Tải bản đầy đủ (.pdf) (46 trang)

nghiên cứu đánh giá hạn hán vùng đồng bằng sông hồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 46 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN



Lê Thị Hiệu




NGHIÊN CỨU ĐÁNH GIÁ HẠN HÁN VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG






LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC















Hà Nội – Năm 2011

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN



Lê Thị Hiệu



NGHIÊN CỨU ĐÁNH GIÁ HẠN HÁN VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG




Chuyên ngành: Thủy văn học
Mã số: 60 44 90



LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. Vũ Thị Thu Lan








Hà Nội – Năm 2011


CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CÚU HẠN HÁN TRÊN THẾ
GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM
Hạn hán là một loại thiên tai phổ biến trên thế giới. Biểu hiện của nó là lƣợng
mƣa thiếu hụt nghiêm trọng, kéo dài, làm giảm hàm lƣợng ẩm trong không khí và hàm
lƣợng nƣớc trong đất, làm suy kiệt dòng chảy sông suối, hạ thấp mực nƣớc ao hồ, mực
nƣớc trong các tầng chứa nƣớc dƣới đất, Theo tổ chức Khí tƣợng Thế giới (WMO)
hạn hán đƣợc phân ra 4 loại:
1. Hạn khí tƣợng: thiếu hụt lƣợng mƣa trong cán cân lƣợng mƣa - bốc hơi;
2. Hạn thủy văn: dòng chảy sông suối giảm rõ rệt, mực nƣớc trong các tầng
chứa nƣớc dƣới đất hạ thấp;
3. Hạn nông nghiệp: thiếu hụt nƣớc mƣa dẫn tới mất cân bằng giữa lƣợng nƣớc
thực tế và nhu cầu nƣớc của cây trồng;
4. Hạn kinh tế - xã hội: thiếu hụt nguồn nƣớc cấp cho các hoạt động kinh tế - xã
hội.
Hạn hán khác với các loại thiên tai khác ở nhiều khía cạnh. Điểm đặc trƣng nhất
là tác động của hạn hán thƣờng tích lũy một cách chậm chạp trong một khoảng thời
gian dài và có thể kéo dài trong một đoạn nhất định. Hình 1 trình bày sơ đồ mô tả quá
trình phát sinh và diễn biến hạn hán. Theo đó hạn khí tƣợng xảy ra trƣớc tiên do không
mƣa hoặc mƣa không đáng kể trong thời gian đủ dài, đồng thời những yếu tố khí
tƣợng đi kèm với sự thiếu hụt mƣa gây bốc thoát hơi nƣớc gia tăng. Sự thiếu hụt mƣa
và gia tăng bốc hơi sẽ dẫn đến sự suy giảm/suy kiệt độ ẩm đất – hạn đất và hạn nông
nghiệp ở vùng không đƣợc tƣới xảy ra. Sự suy kiệt độ ẩm đất cũng đồng thời dẫn đến

sự suy giảm lƣợng bổ sung cho nƣớc ngầm làm giảm lƣu lƣợng và hạ thấp mực nƣớc
ngầm. Sự suy giảm đồng thời cả dòng mặt và dòng ngầm dẫn đến hạn thủy văn.

Hình 1: Sơ đồ mô tả mối quan hệ giữa các loại hạn (Nguồn: WMO)
Hạn hán có tác động to lớn đến môi trƣờng, kinh tế, chính trị, xã hội và sức
khỏe con ngƣời. Hạn hán làm giảm năng suất cây trồng, giảm diện tích gieo trồng,
giảm sản lƣợng cây trồng, tăng chi phí sản suất nông nghiệp, giảm thu nhập của lao
động nông nghiệp, tăng giá thành và giá cả lƣơng thực, các nhà máy thủy điện gặp
nhiều khó khăn trong quá trình vận hành, Chính vì vậy, công tác nghiên cứu dự báo,
cảnh báo hạn hán luôn luôn đƣợc quan tâm và đầu tƣ tại nhiều quốc gia trên thế giới
cũng nhƣ ở Việt Nam. Dự báo, cảnh báo hạn hán giúp các cơ quan quản lý cũng nhƣ
ngƣời sản xuất chủ động điều chỉnh kế hoạch sản xuất, nhằm tăng khả năng chống
chịu của hệ thống trong điều kiện hạn hán, điều chỉnh hợp lý việc dùng nƣớc và tăng
cƣờng tiết kiệm nƣớc.
1.1 Tổng quan tình hình cứu hạn hán trên thế giới
Trong những thập kỷ gần đây hạn hán xảy ra nhiều nơi trên thế giới, gây nhiều
thiệt hại về kinh tế, ảnh hƣởng đến đời sống con ngƣời và môi trƣờng sinh thái. Hàng
năm có khoảng 21 triệu ha đất biến thành đất không có năng suất kinh tế do hạn hán.
Bởi tầm quan trọng của việc giảm nhẹ tác hại của hạn hán, nhiều nƣớc đã thành lập các
trung tâm qiám sát, dự báo, cảnh báo hạn hán. Nhiệm vụ chính của các trung tâm này
là:
1. Theo dõi, giám sát, dự báo và cảnh báo hạn hán;
2. Phối hợp với các ban ngành có liên quan để đề xuất và tiến hành các hoạt
động ngăn ngừa, phòng tránh và giảm nhẹ tác hại của hạn hán;
3. Phối hợp với các cơ quan nghiên cứu khoa học xây dựng các phƣơng pháp
dự báo và cảnh báo hạn hán.
Kinh nghiệm và thành tựu trong giám sát, cảnh báo hạn hán ở một vài quốc gia
nhƣ sau:
a) Ở Mỹ
Đã thành lập Trung tâm Quốc gia về giảm nhẹ hạn hán (The National Drought

Mitigation Center - NDMC). Các dạng thông tin về hạn hán đƣợc phát hành thƣờng
xuyên cho các ngành ở Mỹ, đặc biệt là cho nông nghiệp, bao gồm:
Đánh giá các điều kiện hạn gần đây và hiện trạng hạn hán dựa trên sự phối hợp
giám sát hạn hán toàn diện giữa các cơ quan của Bộ Nông nghiệp và Trung tâm
Quốc gia về Giảm nhẹ hạn hán;
Các bản đồ chỉ số hạn của Cơ quan Khí quyển Đại dƣơng Quốc gia (NOAA)
cho 6, 12 tuần trƣớc;
Nhận định về hạn hán mùa do Trung tâm Dự báo Khí hậu thuộc NOAA (đƣợc
cập nhật hàng tháng);
Tính toán của NOAA về lƣợng mƣa cần có đến cuối các đợt hạn hán trên toàn
nƣớc Mỹ;
Giám sát độ ẩm đất: Hiện trạng độ ẩm đất trên các bang/các khu vực;
Giám sát hạn hán của NOAA thông qua các chỉ số hạn, bao gồm: Chỉ số chuẩn
hoá lƣợng mƣa, tỷ chuẩn lƣợng mƣa hàng tháng; Chỉ số hạn khắc nghiệt theo
Palmer (cập nhật hàng tuần); Chỉ số ẩm cây trồng (cập nhật hàng tuần).
Hiện nay, ở Mỹ đã có trên 30 bang lập kế hoạch phòng chống hạn hán hàng
năm với 10 bƣớc nhƣ sau: 1) Bổ nhiệm 1 Ban phòng chống hạn hán; 2) Xác định mục
tiêu và nội dung của kế hoạch phòng chống hạn hán; 3) Tìm kiếm sự tham gia của các
đối tác và giải quyết các mâu thuẫn; 4) Kiểm kê nguồn tài nguyên và xác định các
nhóm có nguy cơ chịu rủi ro; 5) Phát triển cơ cấu tổ chức và chuẩn bị kế hoạch chống
hạn; 6) Xác định nhu cầu nghiên cứu và kiện toàn các thể chế; 7) Liên kết khoa học và
chính sách; 8) Quảng bá kế hoạch phòng chống hạn; 9) Phổ biến kiến thức cộng đồng
về hạn hán; 10) Đánh giá và điều chỉnh kế hoạch phòng chống hạn hán. Tóm lại, ở Mỹ
tập trung vào 3 hoạt động bắt buộc của kế hoạch phòng chống hạn hán là: 1) Giám sát
và cảnh báo sớm; 2) Đánh giá nguy cơ rủi ro và tác động; 3) Giảm nhẹ và ứng phó với
hạn hán.
b) Ở Úc
Từ năm 1965 đã thành lập tổ chức theo dõi và phục vụ phòng chống hạn hán
(Bureau's Drought Watch Service) với sự liên kết giữa cơ quan khí tƣợng Úc (BOM)
và cơ quan nông nghiệp trên toàn quốc đến tận các bang. Tổ chức này cung cấp thời

điểm bắt đầu thống nhất để cảnh báo hạn trên toàn quốc. Những thông báo chính thức
về hạn hán đƣợc kết hợp với những yếu tố khác nhƣ mƣa và trách nhiệm của các cơ
quan khác của chính phủ. Kể từ khi thực hiện “Chính sách quốc gia về hạn hán” năm
1992, tổ chức này đã triển khai các công việc phân tích tình hình mƣa. Các sản phẩm
phân tích mƣa đƣợc công bố thông qua bản tin thời tiết hoặc qua website của tổ chức
này. Cũng giống nhƣ ở Mỹ, các thông tin viễn thám đƣợc ứng dụng rộng rãi trong việc
xây dựng các sản phẩm về giám sát và cảnh báo hạn hán.
c) Ở Trung Quốc
Chính phủ Trung Quốc rất coi trọng việc giám sát, dự báo và đánh giá ảnh
hƣởng của hạn hán. Trung tâm Khí hậu Quốc gia (NCC) thuộc Cục Khí tƣợng Trung
Quốc (CMA) đƣợc thành lập từ năm 1995 đã xây dựng và vận hành một hệ thống
giám sát và cảnh báo sớm hạn hán với nhiều sản phẩm khác nhau nhƣ các bản tin hạn
hán hàng tháng, hàng năm. Ở Trung Quốc đã thực hiện thành công việc đánh giá
phạm vi tác hại của hạn hán, đặc biệt là giám sát hạn hán và dự báo, cảnh báo hạn hán
cũng nhƣ đánh giá mức độ ảnh hƣởng. Việc đánh giá, giám sát và dự báo hạn hán
đƣợc tiến hành với sự trợ giúp của công nghệ viễn thám, trong đó đã sử dụng số liệu
về chỉ số thực vật đo từ vệ tinh VCI (Vegetation Condition Index) và chỉ số cung cấp
nƣớc thực vật WSVI (Water Supplying Vegetation Index). Việc sử dụng mô hình
WSVI để giám sát và dự báo hạn hán đƣợc tiến hành trên cơ sở phân tích cƣờng độ
hạn hán, phân bố không - thời gian của hạn hán. Đã tiến hành xác định các mức độ tin
cậy về chỉ số cƣờng độ hạn hán và các dị thƣờng về hạn hán. Sau đó vận dụng các kỹ
thuật phi tuyến tính phổ động lực học để xây dựng mô hình dự báo hạn hán với các
ngƣỡng thời gian khác nhau. Mô hình dự báo với độ chính xác trung bình là 85%. Việc
dự báo hạn nông nghiệp và xác định nhu cầu tƣới bằng viễn thám đƣợc tiến hành dựa
trên cơ sở mô hình cân bằng nƣớc và quan hệ giữa cây trồng với các điều kiện môi
trƣờng. Bằng mô hình này có thể dự báo sự biến động của lƣợng nƣớc trong đất và nhu
cầu tƣới tiêu, với các khoảng thời gian dự báo là 10 ngày, 20 ngày, 30 ngày, với độ
chính xác là 95%, 90% và 88% theo từng mức thời gian. Căn cứ vào các kết quả
nghiên cứu thực nghiệm đã xác định đƣợc các chỉ tiêu và các cấp hạn hán đối với một
số cây trồng nhƣ tiểu mạch, ngô, bông từ đó có thể dự báo, cảnh báo đƣợc mức độ hạn

