Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở việt nam. thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.75 KB, 44 trang )


Mở đầu
1/ Tính bức xúc của đề tài
Từ năm 1991, Đảng và Nhà nớc ta đã thực hiện nhiều chủ trơng, biện
pháp tích cực nhằm đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp
nhà nớc. Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới cũng nh trong khu vực đang diễn
ra cạnh tranh quyết liệt và nền kinh tế nớc ta còn nhiều khó khăn, doanh
nghiệp nhà nớc đã vợt qua nhiều thử thách, đứng vững và không ngừng phát
triển. Doanh nghiệp nhà nớc đã đóng góp đáng kể cho ngân sách nhà nớc, bảo
đảm việc làm cho trên 1 triệu lao động. Doanh nghiệp nhà nớc đã đảm trách
những ngành kinh tế xơng sống, mũi nhọn, có vốn đầu t cao nh: Xi măng, dầu
khí, hàng không, thông tin, điện lực , góp phần ổn định tình hình kinh tế xã
hội và có vai trò quyết định vào thành tựu to lớn của sự nghiệp đổi mới và phát
triển đất nớc.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt đợc, khu vực doanh nghiệp nhà nớc
còn những tồn tại, yếu kém nh: hoạt động kém hiệu quả, khả năng cạnh tranh
thấp, trình độ công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý của cán bộ bất cập, trình độ
tay nghề của ngời lao động trong doanh nghiệp nhà nớc còn thấp. Quá trình
triển khai thực hiện đổi mới và sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nớc còn gặp
nhiều khó khăn, vớng mắc, nhất là trong cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc.
Vì vậy, trong điều kiện toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, việc sắp xếp
lại và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc đã trở thành xu hớng tất yếu trong
tiến trình đổi mới doanh nghiệp nhà nớc ở nớc ta.
Những năm qua đã có nhiều hội thảo, đề tài khoa học và nhiều tác giả
nghiên cứu, đề cập đến vấn đề cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc trên nhiều
khía cạnh khác nhau. Song vấn đề CPH DNNN diễn ra một cách chậm chạp
bởi nhiều lý do khác nhau.
Cùng với chủ trơng mở rộng và tăng cờng tiến độ CPH một bộ phận
DNNN ở nớc ta, vấn đề thúc đẩy tiến trình CPH DNNN đang trở thành tính
thời sự. Nhằm góp phần tháo gỡ sự bức xúc đó, đề tài: Đẩy mạnh quá trình
cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc ở Việt Nam. Thực trạng và giải pháp đ-


ợc lựa chọn làm luận văn tốt nghiệp Đại học chính trị.
2/ Đối tợng, giới hạn của đề tài:
Đề tài tập trung nghiên cứu về CPH và thúc đẩy CPH DNNN ở nớc ta. Là vấn
đề đợc nghiên cứu nhiều nên luận văn không đi sâu phân tích nội dung lý luận, kỹ
thuật công nghệ của CPH DNNN. Khía cạnh đề cập chủ yếu là làm gì để đẩy mạnh
tiến trình CPH DNNN ở nớc ta.
Nội dung cơ bản của CPH đợc nghiên cứu thông qua phần kinh nghiệm CPH
DNNN ở một số quốc gia. Điều đó cho phép vừa rõ đợc nội dung CPH vừa học hỏi
kinh nghiệm từ các nớc, vừa tránh trùng lặp nội dung trong trình bày đề tài.
3/ Mục đích, nhiệm vụ đề tài:
- Góp phần thúc đẩy quá trình CPH DNNN ở nớc ta hiện nay.
- Nhiệm vụ chủ yếu gồm:
o Hệ thống hoá vấn đề cơ bản về CPH DNNN.
o Phân tích thực trạng CPH DNNN ở nớc ta.
o Đề xuất một số giải pháp góp phần đẩy nhanh tiến trình CPH DNN ở
Việt Nam.
4/ Phơng pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng phơng pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, các phơng
pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh và đối chiếu.
5/ Kết câú đề tài: Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
gồm 3 phần:
-Phần thứ nhất: Một số vấn đề chung về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc.
-Phần thứ hai: Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc ở Việt Nam.
-Phần thứ ba: Một số giải pháp nhằm đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nớc ở Việt Nam.
Phần thứ nhất
một số vấn đề chung về cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nớc.
1.1 Quan niệm và nhận thức về công ty cổ phần và cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà n ớc.

