Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại và phân tích rủi ro tỷ giá trong hoạt động kinh doanh ngoại hối của ngân hàng đông á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (499.13 KB, 79 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp PGD Hồ Gươm – NH Đông
Á
Lời mở đầu
Trong xu thế mở cửa, hội nhập kinh tế hiện nay, hoạt động của các
ngân hàng đã không ngừng đổi mới và phát triển. Các ngân hàng thương mại
hiện nay đang có xu hướng mở rộng nhiều nghiệp vụ kinh doanh hiện đại mới
trên thị trường và cùng với sự cạnh tranh khốc liệt trong cơ chế thị trường, các
ngân hàng thương mại đang muốn nâng dần tỷ trọng lợi nhuận trong các
nghiệp vụ mới này.Cùng với hoạt động tín dụng mang tính chất truyền thống,
hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại các ngân hàng đã là một hoạt động mang lại
lợi nhuận chiếm tỷ trọng không nhỏ trong tổng số lợi nhuận chung của ngân
hàng.Các NHTM lớn đã đầu tư khá nhiều cho hoạt động này.Tuy nhiên, cũng
như các hoạt động kinh doanh ngân hàng khác, kinh doanh ngoại tệ cũng chứa
đựng những rủi ro tiềm tàng có khả năng gây mất mát lớn nếu các ngân hàng
không có các biện pháp phòng ngừa và quản lý hợp lý.Việc nghiên cứu quản
lý rủi ro trong hoạt động này là một vấn đề có ý nghĩa thực tế rất lớn và là vấn
đề đang được nhiều ngân hàng quan tâm.
Ngân hàng Đông Á là một trong những ngân hàng cổ phần thực hiện rất
thành công các nghiệp cụ tín dụng, thanh toán quốc tế, mua bán trao đổi ngoại
tệ…và thu được lợi nhuận rất cao từ những hoạt động này.Nhưng cũng chính
những hoạt động đó đã đặt ngân hàng lâm vào tình trạng rủi ro đặc biệt là rủi
ro trong kinh doanh ngoại hối.Qua quan sát thực tế, cùng với sự chỉ bảo tận
tình của TS.Trần Trọng Nguyên cùng các anh chị của ngân hàng Đông Á, đã
giúp em hiểu rõ hơn về hoạt động của ngân hàng và những rủi ro của ngân
hàng đang gặp phải, từ đó đã giúp em định hướng được đề tài trong chuyên đề
tốt nghiệp này:
“Các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại và phân tích rủi ro tỷ giá
trong hoạt động kinh doanh ngoại hối của ngân hàng Đông Á”.
1
Chuyên đề tốt nghiệp PGD Hồ Gươm – NH Đông
Á


CHƯƠNG I
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ NGÂN HÀNG VÀ
CÁC DỊCH VỤ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN.
1. Lịch sử hình thành.
Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử phát
triển của nền sản xuất hàng hoá. Quá trình phát triển kinh tế là điều kiện và
đòi hỏi sự phát triển của ngân hàng; đến lượt mình sự phát triển của hệ thống
ngân hàng trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.
Nghề ngân hàng bắt đầu với nghiệp vụ đổi tiền hoặc đúc tiền của các
thợ vàng.Việc lưu hành những đồng tiền riêng của mỗi quốc gia hoặc vùng
lãnh thổ kết hợp với thương mại và giao lưu quốc tế tạo yêu cầu đúc và đổi
tiền tại các cửa khẩu hoặc trung tâm thương mại.Người làm nghề đúc, đổi tiền
thực hiện kinh doanh tiền tệ bằng cách đổi ngoại tệ lấy bản tệ và ngược lại.
Lợi nhuận thu được là từ chênh lệch giá mua-bán.
Người làm nghề đổi tiền thường là người giàu, trước đó có thể làm
nghề cho vay nặng lãi.Họ thường có két tốt để cất giữ để đảm bảo an toàn.Do
yêu cầu cất trữ tiền của các lãnh chúa, các nhà buôn…nhiều người làm nghề
đổi tiền thực hiện luôn cả nghiệp vụ cất trữ hộ. Thực hiện cất trữ hộ làm tăng
thu nhập, tăng khả năng đa dạng các loại tiền, tăng qui mô tài sản của người
kinh doanh tiền.Việc cất trữ hộ nhiều người khác là điều kiện để thực hiện
thanh toán hộ.Thanh toán qua trung gian làm nảy sinh thanh toán không dùng
tiền mặt, đến lượt nó những ưu điểm của thanh toán không dùng tiền mặt đã
thu hút các thương gia gửi tiền nhiều hơn.Trong điều kiện lưu thông tiền kim
loại (bạc hoặc vàng), các chủ cửa hàng vàng bạc vừa đổi tiền, thanh toán hộ,
vừa đúc tiền và cho vay nặng lãi.
2
Chuyên đề tốt nghiệp PGD Hồ Gươm – NH Đông
Á
Họ là những người làm nghề kinh doanh tiền tệ, hay còn gọi nhà buôn tiền.

Đầu tiên, những nhà buôn tiền đã dùng vốn tự có để cho vay nhưng
điều đó không kéo dài.Từ hoạt động thực tiễn, họ nhận thấy thường xuyên có
người gửi tiền vào và có người lấy tiền ra, song tất cả người gửi tiền vào và có
người lấy tiền ra, song tất cả người gửi tiền không rút tiền cùng một lúc, đã
tạo ra số dư thường xuyên trong két.Do tính chất vô danh của tiền, nhà buôn
tiền có thể sử dụng tạm thời một phần tiền gửi của khách để cho vay.Hoạt
động này làm thay đổi cơ bản hoạt động của nhà buôn tiền- kẻ cho vay nặng
lãi-thành nhà buôn tiền-Ngân hàng.Hoạt động cho vay dựa trên tiền gửi của
khách, tạo nên lợi nhuận lớn nên các ngân hàng đều tìm cách mở rộng thu hút
tiền gửi để cho vay bằng cách trả lãi cho người gửi tiền. Bằng cách cung cấp
tiện ích khác nhau mà ngân hàng huy động được ngày càng nhiều tiền gửi, là
điều kiện để mở rộng cho vay và hạ lãi suất cho vay.
Tóm lại, ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền
kinh tế.Các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ
hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế.Vấn đề là ở chỗ các yếu tố
trên đang không ngừng thay đổi. Thực tế, rất nhiều tổ chức tài chính-bao gồm
cả các công ty kinh doanh chứng khoán, công ty môi giới chứng khoán, quỹ
tương hỗ và công ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch
vụ của ngân hàng.Ngược lại, ngân hàng cũng đang mở rộng phạm vi cung cấp
dịch vụ về bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo
hiểm, đầu tư vào quỹ tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ mới khác.
Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ
tài chính đa dạng nhất-đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán-và
thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh
doanh nào trong nền kinh tế.
3
Chuyên đề tốt nghiệp PGD Hồ Gươm – NH Đông
Á
2. Lịch sử phát triển.
Hình thức ngân hàng đầu tiên- ngân hàng của các thợ vàng, hoặc ngân