hán.
d) Một số nước và tổ chức khác
Đƣợc sự hỗ trợ tài chính của Chƣơng trình Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP),
Tổ chức Khí tƣợng Thế giới cũng đã thành lập các Trung tâm Giám sát hạn ở Nairobi
(Kenya), ở Harare (Zimbabwe) từ năm 1989 để cảnh báo sớm hạn và đƣa ra các giải
pháp giảm nhẹ tác động của các thiên tai khí tƣợng đến sản xuất nông nghiệp và nguồn
nƣớc cho các nƣớc vùng Đông và Nam Phi.
Nhiều nƣớc khác nhƣ Nigeria, India, Brazil, Hungaria, Bồ Đào Nha, cũng đã
có các hệ thống cảnh báo sớm hạn hán.
Các nƣớc ASEAN từ năm 1987 đã triển khai thử nghiệm nghiệp vụ Hệ thống
theo dõi hạn hán (Drought Watch System - DWS) giống nhƣ ở Úc đặt tại Kedah,
Malaysia: lúc đầu chủ yếu tính toán lƣợng mƣa tháng theo các tỷ lệ phần trăm, sau đó
đƣa ra thông tin vùng “thiếu hụt lượng mưa trầm trọng” (severe rainfall deficiency) và
các “đợt hạn” (drought spell).
Philipines cũng đã xây dựng một hệ thống giám sát và cảnh báo hạn hán trên
toàn quốc. Một số chỉ số hạn hán đang đƣợc sử dụng trong nghiệp vụ nhƣ chỉ số khả
năng ẩm MAI, chỉ số cực đoan mƣa REI,
1.2 Tổng quan tình hình nghiên cứu hạn hán ở Việt Nam
Ở Việt Nam, hạn hán là một thiên tai thƣờng xuyên xảy ra ở một vài vùng ít
mƣa và hay xảy ra vào mùa khô tại nhiều vùng khác nhau. Những năm qua, Nhà nƣớc
đã ƣu tiên thực hiện nhiều giải pháp phòng chống hạn hán nhờ đó đã giảm thiểu thiệt
hại do hạn hán gây ra. Tuy nhiên, tình hình hạn hán diễn biến ngày càng phức tạp, đặc
biệt do biến đổi khí hậu toàn cầu sẽ làm thiên tai hạn hán gay gắt hơn. Có thể nêu các
ví dụ điển hình về thiệt hại do hạn hán gây ra những năm gần đây ở nhƣ sau:
Năm 1992, hạn nặng ở Miền Trung và đồng bằng Nam Bộ đã làm cho 6.000 ha
rừng đặc dụng ở Quảng Nam - Đà Nẵng bị cháy, 300.000 ha lúa hè thu ở Nam
Bộ bị hại, mất trắng 10.000 ha. Ƣớc tính thiệt hại trên 50 tỷ đồng;
Đông xuân 1992/1993, đồng bằng sông Cửu Long bị hạn nặng. Lƣợng mƣa ở
hầu hết các tháng trong vùng đều thấp hơn trung bình nhiều năm từ 75 - 90%.
Hạn hán và sâu bệnh đã làm năng suất lúa giảm 6,2 tạ/ha so với vụ trƣớc (chỉ

đạt 39,39 tạ/ha) dẫn đến tổng sản lƣợng thấp hơn 559 nghìn tấn so với vụ đông
xuân 1991/1992;
Tiếp theo hạn đông xuân 1992/1993, mùa hè năm 1993, ở Bắc Trung Bộ, do
lƣợng mƣa thiếu hụt suốt trong 7 đến 8 tháng, đặc biệt là các tháng VI, VII,
VIII, với nhiệt độ cao (38 - 40
o
C), nắng nóng gay gắt, hạn đã xảy ra hết sức
nghiêm trọng. Đồng ruộng bị nứt nẻ, lúa bị chết, hầu hết các hồ đập bị cạn
nƣớc, ngay cả nƣớc sinh hoạt cũng khó khăn. Đó là đợt hạn hiếm thấy trong
vòng 50 - 60 năm gần đây ở khu vực này, làm cho trên 26.000 ha lúa không cấy
đƣợc hoặc bị chết và trên 35.000 ha bị hạn nặng, 500 ha rừng bị cháy. Thiệt hại
ƣớc tính trên 42 tỷ đồng;
Đông xuân 1994/1995, hạn xảy ra gay gắt ở một số tỉnh thuộc cao nguyên
Trung Bộ, trong đó, Đắc Lắc đã bị hạn chƣa từng thấy trong 50 năm qua ảnh
hƣởng rất lớn đến cây trồng, đặc biệt là cà phê - nguồn kinh tế lớn của nhân dân
địa phƣơng, nƣớc sinh hoạt hàng ngày cũng bị thiếu nghiêm trọng. Thiệt hại
cho sản xuất khoảng 600 tỷ đồng;
Tiếp đến đông xuân 1995/1996, hạn cũng đã xảy ra ở nhiều nơi trên phạm vi
toàn quốc. Ở Trung du, miền núi Bắc Bộ diện tích bị hạn là 13.380 ha, ở đồng
bằng Bắc Bộ là 100.000 ha. Hạn xảy ra nghiêm trọng ở các tỉnh thuộc khu vực
Tây Nguyên;
Đặc biệt hạn trầm trọng trên diện rộng vào đông xuân 1997/1998 với ảnh
hƣởng của El Nino hoạt động mạnh từ tháng 5/1997 đến tháng 4/1998 làm cho
nhiều nƣớc trên thế giới bị hạn hán nghiêm trọng, gây tổn thất lớn cho nền kinh
tế và sự phát triển của xã hội. Chỉ tính riêng thiệt hại về vật chất trong nông
nghiệp ở Việt Nam đã tới con số 5.000 tỷ đồng;
Năm 2002 là một năm hạn hán nghiêm trọng trên cả nƣớc, nhất là ở vùng Bắc
Trung Bộ, Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Từ đầu năm mƣa rất ít, mãi đến
tháng VIII vẫn tiếp tục nắng nóng, ít mƣa trên các tỉnh ven biển Trung Bộ từ
Quảng Bình đến Bình Thuận và trên 2 tỉnh Tây Nguyên là Gia Lai và Đắk Lắc,

làm cho hầu hết các hồ nƣớc ở khu vực này bị khô kiệt;
Những tháng trước mùa mưa năm 2003, hạn hán bao trùm hầu khắp Tây
Nguyên, gây thiệt hại cho khoảng 300 ha lúa ở Kon Tum, 3000 ha lúa ở Gia Lai
và 50.000 ha đất canh tác ở Đắk Lắc; thiếu nƣớc cấp cho sinh hoạt của 100.000
hộ dân. Chỉ tính riêng cho Đắk Lắc, tổng thiệt hại ƣớc tính khoảng 250 tỷ đồng.
Hạn hán thiếu nước năm 2004-2005 xảy ra trên diện rộng nhƣng không
nghiêm trọng nhƣ năm 1997-1998. Ở Bắc Bộ, mực nƣớc sông Hồng tại Hà Nội
vào đầu tháng 3 xuống mức 1,72 m thấp nhất kể từ năm 1963 đến năm 2005. Ở
Miền Trung và Tây Nguyên, nắng nóng kéo dài, dòng chảy trên các sông suối ở
mức thấp hơn trung bình nhiều năm cùng kỳ, một số suối cạn kiệt hoàn toàn;
nhiều hồ, đập dâng hết khả năng cấp nƣớc.
Trong năm 2006, từ những tháng đầu năm cho đến những tháng cuối năm, do
lƣợng mƣa bị thiếu hụt so với trung bình nhiều năm nên tại nhiều nơi tình trạng
thiếu nƣớc dẫn đến khô hạn rồi hạn hán cục bộ xảy ra liên tục, rải rác ở một số
tỉnh trong cả nƣớc.
Trong 4 tháng đầu năm 2007 và 3 tháng IV, V, VI của năm 2008 hạn hán cục
bộ xảy ra ở nhiều nơi trên phạm vi cả nƣớc, trong đó nặng nề nhất là các tỉnh
thuộc Tây Nguyên và Nam Bộ
Mùa khô năm 2009-2010 là năm rất nhiều khu vực trên thế giới, trong đó có
Việt Nam, chịu ảnh hƣởng của đợt hạn hán nghiêm trọng bất thƣờng. Mực nƣớc
sông Mê Kông giảm xuống mức thấp nhất trong 40 năm qua làm đình tr
. Trên các hệ thống sông, suối toàn quốc, dòng
chảy đều thiếu hụt nhiều so với trung bình nhiều năm, có nơi tới 60-90%; mực
nƣớc nhiều nơi đạt mức thấp nhất lịch sử nhƣ
, mực
nƣớc xuống mức thấp lịch sử nên đã gây thiếu nƣớc cho sản xuất nông nghiệp,

