) nước ta tạm thời bị chia cắt thành hai miền Nam - Bắc. Sau khi hịa
bình lập lại, miền Bắc tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, trở thành hậu phương lớn
cho cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam. Đường lối độc lập dân tộc gắn liền với

chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn này là hai chiến lược cách mạng: cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc và cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam.
Thời kỳ bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng những cơ sở đầu tiên của chủ nghĩa xã hội,
thực hiện “kháng chiến và kiến quốc”.
Ở thời kỳ này Hồ Chí Minh tiếp tục bổ sung, phát triển những quan điểm lý luận về con
đường cách mạng Việt Nam. Nội hàm khái niệm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân,
chế độ dân chủ mới đã được Hồ Chí Minh làm rõ bằng cách xác định mục tiêu, động lực,
các điều kiện bảo đảm thắng lợi của từng giai đoạn cách mạng, trong mỗi giai đoạn đều
kết hợp giải quyết các nhiệm vụ dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, tạo tiền đề đẩy
cách mạng phát triển lên giai đoạn cao hơn nhưng cũng khó khăn phức tạp hơn. Để thực
hiện mục tiêu cách mạng, Hồ Chí Minh kiên trì quan điểm phát huy cao độ ý thức độc lập
tự chủ, tự lực tự cường, đi đôi với ra sức tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ quốc tế.
Nét độc đáo, đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam ở
thời kỳ này là Người đã đề ra và thực thi nhất quán đường lối “vừa kháng chiến, vừa kiến
quốc”. Đường lối đó phù hợp với quy luật phát triển lịch sử dân tộc: dựng nước đi đôi với
giữ nước, bảo vệ độc lập của Tổ quốc và xây dựng từng bước chế độ mới.
Trong hồn cảnh hiểm nghèo, Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách linh hoạt, mềm dẻo
phương pháp “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc, phân hố, cơ
lập kẻ thù, tăng cường sức mạnh đoàn kết toàn dân, tranh thủ được sự giúp đỡ, ủng hộ
của quốc tế. Tài thao lược, bản lĩnh kiên cường, khả năng quyết đoán của Hồ Chí Minh
dựa trên sự hiểu biết thấu đáo thực tiễn đất nước, quy luật và xu thế phát triển của dân
tộc, thời đại, vững vàng lái con thuyền cách mạng Việt Nam đến bến bờ thắng lợi huy
hoàng.
Thời kỳ 1954-1975: cả nước dốc lịng cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất
đất nước. Khát vọng hịa bình, độc lập dân tộc đã khơi dậy truyền thống dựng nước và
giữ nước của ông cha, truyền thống chiến thắng giặc ngoại xâm của dân tộc. Cả nước
xuống đường, cả nước hướng về miền Nam ruột thịt theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Đảng ta "Tất cả cho tiền tuyến". Lịch sử Việt Nam chưa lúc nào được chứng
kiến sự kết hợp giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên phạm vi, quy mô lớn như
thời điểm này của cách mạng. Sau chiến dịch Hồ Chí Minh trong cuộc tổng tiến cơng và

nổi dậy mùa xn 1975, miền Nam được hồn tồn giải phóng, đất nước thống nhất, cả
13