hàng của những kẻ cho vay nặng lãi-thực hiện cho vay với các cá nhân, chủ
yếu là những người giàu:Quan lại, địa chủ…nhằm mục đích phục vụ tiêu
dùng.Nhiều chủ ngân hàng lớn còn mở rộng cho vayđối với vua chúa, nhằm tài
trợ một phần nhu cầu chi tiêu cho chiến tranh.Hình thức cho vay chủ yếu là
thấu chi-tức là cho phép khách hàng chi nhiều hơn số tiền gửi tại ngân hàng,
một hình thức cho vay cho vay có nhiều rủi ro.Do lợi nhuận từ cho vay rất cao,
nhiều chủ ngân hàng đã lạm dụng ưu thế của chứng chỉ tiền gửi(lưu thông thay
vàng hoặc bạc), phát hành chứng chỉ tiền gửi khống để cho vay:Thực trạng này
đã đẩy nhiều ngân hàng đến chỗ mất khả năng thanh toán và phá sản.
Sự sụp đổ của các ngân hàng gây khó khăn cho hoạt động thanh toán,
ảnh hưởng xấu tới hoạt động buôn bán. Hơn nữa, lãi suất cao nên những nhà
buôn không thể sử dụng nguồn vay này.Trước tình hình đó nhiều nhà buôn
góp vốn lập ngân hàng, với chức năng chủ yếu là tài trợ ngắn hạn(tài trợ cho
tài sản lưu động) và thanh toán hộ, gắn liền với quá trình luân chuyển của tư
bản thương nghiệp.Ngân hàng này được gọi là ngân hàng thương mại.Ngân
hàng thương mại thực hiện các nghiệp vụ truyền thống của ngân hàng như
huy động tiền gửi, thanh toán, cất giữ hộ và cho vay.Tuy nhiên điểm khác biệt
giữa ngân hàng thương mại và ngân hàng thợ vàng trước đó là ngân hàng
thương mại chủ yếu cho các nhà buôn vay dưới hình thức chiết khấu thương
phiếu.Đây là các khoản cho vay ngắn hạn dựa trên quá trình luân chuyển của
hàng hoá với lãi suất phải thấp hơn lợi nhuận được tạo ra do sử dụng tiền vay.
Sự phá sản của nhiều ngân hàng thương mại đã gây tổn thất cho người
gửi tiền là nguyên nhân dẫn đến hình thành ngân hàng tiền gửi.Ngân hàng này
không cho vay, chỉ thực hiện giữ hộ, thanh toán hộ để lấy phí.Đồng thời tại
mỗi nước, trong những điều kiện lịch sử cụ thể đã hình thành nên nhiều loại
4
Chuyên đề tốt nghiệp PGD Hồ Gươm – NH Đông
Á
hình ngân hàng khác như ngân hàng tiết kiệm, ngân hàng phát triển, ngân
hàng đầu tư, ngân hàng trung ương(Ngân hàng Nhà nước)…tạo nên hệ thống

các ngân hàng.Trong đó trừ ngân hàng trung ương có chức năng xây dựng và
quản lý chính sách tiền tệ quốc gia, các ngân hàng còn lại dù có một số nghiệp
vụ khác nhau song đều chung đặc điểm đó là trung gian tài chính thực hiện
kinh doanh tiền tệ.
Cùng với sự phát triển kinh tế và công nghệ, hoạt động ngân hàng đã có
những bước tiến rất nhanh.Trước hết đó là sự đa dạng các loại ngân hàng và
các hoạt động ngân hàng.Từ các ngân hàng tư nhân, quá trình tích tụ và tập
trung vốn trong ngân hàng đã dẫn đến hình thành ngân hàng cổ phần.Quá
trình gia tăng vai trò quản lý Nhà nước đối với hoạt động ngân hàng đã tạo ra
các ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước; các ngân hàng liên doanh, các tập
đoàn ngân hàng phát triển mạnh trong những năm cuối thế kỉ 20.Nhiều nghiệp
vụ mới đang ngày càng phát triển.Ngân hàng thương mại từ chỗ chỉ cho vay
ngắn hạn là chủ yếu đã mở rộng cho vay trung và hạn, cho vay để đầu tư vào
bất động sản.Nhiều ngân hàng mở rộng cho vay tiêu dùng, kinh doanh chứng
khoán, cho thuê…Các hình thức huy động cũng ngày càng phong phú.Các
loại hình tiền gửi khác nhau được đưa ra nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu của
khách hàng.Bên cạnh các hình thức huy động tiền gửi, các ngân hàng đã mở
rộng các hình thức vay như vay ngân hàng trung ương, vay các ngân hàng
khác.Công nghệ ngân hàng đang góp phần làm thay đổi các hoạt động cơ bản
của ngân hàng.Thanh toán điện tử đang thay thế dần thanh toán thủ công, đẩy
nhanh tốc độ, tính thuận tiện, an toàn trong thanh toán.Các loại thẻ đang thay
thế dần tiền giấy và dịch vụ ngân hàng 24 giờ, dịch vụ ngân hàng tại nhà đang
tạo ra các tiện ích ngày càng lớn cho cộng đồng.
Quá trình phát triển của các ngân hàng không những làm gia tăng số
lượng các ngân hàng mà còn làm tăng qui mô của mỗi ngân hàng.Tích tụ và
5
Chuyên đề tốt nghiệp PGD Hồ Gươm – NH Đông
Á
tập trung vốn đã tạo ra các công ty ngân hàng cực lớn với số vốn tự có hàng
chục tỷ đô la Mỹ, tổng tài sản hàng trăm tỷ đô la Mỹ đủ sức để tài trợ cho

những ngành công nghiệp và dịch vụ mũi nhọn toàn cầu.
Quá trình phát triển của ngân hàng đang tạo ra mối liên hệ ràng buộc
ngày càng chặt chẽ, sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng lớn giữa chúng.Các hoạt
động ngân hàng xuyên quốc gia và đa quốc gia đã và đang thúc đẩy hình
thành các hiệp hội, các tổ chức liên kết các ngân hàng nhằm tạo ra các chính
sách chung, hoặc tương thích để kiểm soát chung, để kết nối và tạo sự thống
nhất trong điều hành và vận hành hệ thống ngân hàng trong mỗi quốc gia, khu
vực và quốc tế.
II. CHỨC NĂNG CỦA NGÂN HÀNG.
1. Trung gian tài chính.
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là
chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ
chức trong nền kinh tế:(1) các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu,
tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ là những
người cần bổ sung vốn; và (2) các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu,
tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hoá, dịch
vụ và do vậy họ có tiền để tiết kiệm.Sự tồn tại hai loại cá nhân và tổ chức trên
hoàn toàn độc lập với ngân hàng.Điều tất yếu là tiền sẽ chuyển từ nhóm thứ
(2) sang nhóm thứ (1) nếu cả hai cùng có lợi.Như vậy thu nhập gia tăng và
động lực tạo tạo ra mối quan hệ tài chính giữa hai nhóm.Nếu dòng tiền di
chuyển với điều kiện phải quay trở lại với một lượng lớn hơn trong một
khoảng thời gian nhất định thì đó là quan hệ tín dụng.Nếu không thì đó là
quan hệ cấp phát hoặc hùn vốn.Quan hệ tín dụng trực tiếp ( quan hệ tài chính
trực tiếp ) đã có từ rất lâu và tồn tại cho đến ngày nay.
6
Chuyên đề tốt nghiệp PGD Hồ Gươm – NH Đông
Á
Tuy nhiên, quan hệ trực tiếp bị nhiều giới hạn do sự không phù hợp về
qui mô, thời gian không gian…Điều này cản trở quan hệ trực tiếp phát triển
và là điều kiện nảy sinh trung gian tài chính.Do chuyên môn hoá, trung gian

