Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Thành tựu và nguyên nhân khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội. Các mô hình và trào lưu chủ nghĩa xã hội từ 1991 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.16 KB, 19 trang )

Thảo luận:
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội. Thành tựu và nguyên nhân khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội. Các
mô hình và trào lưu chủ nghĩa xã hội từ 1991 đến nay.
Nội dung:
I. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về CNXH và con đường đi lên
CNXH. Nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam của Đảng
ta.
Chủ nghĩa xã hội theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin là giai đoạn đầu
của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội tiến bộ, ưu việt
hơn tất cả các xã hội trước đó về các đặc trưng kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội nhằm
giải phóng con người khỏi mọi tình trạng áp bức, bóc lột, bất công. Để xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội, những người cộng sản phải hình dung, phác thảo ra
được những đường nét cơ bản nhất của mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa (mà chúng ta
gọi đó là những ''đặc trưng''). Nếu không phác thảo được mô hình, những đường nét
cơ bản thì rất khó xác định mục tiêu phấn đấu, định hướng để xây dựng chủ nghĩa xã
hội và biến chúng thành hiện thực trong cuộc sống. Hơn nữa, những đặc trưng thể
hiện mô hình đó phải phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử xã hội loài người,
phản ánh được nét đặc sắc của truyền thống dân tộc và xu thế phát triển của thời đại.
Đây là đòi hỏi tất yếu nhưng cũng rất khó khăn đối với các Đảng cộng sản trong quá
trình lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là trong bối cảnh tình hình hiện nay,
khi mà chủ nghĩa xã hội trên thế giới vẫn đang còn trong tình trạng thoái trào.
Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã có những dự báo về những đặc
trưng của xã hội chủ nghĩa xã hội dựa trên thực tiễn đương thời. Tuy không coi đó là
mô hình bất biến, song các ông đã hình dung và phác thảo về chủ nghĩa xã hội - một
chế độ xã hội ưu việt và tiến bộ hơn so với các chế độ xã hội trước đó, thể hiện trên
một số nét cơ bản như sau:
Thứ nhất, mục tiêu cao nhất của CNXH là giải phóng con người khỏi mọi ách
bóc lột về kinh tế và nô dịch về tinh thần, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn
diện.
Nhờ xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN mà xóa bỏ sự đối kháng giai cấp,


xóa bỏ tình trạng người bóc lột người, tình trạng nô dịch và áp bức dân tộc, thực hiện
được sự công bằng, bình đẳng xã hội.
Thứ hai,cơ sở vật chất của CNXH được tạo ra bởi một lực lượng sản suất tiên
tiến, hiện đại.
Lênin khẳng định, cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH phải là nền sản xuất
công nghiệp hiện đại. Chỉ có nền sản xuất công nghiệp hiện đại mới đưa năng suất lao
động lên cao, tạo ra ngày càng nhiều của cải vật chất cho xã hội, đảm bảo đáp ứng


những nhu cầu vật chất và văn hóa của nhân dân, không ngừng nâng cao phúc lợi xã
hội cho toàn dân. “Chủ nghĩa cộng sản = chính quyền Xô viết + điện khí hóa”. Lênin
còn chỉ ra phải học CNTB cả trên lĩnh vực văn hóa và quản lý, Người nói: Hãy dùng
cả hai tay mà lấy những cái tốt của nước ngoài: Chính quyền Xô viết + trật tự ở
đường sắt Phổ + kỹ thuật và cách tổ chức các Tơ rớt ở Mỹ + ngành giáo dục quốc dân
Mỹ.
Thứ ba, CNXH là từng bước xoá bỏ chế độ tư hữu TBCN, thiết lập chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất.
Lênin cho rằng, CNXH là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, “từ chủ nghĩa tư
bản, nhân loại chỉ có thể tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, nghĩa là chế độ công hữu về
các tư liệu sản xuất và chế độ phân phối theo lao động của mỗi người ”. Trong khi thay
thế chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và lưu thông bằng chế độ sở hữu xã hội, ông cho
rằng cần phải lập ra một tổ chức hợp lý các quá trình sản xuất xã hội để đảm bảo phúc
lợi và sự phát triển toàn diện của các thành viên trong xã hội, cuộc cách mạng XHCN
của giai cấp vô sản sẽ thủ tiêu tình trạng phân chia xã hội thành giai cấp và do đó sẽ
giải phóng toàn thể loài người bị áp bức, chấm dứt mọi hình thức bóc lột của bộ phận
xã hội này với bộ phận xã hội khác.
Lênin cũng cho rằng, trong “giai đoạn thấp của xã hội cộng sản chủ nghĩa”,
chưa thể thực hiện công bằng, bình đẳng, về mặt của cải thì vẫn còn chênh lệch,
nhưng tình trạng người áp bức bóc lột người không còn nữa vì những tư liệu sản xuất
chủ yếu đã được sở hữu thuộc về xã hội. Từ thực tế nước Nga, sau Cách mạng Tháng

Mười, ông cho rằng, trong giai đoạn đầu của CNXH thì trong xã hội vẫn tồn tại nền
kinh tế nhiều thành phần tương ứng với mỗi thành phần kinh tế là một hình thức sở
hữu riêng. Do đó, tất yếu khách quan trong CNXH có sự tồn tại của các loại lợi ích
khác nhau và do các thành phần kinh tế quy định nên trong CNXH còn tồn tại các giai
cấp. Lênin chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần, nhưng kinh tế tập thể (công
hữu) vẫn giữ vai trò chủ đạo, chỉ huy và định hướng các thành phần kinh tế khác theo
quỹ đạo XHCN.
Theo V.I.Lênin, từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN bỏ qua giai đoạn phát
triển TBCN, cần thiết phải khôi phục lại quan hệ hàng hóa - tiền tệ và sự phát triển
của sản xuất hàng hóa. Nhưng sự phát triển sản xuất và trao đổi hàng hóa tất yếu sẽ
dẫn đến phân hóa giàu nghèo và làm phát sinh trở lại quan hệ sản xuất TBCN, nhưng
không vì thế mà ngăn cấm, điều quan trọng là phải tìm cách hướng các quan hệ sản
xuất TBCN ấy vận động theo quỹ đạo chung của nền kinh tế quá độ lên CNXH. Theo
Lênin, tốt nhất là hướng chúng vào con đường của CNTB nhà nước, đó chính là sự
“kết hợp, liên hợp, phối hợp giữa nhà nước Xô viết - nền chuyên chính vô sản với chủ
nghĩa tư bản”.
Thứ tư, CNXH tạo ra cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới với năng
suất cao.
2