diện rộng, nhiều nơi còn nghiêm trọng hơn năm 1998.
Để phòng tránh và giảm nhẹ thiệt hại do hạn hán gây ra, trong những năm vừa
qua, ở nƣớc ta các nhà khoa học đã thực hiện nhiều đề tài nghiên cứu về hạn hán, bao

gồm các đề tài thuộc Chƣơng trình cấp nhà nƣớc, đặc biệt là các đề tài thuộc Chƣơng
trình KC08, các đề tài, dự án cấp bộ, cấp cơ sở và các dự án quốc tế thực hiện ở Việt
Nam. Đã có nhiều nhà khoa học tham gia nghiên cứu các vấn đề liên quan đến hạn hán
nhƣ, nguyên nhân ảnh hƣởng và phân vùng hạn hán, khả năng dự báo hạn hán, Các
kết quả đƣợc công bố trong các báo cáo khoa học, trên các tạp chí trong và ngoài
nƣớc, trong đó cần kể đến kết quả nghiên cứu của các tác giả Nguyễn Đức Ngữ,
Nguyễn Trọng Hiệu, Trần Thục, Nguyễn Văn Thắng, Nguyễn Trọng Yêm, Đào Xuân
Học, Lê Trung Tuân, Nguyễn Quang Kim và các nhà khoa học khác. Các hƣớng
nghiên cứu tập trung vào hai vấn đề chính: (1) Nghiên cứu cơ bản về hạn hán và tác
động tới dân sinh, kinh tế, xã hội; (2) Các giải pháp phòng chống và giảm nhẹ hạn hán.
Có thể kể đến một số nghiên cứu tiêu biểu nhƣ:
Hai đề tài cấp Nhà nƣớc “Nguyên nhân và các giải pháp phòng chống hoang
mạc hoá ở khu vực ven biển miền Trung (Quảng Ngãi-Bình Định)” (1998-2000) do
GS.TS. Nguyễn Trọng Hiệu làm chủ nhiệm và “Nguyên nhân và các giải pháp phòng
chống sa mạc hoá ở khu vực ven biển miền Trung (Ninh Thuận-Bình Thuận)” (1998-
2000) do PGS.TS. Nguyễn Văn Cƣ làm chủ nhiệm. Hai đề tài đã xác định chỉ tiêu hạn,
đánh giá tác động của hạn hán (hạn khí tƣợng và hạn thuỷ văn) đến tình hình hạn,
nguyên nhân hoang mạc hoá và các giải pháp phòng chống hạn hán, hoang mạc hoá ở
4 tỉnh Quãng Ngãi, Bình Định, Ninh Thuận và Bình Thuận.
TS. Nguyễn Đức Hậu (2001) thực hiện nghiên cứu “Thử nghiệm xây dựng mô
hình dự báo hạn ở 7 vùng khí hậu Việt Nam trên cơ sở mối quan hệ giữa nhiệt độ mặt
nước biến với chỉ số khô hạn” (2001). Đã xác định chỉ tiêu hạn, đánh giá tác động của
hiện tƣợng ENSO đến tình hình hạn và xây dựng một loạt phƣơng trình hồi quy dự báo
hạn cho 7 vùng khí hậu Việt Nam: Tây Bắc, vùng núi phía Bắc, đồng bằng Bắc Bộ,
Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và Nam Bộ.
Đề tài cấp Nhà nƣớc “Nghiên cứu các giải pháp giảm nhẹ thiên tai hạn hán ở
các tỉnh Duyên hải miền Trung từ Hà Tĩnh đến Bình Thuận” do GS.TS. Đào Xuân
Học (2001) thực hiện. Đề tài đánh giá tình hình hạn hán và ảnh hƣởng của hạn hán tới
7 vùng kinh tế của Việt Nam, phân tích xác định nguyên nhân gây ra hạn hán ở Việt
Nam, phân loại và phân cấp hạn. Dựa trên các nguyên nhân gây hạn, đề tài đã đƣa ra

các biện pháp phòng chống và giảm nhẹ hạn hán.
Đề tài cấp Nhà nƣớc “Nghiên cứu dự báo hạn hán vùng Nam Trung Bộ và Tây
Nguyên và xây dựng các giải pháp phòng chống” do GS.TS. Nguyễn Quang Kim
(2005) thực hiện. Đề tài đã nghiên cứu hiện trạng hạn hán, thiết lập cơ sở khoa học cho
quy trình dự báo hạn thông qua 2 chỉ số SPI và chỉ số cấp nƣớc mặt SWSI với hạn dự
báo 1 và 3 tháng. Việc dự báo hạn đƣợc dựa trên nguyên tắc phân tích mối tƣơng quan
giữa các yếu tố khí hậu, các hoạt động ENSO và các điều kiện thực tế vùng nghiên
cứu.
Đề tài cấp Nhà nƣớc “Nghiên cứu xây dựng bản đồ phân vùng tai biến môi
trường tự nhiên lãnh thổ Việt Nam” do GS.TS. Nguyễn Trọng Yêm (2006) thực hiện.
Trong đề tài này những đặc điểm cơ bản về hạn hán ở Việt Nam đƣợc phân tích đúc
kết dựa trên các đặc trƣng hạn nhƣ chỉ số khô hạn tháng, năm và tần suất hạn tháng.
Đề tài cấp Bộ “Nghiên cứu và xây dựng công nghệ dự báo và cảnh báo sớm
hạn hán ở Việt Nam” do TS. Nguyễn Văn Thắng (2007) thực hiện. Đề tài đã đánh giá
đƣợc mức độ hạn hán ở các vùng khí hậu và chọn đƣợc các chỉ tiêu xác định hạn hán
phù hợp với từng vùng khí hậu ở Việt Nam, đồng thời xây dựng đƣợc công nghệ dự
báo và cảnh báo sớm hạn hán cho các vùng khí hậu ở Việt Nam bằng các số liệu khí
tƣợng thủy văn và các tƣ liệu viễn thám để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, trọng
tâm là sản xuất nông nghiệp và quản lý tài nguyên trong cả nƣớc;
Đề án cấp Bộ “Xây dựng bản đồ hạn hán và mức độ thiếu nước sinh hoạt ở
Nam Trung Bộ và Tây Nguyên” của PGS.TS. Trần Thục (2008) đã đánh giá mức độ
hạn hán và thiếu nƣớc sinh hoạt ở 9 tỉnh thuộc Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Trên cơ
sở đó đã xây dựng đƣợc các bản đồ hạn hán thiếu nƣớc sinh hoạt trong vùng nghiên
cứu.
Đề tài cấp Nhà nƣớc “Nghiên cứu ứng dụng các giải pháp khoa học công nghệ
phòng chống hạn hán phục vụ phát triển nông nghiệp bền vững ở các tỉnh miền
Trung” do TS. Lê Trung Tuân (2009) thực hiện. Đề tài đã triển khai với mục tiêu
nghiên cứu ứng dụng các giải pháp phòng chống hạn cho các tỉnh miền Trung. Các
giải pháp đề xuất ứng dụng đƣợc chia thành 3 nhóm: (i) Thu trữ nƣớc, bảo vệ đất và
giữ ẩm; (ii) Quản lý vận hành công trình thủy lợi trong điều kiện hạn hán, chế độ tƣới

và (iii) Kỹ thuật tƣới tiết kiệm nƣớc.
Đề tài Khoa học Công nghệ trọng điểm cấp Nhà nƣớc thuộc Chƣơng trình KC
08/06-10 “Nghiên cứu cơ sở khoa học quản lý hạn hán và sa mạc hóa để xây dựng hệ
thống quản lý, đề xuất các giải pháp chiến lược và giảm thiểu tác hại: Nghiên cứu
điển hình cho đồng bằng sông Hồng và Nam Trung Bộ” do TS. Nguyễn Lập Dân
(2010) thực hiện đã xây dựng hệ thống quản lý hạn hán vùng đồng bằng sông Hồng
(ĐBSH), hệ thống quản lý sa mạc hóa vùng Nam Trung Bộ và đề xuất các giải pháp
chiến lƣợc và tổng thể quản lý hạn ở cấp Quốc gia, phòng ngừa, ngăn chặn và phục hồi
các vùng hoang mạc hóa, sa mạc hóa.
Hiện nay có một số đề tài KHCN cấp Nhà nƣớc liên quan đến hạn hán hoặc ứng
dụng mô hình động lực dự báo khí hậu đang đƣợc triển khai thực hiện nhƣ đề tài về
hạn kinh tế - xã hội vùng ĐBSH do Viện Địa lý thực hiện, TS. Vũ Thu Lan là Chủ
nhiệm, đề tài nghiên cứu về tác động của ENSO đến lũ lụt, hạn hán ở Việt Nam và khả
năng dự báo với cách tiệm cận thống kê nhằm xây dựng các mô hình dự báo do Trung
tâm KHCN KTTVMT thực hiện, GS. TS. Nguyễn Trọng Hiệu làm Chủ nhiệm và đề
tài nghiên cứu về ứng dụng mô hình động lực dự báo khí hậu cho Việt Nam với thời
hạn trên 3 tháng do Trƣờng Đại học KHTN chủ trì thực hiện (GS. TS. Phan Văn Tân
làm Chủ nhiệm đề tài).