tài chính có thể làm giảm chi phí giao dịch.Trung gian tài chính làm tăng thu
nhập cho người tiết kiệm, vì thế khuyến khích tiết kiệm, đồng thời giảm phí
tổn tín dụng cho người đầu tư( tăng thu nhập cho nhà đầu tư ) từ đó mà
khuyến khích đầu tư.Trung gian tài chính đã tập hợp các người tiết kiệm và
đầu tư, vì vậy mà giải quyết được mâu thuẫn của tín dụng trực tiếp.Cơ chế
hoạt động của trung gian sẽ có hiệu quả khi nó gánh chịu rủi ro và sử dụng
các kĩ thuật nghiệp vụ để hạn chế, phân tán rủi ro và giảm chi phí giao dịch.
Hầu hết các lý thuyết hiện đại đều giải thích sự tồn tại cảu ngân hàng
bằng cách chỉ ra sự không hoàn hảo trong hệ thống tài chính chẳng hạn các
khoản tín dụng và chứng khoán không thể chia thành những khoản nhỏ mà
mọi người đều có thể mua.Ngân hàng cung cấp một dịch vụ có giá trị trong
việc chia chứng khoán đó thành các chứng khoán nhỏ hơn( dưới dạng tiền gửi
) phục vụ cho hàng triệu người.
Một đóng góp khác của ngân hàng là họ sẵn sàng chấp nhận các khoản
cho vay nhiều rủi ro trong khi lại phát hành các chứng khoán ít rủi ro cho
người gửi tiền.Thực tế các ngân hàng tham gia vào kinh doanh rủi ro.Ngân
hàng cũng thoả mãn nhu cầu thanh khoản của nhiều khách hàng.
Một lí do nữa làm cho ngân hàng phát triển và thịnh vượng là khả năng
thẩm định thông tin.Sự phân bổ không đều thông tin và năng lực phân tích
thông tin được gọi là tình trạng “thông tin không cân xứng” làm giảm tính
hiệu quả của thị trường nhưng tạo ra một khả năng sinh lợi cho ngân hàng,
nơi có chuyên môn và kinh nghiệm đánh giá các công cụ tài chính và có khả
năng lựa chọn những công cụ với các yếu tố rủi ro – lợi nhuận hấp dẫn nhất.
7
Chuyên đề tốt nghiệp PGD Hồ Gươm – NH Đông
Á
2. Tạo phương tiện thanh toán.
Tiền có một chức năng quan trọng là làm phương tiện thanh toán.Các
ngân hàng đã không tạo được tiền kim loại.Các ngân hàng thợ vàng tạo
phương tiện thanh toán khi phát hành giấy nhận nợ với khách hàng.Giấy nhận

nợ do ngân hàng phát hành với ưu điểm nhất định đã trở thành phương tiện
thanh toán rộng rãi được nhiều người chấp nhận.Như vậy, ban đầu các ngân
hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán thay cho tiền kim loại dựa trên số
lượng tiền kim loại đang nắm giữ.Với nhiều ưa thế, dần dần giấy nợ của ngân
hàng đã thay thế tiền kim loại làm phương tiện lưu thông và phương tiện cất
trữ, nó trở thành tiền giấy.
Việc in tiền mang lại lợi nhuận rất lớn, đồng thời với nhu cầu có đồng
tiền quốc gia duy nhất đã dẫn đến việc Nhà nước tập trung quyền lực phát
hành(in) tiền giấy vào một tổ chức hoặc là Bộ tài chính hoặc là Ngân hàng
Trung ương.Từ đó chấm dứt việc các ngân hàng thương mại tạo ra các giấy
bạc của riêng mình.
Trong điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng, các khách hàng
nhận thấy nếu họ có được số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán, họ có thể
chi trả để có được hàng hoá và các dịch vụ theo yêu cầu.Theo quan điểm hiện
đại, đại lượng tiền tệ bao gồm nhiều bộ phận.Thứ nhất là tiền giấy trong lưu
thông (M
0
), thứ hai là số dư trên tài khoản tiền gửi giao dịch của các khách
hàng tại các ngân hàng, thứ ba là tiền gửi trên các tài khoản tiền gửi tiết kiệm
và tiền gửi có kì hạn…Khi ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi
thanh toán của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng để mua hàng và
dịch vụ.Do đó, bằng việc cho vay (hay tạo tín dụng), các ngân hàng đã tạo ra
phương tiện thanh toán ( tham gia tạo ra M
1
).
Toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng tạo phương tiện thanh toán khi các
khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở
8
Chuyên đề tốt nghiệp PGD Hồ Gươm – NH Đông
Á

cho vay.Khi khách hàng tại một ngân hàng sử dụng khoản tiền vay để chi trả
thì sẽ tạo nên khoản thu ( tức tăng số dư tiền gửi ) của một khách hàng khác
tại một ngân hàng từ đó tạo ra các khoản cho vay mới.Trong khi không một
cửa hàng riêng lẻ nào có thể cho vay lớn hơn dự trữ dư thừa, toàn bộ hệ thống
ngân hàng có thể tạo ra khối lượng tiền gửi ( tạo phương tiện thanh toán ) gấp
bội thông qua hoạt động cho vay ( tạo tín dụng ).
3. Trung gian thanh toán.
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết
các quốc gia.Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị
hàng hoá và dịch vụ.Để việc thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm
chi phí, ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như
thanh toán bằng séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ…cung cấp mạng lưới
thanh toán điện tử kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng
cần.Các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua ngân
hàng Trung ương hoặc thông qua các trung tâm thanh toán.Công nghệ thanh
toán qua ngân hàng càng đạt hiệu quả cao khi qui mô sử dụng công nghệ đó
càng được mở rộng.Vì vậy, công nghệ thanh toán hiện đại qua ngân hàng
thường được các nhà quản lý tìm cách áp dụng rộng rãi.Nhiều hình thức thanh
toán được chuẩn hoá góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán không chỉ
giữa các ngân hàng trong một quốc gia mà còn giữa các ngân hàng trên toàn
thế giới.Các trung tâm thanh toán quốc tế được thiết lập đã làm tăng hiệu quả
của thanh toán qua ngân hàng, biến ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán
quan trọng và có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu.
III. CÁC LOẠI HÌNH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
Có thể phân chia ngân hàng theo các tiêu thức khác nhau tuỳ theo yêu
cầu của người quản lý.
9
Chuyên đề tốt nghiệp PGD Hồ Gươm – NH Đông
Á
1. Các loại hình ngân hàng thương mại chia theo hình thức sở hữu.