Trong những luận giải của mình về CNXH, V.I.Lênin đã nêu rõ nguyên nhân vì
sao CNXH đã tạo ra được một năng suất lao động cao hơn so với CNTB. Ngoài cơ sở
vật chất là nền đại công nghiệp hiện đại, thì còn do những yếu tố vốn có của CNXH,
những yếu tố này không thể có được trong lòng CNTB. Đó là cách tổ chức lao động
và kỷ luật lao động mới. V.I.Lênin khẳng định kỷ luật của chế độ nô lệ và chế độ
phong kiến là kỷ luật roi vọt; kỷ luật của CNTB là kỷ luật đói; còn kỷ luật của CNXH
là kỷ luật tự giác và tự nguyện của chính ngay những người lao động.
Để có được cách tổ chức lao động mới thì cần phải thực hiện chế độ kiểm kê,
kiểm soát toàn dân. Khi thực hiện Chính sách kinh tế mới, tư tưởng về sự kiểm kê,

kiểm soát toàn dân được đề cao, V.I.Lênin coi đó là để cứu nước Nga khỏi tình trạng
khủng hoảng kinh tế, nhưng vẫn đảm bảo cho nước Nga tiến lên CNXH. Ông coi việc
kiểm kê, kiểm soát toàn dân đối với sản xuất và phân phối sản phẩm là một hình thức
của sự quá độ, là cái giữ cho xã hội không đi chệch khỏi con đường XHCN trong điều
kiện thực hiện CNTB nhà nước. Như vậy, CNXH sẽ tạo ra một năng suất lao động
cao hơn CNTB nhờ việc đưa ra một hình thức tổ chức lao động và kỷ luật lao động
mới. Hình thức tổ chức lao động và kỷ luật lao động đó được thực hiện trên cơ sở của
sự kiểm kê, kiểm soát toàn dân đối với việc sản xuất và phân phối sản phẩm đảm bảo
lợi ích của người lao động.
Thứ năm,CNXH thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động.
Đó là việc phân phối tư liệu sinh hoạt cho mỗi người sản xuất. Theo V.I.Lênin,
phân phối theo lao động là cách thức phân phối trong giai đoạn thấp của xã hội cộng
sản chủ nghĩa. Cách thức phân phối theo lao động là thích hợp nhất với CNXH, bởi vì
nó được dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Phân phối theo lao động không
có nghĩa là mỗi người làm được bao nhiêu sản phẩm thì được hưởng hết bấy nhiêu.
Trái lại, tổng sản phẩm do lao động xã hội tạo ra phải được đem phân phối cho cả tiêu
dùng cá nhân, cho cả tích lũy tái sản xuất mở rộng và cho cả tiêu dùng công cộng của
xã hội. Phương thức phân phối sẽ thay đổi tùy theo bản thân loại cơ cấu sản xuất xã
hội và tùy theo trình độ phát triển lịch sử tương ứng của những người sản xuất.
V.I.Lênin chỉ rõ, trong CNXH của cải làm ra chưa đạt đến mức dồi dào, lao
động còn là nghĩa vụ, là phương tiện để sinh sống chứ chưa trở thành nhu cầu bậc
nhất của đời sống ở giai đoạn cao là chủ nghĩa cộng sản. Do đó, cách phân phối sản
phẩm theo lao động được dựa trên hai nguyên tắc: “người nào không làm thì không
ăn”; “số lượng lao động ngang nhau thì hưởng số sản phẩm ngang nhau”. Hơn nữa,
CNXH ra đời và phát triển chưa phải dựa trên cơ sở của chính nó mà thoát thai từ xã
hội cũ nên vẫn còn nhiều dấu vết, sức ỳ của xã hội cũ, nhiều người còn trốn tránh,
lười biếng trong lao động. Vì vậy, cần thiết phải phân phối theo lao động và kiểm tra
kiểm soát nghiêm mức độ lao động và tiêu dùng của mỗi người.

3



Thứ sáu, nhà nước trong CNXH là nhà nước dân chủ kiểu mới, thể hiện bản
chất giai cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích, quyền lực và ý chí của nhân dân lao
động.
Tác phẩm Nhà nước và cách mạngnổi tiếng được Lênin viết tại Radơlip (Phần
Lan) là toàn bộ lý luận về nhà nước, những quan điểm về một nhà nước kiểu mới Nhà nước vô sản đầu tiên trên thế giới của Lênin. Trong tác phẩm này, Lênin không
những đã lĩnh hội được quan điểm của Mác và Ăngghen về xây dựng một nhà nước
cách mạng mà còn phát triển một bước học thuyết của chủ nghĩa Mác về nhà nước và
chuyên chính vô sản ở nước Nga.
Theo Lênin, nhà nước được thành lập bởi thắng lợi của cách mạng vô sản phải
là một nhà nước trên cơ sở đập tan toàn bộ bộ máy nhà nước cũ. Khi giai cấp vô sản
giành được chính quyền thì sức mạnh của đảng được thực hiện thông qua nhà nước,
đảng sẽ lãnh đạo được toàn xã hội. Để giúp giai cấp vô sản hiểu về nhà nước, biết
cách quản lý nhà nước của mình, Người chỉ ra các nguyên tắc cho việc xây dựng một
nhà nước sau thắng lợi của cách mạng vô sản. Đó là, phải đảm bảo sự lãnh đạo của
đảng cộng sản - đảng kiểu mới của giai cấp vô sản; đảm bảo quyền làm chủ của nhân
dân; đảm bảo tập trung dân chủ trong cơ chế vận hành của nhà nước và đảm bảo dân
chủ trong xã hội.
Lênin nhấn mạnh, thông qua nhà nước, đảng lãnh đạo toàn xã hội về mọi mặt
và nhân dân lao động thực hiện quyền lực và lợi ích của mình trên mọi mặt của xã
hội. Nhân dân lao động tham gia nhiều vào công việc nhà nước. Đây là một “nhà
nước nửa nhà nước”, với tính tự giác, tự quản của nhân dân rất cao, thể hiện các
quyền dân chủ, làm chủ và lợi ích của chính mình ngày càng rõ hơn. “Chính quyền
Xô viết là một kiểu nhà nước mới, không có bộ máy quan liêu... một kiểu nhà nước
trong đó nền dân chủ tư sản được thay thế bằng nền dân chủ mới - một nền dân chủ
đang đưa đội tiên phong của quần chúng lên hàng đầu, là cho quần chúng trở thành
những người lập pháp và hành pháp, thành những đội vũ trang bảo vệ và thiết lập một
bộ máy có khả năng cải tạo quần chúng”. Để xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước
cần hết sức quan tâm vấn đề đào tạo và bồi dưỡng cán bộ. Muốn đổi mới bộ máy nhà

nước thì “chúng ta phải cố hết sức tự đặt cho mình nhiệm vụ sau đây: một là học tập,
hai là học tập, ba là học tập mãi, và sau nữa, phải làm sao cho học thức ở nước ta
không nằm trên giấy hoặc là một lời nói theo mốt nữa... phải làm sao cho học thức
thật sự ăn sâu vào trí não, hoàn toàn thực tế trở thành một bộ phận khăng khít của
cuộc sống”. Trong đó, công tác tuyển chọn, bổ nhiệm và sử dụng cán bộ cần hết sức
chú ý đến các tiêu chuẩn:a) về mặt trung thực; b) về lập trường chính trị; c) về mặt
hiểu biết công việc; d) về năng lực quản lý. Người còn nhấn mạnh, cần đấu tranh
chống tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong bộ máy nhà nước. Và, không được
chần chừ, do dự, phải mạnh dạn thay đổi những cán bộ năng lực yếu kém, không chịu
khó học tập. Muốn vậy, nhà nước phải quản lý xã hội bằng pháp luật và tăng cường
pháp chế XHCN.
4