CHƢƠNG 2
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG

1.1. Khái quát đặc điểm địa lý tự nhiên
Vị trí địa lý và địa hình
Vùng hạ du sông Hồng gồm 10 tỉnh và thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Nam
Định, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hƣng Yên, Hải Dƣơng, Thái Bình, Hà Nam và Ninh
Bình, có diện tích 14.784km2, trong đó đất nông nghiệp 857.515ha, đất lâm nghiệp
121.600ha và có 18,207 triệu dân (số liệu thống kê năm 2008). Đây là khu vực có mật
độ tập trung dân cƣ cao nhất nƣớc ta và cũng là nơi sản xuất lƣơng thực lớn thứ 2 của

đất nƣớc.
Hệ thống sông Hồng là hệ thống sông lớn thứ hai ở Việt Nam, chỉ sau hệ thống
sông Mê kông, nằm trong phạm vi toạ độ địa lý: (100
o
00'-106
o
35') kinh độ đông,
(20
o
00'-25
o
30') vĩ độ bắc; phía bắc giáp hai lƣu vực sông Trƣờng Giang và sông Nậm
Pàn và Tả Giang thuộc hệ thống sông Châu Giang ở Trung Quốc; phía đông giáp lƣu
vực sông Thái Bình, phía tây giáp hai lƣu vực sông Mê kông và sông Mã, phía nam
giáp vịnh Bắc Bộ. Phần lƣu vực hệ thống sông Hồng thuộc lãnh thổ Việt Nam nằm
trong phạm vi toạ độ địa lý: (102
o
10'-106
o
35') kinh độ đông, (20
o
00'-23
o
07') vĩ độ bắc.
Diện tích lƣu vực hệ thống sông Hồng khoảng 155.000 km
2
, trong đó có 82.300 km
2

nằm trong lãnh thổ Trung Quốc (81.180 km

2
) và Lào (1.120 km
2
), 72.700 km
2
(chiếm
46,9%) nằm trong lãnh thổ Việt Nam, bao trùm toàn bộ hay một phần địa phận 17 tỉnh
và thành phố: Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hoà Bình, Lào Cai, Yên Bái, Hà giang,
Tuyên Quang, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, thành phố Hà Nội, Hƣng Yên, Hà Nam, Ninh
Bình, Nam Định, Thái Bình (hình 1.1.1).
Địa hình trong lƣu vực hệ thống sông Hồng rất đa dạng, bao gồm: núi, đồi và
đồng bằng.Địa hình đồi núi chiếm phần lớn diện tích lƣu vực, có xu thế thấp dần theo
hƣớng tây bắc - đông nam, độ cao trung bình 1.090 m. Trong lãnh thổ nƣớc ta, phần
phía tây của lƣu vực sông Hồng đƣợc giới hạn bởi khối núi ở biên giới Việt - Lào với
những đỉnh cao trên 1.800 m nhƣ: Pu-đen-đinh (1.886 m), Pu-Sam-Sao (1.897 m),
Khoan-La-San (1.853 m); đỉnh của những dãy núi này là đƣờng phân nƣớc giữa sông
Đà - một nhánh của sông Hồng, với sông Mê kông; phía tây bắc của lƣu vực là những
dãy núi cao ở biên giới Việt - Trung, với những đỉnh cao trên 2.000 m nhƣ: Pu Si Ling
(3.076 m), Phu Nam Nhe (2.534 m); phần phía bắc cũng có những dãy núi cao với
những đỉnh cao trên 2.000 m nhƣ: Kiều Liêu Ti (2.402 m), Tây Côn Lĩnh (2.419 m);
phần phía đông bắc là 2 cánh cung: sông Gâm và Ngân Sơn và dãy Tam Đảo.
Ở trung và thƣợng lƣu có những khối núi và cao nguyên. Dãy Hoàng Liên Sơn
kéo dài từ biên giới Việt - Trung đến Vạn Yên với đỉnh Phan Xi Păng cao nhất Việt
Nam (3.143 m), sau đó là đỉnh Phu-Luông (2.985 m). Đỉnh của những dãy núi này là
đƣờng phân nƣớc giữa sông Đà với sông Thao. Dãy núi Con Voi ở tả ngạn trung lƣu
sông Thao là đƣờng phân nƣớc giữa sông Thao với sông Lô. Khối núi Tây Côn Lĩnh
phía hữu ngạn trung lƣu sông Lô có những đỉnh cao trên 2.000 m: Tây Côn Lĩnh 2.419
m, Kiều Liêu Ti 2.402 m.
Trong lƣu vực có các cao nguyên đá vôi nhƣ các cao nguyên: Tà Phìn, Sín
Chải, Sơn La, Mộc Châu trong lƣu vực sông Đà; Bắc Hà, Quản Bạ, Đồng Văn, Yên

Minh trong lƣu vực sông Lô.
Địa hình đồi dạng bát úp, cao dƣới (50-100) m, đặc trƣng cho cảnh quan vùng
trung du, phân bố rộng khắp trong lƣu vực.
Xen kẽ giữa những cao nguyên và đồi núi có những bồn địa nhƣ ở Nghĩa Lộ,
Quang Huy.
Vùng đồng bằng nằm ở hạ lƣu sông Hồng, địa hình bằng phẳng, nghiêng ra biển
theo hƣớng tây bắc - đông nam. Đồng bằng bị chia cắt thành những khu bởi các bờ đê
chạy dọc theo các triền sông.
Địa chất
Lƣu vực sông Hồng trong địa phận Việt Nam là nơi gặp gỡ của hai hệ thống địa
chất - kiến tạo lớn,.Đó là nền địa chất Hoa Nam và địa máng Mezozoi, nối hai phƣơng
kiến tạo khác nhau và cắt nhau: đông bắc nằm trên và tây bắc nằm dƣới. Ranh giới của
2 hệ thống này là đƣờng đứt gãy kiến tạo lớn và sâu chạy theo hƣớng tây bắc - đông
nam ra tận vịnh Bắc Bộ. Sông Thao và sông Chảy chảy trên đƣờng đứt gãy này. Hệ
thống đứt gãy này chia lƣu vực sông Hồng thành 2 miền uốn nếp khác nhau: Việt -
Trung nằm ở đông bắc và Ấn - Trung nằm ở phía tây nam. Vì thế, cấu tạo địa chất
trong lƣu vực rất phức tạp.
Thổ nhƣỡng
Vùng núi cao đƣợc cấu tạo bằng các loại đá nhƣ: granít, đá phiến, sa diệp thạch,
phiến thạch, sa thạch, cát kết, cuội kết và đá vôi. Đất trong lƣu vực đƣợc phát triển trên
các loại đá mẹ khác nhau, gồm các loại đất nhƣ: Đất mùn trên núi cao, đất feralít trên
các loại đá mác ma, đá vôi và các loại đá khác với các màu vàng nhạt, vàng, đỏ, đỏ
vàng, nâu đỏ, đất đá vôi, đất phù sa và cát ven sông, ven biển, đất phèn và đất mặn.
Thực vật
Thực vật trong lƣu vực sông rất phong phú, với nhiều loại thực vật và phân bố
theo độ cao khác nhau nhƣ sau:
- Ở độ cao từ trên 1.700 m có rừng nhiệt đới núi cao, cây cao thƣờng dƣới 20 m, lớp
mùn rất giàu, cây sống trong sƣơng mù nên có rêu.
- Ở độ cao (700-1.700) m có rừng nhiệt đới thƣờng xanh, gồm rừng kín hỗn hợp cây
lá rộng; lá kim á nhiệt đới và rừng kín thƣờng xanh mƣa ẩm á nhiệt đới, cây cao

(25-30) m.
- Ở độ cao 700 có rừng kín thƣờng xanh mƣa ẩm á nhiệt đới, trảng cỏ và cây bụi.
- Rừng ngập mặn ở ven biển.
Trong những thập niên 60-80 của thế kỷ 20, rừng bị tàn phá, khai thác bừa bãi,
nên tỷ lệ rừng giảm nghiêm trọng; tỷ lệ rừng trung bình trong một số tỉnh nhƣ sau: Lai
Châu 8,7%, Sơn La 9,8%, Hoàng Liên Sơn (cũ) 17,4%, Hà Tuyên (cũ) 32%. Nhờ có
phong trào trồng và bảo vệ rừng nên tỷ lệ rừng che phủ đã tăng lên đáng kể; vào năm
2006 tỷ lệ rừng che phủ bình quân trong lƣu vực của 2 hệ thống sông Hồng và Thái
Bình khoảng 40,9%.
Khí hậu
Khí hậu trong phần lƣu vực hệ thống sông Hồng thuộc lãnh thổ Việt Nam là khí
hậu nhiệt đới gió mùa. Tuy nhiên, do ảnh hƣởng của địa hình và vị trí địa lý nên khí
hậu phân hoá rất đa dạng trong lƣu vực và có thể chia ra làm 3 vùng khí hậu: Tây Bắc,
Việt Bắc và đồng bằng sông Hồng. Vùng Tây bắc thuộc lƣu vực sông Đà có đặc điểm
chung là: mùa đông nắng tƣơng đối nhiều, lạnh, có sƣơng muối, ít mƣa phùn; mùa hè
nắng nóng, mƣa nhiều, có gió tây khô nóng và ít chịu ảnh hƣởng trực tiếp của xoáy
thuận nhiệt đới (bão và áp thấp nhiệt đới). Vùng Việt Bắc nằm trong lƣu vực sông Lô
và sông Thao. Đặc điểm chung của khí hậu trong vùng này là: trong mùa đông nắng ít,
lạnh, nhiều năm có sƣơng muối, nhiều mƣa phùn; trong mùa hè nóng, ít gió tây khô
nóng, chịu ảnh hƣởng trực tiếp của xoáy thuận nhiệt đới ( bão và áp thấp nhiệt đới),
mƣa nhiều và mùa mƣa gần trùng với mùa nóng. Vùng đồng bằng nằm ở hạ lƣu hệ
thống sông Hồng. Đặc điểm chung của khí hậu trong vùng đồng bằng là: trong mùa
đông lạnh, nắng ít, có thể xảy ra sƣơng muối, nhiều mƣa phùn; mùa hè nóng, ít gió tây
khô nóng, chịu ảnh hƣởng trực tiếp của xoáy thuận nhiệt đới.
Những đặc điểm chung của khí hậu nêu trên đƣợc biểu hiện qua sự biến
đổi trong vùng và theo thời gian của các yếu tố khí hậu chính nhƣ sau /8, 24/:
- Bức xạ tổng cộng trung bình năm khoảng 80 kcal/cm
2
ở vùng núi cao đến
120 kcal/cm

2
, cân bằng bức xạ trung bình năm khoảng (40-70) kcal/cm
2
.
- Số giờ nắng trung bình năm từ 1.400 giờ ở vùng núi cao đến hơn 2.000 giờ
ở thung lũng sông Đà.
- Nhiệt độ không khí trung bình năm biến đổi trong phạm vi từ dƣới 14
o
C ở
vùng núi cao đến (20-24)
o
C ở vùng trung du và đồng bằng. Nhiệt độ cao
nhất tuyệt đối có thể trên 40
o
C (Lai Châu: 42,5
o
C, Phú Hộ: 40,7
o
C, Láng:
42,8
o
C (V/1926)). Nhiệt độ tối thấp tuyệt đối có thể dƣới 0
o
C ở vùng núi
cao: -4,5
o
C tại Sìn Hồ, -5,7
o
C tại Hoàng Liên Sơn, dƣới 10
o