nước bước vào kỷ nguyên mới: kỷ nguyên xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả
nước - kỷ nguyên của độc lập, tự do, thống nhất và chủ nghĩa xã hội.
Thời kỳ Hồ Chí Minh tiếp tục hồn thiện, bổ sung, phát triển tư tưởng về độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong điều kiện mới. Ở thời kỳ này sáng tạo lý luận của Hồ
Chí Minh thể hiện tập trung trong việc xây dựng và chỉ đạo đường lối tiến hành đồng thời
hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, hoàn thành cách mạng
dân tộc dân chủ ở miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Quan điểm, tư tưởng nêu trên được thể hiện ở các nội dung chính sau đây:
- Trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn
thành cơng mối quan hệ giữa cách mạng hai miền. Trong mối quan hệ này, Hồ Chí
Minh xác định rất rõ vị trí, vai trò nhiệm vụ cách mạng từng miền và tác động lẫn
nhau của chúng. Về thực chất, đây là sự cụ thể hố nội dung con đường cách mạng
vơ sản, sự gắn bó chặt chẽ giữa nhiệm vụ dân tộc, dân chủ với chủ nghĩa xã hội con đường mà Hồ Chí Minh đã đề xuất và kiên trì bảo vệ.
- Hồ Chí Minh tiếp tục hồn chỉnh và phát triển lý luận về cách mạng giải phóng
dân tộc, xác định rõ kẻ thù số một mà dân tộc ta cần tập trung mọi lực lượng để
đánh đổ là đế quốc Mỹ. Hồ Chí Minh nêu tư tưởng “khơng có gì quý hơn độc lập
tự do” thể hiện ý chí, quyết tâm lớn lao của cả dân tộc trong việc bảo vệ giá trị
thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Về tập hợp lực lượng, Hồ Chí Minh có những
quan niệm và cách làm sáng tạo, trên cơ sở đánh giá đúng vị trí, vai trị của chiến
lược đại đồn kết trong chiến tranh cách mạng. Hồ Chí Minh đã xây dựng cho
cách mạng Việt Nam cái nền sức mạnh của “ba tầng mặt trận”: Mặt trận dân tộc
thống nhất Việt Nam chống Mỹ, cứu nước; Mặt trận ba nước Đông Dương cùng
chống Mỹ; Mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ nhân dân Việt Nam chống Mỹ. Sức
mạnh của “ba tầng mặt trận" đã tạo cho cách mạng Việt Nam trở thành vơ địch.
- Hồ Chí Minh tiếp tục hồn thiện lý luận cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh đã xây dựng một quan niệm tương đối

hoàn chỉnh, thống nhất về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Quan niệm của Hồ Chí Minh chủ nghĩa xã hội mang tính hệ thống, có
nhiều nội dung phát triển sáng tạo, nhưng vẫn trung thành với chủ nghĩa Mác Lênin. Hồ Chí Minh đã làm rõ đặc điểm lớn nhất của Việt Nam khi bước vào thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, mối quan hệ giữa tính phổ biến và tính đặc thù của
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong phạm vi một nước. Đặc biệt, Hồ Chí
Minh đã có những chỉ dẫn khoa học về những cách thức, phương thức, biện pháp,
bước đi thực hiện công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Ngày 2-9-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời. Biến đau thương thành hành động cách
mạng, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta quán triệt sâu sắc quan điểm của Người tiếp tục
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, giải phóng miền Nam thống nhất tổ quốc. Thông
14


qua chiến dịch mang tên Hồ Chí Minh, sự nghiệp cách mạng đó đã giành thắng lợi trọn
vẹn vào ngày 30-4-1975.
Chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh đất nước gặp mn vàn khó khăn,
thách thức to lớn: đất nước bị chiến tranh tàn phá; Mỹ và phương Tây tiến hành bao vây,
cô lập, cấm vận Việt Nam; các thế lực phản động quốc tế phát động kiểu "chiến tranh phá
hoại nhiều mặt"chống phá Việt Nam; nền kinh tế nước ta lâm vào cuộc khủng hoảng
nghiêm trọng kéo dài nhiều năm. Sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và
lãnh đạo từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986) đã từng bước hồi sinh
đất nước về mọi mặt. Trước những bối cảnh mới của tình hình, Đảng ta ln xác định
phải giương cao ngọn cờ "Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội". Công cuộc đổi mới theo
định hướng xã hội chủ nghĩa là một chủ trương chiến lược đúng đắn, phù hợp với quy
luật khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; tạo điều kiện, tiền đề cho chủ
nghĩa xã hội. Trong quá trình thực hiện cơng cuộc đổi mới, Đảng ta vẫn kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong mối liên hệ gắn kết biện chứng.
3.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội trong sự nghiệp đổi mới
3.2.1. Thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ

Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV - đại hội thống nhất Tổ quốc, cả nước đi lên chủ nghĩa
xã hội đã khẳng định: "Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, khi cả nước làm một nhiệm
vụ chiến lược hoặc làm hai nhiệm vụ chiến lược, Đảng ta từ khi ra đời đến nay vẫn luôn
luôn giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đó là đường lối, là sức
mạnh, là nguồn gốc mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam". Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do Đại hội VII thông qua đã khẳng định
trong thời kỳ đổi mới: "Toàn Đảng, toàn dân tiếp tục nắm vững ngọn cờ độc lập, dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ
hôm nay và thế hệ mai sau”.
Hiện nay, cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam vẫn đang tiếp
diễn. Đảng ta khẳng định: "Trong giai đoạn đổi mới, phải giữ vững mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội”. Trong bất kỳ tình huống nào cũng phải thực hiện thắng lợi hai
nhiệm vụ chiến lược: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong quan hệ quốc tế phức tạp, chằng chéo như hiện nay, để thực hiện thắng lợi hai
nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta, địi hỏi phải có nhận thức sâu sắc các yếu tố
tác động đến độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
15


Chiến tranh lạnh trên thế giới kết thúc, hồ bình, hợp tác phát triển là xu thế chung,
nhưng cuộc đấu tranh dân tộc và giai cấp vẫn diễn biến phức tạp, gay gắt. Nguy cơ xung
đột vũ trang và chiến tranh cục bộ vẫn chưa bị loại trừ; mâu thuẫn dân tộc, sắc tộc, tôn
giáo, tranh chấp lãnh thổ nổ ra ở nhiều nơi và gây mất ổn định nhiều khu vực. Chủ nghĩa
đế quốc đang lợi dụng ưu thế về kinh tế và kỹ thuật, nhân danh chống khủng bố, để thực
hiện chiến lược “diễn biến hồ bình” can thiệp vào công việc nội bộ các nước, buộc các
nước xã hội chủ nghĩa, các nước đang phát triển đi vào quỹ đạo của chúng. Hiện nay giao
lưu kinh tế, giao lưu văn hoá giữa các dân tộc tăng lên. Trong khi giao lưu văn hố phát
triển mạnh mẽ, thì các nước đang phát triển cũng đứng trước sự “xâm lăng văn hố” từ

phía các nước đế quốc. Trong bối cảnh hiện nay, quan niệm về độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội phải được chú ý toàn diện từ độc lập về lãnh thổ, về chủ quyền an ninh quốc
gia đến độc lập, tự do về kinh tế, chính trị, văn hóa, lối sống và đạo đức xã hội. Khơng
thể có và khơng thể chấp nhận quan niệm nhân quyền cao hơn chủ quyền quốc gia. Việc
rêu rao nhân quyền của các nước tư bản, trước hết là Mỹ, thực chất là một hình thức mỵ
dân, lấy cớ nhân quyền đề can thiệp vào công việc nội bộ nước khác. Khơng thể có độc
lập tự do về chính trị nếu bị lệ thuộc về kinh tế. Không thể giữ vững độc lập tự chủ nếu
lối sống, đạo đức xã hội bị suy thoái, văn hoá dân tộc bị coi rẻ hoặc bị biến dạng.
Để thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược hiện nay cần chú ý một số ngun tắc có tính
chất phương pháp luận:
- Xây dựng thành công xã hội xã hội chủ nghĩa, bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc
trước hết phải bằng nguồn nội lực của đất nước, không lệ thuộc vào bên ngoài,
nhưng phải biết tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi để gia tăng nguồn lực
phát triển quốc gia. Kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại theo tư tưởng
Hồ Chí Minh để thực hiện thành công hai nhiệm vụ chiến lược.
- Trên cơ sở nhận thức tồn cầu hố, khu vực hố và kinh tế là một tất yếu khách
quan, từ đó xác định rõ các bước đi và chủ động hội nhập phù hợp với năng lực
của đất nước. Hội nhập phải làm tăng sức mạnh đất nước và làm giàu bản sắc dân
tộc.
- Độc lập dân tộc gắn bó chặt chẽ với chủ nghĩa xã hội phải được thể hiện trong
suốt quá trình cách mạng trên mọi lĩnh vực của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
3.2.2. Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong tiến trình đổi mới
Ngày nay, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội chỉ có thể có được nếu Đảng và nhân dân
ta giải quyết thành công hàng loạt vấn đề trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn
hố, xã hội, đối nội và đối ngoại theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trung thành với con
đường Hồ Chí Minh đã vạch ra. Đảng ta khẳng định trong bất kỳ tình huống nào, cũng
phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, kiên quyết đề phòng và chống nguy cơ chệch
hướng xã hội chủ nghĩa.