1.1. Ngân hàng sở hữu tư nhân :
Là ngân hàng do cá nhân thành lập bằng vốn của cá nhân.Loại ngân
hàng này thường nhỏ, phạm vi hoạt động trong từng địa phương ( các ngân
hàng này thường gắn liền với doanh nghiệp và cá nhân ở địa phương ). Chủ
ngân hàng thường rất am hiểu tình hình của người vay, vì vậy hạn chế được
sự lừa đảo của khách hàng.Tuy nhiên do kém đa dạng nên khi địa phương đó
gặp rủi ro( ví dụ như thiên tai, mất mùa…) ngân hàng thường không tránh
được tổn thất.
1.2. Ngân hàng sở hữu của các cổ đông ( ngân hàng cổ phần ) :
Ngân hàng này được thành lập thông qua phát hành các cổ phiếu.Việc
nắm giữ cổ phiếu cho phép người sở hữu có quyền tham gia quyết định các
hoạt động của ngân hàng, tham gia chia cổ tức từ thu nhập của ngân hàng
đồng thời phải gánh chịu các tổn thất có thể xảy ra.Do vốn sở hữu được hình
thành thông qua tập trung, các ngân hàng cổ phần có khả năng tăng vốn nhanh
chóng, vì vậy thường là các ngân hàng lớn.Các tổ hợp ngân hàng lớn nhất thế
giới hiện nay là các ngân hàng cổ phần.Các ngân hàng cổ phần thường có
phạm vi hoạt động rộng, hoạt động đa năng, có nhiều chi nhánh hoặc công ty
con.Khả năng đa dạng hoá cao nên các ngân hàng cổ phần có thể giảm rủi ro
gây nên bởi tính chuyên môn hoá( thiên tai của một vùng, sự suy thoái của
một ngành hoặc một quốc gia…), song chúng thường phải gánh chịu các rủi
ro từ cơ chế quản lý phân quyền( nhiều chi nhánh được phân quyền lớn và
hoạt động tương đối độc lập với trụ sở ngân hàng mẹ, giám đốc các chi nhánh
này có thể có hành vi lạm dụng hoặc bất cẩn gây tổn thất cho khách hàng ).
1.3. Ngân hàng sở hữu Nhà nước:
Đây là loại hình ngân hàng mà vốn sở hữu do Nhà nước cấp, có thể là
Nhà nước Trung ương hoặc tỉnh, thành phố.Các ngân hàng này được thành
10
Chuyên đề tốt nghiệp PGD Hồ Gươm – NH Đông
Á
lập nhằm thực hiện một số mục tiêu nhất định thường là do chính sách của

chính quyền Trung ương hoặc địa phương qui định.Tại các nước đi theo con
đường phát triển xã hội chủ nghĩa, Nhà nước thường quốc hữu hoá các ngân
hàng tư nhân hoặc cổ phần lớn, hoặc tự xây dựng nên các ngân hàng.Những
ngân hàng sở hữu Nhà nước thường được Nhà nước hỗ trợ về tài chính và bảo
lãnh phát hành giấy nợ, do vậy rất ít khi bị phá sản.Tuy nhiên trong nhiều
trường hợp, các ngân hàng này phải thực hiện các chính sách của Nhà nước
có thể gây bất lợi cho hoạt động kinh doanh.
1.4. Ngân hàng liên doanh :
Ngân hàng này được hình thành dựa trên góp vốn củâhi hoặc nhiều
bên, thường là giữa ngân hàng trong nước với ngân hàng nước ngoài để tận
dụng các ưu thế của nhau.
2. Các loại hình ngân hàng thương mại chia theo tính chất hoạt động.
2.1. Tính chất đơn năng.
Ngân hàng hoạt động theo hướng đơn năng: Loại ngân hàng này chỉ tập
trung cung cấp một số dịch vụ ngân hàng, ví dụ như chỉ cho vay đối với xây
dựng cơ bản, hoặc đối với nông nghiệp, hoặc chỉ cho vay( hoặc bảo lãnh hoặc
cho thuê )…Tính chuyên môn hôấc cho phép ngân hàng có được đội ngũ cán
bộ giàu kinh nghiệm,tinh thông nghiệp vụ.Tuy nhiên loại ngân hàng này
thường gặp rủi ro lớn khi ngành, hoặc lĩnh vực hoạt động mà ngân hàng phục
vụ sa sút.Ngân hàng đơn năng có thể là ngân hàng nhỏ, phạm vi hoạt động
hẹp, trình độ cán bộ không đa dạng, hoặc là những ngân hàng sở hữu của
công ty ( nhiều tập đoàn công nghiệp tổ chức ngân hàng để phục vụ cho các
thành viên của tập đoàn ).
2.2. Tính chất đa năng.
Là ngân hàng cung cấp mọi dịch vụ ngân hàng cho mọi đối tượng.Đây
là xu hướng hoạt động chủ yếu hiện nay của các ngân hàng thương mại.Ngân
11
Chuyên đề tốt nghiệp PGD Hồ Gươm – NH Đông
Á
hàng đa năng thường là ngân hàng lớn( hoặc sở hữu công ty ). Tính đa dạng

sẽ giúp ngân hàng tăng thu nhập và hạn chế rủi ro.
3. Các loại hình ngân hàng thương mại chia theo cơ cấu tổ chức.
3.1. Ngân hàng sở hữu công ty và ngân hàng không sở hữu công ty.
Ngân hàng sở hữu công ty là ngân hàng nắm giữ phần lớn vốn của công
ty, cho phép ngân hàng được quyền tham gia quyết định các hoạt động cơ bản
của công ty.Do luật nhiều nước cấm hoặc hạn chế ngân hàng thương mại
tham gia trực tiếp vào một số loại hình kinh doanh như chứng khoán, bất
động sản…nên các ngân hàng lớn đã thành lập, hoặc mua lại một số công ty
chứng khoán, quỹ đầu tư…nhằm mở rộng hoạt động.Các ngân hàng không sở
hữu công ty có thể do vốn nhỏ, hoặc qui định của Luật không cho phép, hoặc
do không bị cấm trong việc đưu ra các dịch vụ tài chính.
3.2. Ngân hàng đơn nhất và ngân hàng có chi nhánh.
Ngân hàng đơn nhất được hiểu là ngân hàng không có chi nhánh tức là
các dịch vụ ngân hàng chỉ do một hội sở ngân hàng cung cấp.Ngân hàng có
chi nhánh thường là ngân hàng có vốn tương đối lớn, cung cấp dịch vụ ngân
hàng thông qua nhiều đơn vị ngân hàng.Việc thành lập chi nhánh thường bị
kiểm soát chặt chẽ bởi ngân hàng Nhà nước thông qua các qui định về mức
vốn sở hữu, về chuyên môn của đội ngũ cán bộ, về sự cần thiết của dịch vụ
ngân hàng trong vùng…
4. Các dịch vụ của ngân hàng.
Ngân hàng là một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cho công chúng và
doanh nghiệp.Thành công của ngân hàng phụ thuộc vào năng lực xác định các
dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu, thực hiện các dịch vụ đó một cách
hiệu quả.
12
Chuyên đề tốt nghiệp PGD Hồ Gươm – NH Đông
Á
4.1. Mua bán ngoại tệ.
Một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi
( mua, bán ) ngoại tệ: Mua, bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và