Thứ bảy, trong CNXH, các quan hệ giai cấp - dân tộc - quốc tế được giải quyết
phù hợp, kết hợp lợi ích giai cấp - dân tộc với chủ nghĩa quốc tế trong sáng.
Đối với Lênin, tiếp cận và giải quyết vấn đề dân tộc phải đứng vững trên lập
trường cách mạng của giai cấp công nhân. Trong tác phẩm Quyền dân tộc tự quyếtviết
năm 1914, Lênin đã nêu rõ nội dung cương lĩnh dân tộc của Đảng: “Các dân tộc hoàn
toàn bình đẳng; các dân tộc được quyền tự quyết; liên hiệp giai cấp công nhân tất cả
các dân tộc lại; đó là cương lĩnh dân tộc mà chủ nghĩa Mác, kinh nghiệm toàn thế giới
và kinh nghiệm nước Nga dạy cho công nhân”.
Khi chủ nghĩa đế quốc trở thành hệ thống thế giới, cách mạng giải phóng dân
tộc trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản, Lênin cho rằng cuộc đấu tranh của
giai cấp vô sản chính quốc sẽ không giành được thắng lợi, nếu nó không liên minh với
cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức. Từ đó, Người cùng với Quốc tế cộng sản bổ
sung khẩu hiệu nêu trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sảnthành: “Vô sản tất cả các
nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”.
“Chủ nghĩa xã hội có mục đích không những xóa bỏ tình trạng nhân loại bị chia
thành những quốc gia nhỏ, xóa bỏ mọi trạng thái biệt lập giữa các dân tộc, không

những làm cho các dân tộc gần gũi nhau, mà cũng còn nhằm thực hiện việc hợp nhất
các dân tộc lại”. Chính vì vậy, CNXH nhất thiết phải bảo đảm quyền bình đẳng giữa
các dân tộc trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, không phân biệt
dân tộc đa số hay thiểu số, về lịch sử ra đời sớm hay muộn, trình độ phát triển cao hay
thấp giữa các dân tộc. Đối lập với các chế độ áp bức bóc lột người thường phân biệt,
kỳ thị và chia rẽ các dân tộc, CNXH gắn việc xây dựng tình đoàn kết các dân tộc, tôn
trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển, từng bước rút ngắn khoảng cách chênh lệch về
trình độ phát triển giữa các dân tộc hiện nay. CNXH gắn liền với việc xây dựng tình
đoàn kết các dân tộc, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển, từng bước rút ngắn
khoảng cách chênh lệch về trình độ phát triển giữa các dân tộc hiện nay. Đồng thời,
phải đấu tranh không khoan nhượng chống chủ nghĩa dân tộc cực đoan, phản động,
cần phải phân biệt chủ nghĩa dân tộc của dân tộc đi áp bức và chủ nghĩa dân tộc của
một dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa dân tộc của một dân tộc lớn với chủ nghĩa dân
tộc nhỏ.
Trên cơ sở nhận thức về thời đại, nhận thức về dân tộc và sức mạnh dân tộc, từ
thực tiễn của công cuộc đổi mới đất nước dựa trên nền tảng của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ở
Việt Nam của Đảng ta ngày càng rõ hơn. Trong quá trình đổi mới nhận thức, Đảng ta
đã nhận thấy việc xác định đúng mô hình CNXH là yếu tố có ý nghĩa quyết định đến
sự thành công của công cuộc xây dựng XHCN ở nước ta. Bởi đó là cơ sở, là định
hướng để Đảng và Nhà nước hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách và pháp
luật nhằm hiện thực hóa mục tiêu CNXH ở Việt Nam.
5


Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ
sung, phát triển năm 2011) đã điều chỉnh, chuẩn hóa một số nội dung và cô đọng hóa
một số đặc trưng: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội:
Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền
kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ
phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống

ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng
đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng
Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.
Các đặc trưng của CNXH mà nhân dân ta xây dựng được nêu trên là thành quả
của công cuộc đổi mới, trước hết là thành quả của đổi mới nhận thức lý luận về
CNXH, trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong điều kiện hiện nay. Đó cũng là thực hiện di
huấn của Lênin “Hãy đưa chủ nghĩa xã hội vào cuộc sống”, và là thành quả của sự
kết hợp hài hòa giữa “cái phổ biến” và “cái đặc thù”, cái chung và cái riêng để tạo nên
một mô hình: CNXH Việt Nam. Công cuộc đổi mới đất nước đã và đang thu được
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Những đặc trưng của CNXH mà nhân dân
ta đang xây dựng đã thể thể hiện tính ưu việt của CNXH Việt Nam.
Về đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Cương lĩnh 2011 đã khẳng
định: “Xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ, có nền kinh tế phát triển
cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam
bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản
lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới''.
Trong 8 đặc trưng nêu trên, so với Cương lĩnh 1991, có những sự bổ sung, phát
triển quan trọng sau đây:
Có 2 đặc trưng bổ sung mới là:
Đặc trưng thứ nhất “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Đây vừa là đặc trưng tổng quát, đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội Việt
Nam. Chủ nghĩa xã hội phải làm cho dân giàu, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Nghèo đói không phải là chủ nghĩa xã hội. Dân giàu là giàu cả đời sống vật chất và
đời sống văn hóa tinh thần. Dân giàu nhưng phải làm cho nước mạnh, dân có giàu

nước mới mạnh, phải nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia. Dân giàu nhưng phải
đảm bảo công bằng xã hội, đây là thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội. Lần này
trong Cương lĩnh 2011, khi diễn đạt đặc trưng thứ nhất có sự thay đổi về trật tự từ so
6


với diễn đạt trong Văn kiện Đại hội X của Đảng: Cụm từ ''dân chủ'' được đưa lên
trước cụm từ ''công bằng''. Sự thay đổi này không phải ngẫu nhiên và không đơn thuần
là sắp xếp lại thứ tự mà phản ánh sự nhận thức ngày càng sâu sắc hơn của Đảng ta đối
với mục tiêu dân chủ. Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục
tiêu, vừa là động lực, là nguồn lực phát triển đất nước. Dân chủ, theo Chủ tịch Hồ Chí
Minh, tức dân là chủ, dân làm chủ, dân là gốc, dân chủ là chìa khóa vạn năng. Do đó
dân chủ phải được đặt ở một vị trí tương xứng với tầm vóc, giá trị của nó trong Cương
lĩnh 2011 và khi đề cao dân chủ, chúng ta không hề coi nhẹ kỷ luật, kỷ cương phép
nước là cái hiện nay chúng ta còn nhiều yếu kém. Càng coi trọng dân chủ càng phải
coi trọng kỷ luật, pháp luật, kỷ cương phép nước trong quản lý đời sống xã hội. Cả
dân chủ và cả kỷ luật đều là những mặt chúng ta còn nhiều hạn chế, cần phải phấn
đấu nâng cao.
Đặc trưng mới thứ hai là ''có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo''.
Đặc trưng này là kế thừa của Văn kiện Đại hội X của Đảng, phản ánh đường
lối xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân, nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước, phù hợp với thực tiễn Việt
Nam và xu thế của thời đại. Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo
Nhà nước và xã hội, song Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Vì vậy, để tránh hiểu lầm hoặc sự xuyên tạc của một số người khi cho rằng ''dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản'' nghĩa là Đảng ta đứng trên Nhà nước và pháp luật, nêu
trong Cương lĩnh 2011 đã thay từ “dưới'' sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản bằng từ ''do''
Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Trong nhiều đặc trưng còn lại của Cương lĩnh 2011, đều có sự bổ sung, phát

triển cho phù hợp với thực tiễn và nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội. Ngay cả ở đặc
trưng về văn hóa ''có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc'' tuy không có sự
thay đổi gì về câu chữ so với Cương lĩnh 1991 và Văn kiện Đại hội X song vẫn chứa
đụng những nhận thức mới sâu sắc hơn của Đảng ta về nội hàm khái niệm ''nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, về vai trò của văn hóa là nền tảng tinh thần của
xã hội, về quan hệ giữa kinh tế và văn hóa...
Kế thừa Văn kiện Đại hội X, trong Cương lĩnh 2011 Đảng ta khẳng định lại đặc
trưng ''do nhân dân làm chủ'' (bỏ cụm từ ''lao động'' trong Cương lĩnh năm 1991). Sự
khẳng định đó nhằm phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; mỗi người
dân Việt Nam đều là người chủ đất nước, có trách nhiệm xây dựng đất nước, dù mình
sống trong hay ngoài nước.
Về đặc trưng kinh tế của chủ nghĩa xã hội, kế thừa Văn kiện Đại hội X (năm
2006), Cương lĩnh xác định: “Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp'' (thêm từ ''tiến bộ'' so với Văn kiện
Đại hội X và không có cụm từ ''chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu” như
7