C, thậm chí
dƣới 5
o
C ở trung du và đồng bằng.
- Độ ẩm tƣơng đối của không khí trung bình năm khoảng (80-87)%.
- Lƣợng mây tổng quan trung bình năm biến đổi trong phạm vi (6-8,5)/10
bầu trời.
- Tốc độ gió trung bình năm từ dƣới 0,8 m/s ở các thung lũng, sƣờn núi
khuất gió đến 3-4 m/s ở đồng bằng ven biển. Tốc độ gió mạnh nhất có thể
tới (40-50) m/s ở đồng bằng ven biển.
- Lƣợng bốc hơi trung bình năm (đo bằng ống Piche) từ dƣới 500 mm ở vùng
núi Hoàng Liên Sơn đến (900-1.100) mm ở trung du và đồng bằng.
- Lƣợng mƣa năm biến đổi rất lớn trong lƣu vực, từ (1.100-1.200) mm ở
những thung lũng, cao nguyên khuất gió (cao nguyên Sơn La) đến trên
(4.000 - 5.000) mm ở vùng núi Hoàng Liên Sơn và Tây Côn Lĩnh ( hình
1.2). Mùa mƣa hàng năm thƣờng từ tháng IV, V đến IX, X. Lƣợng mƣa
trong mùa mƣa chiếm (75-85)% lƣợng mƣa năm, còn mùa khô kéo dài tới
6-7 tháng, nhƣng chỉ chiếm có (15-25)% lƣợng mƣa năm.
Trong bảng 1.1.1 đƣa ra lƣợng mƣa trung bình tháng, năm và hình 1.1.2
là dạng phân phối mƣa trong năm tại một số trạm khí tƣợng trong lƣu vực.
Mạng lƣới sông suối
Do sự khác nhau về điều kiện khí hậu và địa hình, địa mạo, địa chất nên mạng
lƣới sông suối phát triển không đều với mật độ lƣới sông từ (0,25-0,50) km/km
2

những cao nguyên đá vôi đến hơn 1,5 km/km
2
ở những nơi mƣa nhiều, địa hình dốc và
chia cắt mạnh và trên 4 km / km
2

trong vùng đồng bằng hạ lƣu.
Hệ thống sông Hồng do ba nhánh sông lớn tạo thành là các sông: Đà, Thao và
Lô. Cả 3 nhánh sông này đều bắt nguồn từ tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) rồi chảy vào
địa phận nƣớc ta với nhiều nhánh. Sông Thao (ở địa phận Trung Quốc có tên là sông
Nguyên) bắt nguồn từ hồ Đại Lý ở độ cao gần 2.000 m trên đỉnh Ngụy Sơn thuộc tỉnh
Vân Nam - Trung Quốc, theo hƣớng tây bắc - đông nam chảy vào lãnh thổ Việt Nam ở
huyện Bát Xát tỉnh Lào Cai, tiếp nhận sông Đà ở Trung Hà và sông Lô ở Việt Trì, rồi
chảy vào đồng bằng châu thổ sông Hồng. Sông Thao đƣợc coi là dòng chính của sông
Hồng và phần hạ lƣu từ Việt Trì đến cửa Ba Lạt đƣợc gọi là sông Hồng. Đồng bằng
châu thổ sông Hồng có mạng lƣới sông ngòi kênh rạch chằng chịt. Ở đây, sông Hồng
có các phân lƣu nhƣ: Đuống, Luộc chảy sang sông Thái Bình, sông Trà Lý, sông Đào
Nam Định và sông Ninh Cơ. Nhƣ vậy, ngoài cửa Ba Lạt ra, nƣớc sông Hồng còn chảy
ra vịnh Bắc Bộ tại các cửa Trà Lý, Lạch Giang , Đáy và một số cửa của hệ thống sông
Thái Bình.
Cũng cần chỉ ra rằng, đồng bằng châu thổ sông Hồng là phần hạ lƣu của hai hệ
thống sông Hồng và Thái Bình. Do địa hình bằng phẳng, mạng lƣới sông ngòi kênh
rạch chằng chịt đan xen nhau, nên khó có thể phân chia ranh giới lƣu vực giữa 2 hệ
thống sông này ở vùng đồng bằng.
Lƣu vực sông Thao có dạng dài, hẹp ngang, mở rộng ở phía thƣợng lƣu và thu
hẹp ở trung và hạ lƣu. Ở phần phía bờ trái thuộc lãnh thổ Việt Nam, lƣới sông kém
phát triển. Một số sông nhánh chính ở phía bờ phải của sông Thao ở nƣớc ta nhƣ: Ngòi
Bo (F =587 km
2
), Ngòi Nhù (F=1.550 km
2
), Ngòi Hút (F=632 km
2
), Ngòi Thia
(F=1.570 km
2

), Ngòi Bứa (F=1370 km
2
), Ngòi Phát (F=512 km
2
), Ngòi Lao (F=650
km
2
).
Sông Đà có tên gọi là sông Lý Tiên ở Trung Quốc, bắt nguồn từ vùng núi cao
tỉnh Vân Nam, theo hƣớng tây bắc - đông nam chảy vào lãnh thổ Việt Nam tại xã Ka
Long huyện Mƣờng Tè, tỉnh Lai Châu, rồi tiếp tục chảy qua tỉnh Điện Biên, Sơn La và
Hoà Bình rồi đổ vào sông Thao tại Trung Hà. Sông Đà dài 1.010 km, diện tích lƣu vực
52.900km
2
.

Trong lãnh thổ Việt Nam, sông Đà dài 570 km và diện tích lƣu vực
26.800km
2
, bao gồm toàn bộ hay một phần địa phận các tỉnh Lai Châu, Điện Biên,
Sơn La, Hoà Bình. Một số sông nhánh tƣơng đối lớn của sông Đà nhƣ: Nậm Na (F =
6.860 km
2
), Nậm Pô (F = 2.280 km
2
), Nậm Mức (F = 2.930 km
2
), Nậm Mu (F = 3.400
km
2

), Nậm Bú (F = 1.410 km
2
), Nậm Sập (F = 1.110 km
2
) Do điều kiện địa hình nên
lƣu vực sông Đà có dạng dài và hẹp ngang - dạng hình lông chim.
Sông Lô bắt nguồn từ vùng núi cao trên 2.000 m ở phía tây nam tỉnh Vân Nam,
Trung Quốc. Phần ở Trung Quốc sông Lô có tên gọi là sông Bàn Long, chảy theo
hƣớng tây bắc - đông nam vào địa phận huyện Vị Xuyên tỉnh Hà Giang, qua các tỉnh
Tuyên Quang, Phú Thọ, nhập vào sông Thao tại Việt Trì. Dòng chính sông Lô dài 470
km và diện tích lƣu vực 39.000 km
2
, trong đó ở nƣớc ta sông Lô dài 275 km và diện
tích lƣu vực 22.600 km
2
. Lƣu vực sông Lô hẹp ngang ở thƣợng và hạ lƣu, mở rộng ở
trung lƣu. Trong lãnh thổ Việt Nam, sông Lô có một số nhánh chính nhƣ: Miện
(F=1.930 km
2
), Gâm (F=17.200 km
2
), Nhiên (F=6.500 km
2
), Phó Đáy (F=1.610 km
2
).
Sông Đáy cũng đƣợc coi là sông nhánh của sông Hồng ở phía hữu ngạn, bắt
nguồn từ vùng núi Ba Vì, chảy theo hƣớng tây bắc - đông nam và đổ ra biển tại cửa
Đáy.
Lƣới trạm thuỷ văn

Trong lƣu vực sông Hồng thuộc lãnh thổ Việt Nam có 110 trạm thuỷ văn trên
các sông suối đã và đang hoạt động, trong đó có 51 trạm chỉ đo mực nƣớc (trong đó
trạm trên các sông vùng chịu ảnh hƣởng của thuỷ triều), 59 trạm đo lƣu lƣợng nƣớc,
35 trạm đo dòng chảy cát bùn lơ lửng, 13 trạm đo thành phần hoá học nƣớc và 14 trạm
đo mặn, mật độ lƣới trạm trung bình toàn lƣu vực khoảng 660 km
2
/trạm; riêng mật độ
lƣới trạm đo lƣu lƣợng khoảng 1.230 km
2
/trạm và mật độ lƣới trạm đo cát bùn lơ lửng
khoảng 2.077 km
2
/trạm.
Vào các thập niên 70 - 80 của thế kỷ 20,nhiều trạm thuỷ văn trên các sông vừa
và nhỏ đã ngừng hoạt động hoặc giảm hạng mục đo (hạ cấp đo). Cho nên, tính đến
cuối thập niên 90 của thế kỷ trƣớc chỉ còn 60 trạm thuỷ văn đang hoạt động, trong đó
35 trạm đo lƣu lƣợng nƣớc, 16 trạm đo cát bùn lơ lửng; mật độ lƣới trạm trung bình
lƣu vực khoảng 1.210 km
2
/trạm, riêng các trạm đo lƣu lƣợng khoảng 2.080 km
2
/trạm
và các trạm đo cát bùn lơ lửng khoảng 4.540 km
2
/trạm. Thời kỳ hoạt động của các
trạm thuỷ văn là khác nhau. Một số trạm trên dòng chính sông Hồng và các nhánh
sông Đà, Thao và Lô đƣợc xây dựng sớm nhất, từ năm 1902. Phần lớn các trạm thủy
văn đƣợc xây dựng từ cuối thập niên 50, đầu thập niên 60 của thế kỷ trƣớc. Nhƣ vậy,
tính cho đến nay, số năm quan trắc dài nhất là hơn 100 năm, nhƣng cũng có một số
trạm thuỷ văn do một số ngành và địa phƣơng quản lý chỉ co khoảng (5-10) năm.