hưởng phí dịch vụ.
4.2. Nhận tiền gửi.
Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân hàng đã tìm
mọi cách để huy động được tiền.Một trong những nguồn quan trọng là các
khoản tiền gửi thanh toán và tiết kiệm của khách hàng.Ngân hàng mở dịch vụ
nhận tiền gửi để bảo quản hộ người có tiền với cam kết hoàn trả đúng
hạn.Trong cuộc cạnh tranh để tìm và giành được các khoản tiền gửi, các ngân
hàng đã trả lãi cho tiền gửi như là phần thưởng cho khách hàng về việc sẵn
sàng hi sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt và cho phép ngân hàng sử dụng tạm
thời để kinh doanh.Trong lịch sử đã có những kỉ lục về lãi suất, chẳng hạn các
ngân hàng Hy Lạp đã trả lãi suất 16% một năm để thu hút các khoản tiết kiệm
nhằm mục đích cho vay đối với các chủ tàu ở Địa Trung Hải với lãi suất gấp
đôi hay gấp ba lãi suất tiết kiệm.Như vậy khi cung cấp các dịch vụ nhận tiền
gửi, ngân hàng thu phí gián tiếp thông qua thu nhập của hoạt động sử dụng
tiền đó.
4.3. Cho vay.
4.3.1. Cho vay thương mại.
Ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà
thực tế là cho vay đối với những người bán ( người bán chuyển các khoản thu
nhập cho ngân hàng để lấy tiền trước ).Sau đó ngân hàng cho vay trực tiếp đối
với các khách hàng( là người mua ), giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm
mở rộng sản xuất kinh doanh.
13
Chuyên đề tốt nghiệp PGD Hồ Gươm – NH Đông
Á
4.3.2. Cho vay tiêu dùng
Trong giai đoạn đầu hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay đối
với cá nhân và hộ gia đình bởi vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng rủi
ro vỡ nợ tương đối cao.Sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh
tranh trong cho vay đã hướng các ngân hàng tới người tiêu dùng như một

khách hàng tiềm năng.Sau chiến tranh Thế giới thứ hai, tín dụng tiêu dùng đã
trở thành một trong những loại hình tín dụng tăng trưởng nhanh nhất ở các
nước có nền kinh tế phát triển.
4.3.3. Tài trợ cho dự án.
Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn, các ngân hàng
ngày càng trở nên năng động trong việc tài trợ trung, dài hạn: Tài trợ xây
dựng nhà máy, phát triển ngành công nghệ cao.Một số ngân hàng còn cho vay
để đầu tư vào đất.
4.3.4. Bảo quản tài sản hộ.
Các ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng, các giấy tờ có giá và các tài
sản khác cho khách hàng trong két( vì vậy còn gọi là dịch vụ cho thuê
két ).Ngân hàng thường giữ hộ những tài sản tài chính, giấy tờ cầm cố, hoặc
những giấy tờ quan trọng khác của khách với nguyên tắc an toàn, bí mật,
thuận tiện.Dịch vụ này phát triển cùng với nhiều dịch vụ khác như mua bán
hộ các giấy tờ có giá cho khách, thanh toán lãi hoặc cổ tức hộ…
4.3.5. Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán.
Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, ngân hàng không chỉ bảo quản
mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng.Thanh toán qua ngân hàng
đã mở đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt, tức là người gửi tiền không
cần phải đến ngân hàng để lấy tiền mà chỉ cần viết giấy chi trả cho khách,
khách hàng mang giấy đến ngân hàng sẽ nhận được tiền.Các tiện ích của
thanh toán không dùng tiền mặt( an toàn, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm
14
Chuyên đề tốt nghiệp PGD Hồ Gươm – NH Đông
Á
chi phí ) đã góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh và nâng cao thu nhập cho
khách hàng.Khi ngân hàng mở chi nhánh, phạm vi thanh toán qua ngân hàng
được mở rộng, càng tạo nhiều tiện ích hơn.Điều này đã khuyến khích khách
hàng gửi tiền vào ngân hàng để nhờ ngân hàng thanh toán hộ.Cùng với sự
phát triển của công nghệ thông tin, bên cạnh các thể thức thanh toán séc, uỷ

nhiệm chi, nhờ thu, L/C, đã phát triển các hình thức thanh toán mới bằng
điện, thẻ…
4.3.6. Quản lý ngân quỹ.
Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh nghiệp
và cá nhân.Nhờ đó, các ngân hàng thường có mối liên hệ chặt chẽ với nhiều
khách hàng.Do có kinh nghiệm trong quản lý ngân quỹ và khả năng trong
việc thu ngân, nhiều ngân hàng đã cung cấp cho khách dịch vụ quản lý ngân
quỹ, trong đó ngân hàng đồng ý quản lý việc thu và chi cho một công ty kinh
doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng
khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để
thanh toán.
4.3.7. Tài trợ các hoạt động của Chính phủ.
Khả năng huy động và cho vay với khối lượng lớn của ngân hàng đã trở
thành trọng tâm chú ý của các Chính phủ.Do nhu cầu chi tiêu lớn và thường là
cấp bách trong khi thu không đủ, Chính phủ các nước đều muốn tiếp cận với
các khoản cho vay của ngân hàng.Ngày nay, Chính phủ giành quyền cấp phép
hoạt động và kiểm soát các ngân hàng.Các ngân hàng được cấp giấy phép
thành lập với điều kiện là họ phải cam kết thực hiện v ới mức độ nào đó các
chính sách của Chính phủ và tài trợ cho Chính phủ.Các ngân hàng thường
mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà
ngân hàng huy động được.
15
Chuyên đề tốt nghiệp PGD Hồ Gươm – NH Đông
Á
4.3.8. Bảo lãnh.
Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho một khách hàng rất lớn và
do ngân hàng nắm giữ tiền gửi của các khách hàng, nên ngân hàng có uy tín
trong bảo lãnh cho khách hàng.Trong những năm gần đây, nghiệp vụ bảo lãnh
ngày càng đa dạng và phát triển mạnh.Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách
hàng của mình mua chịu hàng hoá và trang thiết bị, phát hành chứng khoán,

vay vốn của tổ chức tín dụng khác…
4.3.9. Cho thuê thiết bị trung và dài hạn( leasing ).
Nhằm để bán được các thiết bị, đặc biệt là các thiết bị có giá trị lớn,
nhiều hãng sản xuất và thương mại đã cho thuê.Cuối hợp đồng thuê, khách
hàng có thể mua (do vậy còn gọi là hợp đồng thuê mua).Rất nhiều ngân hàng
tích cực cho khách hàng quyền lựa chọn thuê các thiết bị, máy móc cần thiết
thông qua hợp đồng thuê mua, trong đó ngân hàng mua thiết bị và cho khách
hàng thuê với điều kiện khách hàng phải trả tới hơn 70% hoặc 100% giá trị
của tài sản cho thuê.Do vậy cho thuê của ngân hàng cũng có nhiều điểm giống
như cho vay và được xếp vào tín dụng trung và dài hạn.
4.3.10. Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn.
Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính, các ngân hàng có rất nhiều
chuyên gia về quản lý tài chính.Vì vậy, nhiều cá nhân và doanh nghiệp đã nhờ
ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ.Dịch vụ uỷ thác
phát triển sang cả uỷ thác vay hộ, uỷ thác cho vay hộ, uỷ thác phát hành, uỷ
thác đầu tư…Thậm chí, các ngân hàng đóng vai trò là người được uỷ thác
trong di chúc, quản lý tài sản cho khách hàng đã qua đời bằng cách đã công
bố tài sản, bảo quản các tài sản có giá. Nhiều khách hàng còn coi ngân hàng
như một chuyên gia tư vấn tài chính. Ngân hàng sẵn sàng tư vấn về đầu tư, về
quản lý tài chính, về thành lập, mua bán, sát nhập doanh nghiệp.
16
Chuyên đề tốt nghiệp PGD Hồ Gươm – NH Đông
Á
4.3.11 Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán.
Nhiều ngân hàng đang phấn đấu cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho
phép khách hàng thoả mãn mọi nhu cầu. Đây là một trong những lý do chính
khiến các ngân hàng bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp
cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác.
Trong một vài trường hợp, các ngân hàng tổ chức ra công chúng chứng khoán
hoặc công ty môi giới chứng khoán để cung cấp dịch vụ môi giới.