16


Hiện nay, đang xuất hiện nhiều vấn đề lý luận nằm trong tổng thể quan niệm chung về
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nhu cầu phát triển đất nước đang đặt ra, đòi lại phải nhận
diện và hiểu biết về chủ nghĩa xã hội vừa mang tính tổng thể, vừa trong những chi tiết,
đường nét cụ thể.
Do vậy, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trước hết cần
làm sáng tỏ các vấn đề cơ bản sau:
- Cả trong lý luận và thực tiễn cần khẳng định vấn đề định hướng đưa đất nước đi
lên chủ nghĩa xã hội là duy nhất đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của dân tộc
và xu thế thời đại.
- Làm rõ và cụ thể hoá mục tiêu của đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa là
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Sức hấp dẫn của chủ
nghĩa xã hội, trước hết là ở mục tiêu mang đậm bản chất nhân văn này.
- Xác định rõ bản chất đặc trưng và mơ hình cấu trúc của chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam.
- Làm rõ các động lực phát triển của chủ nghĩa xã hội, trong đó động lực con
người với nhu cầu và lợi ích của họ giữ vị trí trung tâm. Mặt khác việc phát hiện
động lực, có chính sách phát huy và kết hợp các động lực phát triển sẽ làm cho
chủ nghĩa xã hội sinh động, năng động và mang tính thực tiễn.
- Xác định rõ bước đi và cách làm chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay con đường cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội đang bị chi phối, tác động mạnh mẽ của rất nhiều yếu tố khách quan và chủ
quan; thách thức rất lớn, nhưng cũng rất nhiều thời cơ, vận hội. Trên cơ sở quan niệm
đúng đắn của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, lại có kinh nghiệm
thực tiễn hơn 70 năm qua, đặc biệt là thực tiễn của gần 20 năm đổi mới, cho phép chúng
ta hiểu được thực chất con đường độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh
hiện nay. Độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội là nhu cầu sống còn, là sự lựa chọn
duy nhất đúng của Việt Nam.


IV. KẾT LUẬN QUAN ĐIỂM CỦA BẢN THÂN VỀ VẤN ĐỀ ĐỘC LẬP DÂN
TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
4.1. Kết luận
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập năm 1930 đến nay, độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội luôn là mục tiêu được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết
tâm thực hiện. Thực tiễn hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và gần
ba mươi năm đổi mới đất nước đã chứng minh giành, giữ độc lập dân tộc gắn với xây
dựng chủ nghĩa xã hội như một quy luật tất yếu khách quan, phù hợp với sự vận động
phát triển sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
17