Nhìn chung, chất lƣợng số liệu đo đạc là đáng tin cậy, nhất là đối với số liệu
quan trắc từ thập niên 60 của thế kỷ trƣớc đến nay.
Dòng chảy năm
Do ảnh hƣởng của các yếu tố khí hậu và mặt đệm, đặc biệt là địa hình và mƣa,
nên dòng chảy sông suối biến đổi mạnh trong không gian và theo thời gian. Nhìn
chung, sự phân bố của mô đun dòng chảy năm (M
n
, l/s.km
2
) trong lƣu vực tƣơng tự
nhƣ sự phân bố của lƣợng mƣa năm trung bình nhiều năm (X
n
, mm). mà bản thân sự
phân bố của X
n
lại chịu ảnh hƣởng rất lớn của địa hình ( hình 1.3 ).
Trong phần lƣu vực thuộc lãnh thổ Việt Nam, gía trị M
n
biến đổi trong phạm vi
từ dƣới 10 l/s.km
2
đến trên 120 l/s.km
2
. Các trung tâm M
n
lớn đều xuất hiện ở các
sƣờn núi đón gió mùa ẩm (gió đông năm hay gió tây nam), nhƣ ở vùng núi Tây Côn
Lĩnh ở trung lƣu sông Lô (M
n
>120 l/s.km

2
), vùng núi Hoàng Liên Sơn, vùng núi tả
ngạn sông Đà ở biên giới Việt - Trung (M
n
>80 l/s.km
2
). Những nơi này có X
n
>3.000
mm. Trái lại, các trung tâm M
n
nhỏ xuất hiện ở các sƣờn núi hay thung lũng khuất gió
mùa ẩm. Ở những nơi này X
n
<(1.000-1.200) mm và M
n
<15 l/s.km
2
, nhƣ ở các cao
nguyên đá vôi ở trung lƣu sông Lô (các cao nguyên Đồng Văn, Quản Bạ), cao nguyên
Sơn La; thung lũng sông Gâm từ Đầu Đẳng đến Chiêm Hoá. Phạm vi biến đổi của M
n

trên các lƣu vực sông nhánh lớn nhƣ sau:
- Lƣu vực sông Đà: Từ dƣới 15 l/s.km
2
đến trên 80 l/s.km
2
;
- Lƣu vực sông Thao: Từ dƣới 30 l/s.km

2
đến trên 80 l/s.km
2
;
- Lƣu vực sông Lô: Từ dƣới 10 l/s.km
2
đến trên 20 l/s.km
2
;
- Đồng bằng hạ lƣu: 15-30 l/s.km
2
.
Trên cơ sở chuỗi số liệu quan trắc lƣu lƣợng nƣớc tại các trạm thuỷ văn và bản
đồ đƣờng đẳng trị M
n
có thể tính đƣợc tổng lƣợng dòng chảy năm trung bình nhiều
năm (W
o,n
) của hệ thống sông Hồng. Kết quả tính toán cho thấy, giá trị W
o
của sông
Hồng khoảng 127 km
3
, trong đó từ nƣớc ngoài chảy vào 48,7 km
3
(chiếm 38,3%) và
78,6 km
3
đƣợc hình thành trong lãnh thổ Việt Nam. Tổng lƣợng dòng chảy năm của
các sông nhánh chính nhƣ sau : Sông Đà: 55,1 km

3
, sông Thao: 25,6 km
3
, sông Lô:
33,3 km
3
; tổng lƣợng dòng chảy năm của các sông này từ Trung Quốc chảy vào tƣơng
ứng nhƣ sau: 21,3 km
3
(trong đó có 0,90 km
3
từ Lào), 16,9 km
3
và 10,5 km
3
/24/.
Từ đó có thể nhận thấy, tuy diện tích lƣu vực sông Đà và sông Thao xấp xỉ
nhau, tƣơng ứng chiếm khoảng 34,1% và 33,4% tổng diện tích lƣu vực hệ thống sông
Hồng, nhƣng lƣợng dòng chảy năm của sông Đà chiếm tới 43,3%, sông Thao chỉ
chiếm 20,1% tổng lƣợng dòng chảy năm của hệ thống sông Hồng, còn sông Lô và
phần hạ lƣu tƣơng ứng chiếm 26,2% và 10,4%.
Ở hạ lƣu sông Hồng, mạng lƣới sông ngòi kênh rạch khá dày và nối với hệ
thống sông Thái Bình để tạo thành đồng bằng châu thổ Bắc Bộ (hay thƣờng gọi là
châu thổ sông Hồng - Thái Bình). Một phần lƣợng nƣớc sông Hồng chảy qua phân
lƣu sông Đuống và sông Luộc sang sông Thái Bình. Nhƣ vậy, dòng chảy sông Hồng
đổ ra vịnh Bắc Bộ tại cửa Ba Lạt (dòng chính), Trà Lý (sông Trà Lý), Lạch Giang
(sông Ninh cơ), Đáy (sông Đào và sông Đáy) và một số cửa sông của hệ thống sông
Thái Bình (Bạch Đằng, Cửa Cấm, Lạch Tray, Văn Úc, Thái Bình).
Mức bảo đảm nƣớc bình quân năm trên 1 km
2

diện tích lƣu vực hệ thống sông
Hồng khoảng 821.10
3
m
3
/km
2
, trong đó 592.10
3
m
3
/km
2
ở ngoài nƣớc và 1.080.10
3

m
3
/km
2
trong lãnh thổ Việt Nam. Mức bảo đảm nƣớc bình quân năm trên các sông
nhánh nhƣ sau: sông Đà: 1.040 .10
3
m
3
/km
2
, sông Thao: 494.10
3
m

3
/km
2
, sông Lô:
854.10
3
m
3
/km
2
và ở phần hạ lƣu: 1.180.10
3
m
3
/km
2
.
Chế độ dòng chảy
Mùa lũ hàng năm trên các sông thƣờng xuất hiện vào các tháng V, VI - IX,X,
tƣơng đối sớm ở trung và thƣợng lƣu, tƣơng đối muộn (các tháng VI-X) ở hạ lƣu và
một số sông trên các cao nguyên Sơn La, Mộc Châu thuộc lƣu vực sông Đà (các tháng
VII-X). Lƣợng dòng chảy mùa lũ chiếm khoảng (70-80)% lƣợng dòng chảy năm; 3
tháng liên tục có lƣợng dòng chảy lớn nhất thƣờng xuất hiện vào các tháng VI-VIII
hay VII-IX, trong đó tháng VII hay tháng VIII có lƣợng dòng chảy trung bình tháng
lớn nhất; lƣợng dòng chảy của 3 tháng lớn nhất chiếm khoảng (50-65)% lƣợng dòng
chảy năm, trong đó tháng lớn nhất chiếm khoảng (15-30)% lƣợng dòng chảy năm.
Lƣợng dòng chảy mùa cạn chỉ chiếm (20-30)% dòng chảy năm, trong đó 3 tháng liên
tục có lƣợng dòng chảy nhỏ nhất chỉ chiếm dƣới 10% dòng chảy năm và xuất hiện vào
các tháng I-III hay II-IV.
Trong bảng 1.1.2 đƣa ra lƣu lƣợng trung bình tháng, năm tại một số trạm thuỷ

văn trong hệ thống sông Hồng và hình 1.1.3 là sơ đồ phân phối lƣu lƣợng trung bình
tháng trong năm của một số sông.
Ở vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng - Thái Bình, chế độ nƣớc sông còn chịu
ảnh hƣởng của thuỷ triều. Càng gần cửa sông thì ảnh hƣởng của thuỷ triều càng mạnh
và là nhân tố chủ yếu chi phối chế độ nƣớc sông ngòi, kênh rạch. Chế độ thuỷ triều ở
vùng này thuộc loại nhật triều đều. Khoảng cách mà thuỷ triều xâm nhập vào sông có
thể tới 185 km trên sông Hồng, 210 km trên sông Đáy.
Hệ thống sông Thái Bình nằm ở phía đông bắc lãnh thổ Việt Nam, trong phạm
vi toạ độ địa lý: 105
0
29'-107
o
10' kinh độ đông, 20
0
20'-22
0
27' vĩ độ bắc; phía tây tiếp
giáp với hệ thống sông Hồng, phía bắc và đông bắc tiếp giáp với hệ thống sông Kỳ
Cùng - Bằng; phía đông tiếp giáp với các lƣu vực sông vừa và nhỏ ở vùng ven biển
Quảng Ninh và phía nam tiếp giáp vịnh Bắc Bộ (hình 1.1.1). Nhƣ vậy, lƣu vực hệ
thống sông Thái Bình bao gồm toàn bộ hay một phần địa phận các tỉnh: Bắc Kạn, Thái
Nguyên, Bắc Giang, Lạng Sơn, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, thành phố Hà Nội, Hải Dƣơng,
Thái Bình và thành phố Hải Phòng.
Địa hình
Địa hình trong lƣu vực chủ yếu là đồi núi ở trung và thƣợng lƣu, đồng bằng ở
hạ lƣu. Địa hình đồi núi thành 4 cánh cung: cánh cung Sông Gâm ở phía tây và tây
bắc, 2 cánh cung Ngân Sơn - Yên Lạc và Bắc Sơn ở giữa và cánh cung Đông Triều ở
phía đông nam. Các cánh cung này tạo thành vòng cung mở rộng về phía đông bắc và
quy tụ về dãy núi Tam Đảo ở phía tây nam. Cánh cung Sông Gâm hạ thấp dần về phía
Định Hoá (Chợ Chu); trên cánh cung này có một số đỉnh núi cao trên 1.000 m nhƣ:

Pia-Ya (1.980 m), Sam Sao (1.172 m), Pia-Bióoc (1.578 m), Tam Tao (1.326 m), Phia
Đeng (1.527 m). Những đỉnh núi này tạo thành đƣờng phân nƣớc giữa sông Gâm với
sông Cầu.
Cánh cung Ngân Sơn - Yên Lạc bao gồm 2 dãy núi cùng tên, nằm trên trung
tâm nếp lồi Cốc Xô. Theo hƣớng từ bắc xuống nam, cánh cung này có những đỉnh núi
khá cao: Pia Oóc (1.930 m), Ngân Sơn (1.262 m), Cốc Xô (1.131 m), Kim Kỷ, Lang
Hít Núi Pia Oóc cao nhất vùng, là khối núi granít có đỉnh nhọn, sƣờn dốc. Núi Ngân
Sơn bị nƣớc xâm thực mạnh, đặc biệt là ở chân núi làm lộ ra những vỉa đá vôi xếp tầng
nhƣ những bậc thang, ở đỉnh núi thì tƣơng đối bằng và khá rộng, sƣờn núi thoải. Núi
Cốc Xô nối liền với khối núi đá vôi Kim Hỷ còn dày đặc, rồi lại nối với dãy núi đá vôi
chạy từ Yên Lạc đến Na Rì, tạo thành một vùng núi hiểm trở. Đỉnh đá vôi sắc nhọn,
còn các hẻm núi thì sâu, các lũng hẹp. Những dãy núi trên cánh cung Ngân Sơn - Yên
Lạc tạo thành đƣờng phân nƣớc giữa sông Cầu với sông Bằng và sông Kỳ Cùng.
Nằm về phía đông cánh cung Ngân Sơn là cánh cung Bắc Sơn. Trên cánh cung
này có những núi cao trên 1.000 m, nhƣ Khao Kiên (1.107 m). Các khối núi đá vôi
trên cánh cung Bắc Sơn nhƣ bức tƣờng thành ở phía hữu ngạn sông Thƣơng, bị phá
huỷ dữ dội, tạo thành kiểu địa hình cánh đồng phía ngoại vi karst. Những đỉnh núi trên
cánh cung Bắc Sơn tạo thành đƣờng phân nƣớc giữa lƣu vực sông Thƣơng với sông
Cầu ở phía tây và lƣu vực sông Bắc Giang ở phía bắc và phía đông.
Cánh cung Đông Triều nằm ở phía đông nam lƣu vực sông Lục Nam. Cánh
cung này gồm hai dãy núi Nam Mẫu và Bình Liêu, chạy theo hƣớng tây - đông, sát bờ
vịnh Bắc Bộ ở khu vực Đông Triều - Hòn Gai, sau đó càng lên phía bắc càng lùi dần
vào phía đất liền. Các đỉnh núi cao trên cánh cung này đều cao từ (1.300-1.500) m,
nhƣ núi Yên Tử (1.068 m), Am Vạp (1.094 m), Cao Xiêm (1.330 m), Nam Châu Lãnh
(1.506 m) Cánh cung Đông Triều là đƣờng phân nƣớc giữa sông Lục Nam, sông Kỳ
Cùng với các sông ở ven biển tỉnh Quảng Ninh.
Vùng đồi núi thấp phân bố ở trung lƣu các sông Cầu, Thƣơng và Lục Nam với
độ cao dƣới 100-300 m. Địa hình đồng bằng nằm ở hạ lƣu các sông, khá bằng phẳng
và thấp.
Nhìn chung, địa hình ở lƣu vực sông Cầu thấp dần từ bắc xuống nam, còn ở lƣu

vực sông Thƣơng và sông Lục Nam là hƣớng đông bắc - tây nam. Độ cao trung bình
của lƣu vực sông Cầu và sông Thƣơng xấp xỉ nhau, khoảng 190 m, còn lƣu vực sông
Lục Nam cao hơn 207 m.
Địa chất
Phần lớn diện tích lƣu vực đƣợc cấu tạo chủ yếu bởi đá phiến, thạch anh, sa
thạch, cát két và đá vôi. Đá vôi tập trung phân bố ở các cánh cung sông Gâm, Ngân
Sơn - Yên Lạc và Bắc Sơn trong 2 lƣu vực sông Cầu và sông Thƣơng, tạo thành các
dạng địa hình karst với mức độ phát triển khác nhau. Diện tích đá vôi trong lƣu vực
sông Cầu là 279 km
2
(chiếm 4,6% diện tích lƣu vực), trong lƣu vực sông Thƣơng là
929 km
2
(chiếm 25,9%). Một số lƣu vực sông nhánh có diện tích đá vôi khá lớn, nhƣ
lƣu vực sông Nghinh Tƣờng (một nhánh của sông Cầu) có diện tích đá vôi là 170 km
2
,
chiếm 36,6% diện tích lƣu vực, lƣu vực sông Trung (một nhánh của sông Thƣơng) là
651 km
2
, chiếm 51,3%.
Địa hình karst với mức độ phát triển khác nhau đã làm cho lƣu vực sông không
khép kín và sự trao đổi nƣớc mặt với nƣớc ngầm rất phức tạp.
Thổ nhƣỡng
Trong lƣu vực hệ thống sông Thái Bình có những loại đất chính dƣới đây:
- Đất feralít phát triển triển trên đá phiến thạch và biến chất, phân bố rộng khắp trong
lƣu vực;
- Đất feralít vàng đỏ phát triển trên đá mác ma axít, phân bố ở vùng núi phía tây và
tây nam lƣu vực sông Cầu;
- Đất feralít trên núi, phân bố ở độ cao từ 300 m trở lên trong lƣu vực sông Thƣơng

và sông Cầu;
- Đất đƣợc phát triển trên đá kiềm (đá vôi và bazic);
- Đất feralít xói mòn trơ sỏi đá, phân bố ở độ cao dƣới 200 m;
- Đất phát triển trên phù sa cổ và đất phù sa đƣợc bồi tụ hàng năm.
Ngoài ra, còn có nhóm đất mùn trên núi cao, đất dốc tụ và đất lầy.
Thực vật
Trong lƣu vực có những loại rừng kín thƣờng xanh mƣa ẩm á nhiệt đới, phát
triển ở độ cao từ 700 m trở lên; rừng kín thƣờng xanh, mƣa ẩm nhiệt đới, phát triển ở
độ cao dƣới 700 m; trảng cỏ và cây bụi ở vùng đồi.
Ngoài ra, còn có nhiều loại cây trồng nông nghiệp. Tuy nhiên, rừng đã và đang
bị tàn phá, ảnh hƣởng đáng kể đến môi trƣờng sinh thái và tài nguyên nƣớc.
Khí hậu
- Lƣợng bức xạ tổng cộng trung bình năm khoảng (100-120) kcal/cm
2
. Cán cân bức
xạ trung bình năm khoảng (65-70) kcal/cm
2
.
- Số giờ nắng trung bình năm khoảng (1.300-1.700) giờ; số giờ nắng trong các tháng
V-XII đều trên 100 giờ, nhiều nhất vào tháng VII (180-210 giờ), ít nhất vào tháng
II (40-55 giờ).
- Nhiệt độ không khí trung bình năm khoảng (20-23,5)
o
C, có thể dƣới 20
o
C ở núi
cao. Nhiệt độ không khí cao nhất tuyệt đối đã xuất hiện trong thời kỳ quan trắc có
thể trên 38
0
C : 40,5

o
C tại thị xã Bắc Kạn, 39,5
o
C tại thành phố Thái Nguyên,
39,1
o
C tại thành phố Bắc Giang. Nhiệt độ không khí tối thấp tuyệt đối có thể dƣới
0
o
C: -1
o
C tại thị xã Bắc Kạn, 2,8
o
C tại thành phố Bắc Giang, -2
o
C tại Ngân Sơn,
0,2
o
C tại Tam Đảo.
- Lƣợng mây tổng quan trung bình năm khoảng (7-8)/10 bầu trời; trong các tháng
mùa xuân (I-III) lƣợng mây tổng quan có thể tới (8-9)/10 bầu trời, còn trong các
tháng mùa thu đông (IX-XI) trời thƣờng trong xanh với lƣợng mây tổng quan chỉ
khoảng (6-7,5/10 bầu trời).
- Độ ẩm tƣơng đối của không khí trung bình năm khoảng (80-85)%.
- Tốc độ gió trung bình năm khoảng (0,9-1,7) m/s, tƣơng đối nhỏ ở những thung lũng,
sƣờn núi khuất gió. Tốc độ gió lớn nhất có thể trên 30 m/s, thậm chí ở vùng đồng bằng
ven biển còn lớn hơn: 40 m/s tại thành phố Thái Bình, 51 m/s tại Phủ Liễn.
- Lƣợng bốc hơi trung bình năm (đo bằng ống Piche) khoảng (700-1.100) mm, lớn trong
các tháng V-VII, và nhỏ trong các tháng I-III.
- Lƣợng mƣa năm trung bình nhiều năm biến đổi trong phạm vi(1.200- 2.600 )(0)

mm ( hình 1.2 ). Các trung tâm mƣa lớn xuất hiện ở những vùng núi cao đón gió
mùa ẩm, nhƣ ở vùng núi Tam Tao ở thƣợng nguồn sông Cầu (trên 2.000 mm), dãy
núi Tam Đảo ở hữu ngạn sông Công (trên 2.600 mm), dãy núi Yên tử (trên 2000
mm). Mùa mƣa hàng năm thƣờng vào các tháng V-IX, có năm sớm hơn từ tháng
IV. Lƣợng mƣa trong mùa mƣa chiếm khoảng (70-85)% lƣợng mƣa năm, trong khi
đó mùa khô kéo dài tới 6-7 tháng, nhƣng lƣợng mƣa mùa này chỉ chiếm có (15-
30)% lƣợng mƣa năm. Các tháng VI-VIII thƣờng là những tháng có lƣợng mƣa
lớn. Ba tháng có lƣợng mƣa nhỏ nhất thƣờng xuất hiện vào các tháng XII, I-II.
Trong bảng 1.2.1. đƣa ra lƣợng mƣa trung bình tháng tại một số trạm trong lƣu
vực, hình 1.2.1 là sơ đồ phân phối lƣợng mƣa tháng trong năm .
Sông Cầu đƣợc coi là dòng chính của sông Thái Bình, bắt nguồn từ vùng núi
Tam Tao (1.326 m) ở sƣờn đông nam dãy Pia Bióoc (1.527 m), phía tây tỉnh Bắc Kạn,
chảy theo hƣớng tây bắc - đông nam, qua thị xã Bắc Kạn, rồi chuyển hƣớng gần bắc -
nam chảy qua Chợ Mới, thành phố Thái Nguyên, Đáp Cầu rồi tiếp nhận sông Thƣơng
ở thƣợng lƣu Phả Lại khoảng 2 km. Tính đến Phả Lại, sông Cầu dài 288 km, diện tích
lƣu vực 6.030 km
2
, mật độ lƣới sông trung bình khoảng 0,55 km/km
2
. Một số sông
nhánh chính của sông Cầu là: Sông Chu (F = 437km
2
), sông Nghinh Tƣờng (F = 465
km
2
), sông Đu (F = 361km
2
), sông Công ( F = 951 km
2
), sông Cà Lồ (F = 881km