trong Cương lĩnh 1991). Trong đặc trưng về kinh tế của chủ nghĩa xã hội, nếu đặc
trưng về lực lượng sản xuất ý kiến khá thống nhất thì đặc trưng về quan hệ sản xuất
vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau cần phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu. Tuy nhiên, ở đây
có thể hiểu quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp là quan hệ sản xuất được xét trong chỉnh
thể trên cả ba mặt: quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối và sự phù
hợp không chỉ với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mà còn phù hợp với chế
độ xã hội, với từng điều kiện lịch sử - cụ thể, với đặc thù dân tộc... Quan hệ sản xuất
tiến bộ phù hợp ở nước ta chính là quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa (trong chủ nghĩa
xã hội). Đến khi chúng ta xây dựng xong chủ nghĩa xã hội, quan hệ sản xuất tiến bộ
phù hợp đó phải dựa trên chế độ công hữu về các tư liệu chủ yếu.
Trong đặc trưng về con người, trên cơ sở kế thừa Cương lĩnh 1991, song tách
đặc trưng về phân phối ra, Cương lĩnh 2011 xác định ''con người có cuộc sống ấm no,

tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”. Muốn có cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc, tất yếu phải giải phóng con người khỏi áp bức bóc lột, bất công, coi sự
phát triển con người là mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội. Tất cả vì con người và
do con người. Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể
phát triển.
Trong đặc trưng về quan hệ dân tộc, Cương lĩnh 2011 khẳng định: “Các dân
tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát
triển”. Việc bổ sung cụm từ “tôn trọng” so với Cương lĩnh 1991 là rất có ý nghĩa bởi
vì tôn trọng là một trong những nguyên tắc cơ bản để giải quyết vấn đề dân tộc trong
một quốc gia đa dân tộc như Việt Nam, nhất là sự tôn trọng của dân tộc đa số đối với
các dân tộc thiểu số. Không tôn trọng thì không thể có bình đẳng, đoàn kết thực sự
giữa các dân tộc.
Cuối cùng, đặc trưng về hợp tác quốc tế, trên cơ sở kế thừa Cương lĩnh
1991, song xác định có quan hệ hữu nghị và hợp tác không chỉ với nhân dân mà với
cả các nhà nước, các Đảng Cộng sản và công nhân, các phong trào xã hội tiến bộ, các
đảng cánh tả, đảng cầm quyền và các đảng khác... nên Cương lĩnh 2011 khẳng
định: ''Có quan hệ hữu nghĩa và hợp tác với các nước trên thế giới”. Đặc trưng này
phản ánh xu thế lớn của tình hình thế giới là hoà bình, hợp tác và phát triển, xu thế
toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, và cũng là nguyện vọng chân thành của Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta. Chúng ta thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động
và tích cực hội nhập quốc tế; Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách
nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội.
Các đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa được nêu ra trên đây trong Cương
lĩnh 2011 là những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng xong, tức khi đã
8


kết thúc thời kỳ quá độ (mặc dù có một số đặc trưng đã được thể hiện ra với nhĩmg

mức độ khác nhau ngay trong thời kỳ quá độ).
Mặt khác, nhận thức về các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà chúng ta nêu ra
trong Cương lĩnh 2011 không phải là khép kín, chết cứng, mà là một hệ thống mở bởi
vì nhận thức là một quá trình. Chúng ta tin rằng, với quá trình phát triển của thực tiễn
đổi mới và của nhận thức, Đảng ta chắc chăn sẽ có những nhận thức mới tiếp tục bổ
sung, phát triển, hoàn thiện đặc trưng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.
Các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội nêu trong Cương lĩnh 2011 là một hệ thống
chỉnh thể bao quát các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, chúng có quan hệ biện
chứng với nhau, tác động lẫn nhau - thể hiện các mối quan hệ hợp quy luật giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, giữa
kinh tế và chính trị, kinh tế và văn hoá - xã hội, kinh tế và quốc phòng - an ninh - đối
ngoại, giữa nội lực và ngoại lực, giữa mục đích và phương tiện... trong đó mục tiêu
cao nhất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người ra khỏi mọi áp bức, bóc lột, bất
công, con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn
diện, thể hiện phẩm giá của mình. Đó là giá trị cao cả, nhân văn, nhân đạo của chủ
nghĩa xã hội, theo đúng tư tưởng của C.Mác và Hồ Chí Minh.
II. Thành tựu và nguyên nhân khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội. Mô hình
và các trào lưu CNXH từ 1991 đến nay.
1. Sự ra đời của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa và những thành tựu
của nó.
a/ Sự ra đời và phát triển của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa:
Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới ra đời bao
gồm các nước: Liên Xô, Cộng hòa dân chủ Đức, Hunggari,Rumani, Tiệp Khắc,
Anbani, Mông Cổ, Trung Quốc, Triều Tiên, Việt Nam (sau này thêm Cuba). Chính vì
vậy, Hội nghị 81 Đảng Cộng sản và công nhân của các nước tại Matxcơva năm 1960
đã ra tuyên bố và khẳng định: “Đặc điểm chủ yếu của thời đại chúng ta là hệ thống xã
hội chủ nghĩa thế giới đang trở thành nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội loài
người”.
b/ Những thành tựu của chủ nghĩa xã hội hiện thực:

Cho dù lịch sử có biến động như thế nào, dù có ai cố tình xuyên tạc lịch sử
cũng không thể phủ nhận được sự thật là Liên Xô và các nước Đông Âu đã có một
thời kỳ phát triển rực rỡ và đạt được rất nhiều thành tựu to lớn đóng góp chung vào sự
phát triển của nhân loại trong thế kỷ XX.
- Chế độ xã hội chủ nghĩa đã từng bước đua nhân dân lao động lên làm chủ xã
hội, thúc đẩy trào lưu đấu tranh cho quyền tự do dân chủ trên toàn thế giới. Sự ra đời
của chế độ xã hội chủ nghĩa cũng có nghĩa là chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa được
9


thiết lập. Đó là chế độ dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân lao động, thực hiện ngày
càng đầy đủ quyền dân chủ, ngăn ngừa và trấn áp những hành vi xâm phạm quyền tự
do dân chủ của nhân dân.
- Trong hơn 70 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, Liên xô và các nước xã hội chủ
nghĩa đã đạt được sự phát triển mạnh mẽ về tiềm lực kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất
kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội trên quy mô lớn với trình độ hiện đại, đảm bảo ngày
càng tốt hơn đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
- Chủ nghĩa xã hội có ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống chính trị thế giới, đóng
vai trò quyết định đối với sự sụp đổ của hệ thống thuộc địa, mở ra kỷ nguyên mới, kỷ
nguyên độc lập dân tộc và thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế
giới.
- Sức mạnh của chủ nghĩa xã hội đóng vai trò quyết định đẩy lùi nguy cơ chiến
tranh hủy diệt, bảo vệ hòa bình thế giới.
- Chủ nghĩa xã hội còn có tác động mạnh mẽ đến phong trào đấu tranh đòi dân
sinh, dân chủ của nhân dân trong các nước tư bản chủ nghĩa.
2. Sự khủng hoảng và sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội Xô Viết
Lịch sử xã hội loài người không đi theo con đường thẳng và phong trào cách
mạng cũng không tránh khỏi sai lầm, thất bại hay những thời kỳ thoái trào. Bắt đầu từ
cuối những năm 60 của thế kỷ XX, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu
đi vào thời kỳ khủng hoảng. Từ tháng 4 năm 1989 trở đi, sự đổ vỡ diễn ra liên tiếp ở