Trong tiến trình đổi mới, Đảng nhận diện ngày càng rõ hơn vấn đề độc lập dân tộc và
CNXH trước bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng. Tiến trình đổi mới là sự
tiếp tục vận động của những quan niệm mới về CNXH và con đường xây dựng CNXH
của Đảng, được hình thành dựa trên những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa những nhận thức đúng đắn mà Đảng đã tích lũy được trong
suốt q trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam (17).
Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là mục tiêu, là nội dung nổi bật, xuyên suốt và chủ
đạo trong quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đường lối độc lập dân tộc gắn
liền với CNXH là một trong những nguyên nhân của mọi thắng lợi vẻ vang trong sự
nghiệp cách mạng của dân tộc và mãi là ánh sáng soi đường cho sự nghiệp đổi mới, thực
hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng trong
thế kỷ XXI của Đảng và nhân dân Việt Nam.
Ngày nay, độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội, tư tưởng “khơng có gì q hơn độc
lập tự do” vẫn giữ nguyên giá trị và sức sống của nó. Bởi vì, tình hình quốc tế diễn biến
phức tạp, thay đổi khó lường. Hịa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế lớn. Nhưng xung
đột vũ trang, tranh chấp lãnh thổ, khủng bố quốc tế, xung đột dân tộc, tôn giáo... vẫn diễn
ra ở nhiều nơi. Cách mạng khoa học cơng nghệ và tồn cầu hóa tạo cơ hội cho các nuớc

phát triển, nhưng cạnh tranh, tranh giành thị trường, các nguồn nguyên liệu, năng lượng,
nguồn lực khoa học công nghệ giữa các quốc gia, các tập đoàn kinh tế diễn ra quyết liệt,
đặt các quốc gia, nhất là các nước đang và kém phát triển trước những thách thức gay gắt.
Thực tiễn trên thế giới, nhiều nước sau khi giành được độc lập đưa đất nước đi theo con
đường tư bản chủ nghĩa đang rơi vào tình trạng nghèo đói, khó khăn, chiến tranh, xung
đột sắc tộc, tơn giáo, phe phái. Sự nghèo đói, chậm phát triển làm cho quốc gia đó khơng
thể có độc lập thật sự. Nhiều nước trước đây là chủ nghĩa xã hội, trong công cuộc cải tổ,
cải cách đã mắc sai lầm cơ bản về đường lối cách mạng, thậm chí phản bội lại chủ nghĩa
xã hội, muốn đưa đất nước đi theo con đường tư bản chủ nghĩa hay “xã hội dân chủ” với
ảo tưởng mong chờ vào sự giúp đỡ của thế giới tư bản nhưng hiện nay đang rơi vào tình
trạng khủng hoảng trầm trọng về kinh tế - xã hội, về con đường phát triển của đất nước;
nhiều định hướng giá trị của xã hội bị đảo lộn; xung đột sắc tộc, tôn giáo, phe phái gia
tăng; đời sống của người lao động ngày càng khó khăn, tình trạng phân hóa giàu nghèo
ngày càng gia tăng; đặc biệt tác động của đại dịch COVID-19 đến kinh tế, đời sống của
người dân và cách giải quyết của các nước làm cho vị thế của các nước đó trên trường
quốc tế ngày càng giảm sút; đồng thời, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam.
Dù thời cuộc biến đổi xoay vần ra sao, dù phải đối mặt với xu thế toàn cầu hố, với tất cả
mặt tích cực và tiêu cực, bất trắc; mãi mãi giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta tiếp tục giành thắng lợi to lớn hơn
nữa trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
18


công bằng, văn minh, đưa đất nước ta sánh vai cùng các nước trong khu vực và trên thế
giới.
4.2. Liên hệ thực tiễn
Đặc biệt, thế hệ trẻ Việt Nam là lực lượng đơng đảo và vai trị quan trọng trong thực hiện
thắng lợi mục tiêu, lý tưởng cách mạng mà Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí

Minh đã lựa chọn.. Đa số thế hệ trẻ hiện nay đã thể hiện lòng trung thành với Đảng, với
Tổ Quốc, luôn đi đầu trong thực hiện các nhiệm vụ học tập, lao động sản xuất và công tác
xã hội, không ngại khó khăn, gian khổ, thể hiện sự cần cù, mưu trí, dũng cảm trong hoạt
động thực tiễn. Trong cơng cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo,
“Tuổi trẻ giữ nước”, “Năm xung kích phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc” …
Đặc biệt, cuộc vận động “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác” đã góp phần
quan trọng để giáo dục truyền thống, đạo đức, lối sống và cổ vũ thế hệ trẻ vươn lên trong
học tập, cơng tác.
Hiện nay, tình hình thế giới đang có những diễn biến rất phức tạp, các thế lực thù địch
vẫn tiếp tục chống phá cách mạng nước ta với những âm mưu thủ đoạn ngày càng xảo
quyệt, tinh vi hơn. Chúng tìm mọi cách nhằm thực hiện chiến lược “diễn biến hịa bình”,
sử dụng những chiêu bài “dân chủ, nhân quyền”, “tự do tơn giáo” hịng phá hoại khối
đồn kết của nhân dân ta. Thế hệ trẻ là một trong những đối tượng mà kẻ thù ln tìm
mọi cách mua chuộc, tác động đến nhận thức và tình cảm với mục đích làm cho thanh
niên thờ ơ với các vấn đề chính trị - xã hội, phải nhạt lý tưởng cách mạng của Đảng là
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, lơ là trong học tập, công tác, suy giảm niềm tin,
buông thả trong đạo đức, lối sống.
Do đó, để thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, vấn đề giáo dục lý tưởng độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nâng cao ý thức bảo vệ Tổ quốc càng trở nên bức
thiết và cần tập trung vào các nội dung chính sau:
- Giáo dục nâng cao nhận thức về mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với với chủ
nghĩa xã hội.
Mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng ta là thực hiện một nước Việt Nam độc
lập và đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, cần giáo dục cho thế hệ trẻ nhận thức sâu
sắc nội dung này. Làm cho họ hiểu được nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa trong tình hình hiện nay không chỉ là bảo vệ vùng trời, vùng biển,
biên cương lãnh thổ. Đó cịn là bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội
chủ nghĩa, giữ vững hịa bình, ổn định chính trị và an ninh quốc gia, trật tự an toàn
xã hội, chủ động đấu tranh làm thất bại âm mưu và hành động chống phá của các
thế lực thù địch. Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Yêu tổ quốc,

yêu nhân dân phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã
19


hội thì nhân dân mình mới ngày càng một ấm no thêm, Tổ quốc mỗi ngày một
giàu mạnh thêm”. Từ đó, mỗi người cụ thể hóa thành những hành động cách mạng
trong học tập, rèn luyện và hoạt động thực tiễn.
- Giáo dục về truyền thống yêu nước của nhân dân và truyền thống kiên cường bất khuất
của dân tộc ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhân dân ta có một lịng nồng nàn u nước.
Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm
lăng, thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to
lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả bè lũ bán nước
và lũ cướp nước”. Cần giáo dục cho thế hệ trẻ nhận thức sâu sắc truyền thống yêu
nước, tinh thần bất khuất của dân tộc ta. Qua đó, giúp thanh niên khơng ngừng
phát huy tinh thần u nước, tích cực học tập, rèn luyện biến niềm vinh dự, tự hào
thành hành động cách mạng thiết thực.
- Thường xuyên giáo dục cho thế hệ trẻ nhận rõ âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, biết chủ
động phòng ngừa, đấu tranh kiên quyết với mọi quan điểm và hành động sai trái.
Thế hệ trẻ là lực lượng năng động, ham học hỏi, thích ứng nhanh nhưng việc tiếp
thu và chọn lọc thơng tin còn hạn chế. Cho nên, việc giáo dục cho họ có lập
trường, bản lĩnh chính trị vững vàng, nhận biết được những luận điệu của kẻ thù,
không bị nhiễu khi tiếp nhận thông tin, tạo ra sức “đề kháng” và “miễn dịch” cho
thế hệ trẻ là một nội dung hết sức quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối với việc
đấu tranh chống lại các quan điểm thù địch. Qua đó, giáo dục lý tưởng cách mạng,
củng cố bản chất cách mạng cho họ góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.