4.3.12. Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm.
Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách hàng,
điều đó bảo đảm việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng bị chết, bị tàn phế
hay gặp rủi ro trong hoạt động, mất khả năng thanh toán. Ngân hàng liên
doanh với công ty bảo hiểm hoặc tổ chức công ty bảo hiểm con, ngân hàng
cung cấp dịch vụ tiết kiệm gắn với bảo hiểm như tiết kiệm an sinh, tiết kiệm
hưu trí…
4.3.13 Cung cấp các dịch vụ đại lý
Nhiều ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập chi
nhánh hoặc văn phòng ở khắp mọi nơi. Nhiều ngân hàng( thường là các ngân
hàng lớn) cung cấp dịch vụ ngân hàng đại lý cho các ngân hàng khác như
thanh toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối
trong đồng tài trợ…
IV. THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI
1. Nhiệm vụ của thị trường hối đoái.
Trong giao dịch hối đoái giữa hai tác nhân kinh tế trong các nước khác
nhau bao hàm việc chuyển đổi từ đồng tiền này sang đồng tiền khác là phải thực
hiện một giao dịch hối đoái.Điều đó khẳng định rằng không thể mua một đồng
tiền mà không cần bán một đồng tiền khác.”Đồng tiền đối ứng” ngầm thể hiện
rằng giao dịch đối ứng( mua ngược với bán ) được yết giá đối với đồng tiền kia.
17
Chuyên đề tốt nghiệp PGD Hồ Gươm – NH Đông
Á
Thị trường hối đoái cho phép đảm bảo việc đối chiếu giữa cung và cầu
về ngoại tệ, do vậy nó xác định giá của một ngoại tệ so với ngoại tệ khác và
xác định tỷ giá của một trong số ngoại tệ đó so với đồng bản tệ.
Thị trường hối đoái có ba nhiệm vụ cơ bản sau :
*) Giúp chuyển đổi đồng tiền này thành đồng tiền khác.Trên thị trường
hối đoái chỉ diễn ra các giao dịch giữa các đồng tiền khác nhau.Nguyên nhân
tồn tại của thị trường này là do các quốc gia muốn giữ chủ quyền trong việc

sử dụng và kiểm soát đồng tiền riêng của mình, bởi vì nếu như mọi quốc gia
trên thế giới đều sử dụng một đồng tiền thống nhất thì không còn cần đén thị
trường hối đoái nữa.
*) Cung cấp tín dụng cho hoạt động ngoại thương
*) Tạo ra rào cản để hạn chế những rủi ro hối đoái .Chức năng này
được coi là cực kỳ quan trọng mà các công cụ giao dịch hối đoái như mua bán
có kỳ hạn đã tạo ra chức năng này cho thị trường hối đoái.
18
Chuyên đề tốt nghiệp PGD Hồ Gươm – NH Đông
Á
2. Các đặc điểm của thị trường hối đoái.
2.1. Một thị trường quốc tế.
Khác với thị trường chứng khoán, thị trường hàng hoá đóng ở một địa
điểm địa lý cố định, thị trường hối đoái không có biên giới.Thị trường hối
đoái quốc tế là thị trường toàn cầu và diễn ra liên tục năm ngày trong tuần.
Thị trường hối đoái đã thực sự mang tính quốc tế, nó trở thành thị trường
duy nhất và hoạt động liên tục, tuy nhiên ở từng địa điểm nó mang thêm các đặc
thù riêng do ảnh hưởng của các quy định mang tính quốc gia được áp dụng.Các
nhà kinh doanh trên thị trường có xu hướng làm cân bằng tỷ giá giữa các vị trí
khác nhau trên thế giới để dần dần tiến tới cơ chế thị trường duy nhất.Nếu có sự
khác biệt trong thị trường ngoại hối, nơi mà giá niêm yết của những đồng tiền
thay đổi theo giá thị trường, thì tác động của thị trường sẽ điều chỉnh lại tỷ
giá.Cơ chế của điều chỉnh này xảy ra là kết quả của arbitrage quốc tế.
Arbitrage có thể được định nghĩa như là sự vốn hoá trên sự khác biệt
của giá niêm yết.Hoạt động của arbitrage sẽ tác động làm giá cả điều chỉnh.
2.2. Một thị trường liên ngân hàng.
Thị trường hối đoái liên ngân hàng được tổ chức qua hệ thống ngân
hàng trong nước, là nơi tập hợp cung và cầu ngoaii tệ đối với đồng bản tệ,
đồng thời ở đó các tỷ giá giữa các loại ngoại tệ có trong giao dịch cũng như
lượng ngoại tệ đưa ra giao dịch được xác định cụ thể.Trong trường hợp có

“n”ngoại tệ chuyển đổi thì có “n” vị trí tài chính và đối với mỗi một loại
ngoại tệ này có n-1 thị trường để trao đổi n-1 ngoại tệ đổi lấy đồng tiền bản tệ
và ở đó sẽ có n-1 tỷ giá hối đoái. Vì vậy thị trường hối đoái bao gồm n(n-1)
bộ phận trong đó hình thành n(n-1) tỷ giá hối đoái.
3. Rủi ro tỷ giá trong hoạt động kinh doanh ngoại hối của ngân hàng.
Về bản chất, kinh doanh ngoại hối tự nó chứa đựng rủi ro rất cao.Ngoài
các rủi ro thông thường mà các hoạt động khác cũng phải đối mặt như : rủi ro
19
Chuyên đề tốt nghiệp PGD Hồ Gươm – NH Đông
Á
lãi suất, rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro kỹ thuật, rủi ro hoạt động,
rủi ro pháp lý, rủi ro quốc gia…,thì kinh doanh ngoại hối còn chịu thêm một
rủi ro đặc biệt đó là rủi ro tỷ giá.Do tỷ giá biến động thường xuyên và vô lối,
nên rủi ro tỷ giá được xem như là rủi ro thường trực, gắn liền và trở thành rủi
ro đặc trưng của hoạt động kinh doanh ngoại hối của các ngân hàng.
3.1. Khái niệm về rủi ro tỷ giá.
Theo quan điểm của các học giả Mỹ “ rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường
được “, “ rủi ro là tổng hợp của những sự ngẫu nhiên có thể đo lường bằng xác
suất “. Rủi ro thường được đo lường bằng độ chênh lệch giữa lợi nhuận thực tế
với mức lợi nhuận dự kiến. Đối với ngân hàng, rủi ro có thể hiểu là mối đe doạ
bị tổn thất một phần vốn của mình và không đạt được thu nhập hay đòi hỏi các
khoản chi phí bổ sung để thực hiện các nghiệp vụ tài chính nhất định.
Rủi ro tỷ giá phát sinh khi ngân hàng kinh doanh mua bán cho chính
mình, hay nói cách khác rủi ro tỷ giá là rủi ro xuất hiện khi có sự dịch chuyển
tỷ giá của các ngoại tệ mà NHTM giữ dưới dạng tài sản “Có”, tài sản “Nợ”
hoặc cả hai tức là tạo trạng thái ngoại hối mở ( open or unhedged position ) để
đầu cơ kiếm lãi khi tỷ giá thay đổi.
3.2. Nguồn phát sinh rủi ro tỷ giá.
Trên thị trường ngoại hối ( mua, bán các đồng tiền khác nhau ), có 3
phương pháp cơ bản để thu lãi. Chẳng hạn trên thị trường giao ngay, đó là :