các nước Đông Âu. Chỉ trong vòng 2 năm, đến tháng 9 năm 1991, chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Liên Xô và sáu nước Đông Âu đã bị sụp đổ hoàn toàn. Sự đổ vỡ cũng diễn ra
ở Mông Cổ, Anbani, Nam tư.
a) Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng và sụp đổ:
* Nguyên nhân sâu xa:
- Là những sai lầm thuộc về mô hình phát triển của chủ nghĩa xã hội Xôviết.
Sau khi V.I.Lênin qua đời, ở Liên Xô, chính sách kinh tế mới không được tiếp tục
thực hiện mà chuyển sang kế hoạch hoá tập trung cao độ. Thời gian đầu, kế hoạch hoá
tập trung đã phát huy mạnh mẽ tác dụng, song đã biến dạng thành kế hoạch hoá tập
trung, quan liêu, bao cấp. Sau chiến tranh thế giới thứ II, Liên Xô vẫn tiếp tục duy trì
mô hình này. Trong mô hình này đã tuyệt đối hoá cơ chế kế hoạch hoá, tập trung cao,
từ bỏ hay gần như từ bỏ nền kinh tế hàng hoá, cơ chế thị trường, thực hiện chế độ bao
cấp tràn lan, triệt tiêu tính chủ động, sáng tạo của người lao động.
- Từ giữa những năm 70 của thế kỷ XX, sau cuộc khủng hoảng năng lượng năm
1973, các nước tư bản sau khủng hoảng đã tự điều chỉnh để thích nghi với tình hình
mới. Ngược lại, Liên Xô và các nước Đông Âu vẫn cứ giữ nguyên mô hình phát triển
10


theo kiểu tuyệt đối hoá cơ chế kế hoạch hoá, chỉ trú trọng đến phát triển công nghiệp
nặng mà không chú ý đến sản xuất các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu, đặc biệt là chưa
đầu tư đúng mức cho phát triển khoa học và công nghệ, dần dần tụt hậu so với các
nước tư bản chủ nghĩa. Do chậm đổi mới cơ chế kinh tế, hệ thống quản lý và nói
chung là chậm đổi mới mô hình chủ nghĩa xã hội dẫn đến hậu quả tất yếu là sự thua
kém rõ rệt trong nhiều lĩnh vực công nghệ và năng suất lao động so với các nước tư
bản chủ nghĩa. Những sai lầm chủ quan nghiêm trọng kéo dài như đã nói trên chính là
nguyên nhân sâu xa làm cho chế độ xã hội chủ nghĩa suy yếu, rơi vào khủng hoảng.
- Tuy nhiên, sự thất bại của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, Đông Âu không phải
xuất phát từ sai lầm, khuyết tật do bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa mà là do quan
niệm giáo điều về chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh năm 1991 của Đảng ta chỉ rõ: “ Do

duy trì quá lâu những khuyết tật của mô hình cũ của chủ nghĩa xã hội, chậm trễ trong
cách mạng khoa học và công nghệ” đã gây tình trạng trì trệ kéo dài và khủng hoảng.
* Nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp dẫn đến sự sụp đổ:
- Một là, trong cải tổ Đảng Cộng sản Liên Xô đã mắc những sai lầm rất nghiêm
trọng về đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đó là đường lối hữu khuynh, cơ hội
và xét lại, thể hiện trước hết ở những người lãnh đạo cao nhất.
Cải tổ ở Liên Xô bắt đầu từ 1986 và kết thúc trong sự đổ vỡ hoàn toàn năm
1991. Đường lối cải tổ trượt dài từ cơ hội hữu khuynh đến xét lại, từ bỏ hoàn toàn chủ
nghĩa Mác-Lênin, từ bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Từ chủ trương ban đầu
là cải tổ kinh tế chuyển nhanh sang cải tổ về chính trị một cách vô nguyên tắc đã tạo
điều kiện cho sự phát triển làn sóng “công khai”, “dân chủ”, “không có vùng cấm”,
phủ định mọi thành tựu của chủ nghĩa xã hội, gây tâm lý hoang mang cực độ trong tư
tưởng xã hội, phá vỡ niềm tin của quần chúng đối với chủ nghĩa xã hội. Bằng việc
loại bỏ dần những người không tán thành đường lối sai lầm của cải tổ, nhóm lãnh đạo
cải tổ đã chiếm được các vị trí chủ chốt trong bộ máy Đảng và nhà nước.
- Hai là, chủ nghĩa đế quốc đã can thiệp toàn diện, vừa tinh vi, vừa trắng trợn,
thực hiện được “diễn biến hòa bình” trong nội bộ Liên Xô và các nước Đông Âu. Chủ
nghĩa đế quốc thường xuyên tiến hành cuộc chiến tranh khi thì bằng súng đạn, khi
bằng “diễn biến hòa bình” chống chủ nghĩa xã hội, gây ra cuộc chiến tranh lạnh từ sau
Chiến tranh Thế giới thứ hai. Các chiến lược gia phương Tây đã sớm nhận ra “gót
chân Asin” của cải tổ: đó là đường lối xét lại, là hệ tư tưởng tư sản, là chính sách thỏa
hiệp, nhân nhượng vô nguyên tắc với Mỹ và phương Tây thể hiện ở “tư duy chính trị
mới”. Các thế lực chống chủ nghĩa xã hội ở bên ngoài theo sát quá trình cải tổ, tìm
mọi cách để lái nó theo ý đồ của họ, tác động vào cải tổ cả về tư tưởng, chính trị và tổ
chức.
Tóm lại, sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc cùng với sự phản bội từ bên trong
là nguyên nhân trực tiếp làm Liên Xô sụp đổ. Hai nguyên nhân này quyện chặt vào
nhau, tác động cùng chiều, tạo nên lực cộng hưởng rất mạnh và nhanh như một cơn
11



lốc chính trị trực tiếp phá hoại ngôi nhà của chủ nghĩa xã hội. Tất nhiên, xét cho cùng
chính bọn cơ hội, xét lại và phản bội, sự mất cảnh giác trong hàng ngũ những người
cộng sản đã tạo cơ hội bằng vàng cho chủ nghĩa đế quốc “chiến thắng mà không cần
chiến tranh”. Trong tình hình chủ nghĩa xã hội trì trệ và khủng hoảng do sai lầm
củamô hình cũ thì cải tổ, cải cách mở cửa, đổi mới là tất yếu để thoát khỏi khủng
hoảng, đưa đất nước vào thời kỳ phát triển mới. Nhưng vấn đề là ở chỗ, cải cách dựa
trên nguyên tắc nào? Bằng phương pháp nào để vừa giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa, vừa đạt được hiệu quả kinh tế xã hội cao.
2. Mô hình và các trào lưu xã hội chủ nghĩa từ năm 1991 đến nay:
Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã có tác động
mạnh mẽ đến các nước xã hội chủ nghĩa còn lại nhưng với sự kiên định con đường xã
hội chủ nghĩa, các nước này không những đứng vững mà còn thực hiện đổi mới tương
đối thành công. Trên cơ sở vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin vào
điều kiện cụ thể của mình, Trung Quốc và Việt Nam đã từng bước tìm ra con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội thích hợp. Tuy hai nước có những sự khác biệt về quy mô, vị
trí trên trường quốc tế, về văn hóa dân tộc nhưng sự đổi mới, mở cửa của Trung Quốc
và Việt Nam cũng có nhiều nét tương đồng với nhau:
- Từ bỏ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung chuyển sang nền kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa (Trung Quốc) hoặc kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa (Việt Nam). Quá trình đổi mới của hai nước đều thực hiện đa dạng hóa sở hữu,
trong đó quốc hữu giữ vai trò chủ thể (Trung Quốc) hoặc công hữu là nền tảng (Việt
Nam); kinh tế nhà nước là chủ đạo, sở hữu cổ phần được xem là hình thức chủ yếu
của chế độ công hữu (Trung Quốc) hoặc doanh nghiệp cổ phần trở thành hình thức
kinh tế phổ biến (Việt Nam); đa dạng hóa hình thức phân phối, coi trọng phân phối
theo lao động, đảm bảo quyền kinh doanh bình đẳng cho mọi loại hình doanh
nghiệp; giá cả, tỷ giá, lãi suất do thị trường xác định có sự điều tiết của nhà nước;
phát triển đồng bộ các loại thị trường từ thị trường hàng hóa dịch vụ đến thị trường
chứng khoán; thực hiện các chương trình phúc lợi xã hội rộng lớn, xóa đói giảm
nghèo, giữ gìn môi trường...

- Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo hướng xây dựng hệ
thống pháp luật ngày càng tương đồng với hệ thống pháp luật hiện đại, phù hợp với
những cam kết quốc tế; giảm dần sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp; gia tăng hiệu lực điều tiết vĩ mô; gia tăng sự phân
quyền cho các địa phương; thực hiện chế độ dân chủ, đặc biệt là ở các cơ sở theo
hướng công khai, minh bạch, gia tăng sự giám sát của các cấp, của công luận, của
Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp, của các tổ chức xã hội, thực hiện cải cách hành
chính..
- Xây dựng các tổ chức xã hội phi chính phủ đa dạng bao gồm các hội nghề
nghiệp, văn hóa, tôn giáo, xã hội...khuyến khích sự phát triển của các tổ chức này
12


hướng vào các mục đích như từ thiện, cứu trợ...
- Hội nhập quốc tế sâu rộng, tham gia vào hầu hết các tổ chức quốc tế như Liên
Hợp Quốc, WTO, các tổ chức khu vực như Hiệp hội ASEAN,Đông Á và trở thành
thành viên tích cực của các tổ chức này.
Đảm bảo sự cầm quyền và lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với công cuộc xây
dựng và phát triển đất nước trên tất cả các mặt. Sự lãnh đạo của Đảng cũng dần được
đổi mới theo hướng dân chủ và hiệu quả hơn, phù hợp với điều kiện cụ thể của Trung
Quốc và Việt Nam. Công cuộc cải cách của Trung Quốc và đổi mới ở Việt Nam đã
đạt được những thành tựu quan trọng. Những định hướng phát triển của Trung Quốc
và Việt Nam đều tôn trọng những giá trị tiến bộ của nhân loại, nghiên cứu và ứng
dụng chúng phù hợp với điều kiện cụ thể trên cơ sở những giá trị nhân đạo cơ bản của
chủ nghĩa Mác- Lênin. Sự tiến triển thực tế của những cuộc cải cách ở Trung Quốc và
Việt Nam sẽ góp phần quan trọng làm sáng tỏ hơn con đường đổi mới chủ nghĩa xã
hội.
Giai đoạn hiện nay, chủ nghĩa xã hội thế giới tạm thời lâm vào thoái trào. Trong
tình hình chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào thoái trào thì ở nhiều nơi trên thế giới,
nhất là khu vực Mỹ Latinh, từ những năm 1990 đã xuất hiện xu thế thiên tả và phát

triển lên thành một trào lưu vào đầu thế kỷ XXI. Từ 1998 đến nay, thông qua bầu cử
dân chủ, các Chính phủ cánh tả tiến bộ đã lên cầm quyền ở 11 nước Mỹ Latinh, trong
đó có nhiều nước tuyên bố đi lên chủ nghĩa xã hội.
Từ năm 2005, Tổng thống Vênêxuêla Hugo Chavez nhiều lần công khai tuyên
bố mục tiêu của cách mạng Vênêxuêla là đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Sau
khi tái đắc cử trong kỳ bầu cử tổng thống năm 2006, Tổng thống Hugo Chavez một
lần nữa khẳng định: Vênêxuêla sẽ tiếp tục con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở thế kỷ
XXI.Tổng thống Bôlivia Êvô Môralét nói rằng: chủ nghĩa xã hội là mơ ước của các
dân tộc Mỹ Latinh. Êcuađo và Nicarago cũng tuyên bố lựa chọn con đường chủ nghĩa
xã hội.Sự xuất hiện của “Chủ nghĩa xã hội Mỹ Latinh thế kỷ XXI” còn nhiều vấn đề
cần phải tiếp tục nghiên cứu, đánh giá nhưng đó là những biểu hiện về sức sống mãnh
liệt của chủ nghĩa xã hội hiện thực đối với các dân tộc Mỹ Latinh, thể hiện bước tiến
mới của chủ nghĩa xã hội thế giới. Đó cũng chính là bằng chứng chứng minh cho sức
sống và khả năng phát triển của chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, những thế lực phản động quốc tế đang dùng trăm
phương, nghìn kế bằng nhiều luận điệu khác nhau để xoá bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin
và phá hoại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của các nước xã hội chủ nghĩa còn
lại, nhằm xác lập sự thống trị tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản trên thế giới. Lịch sử
đang đặt ra những thử thách to lớn cho chủ nghĩa xã hội, phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế. Để vượt qua những thử thách đó, các nước xã hội chủ nghĩa phải tự đổi
mới, phải khắc phục những yếu kém, nhược điểm hạn chế trong các lĩnh vực của đời
sống xã hội, tranh thủ những điều kiện thuận lợi do cuộc cách mạng khoa học và công
13


nghệ tạo ra, không ngừng nâng cao năng suất lao động, cải thiện đời sống nhân dân,
để nâng cao sức mạnh mọi mặt của đất nước.
Trải qua những thăng trầm của lịch sử, những người cộng sản ở các nước thuộc
Liên Xô trước đây và các nước Đông Âu hiện nay đã nhận rõ bộ mặt kẻ thù, đang ra
sức tập hợp lực lượng, tiến hành cuộc đấu tranh bền bỉ nhằm khôi phục những giá trị

của chủ nghĩa xã hội để đưa đất nước trở lại con đường xã hội chủ nghĩa. Từ thực tế
những năm vừa qua giúp cho giai cấp công nhân, nhân dân tiến bộ trên thế giới thấy
được bộ mặt thật và tính chất nguy hiểm của chủ nghĩa tư bản hiện đại, từ đó mà đoàn
kết nhau lại để đấu tranh xoá bỏ chủ nghĩa tư bản, đưa đất nước đi theo con đường xã
hội chủ nghĩa.
Trong thời đại ngày nay: "Chủ nghĩa xã hội trên thế giới, từ những bài học
thành công và thất bại cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều
kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài
người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội". Thời đại ngày nay đang diễn ra cuộc đấu
tranh gay go, quyết liệt giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản trên phạm vi toàn
thế giới. Cuộc đấu tranh giữa hai chế độ xã hội khác nhau về bản chất đã và đang chi
phối toàn bộ quá trình vận động của lịch sử nhân loại. Đây là cuộc đấu tranh giữa một
chế độ mới ra đời, đang trưởng thành, nhưng còn hạn chế về nhiều mặt với một chế
độ xã hội đã lạc hậu về mặt lịch sử, nhưng đang có những ưu thế nhất định về kinh tế,
về quân sự. Cuộc đấu tranh giữa hai chế độ xã hội đối lập về bản chất đã và đang diễn
ra trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá, v.v..
Trong lĩnh vực kinh tế: Các học giả tư sản đang tìm mọi cách chứng minh nền
kinh tế tư bản chủ nghĩa là vĩnh cửu; chủ nghĩa tư bản không còn bóc lột như
trước. Thế giới tư bản chủ nghĩa đang dựa vào lợi thế kinh tế của mình; chủ nghĩa đế
quốc đang tìm trăm phương ngàn kế để phá hoại, hạn chế sự phát triển kinh tế của các
nước xã hội chủ nghĩa bằng bao vây, cấm vận kinh tế, hoặc thông qua chính sách toàn
cầu hoá để tiếp tục áp bức bóc lột những nước nghèo đem lại lợi thế to lớn cho các
nước phát triển. Chủ nghĩa xã hội đang tìm cách khẳng định mình, bằng cách huy
động mọi tiềm năng, trí tuệ trong nhân dân, điều chỉnh những sai lầm trong cải cách,
đổi mới, khắc phục yếu kém trong quản lý kinh tế, tranh thủ những thành tựu khoa
học - công nghệ hiện đại để chứng minh tính ưu việt của nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa.
Trong lĩnh vực chính trị: Các đảng tư sản, chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là Mỹ
đang dùng mọi cách để tuyên truyền quảng bá cho chế độ dân chủ tư sản, tự do tư sản;
biện minh cho những chính sách bá quyền của họ để can thiệp vào công việc nội bộ