Để nâng cao hiệu quả giáo dục lý tưởng độc lập dân tộc chủ nghĩa xã hội cho thế hệ
trẻ hiện nay, cần thực hiện tốt một số biện pháp sau:

Một là, phát huy vai trò cấp ủy Đảng trong giáo dục, bồi dưỡng lý tưởng độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của cấp ủy Đảng các cấp giữ vai trò quan trọng,
đảm bảo cho công tác giáo dục thế hệ trẻ đúng hướng, có mục tiêu rõ ràng, sát với
nhiệm vụ thực tiễn và đạt được hiệu quả cao. Cấp ủy, chi bộ Đảng cần tăng cường
lãnh đạo, định hướng giúp đỡ Ban Chấp hành Chi đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên
trong việc bồi dưỡng lý tưởng cách mạng của Đảng, nâng cao nhận thức chính trị,
đạo đức lối sống cho thế hệ trẻ hiện nay.

20


Hai là, phát huy vai trò của đội ngũ giảng viên, giáo dục lý tưởng độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội.
Giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục trong các nhà trường là lực lượng trực tiếp
thực hiện nhiệm vụ giáo dục, đào tạo nói chung và giáo dục lý tưởng cách mạng, ý
thức bảo vệ Tổ quốc nói riêng. Trong q trình dạy học, giảng viên, giáo viên cần
có sự lồng ghép nội dung trên đây để bồi dưỡng, giáo dục cho thế hệ trẻ. Mặt
khác, đội ngũ giảng viên, giáo viên phải nêu tấm gương sáng, thực sự thấm nhuần
lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội để người học noi theo.
Ba là, phát huy vai trị xung kích của tổ chức Đoàn trong giáo dục lý tưởng độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là trường xã hội chủ nghĩa của thanh
niên, nơi trực tiếp quản lý giáo giáo dục đoàn viên, thanh niên. Tổ chức Đoàn phải
xác định, cơng tác giáo dục lý tưởng cách mạng nói chung và lý tưởng độc lập dân
tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội nói riêng là nhiệm vụ quan trọng. Để nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác giáo dục lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội cho thế hệ trẻ, tổ chức Đoàn các cấp phải thường xuyên đổi mới nội dung,
hình thức, phương pháp giáo dục cho phù hợp với đặc điểm tâm, sinh lý của tuổi
trẻ, tránh cách làm cứng nhắc, dập khn, máy móc. Cơng tác giáo dục lý tưởng

cách mạng, ý thức bảo vệ Tổ quốc phải được tiến hành thường xuyên, có trọng
tâm, trọng điểm.
Để giáo dục, bồi dưỡng lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội cho
thế hệ trẻ cần chú trọng tổ chức tốt các phong trào hành động cách mạng của tuổi
trẻ như hoạt động thi đua, giao lưu văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao, vui chơi
giải trí… Trên cơ sở đó định hướng tư tưởng, củng cố niềm tin, xây dựng động cơ
đúng đắn cho thế hệ trẻ.
Bốn là, phát huy vai trò tự học, tự rèn của thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay.
Để xứng đáng với vị trí, vai trị của mình, thế hệ trẻ hiện nay phải thường xuyên
trau dồi lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, ra sức học tập nâng
cao trình độ kiến thức mọi mặt, rèn luyện đạo đức lối sống, giữ gìn truyền thống
của dân tộc. Qua học tập, rèn luyện để hình thành những phẩm chất nhân cách tốt
đẹp, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa./.

21


22


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết của Bộ Chính trị về một số định hướng lớn
trong công tác tư tưởng hiện nay, tr.7.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb.Chính -trị quốc gia, H.1996, tr.14.
3. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị - Hành chính, H.2011.
4. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia.
5. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI.
6. />7. />option=com_content&view=article&id=1625:t-tng-h-chi-minh-v-c-lp-dan-tc-gnlin-vi-ch-ngha-xa-hi&catid=72:hc-tp-lam-theo-li-bac&Itemid=91&lang=vi

8. />9. />
23


×