*) Lãi phát sinh khi nhà kinh doanh tạo trạng thái ngoại hối : Nhà kinh
doanh có thể tạo trạng thái ngoại hối bằng cách mua bán một đồng tiền nào
đó, chờ cho tỷ giá biến động, sau đó cân bằng trạng thái ngoại hối và thu lãi.
*) Lãi thu được từ kinh doanh chênh lệch tỷ giá là việc tại cùng một thời
điểm mua một đồng tiền ở nơi có giá thấp và bán lại đồng tiền này ở nơi có giá
cao hơn để ăn chênh lệch tỷ giá. Vì hành vi mua bán diễn ra tại cùng một thời
20
Chuyên đề tốt nghiệp PGD Hồ Gươm – NH Đông
Á
điểm với số lượng bằng nhau, nên kinh doanh chênh lệch tỷ giá không chịu rủi
ro tỷ giá ( vì không tạo trạng thái ngoại hối ) và không phải bỏ vốn.
*) Lãi thu được từ chênh lệch tỷ giá mua vào bán ra : Do tỷ giá mua
vào bao giờ cũng thấp hơn tỷ giá bán ra, nên chênh lệch tỷ giá mua bán chính
là thu nhập của ngân hàng.Về thực chất. Trong giao dịch này, ngân hàng đóng
vai trò là nhà cung cấp dịch vụ mua hộ, bán hộ cho khách hàng, nên không
chịu rủi ro tỷ giá và không cần bỏ vốn.
Qua phân tích cho thấy, nhà kinh doanh ngoại hối chỉ chịu rủi ro tỷ giá
khi duy trì trạng thái ngoại hối mở ( open position ).Trạng thái ngoại hối mở
của của một ngoại tệ là chênh lệch giữa tài sản Có và tài sản Nợ (nội và ngoại
bảng ) của ngoại tệ đó tại một thời điểm.Tất cả các giao dịch làm phát sinh sự
chuyển giao quyền sở hữu về ngoại tệ ( hiện tại và tương lai ) đều tạo ra trạng
thái ngoại tệ, trong đó thông qua giao dịch mua bán là chủ yếu.Chính vì vậy,
trong thực tế chỉ cần quản lý tốt trạng thái mua bán ngoại tệ cũng đủ để ngăn
ngừa rủi ro tỷ giá phát sinh.
Đối với mỗi ngoại tệ, tại một thời điểm, nếu tổng tài sản Có lớn hơn
tổng tài sản Nợ ( nội và ngoại bảng ) thì ngoại tệ đó ở trạng thái thường.Khi
đồng tiền này lên giá làm phát sinh lãi ngoại hối, và ngược lại khi đồng tiền
này giảm giá sẽ phát sinh lỗ ngoại hối.Nếu tổng tài sản Có nhỏ hơn tổng tài
sản Nợ, thì ngoại tệ đó ở trạng thái đoản, khi đồng tiền này lên giá làm phát
sinh lỗ ngoại hối, và ngược lại khi đồng tiền này giảm giá sẽ phát sinh lãi

ngoại hối.
Tóm lại, nếu không duy trì trạng thái ngoại hối mở thì nhà kinh doanh
không chịu rủi ro tỷ giá, hoặc duy trì trạng thái ngoại hối mở nhưng tỷ giá
không biến động thì rủi ro tỷ giá cũng không phát sinh.Tuy nhiên, một thực tế
là, đã là nhà kinh doanh ngoại hối thì động cơ kiếm lãi chủ yếu thông qua việc
21
Chuyên đề tốt nghiệp PGD Hồ Gươm – NH Đông
Á
tạo trạng thái và tỷ giá biến động càng nhanh, càng mạnh, càng khó dự đoán
thì cơ hội kiếm lãi dành cho nhà kinh doanh càng nhiều.
3.3. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tỷ giá trong hoạt động kinh doanh
ngoại hối của ngân hàng.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro tỷ giá trong hoạt động kinh
doanh ngoại hối của ngân hàng.
*) Kiến thức về nghiệp vụ chuyên môn để vận hành giao dịch và đo
lường rủi ro quá yếu kém, kỹ năng xử lý số liệu bằng điện toán chưa cao,
chưa có những bộ phận nghiên cứu dự đoán sự thay đổi tỷ giá trên thị trường.
Hiện nay dù có tham gia vào một số nghiệp vụ phái sinh nhưng hầu
như các NHTM Việt Nam chỉ chú ý đến việc mua bán ngoại tệ nhằm mục
đích thanh toán, cho vay ngoại tệ mà quên đi yếu tố bảo hiểm tỷ giá nên trong
kinh doanh tiền tệ ngân hàng đóng vai trò chủ yếu là trung gian giao dịch hơn
là nhà tạo lập thị trường.Cũng chính vì tư tưởng trên nên ngân hàng rất yếu về
phân tích tỷ giá mà đặc biệt là rất yếu về phân tích kỹ thuật.Hầu như rất ít
ngân hàng sử dụng phân tích kỹ thuật như một công cụ hỗ trợ thêm cho phân
tích cơ bản trong phân tích tỷ giá.Đó cũng là lý do vì sao mà ít ngân hàng
mạnh về kinh doanh đầu cơ mà chủ yếu các ngân hàng chỉ kinh doanh cho
khách hàng.
*) Các quy định pháp lý về cách xác định trạng thái ngoại hối chưa
hoàn thiện gây rủi ro tỷ giá.
Mặc dù Ngân hàng Nhà Nước đã thay đổi phương pháp xác định trạng