các nước. Bằng nhiều âm mưu thủ đoạn khác nhau từ mua chuộc, lôi kéo, dụ dỗ, lợi
dụng những khuyết điểm, hạn chế của một số nước xã hội chủ nghĩa, tới những biện
pháp đe dọa, chủ nghĩa tư bản đang thực hiện âm mưu "diễn biến hoà bình" nhằm lật
đổ nhà nước xã hội chủ nghĩa, hòng khôi phục lại chế độ tư bản chủ nghĩa ở các nước
14


này. Các nước xã hội chủ nghĩa, các đảng cộng sản phải tỉnh táo và chủ động kiên
quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu phá hoại của kẻ thù, bảo vệ đảng, bảo vệ
nhà nước xã hội chủ nghĩa, bảo vệ thành quả cách mạng. Đồng thời, giai cấp công
nhân quốc tế, các nhà nước xã hội chủ nghĩa phải làm rõ tính chất phản động, hiếu
chiến của các tập đoàn tư bản hiện nay, tập hợp mọi lực lượng dân chủ tiến bộ, yêu
chuộng hoà bình trên thế giới tấn công làm thất bại mọi âm mưu chống phá cách
mạng của kẻ thù.
Trong lĩnh vực tư tưởng: Chủ nghĩa tư bản dựa vào ưu thế về kinh tế, khoa học
- công nghệ và sức mạnh quân sự đang tìm mọi cách phổ biến những giá trị của
phương Tây, tuyên truyền quan điểm đa nguyên chính trị, đa đảng hoặc "phi giai cấp",
"phi ý thức hệ", "phi chính trị"; làm lẫn lộn giữa đúng, sai, phải, trái nhằm chống lại
chủ nghĩa xã hội và những lực lượng hoà bình và tiến bộ trên thế giới. Đặc biệt đối
với các nước xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa đế quốc đã thực hiện chiến lược diễn biến
hoà bình, tuyên truyền các lý thuyết tư sản, tìm mọi cách phủ nhận học thuyết MácLênin - lý luận cách mạng, vũ khí sắc bén của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động. Mặt khác, chúng đang tìm cách mua chuộc, làm thoái hoá về tư tưởng, đạo đức,
lối sống trong một bộ phận cán bộ đảng viên; tìm cách chia rẽ cán bộ với cán bộ, đảng
với dân, cán bộ với nhân dân, v.v..
Các đảng cộng sản, các nhà nước xã hội chủ nghĩa phải đẩy mạnh cuộc đấu
tranh tư tưởng bằng nhiều cách khác nhau, phê phán những tư tưởng phản động, hiếu
chiến muốn duy trì sự thống trị, sự áp bức giữa nước giàu đối với nước nghèo, nước
lớn đối với nước nhỏ; cổ vũ cho cuộc đấu tranh, vì một thế giới hoà bình, hữu nghị,
đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển."
III. Con đường đi lên CNXH ở Việt Nam hiện nay.

Thời kỳ trước đổi mới, nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam đã đạt được một số nhiều thành tựu bước đầu thể hiện qua phương châm, chiến
lược gắn độc lập dân tộc với xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, nhận thức về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở thời kỳ này còn nhiều hạn chế. Đảng ta chưa nhận
thức hết tính phức tạp, khó khăn và lâu dài của thời kỳ quá độ; chưa xác định nội
dung “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”, thậm chí đối lập chủ nghĩa tư bản với chủ
nghĩa xã hội một cách máy móc theo kiểu phủ định sạch trơn; tư duy giáo điều, giản
đơn về chủ nghĩa tư bản, đồng nhất bản chất bóc lột, áp bức, nô dịch loài người của
chủ nghĩa tư bản và chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa với toàn bộ những tiến bộ, văn
minh của chủ nghĩa tư bản. Điều này đã làm ảnh hưởng lớn đến công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội, đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội. Việc giải quyết mối
quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất còn nhiều hạn chế, yếu kém. Chủ
trương “lấy quan hệ sản xuất tiến bộ mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển” là
quan điểm chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan. Nhất là thời kỳ sau khi
15


thống nhất đất nước, do duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp làm triệt
tiêu nhiều động lực phát triển đất nước.
Trong phương hướng phát triển đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội đã không
chú ý đúng đắn đến các lợi ích chính đáng; chưa giải quyết thoả đáng mối quan hệ lợi
ích giữa cá nhân - tập thể - xã hội.
Nhiều quy luật, đặc biệt là các quy luật kinh tế trong thời kỳ quá độ đã bị nhận
thức sai lệch hoặc quá máy móc, giáo điều. Việc tồn tại hai hình thức sở hữu, hai
thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể đã làm triệt tiêu các nguồn lực
cần thiết, vốn có trong các thành phần kinh tế tất yếu phải tồn tại trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội.
Các vấn đề khác như dân chủ xã hội chủ nghĩa, văn hóa xã hội chủ nghĩa, con
người mới xã hội chủ nghĩa còn có nhiều nhận thức mơ hồ, chủ quan, duy ý chí…
Các phương hướng, giải pháp để xây dựng chủ nghĩa xã hội còn chung chung, trừu

tượng. Vì vậy, trên thực tế chỉ tồn tại ở hình thức, không có nội dung, thực chất. Một
số vấn đề về xã hội như bình đẳng xã hội, công bằng xã hội giữa các tộc người, giữa
miền núi với miền xuôi, giữa nông thôn và thành thị… đều có những nhận thức chưa
đầy đủ. Tính hiệu quả, thiết thực của các chính sách xã hội còn nhiều hạn chế.
Khắc phục những hạn chế nêu trên, bước vào thời kỳ đổi mới, qua các kỳ đại
hội, nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã ngày càng sáng tỏ
hơn. Những điểm mới trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội của Đảng ta thời kỳ đổi mới thể hiện trên những nét căn bản sau:
Thứ nhất, nhận thức rõ hơn về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Tiến trình đổi mới của Việt Nam được bắt đầu từ đổi mới tư duy, trước hết
là đổi mới tư duy về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tại Đại
hội VI - Đại hội của đổi mới, Đảng ta xác định, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội tất yếu phải trải qua một thời kỳ quá độ và độ dài của thời kỳ đó phụ thuộc vào
điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội cụ thể của mỗi nước. Đối với nước ta, thời kỳ quá
độ rất lâu dài và khó khăn. Đó là một thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện,
triệt để nhằm xây dựng từ đầu một chế độ xã hội mới cả về lực lượng sản xuất, quan
hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng; trong đó, bao hàm nhiều chặng đường, nhiều
bước quá độ nhỏ với những nhiệm vụ tương ứng. Phải có “những hình thức và bước
đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng
sản xuất, luôn luôn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất”. Đây là
những cơ sở lý luận quan trọng để Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra đường lối phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, sử dụng đúng đắn quan hệ hàng - tiền...;
trong đó, thành phần kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo và chi phối các thành
phần kinh tế khác. Với đường lối đổi mới của Đảng, trước hết là đổi mới kinh tế, lực
lượng sản xuất được giải phóng khỏi những trói buộc cũ, có những bước phát triển
quan trọng, có những chuyển biến tích cực thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển, tạo
16