2
),
sông Thƣơng (F = 6650km
2
).
Sông Thƣơng bắt nguồn từ dãy núi Na-Pa-Phƣớc cao 600 m ở huyện Chi Lăng
tỉnh Lạng Sơn, chảy theo hƣớng đông bắc - tây nam qua thành phố Bắc Giang, tiếp
nhận thêm sông Lục Nam rồi chảy vào sông Cầu ở thƣợng lƣu Phả Lại. Sông Thƣơng
dài 157 km, diện tích lƣu vực 3.580 km
2
, mật độ lƣới sông trung bình toàn lƣu vực
khoảng 0,82 km/km
2
. Một số sông nhánh chính của sông Thƣơng nhƣ sau: sông Hoá
(F = 385km
2
), sông Trung (F = 1270km
2
), sông Sỏi (F = 303km
2
), sông Lục Nam (F =
3070km
2
)
Sông Lục Nam bắt nguồn từ vùng núi Kham, cao 700 m ở huyện Đình Lập tỉnh
Lạng Sơn, chảy theo hƣớng đông bắc - tây nam qua các huyện Sơn Động, Lục Ngạn,
Lục Nam tỉnh Bắc Giang rồi đổ vào sông Thƣơng ở Tứ Yên, cách Phả Lại 10 km về
phía thƣợng lƣu. Sông Lục Nam dài 175 km, diện tích lƣu vực 3070 km
2
, mật độ lƣới

sông trung bình lƣu vực 0,98 km/km
2
. Sông Lục Nam có một số nhánh tƣơng đối lớn,
trong đó lớn nhất là sông Cẩm Đàn (F = 705 km
2
).
Sông Thái Bình đƣợc tính từ ngã ba sông Cầu, sông Thƣơng và chảy qua vùng
đồng bằng châu thổ Bắc Bộ. Ở đây, sông Thái Bình có nhiều phân lƣu. Khi chảy đến
Nấu Khê, cách Phả Lại khoảng 7 km về phía hạ lƣu, sông Thái Bình có phân lƣu sông
Kinh Thầy, sau đó lại có phân lƣu sông Gùa và sông Mới; Sông Kinh Thày lại có phân
lƣu sông Kinh Môn ở ngã ba Mây.
Tổng diện tích lƣu vực hệ thống sông Thái Bình khoảng 15.180 km
2
, trong đó
sông Cầu chiếm 39,7%, sông Thƣơng ( không bao gồm sông Lục Nam ) 23,6% và
sông Lục Nam 20,2%. Lƣợng dòng chảy hệ thống sông Thái Bình (và một phần đáng
kể lƣợng dòng chảy của sông Hồng chảy vào qua phân lƣu sông Đuống và sông Luộc,)
chảy ra biển tại các cửa: Bạch Đằng, Cấm, Nam Triệu, Văn Úc và Thái Bình.
Mạng lƣới trạm thuỷ văn
Tính đến nay, trong lƣu vực hệ thống sông Thái Bình có 49 trạm thuỷ văn trên
các sông suối đã và đang hoạt động, trong đó có 20 trạm đo lƣu lƣợng, 11 trạm đo cát
bùn lơ lửng. Mật độ lƣới trạm đo lƣu lƣợng khoảng 759 km
2
/trạm, còn trạm đo cát bùn
lơ lửng khoảng 1.380 km
2
/trạm.
Phần lớn các trạm đƣợc xây dựng từ thập niên 60-70 của thế kỷ trƣớc. Tuy
nhiên. trong các thập niên 1970 - 1980 đã có nhiều trạm ngừng hoạt động. Do đó, tính
đến cuối thập niên 90, số trạm thuỷ văn đang hoạt động chỉ còn khoảng 30 trạm, trong

đó chỉ còn 2 trạm đo lƣu lƣợng và cát bùn lơ lửng đang hoạt động (trạm Gia Bảy trên
sông Cầu, trạm Chũ trên sông Lục Nam). Gần đây, cũng đã khôi phục hoạt động một
số trạm đo lƣu lƣợng ở vùng chịu ảnh hƣởng thuỷ triều (trạm Bến Bình, Trung
Trang ). Nhìn chung, chất lƣợng số liệu quan trắc thuỷ văn là đáng tin cậy.
Dòng chảy năm
Về cơ bản, sự phân bố của dòng chảy năm trong lƣu vực tƣơng tự nhƣ sự phân
bố của lƣợng mƣa năm. Giá trị mô đun dòng chảy biến đổi trong phạm vi 15-35
l/s.km
2
, tƣơng đối lớn ở vùng núi cao, nơi có lƣợng mƣa năm trên 2000 mm, nhƣ ở
vùng núi Tam Tao, thƣợng nguồn sông Cầu, vùng núi Yên Tử và dãy núi Tam Đảo.
Mô đun dòng chảy năm tƣơng đối nhỏ ở những thung lũng, sƣờn núi khuất gió mƣa
ẩm và vùng đồng bằng có lƣợng mƣa năm nhỏ nhƣng lƣợng bốc hơi lớn ( hình 1.3 ).
Tổng lƣợng dòng chảy năm của hệ thống sông Thái Bình khoảng 9,70 km
3
,
trong đó sông Cầu khoảng 4,50 km
2
(46,4%), sông Thƣơng và sông Lục Nam): 2,48
km
3
(25,6%) và vùng hạ lƣu 2,72 km
3
/24 /.
Tổng lƣợng dòng chảy năm của hệ thống ông Thái Bình chỉ chiếm 1,2% tổng
lƣợng dòng chảy của các sông của Việt Nam /24/, xấp xỉ với tỷ lệ diện tích lƣu vực hệ
thống sông Thái Bình so với tổng diện tích của các sông chảy qua lãnh thổ Việt Nam.
Mức bảo đảm nƣớc trong 1 năm trên 1 km
2
diện tích lƣu vực khoảng 640.10

3

m
3
/km
2
, thấp hơn so với hệ thống sông Hồng; mức bảo đảm nƣớc của sông Cầu
khoảng 796.10
3
m
3
/km
2
, sông Thƣơng và sông Lục Nam 370.10
3
m
3
/km
2
. Từ đó có thể
nhận thấy, nguồn nƣớc sông Cầu khá dồi dào so với sông Thƣơng và sông Lục Nam.
Cũng cần nêu lên rằng, ngoài nguồn nƣớc từ trung thƣợng lƣu chảy về, hạ lƣu
sông Thái Bình còn tiếp nhận thêm một lƣợng khá lớn dòng chảy sông Hồng chảy qua
sông Đuống và sông Luộc chảy sang sông Thái Bình, ƣớc tính khoảng (35-40)% lƣợng
dòng chảy năm của sông Hồng tại Sơn Tây, tức là khoảng 40 km
3
nƣớc. Nhƣ vậy, tổng
lƣợng nƣớc ở hạ lƣu sông Thái Bình có thể lên tới 50 km
3
, trong đó chỉ có khoảng

20% lƣợng nƣớc đƣợc sinh ra trong lƣu vực hệ thống sông Thái Bình. Đây là một đặc
điểm cần đƣợc xem xét đầy đủ khi khai thác, sử dụng tài nguyên nƣớc hệ thống sông
Thái Bình.
Chế độ dòng chảy
Dòng chảy của các sông trong hệ thống sông Thái Bình cũng biến đổi theo mùa.
Mùa lũ thƣờng vào các tháng V, VI- IX,X, mùa cạn vào các tháng X, XI- XII, I-IV, V.
Lƣợng dòng chảy mùa lũ chiếm khoảng (65-90)% lƣợng dòng chảy năm. 3 tháng liên
tục có lƣợng dòng chảy lớn nhất thƣờng xuất hiện vào các tháng VII-IX, trong đó
tháng VIII thƣờng là tháng có lƣợng dòng chảy trung bình tháng lớn nhất. 3 tháng có
lƣợng dòng chảy nhỏ nhất thƣờng xuất hiện vào các tháng I- III và tháng II là tháng có
lƣợng dòng chảy trung bình tháng nhỏ nhất.
Chế độ nƣớc sông ở vùng hạ lƣu còn chịu ảnh hƣởng của thuỷ triều với chế độ
nhật triều đều.
CHƯƠNG 3
ĐÁNH GIÁ HẠN HÁN VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG

Hạn hán là một hiện tƣợng hết sức phức tạp mà sự hình thành và phát triển là
do cả hai nguyên nhân: Tự nhiên và con ngƣời. Về đại thể, công tác đánh giá hạn hán
có định hƣớng chung sau đây:
Lựa chọn các chỉ số hạn thích hợp và tiến hành giám sát hạn trên cơ sở các chỉ
số đã lựa chọn.
Trên cơ sở kết quả giám sát hạn tiến hành phân tích đặc điểm cơ bản của hạn
hán về phân bố không gian trong đó có xây dựng các bản đồ hạn với tỉ lệ khác
nhau và về diễn biến thời gian, trong đó có xác định mùa hạn và dự kiến xu thế
tƣơng lai của hạn.
Phân vùng hạn nhằm xác định nguy cơ hạn trên từng bộ phận lãnh thổ.
Xây dựng công nghệ dự báo, cảnh báo hạn.
3.1 Chỉ tiêu hạn hán
Có nhiều nguyên nhân gây ra hạn hán và mức độ hạn nặng hay nhẹ cũng phụ
thuộc vào nhiều yếu tố. Cho nên xác định chỉ tiêu hạn hán là một vấn đề phức tạp. Các

nhà khoa học đã đƣa ra nhiều loại chỉ tiêu hạn hán nhƣng cho đến nay cũng chƣa có
một chỉ tiêu chung nào đƣợc mọi ngƣời thừa nhận và do đó cũng chƣa có chỉ tiêu
thống nhất. Những năm gần đây, trong giới khoa học thƣờng sử dụng một số chỉ tiêu
hạn hán dƣới đây.
3.1.1 Lượng mưa
Hạn hán là một loại thiên tai khí tƣợng do mƣa ít gây nên. Đối với một vùng
nào đó có thể xác định đƣợc lƣợng mƣa trung bình nhiều năm (TBNN). Sản xuất nông
nghiệp, trƣớc hết là lịch thời vụ đƣợc bố trí sao cho thích hợp với tình hình mƣa hàng
năm . Do vậy, nếu lƣợng mƣa của một năm hay một thời kỳ nào đó nhỏ hơn một giới
hạn nhất định thì hạn hán sẽ xảy ra. Do đó, có thể dùng giới hạn này làm chỉ tiêu hạn.
Thí dụ ở vùng đồng bằng Trung Quốc lƣợng mƣa năm là 500 mm, mỗi năm trồng một
vụ ngô và một vụ lúa mì. Nếu năm nào có lƣợng mƣa năm nhỏ hơn 350 mm thì sẽ
thiếu nƣớc cho cây trồng, sản lƣợng cây trồng bị giảm; nếu lƣợng mƣa năm nhỏ hơn
250 mm thì xảy ra hạn nghiêm trọng. Nếu hai năm có lƣợng mƣa bằng nhau nhƣng

×