thái ngoại tệ theo quyết định 1081/2002/QĐ-NHNN cho phù hợp với tình hình
thực tiễn Việt Nam, tuy nhiên việc tính toán trạng thái ngoại tệ cuối tháng được
tính trên cơ sở số dư tại thời điểm cuối ngày làm việc cuối cùng chỉ xét đến
trạng thái ngoại tệ được hình thành do các giao dịch mua bán ngoại tệ của ngân
hàng mà chưa tính đến thu và chi phí trả lãi phát sinh từ các tài sản Có và tài
22
Chuyên đề tốt nghiệp PGD Hồ Gươm – NH Đông
Á
sản Nợ sinh lời.Nếu các khoản thu và chi này cộng dồn sẽ ảnh hưởng đến giá
trị giữa trạng thái ngoại tệ thực tế và trạng thái ngoại tệ báo cáo gây ra rủi ro.
*) Cơ chế tỷ giá hiện nay chưa phản ánh được quy luật cung cầu trên
thị trường.
Mặc dù thời gian qua Ngân hàng Nhà Nước đã xoá bỏ sự áp đặt chủ
quan, duy ý chí trong việc thiết lập tỷ giá, khoảng cách giữa tỷ giá chính thức
và tỷ giá thị trường “chợ đen” dần dần được thu hẹp.Tuy nhiên, diễn biến tỷ
giá trong những năm qua còn nhiều phức tạp.Từ tháng 2/1999, tỷ giá đã được
xác định trên cơ sở tỷ giá bình quân của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng,
nhưng trong thực tế Ngân hàng Nhà Nước vẫn chưa thực hiện triệt để nguyên
tắc này.Cơ chế điều hành tỷ giá còn qui định biên độ mua bán làm cho việc
yết giá của các NHTM bị cứng nhắc, chưa phản ánh đúng cung cầu ngoại tệ
trên thị trường.
Tóm lại, rủi ro tỷ giá xảy ra là do hai nguyên nhân chủ yếu sau:
*) Nguyên nhân chủ quan: Do trạng thái ngoại hối không cân xứng, tức là
có sự chênh lệch giữa doanh số mua vào và bán ra của đồng tiền nước ngoài.
*) Nguyên nhân khách quan là do sự biến động tỷ giá theo chiều hướng
bất lợi đối với ngân hàng.Nguyên nhân của sự biến động này là : cung-cầu
ngoại tệ trên thị trường, cán cân thanh toán quốc tế, chính sách thuế quan,
năng suất lao động, tình hình kinh tế chính trị của mỗi nước, lãi suất đồng
ngoại tệ và nội tệ.
Tuy nhiên khi đánh giá rủi ro người ta đánh giá sự ảnh hưởng của cả

hai yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến lãi (lỗ) của hoạt động kinh doanh.Mối
quan hệ đó được thể hiện qua công thức tính lãi (lỗ) đối với từng loại ngoại tệ
khi tỷ giá biến động như sau :
Lãi (lỗ) đối với = Trạng thái ngoại hối ròng
×
Mức biến động của
ngoại tệ i của ngoại tệ i tỷ giá ngoại tệ
23
Chuyên đề tốt nghiệp PGD Hồ Gươm – NH Đông
Á
CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH VÀ ĐÁNH GIÁ RỦI RO TỶ GIÁ TRONG
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGOẠI HỐI CỦA NGÂN HÀNG ĐÔNG Á.
I. Mô hình lý thuyết
Rủi ro tỷ giá là một trong những rủi ro thị trường chính trong hoạt động
ngân hàng.Tuỳ thuộc vào quy mô hoạt động và quan điểm của ban lãnh đạo
của ngân hàng, mỗi ngân hàng có mức độ rủi ro ngoại hối khác nhau và do đó
có phương pháp quản lý rủi ro ngoại hối khác nhau.
Một số ngân hàng thực hiện kinh doanh ngoại tệ để đáp ứng yêu cầu
của khách hàng.Điều này có nghĩa là khi khách hàng có nhu cầu mua, bán
ngoại tệ, ngân hàng mới thực hiện giao dịch đối ứng để đáp ứng nhu cầu về
ngoại tệ của khách hàng.Trong trường hợp này, rủi ro ngoại hối của ngân
hàng là ít. Ngược lại, những ngân hàng lớn hoạt động đa dạng, năng động trên
thị trường quốc tế không chỉ kinh doanh ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu của
khách hàng mà còn tự kinh doanh cho bản thân ngân hàng để thu lợi nhuận
( được gọi là hoạt động tự doanh hay còn gọi là “đầu cơ”).Trong những
trường hợp này, rủi ro tỷ giá của ngân hàng là lớn.Ngân hàng Đông á cũng
không nằm ngoài mục đích nói trên, vì thế đòi hỏi Đông á phải có một cơ chế
quản lý rủi ro rõ ràng đầy đủ và phù hợp với mức độ rủi ro của ngân hàng.
Mặc dù, phần lớn hoạt động kinh doanh ngoại tệ là để đáp ứng nhu cầu
khách hàng, ngân hàng Đông á đã thực hiện giao dịch tự doanh, chủ yếu tập

trung vào các đồng tiền mạnh như USD, JPY, SGD, EUR.Sự có mặt của
nghiệp vụ tự doanh đặt ra yêu cầu cho Đông á phải xây dựng và áp dụng
phương pháp quản lý rủi ro phù hợp với mức độ rủi ro trong kinh doanh ngoại
tệ của ngân hàng mình.Việc ngân hàng không có phương pháp quản lý rủi ro
phù hợp với hoạt động kinh doanh ngoại tệ đang được mở rộng sẽ dẫn đến rủi
ro tiềm ẩn về tỷ giá là rất lớn.
24
Chuyên đề tốt nghiệp PGD Hồ Gươm – NH Đông
Á
“Tiềm ẩn” là đặc điểm cần lưu ý trong rủi ro về tỷ giá.Điều này có
nghĩa là với trình độ và phương pháp quản lý rủi ro không phù hợp với hoạt
động kinh doanh ngoại tệ, ngân hàng vẫn có thể hoạt động bình thường và
thậm chí có lãi trong điều kiện thị trường bình thường, thuận lợi.Chỉ đến khi
tỷ giá biến động bất lợi, thị trường có nhiều biến động, lúc đó mức độ rủi ro
tiềm ẩn mới được hiện thực hoá bằng những khoản lỗ thực sự ngoài dự kiến.
Rủi ro tỷ giá được quản lý bởi nhiều yếu tố và công cụ.Để quản lý rủi
ro tỷ giá một cách hiệu quả thì trước hết ngân hàng phải phân tích và đánh giá
được rủi ro tỷ giá ở thời điểm hiện tại và quá khứ như thế nào thì từ đó mới có
phương pháp quản lý rủi ro tỷ giá tốt hơn cho những giai đoạn sau.Sau đây
chúng ta sẽ trình bày 2 phương pháp phân tích rủi ro tỷ giá trong hoạt động
kinh doanh ngoạ hối của ngân hàng Đông á.
1. Các số liệu đầu vào
- Dựa vào bộ số liệu sẵn có từ năm 2003 đến năm 2005 của ngân hàng
Đông á về tỷ giá giao ngay của 3 loại ngoại tệ USD, EUR, JPY (số liệu theo
tháng).
- Kí hiệu S
F(t)
là tỷ giá giao ngay của ngoại tệ F so với đồng nội
tệ(VNĐ) tại thời điểm t.
- Lợi suất của tỷ giá ngoại tệ F so với VNĐ được tính theo công thức:

X
F(t)
= ln









s
s
tF
tF
)1(
)(
2. Mô hình đưa ra phân tích.
2.1. Mô hình ARCH.
*) Mô hình chung:
∑∑
=

=

++=
+=
q
j

jtj
p
i
itit
tt
UE
UE
11
0
F(t)

θφφµ
µ
25

×