nên sắc thái mới trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Đường lối phát triển

kinh tế đúng đắn này đã được Đảng tiếp tục phát triển và hoàn thiện dần qua các kỳ
đại hội sau đó, tạo điều kiện cho sự phát triển mới về chất trong toàn bộ đời sống kinh
tế - xã hội của đất nước. Nhận thức này khắc phục được tư tưởng chủ quan, nóng vội,
giản đơn về thời kỳ quá độ.
Thứ hai, nhận thức đầy đủ hơn về cách thức bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Việc “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” được giải thích rõ về hai phương
diện: Một là, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là “bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị
của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa”. Hai là, trong khi bỏ
qua những mặt đó, cần “tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được
dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh
lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”. Đương nhiên, việc kế thừa những
thành tựu này phải trên quan điểm phát triển, có chọn lọc. Nhận thức này đã góp phần
khắc phục tư duy giáo điều, siêu hình về sự tương đồng và khác biệt của hai hình thái
kinh tế - xã hội mà trước đây chúng ta đã mắc phải. Thực tế xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam và ở các nước khác đã khẳng định luận điểm của V.I. Lênin: “chủ
nghĩa cộng sản đã phát sinh như thế nào từ tổng số những kiến thức của nhân loại”.
Thứ ba, về các phương hướng quá độ lên chủ nghĩa xã hội và những vấn đề đặt
ra cần phải giải quyết trong xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Cương lĩnh năm 1991 đã vạch ra 7 phương hướng cơ bản của quá trình xây
dựng xã hội mới theo những đặc trưng được xác định. Sau 25 năm thực hiện Cương
lĩnh năm 1991, từ việc tổng kết thực tiễn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội,
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã bổ sung, phát triển nhận thức về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội, thể hiện ở 8 phương hướng cơ bản nhằm thực hiện
thành công mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng được về cơ bản
nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội và kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng,
văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để đưa Việt Nam trở thành một nước xã hội chủ nghĩa
ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Những phương hướng cơ bản đó bao gồm: Một là,
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài
nguyên môi trường; hai là, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa; ba là, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con
người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bốn là, bảo
đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; năm là, thực
hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển;
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc
thống nhất; bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân; tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
17


Tám phương hướng nêu trên về cơ bản đã thể hiện rõ phương thức, con đường
xây dựng chủ nghĩa xã hội trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, các chủ
trương trong đường lối đối nội, đối ngoại. Mặt khác, vai trò của toàn bộ hệ thống
chính trị cũng như trách nhiệm của từng thành viên trong hệ thống chính trị do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đã được thể hiện rõ trong một số phương hướng. Bên
cạnh việc xác định 8 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa, 8 phương hướng cơ bản
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đại hội XI cũng chỉ ra 8 mối quan hệ lớn cần
nắm vững và giải quyết tốt trong quá trình thực hiện các phương hướng đã nêu: Quan
hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa
kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất
và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng
trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và
hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Trong
quá trình phát triển ở Việt Nam, thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và
phân bổ các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất. Nhà
nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường
cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và
nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sức sản xuất

kinh doanh và bảo vệ môi trường. Chính vì vậy, mối quan hệ giữa nhà nước và thị
trường, được bổ sung mới trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng.
Tiếp tục khẳng định đường lối phát triển của đất nước, Đaị hội XII của Đảng
làm rõ thêm con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; chỉ rõ “con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển
của lịch sử” . Điểm mới của Đại hội XII về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam được thể hiện tập trung vào các vấn đề sau:
Một là, tiếp tục kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam;
Hai là, xác định rõ phương châm “lấy lợi ích quốc gia - dân tộc làm mục tiêu
cao nhất;
Ba là, xác định ngày càng rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội thông qua
việc xác định lộ trình công nghiệp hóa và mô hình phát triển kinh tế nhằm hướng tới
mục tiêu phát triển nhanh và bền vững ở Việt Nam. Nhằm tạo dựng cơ sở vật chất cần
thiết cho chủ nghĩa xã hội thì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là tất yếu khách
quan. Đại hội XII nhấn mạnh “chú trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới” . Đây là yêu cầu khách quan và là một
trong những chiến lược trọng tâm nhằm bảo đảm phát triển nhanh và bền vững, vì
mục tiêu con người, mục tiêu chủ nghĩa xã hội.
Bốn là, gắn kết chặt chẽ giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội, giữa
phát triển kinh tế với phát triển xã hội; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Xét từ
18


góc độ chính trị - xã hội, lần đầu tiên trong Văn kiện của Đảng, vấn đề phát triển xã
hội, “quản lý phát triển xã hội; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội” được tách riêng
thành một mục (mục VIII). Điều này khẳng định nhận thức cũng như quyết tâm chính
trị, hành động thực tiễn nhằm thực hiện mục tiêu tổng quát của chủ nghĩa xã hội là
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” mà Đảng và nhân dân ta đang
từng bước xây dựng.
Năm là, về mối quan hệ giữa Đảng với Nhân dân: Đảng khẳng định việc thực

hiện thành công mục tiêu chủ nghĩa xã hội hơn bao giờ hết đòi hỏi nhân tố nội lực, vai
trò chủ quan mang tính quyết định. Để làm được điều đó rất cần tạo dựng mối quan hệ
găn bó khăng khí, bền chặt giữa Đảng với Nhân dân.
Tóm lại, đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam.
Để thực hiện thành công con đường này, về thực tiễn, đòi hỏi các cấp, các ngành, cán
bộ và nhân dân quán triệt những quan điểm của Đảng, đồng thuận, chung sức, quyết
tâm thực hiện tốt những nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài của đất nước; về lý
luận, cần tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu, khái quát, trả lời đầy đủ những vấn
đề đặt ra: Xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam là gì? Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam như thế nào? Để trả lời và làm rõ hai câu hỏi trên, trong thời gian tới, công tác
tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cần quan tâm
làm sáng tỏ một số vấn đề sau:
- Chủ nghĩa xã hội là tất yếu trong sự phát triển của nhân loại nhưng không phải
là cái đương nhiên có, thụ động ngồi chờ mà phải thông qua sự nỗ lực hoạt động thực
tiễn của Đảng, nhân dân ta để hiện thực hóa mục tiêu xã hội chủ nghĩa.
- Chủ nghĩa xã hội là một trình độ mới trong sự phát triển của nhân loại, nó
không có mô hình, con đường có sẵn mà đòi hỏi Đảng ta, trên cơ sở những nguyên lý
của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, phải không ngừng sáng tạo, bám sát thực tiễn của đất
nước và thời đại để xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời hoàn thiện lý luận về chủ
nghĩa xã hội.
- Cần nhận thức rõ ràng rằng, xây dựng chủ nghĩa xã hội có tính lịch sử, cụ thể;
tùy từng giai đoạn nhất định mà xác định nội dung, phương thức phù hợp; thoát ly
điều kiện thực tế, chủ nghĩa xã hội sẽ rơi vào ảo tưởng, chủ quan, duy ý chí - đây là
điều đã từng diễn ra trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội tại một số quốc gia,
dân tộc.

19




×