1.1.1, Nhận thức về công ty cổ phần và cổ phần hoá DNNN
* Khái lợc công ty cổ phần
Từ những năm 70, 80 của thế kỷ 20, công ty cổ phần đã trở thành một
loại hình tổ chức kinh doanh khá phổ biến ở nhiều nớc trên thế giới bởi nó là
một hình thức tổ chức công ty đạt trình độ xã hội hoá cao nhất, là một hình
thức kinh tế năng động, hấp dẫn.
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về công ty cổ phần, nhng khái
niệm chung đợc nhiều ngời chấp nhận là, coi công ty cổ phần là doanh nghiệp
trong đó vốn đợc chia thành các phần bằng nhau gọi là cổ phần, ngời góp vốn
đợc gọi là cổ đông. Các cổ đông cùng góp vốn bằng cách mua cổ phần và có
quyền tham gia quản lý, tham gia chia lợi nhuận, và cùng chịu rủi ro tơng ứng
với phần vốn góp.
Theo luật doanh nghiệp của Việt Nam, công ty cổ phần có t cách pháp
nhân, số cổ đông tối thiểu là 3 và có quyền phát hành chứng khoán ra công
chúng để thu hút vốn; cổ đông có quyền tự do chuyển nhợng cổ phần cho ngời
khác. Cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần bao gồm: Đại hội đồng cổ đông,
Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát và Giám đốc. Hoạt động của công ty cổ
phần thờng chịu sự chế định chặt chẽ của pháp luật.
Những đặc trng cơ bản, u thế của hình thức công ty cổ phần so với các
hình thức khác đợc thể hiện ở những điểm sau:
- Công ty cổ phần có khả năng huy động lợng vốn lớn để đầu t mở
rộng sản xuất, kinh doanh.
- Công ty cổ phần có cơ chế uỷ quyền linh hoạt giữa các cổ đông là
chủ sở hữu với giới quản lý chuyên nghiệp, do đó có khả năng thu hút đợc các
nhà quản lý giỏi.
- Công ty cổ phần có thể hoạt động liên tục do nó không bị gián đoạn
bởi sự thay thế chủ sở hữu nh các dạng doanh nghiệp khác.
- Công ty cổ phần có khả năng tạo ra cơ chế phân tán rủi ro, mạo hiểm
cho lợng lớn cổ đông, đồng thời vẫn cho phép giới quản lý có quyền chủ động
và phạm vi hoạt động rộng rãi.

* Cổ phần hoá
Cổ phần hoá doanh nghiệp là quá trình chuyển đổi doanh nghiệp từ
chỗ chỉ có một chủ sở hữu thành công ty cổ phần. Cổ phần hoá có thể diễn ra
tại các doanh nghiệp t nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty liên doanh
và tại doanh nghiệp nhà nớc. Về bản chất, cổ phần hoá là quá trình đa dạng
hoá sở hữu trong một doanh nghiệp.
Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc là quá trình chuyển đổi doanh
nghiệp nhà nớc thành công ty cổ phần, trong đó nhà nớc hoặc trở thành một cổ
đông hoặc nhà nớc không sở hữu cổ phần nào, chuyển toàn bộ doanh nghiệp
cho các thành phần kinh tế khác. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc không
chỉ là quá trình chuyển quan hệ sở hữu dới hình thức sở hữu nhà nớc sang hình
thức sở hữu của các cổ đông, mà còn là quá trình tái cơ cấu lại hệ thống doanh
nghiệp nhà nớc nhằm: thu hút vào hệ thống này nguồn vốn của xã hội, du
nhập vào các mô hình tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
ở nớc ta, mục tiêu cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc đã đợc hội nghị
lần thứ ba Ban chấp hành Trung ơng Đảng (khoá IX) chỉ rõ là: "Nhằm tạo ra
loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo ngời lao
động để sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản của nhà nớc và huy động thêm vốn
xã hội vào phát triển sản xuất, kinh doanh, tạo động lực phát triển mạnh mẽ
và cơ chế quản lý năng động, có hiệu quả cho doanh nghiệp nhà nớc, phát
huy vài trò làm chủ thực sự của ngời lao động, của cổ đông và tăng cờng sự
giám sát của xã hội đối với doanh nghiệp; đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà n-
ớc, doanh nghiệp và ngời lao động".
1.1.2, Phân biệt khái niệm cổ phần hoá và t nhân hoá.
Theo nghĩa chung nhất, t nhân hoá là quá trình giảm bớt quyền sở hữu
của nhà nớc hoặc giảm bớt sự kiểm soát của nhà nớc trong các xí nghiệp Quốc
doanh. Việc giảm bớt quyền sở hữu và kiểm soát của nhà nớc có thể thông qua
các biện pháp, cách thức khác nhau trong đó có cổ phần hoá.
Thông thờng, t nhân hoá doanh nghiệp nhà nớc đợc hiểu là quá trình
chuyển toàn bộ hoặc một phần quyền sở hữu tài sản trong doanh nghiệp nhà

nớc từ nhà nớc sang các cá nhân hay tổ chức khác không phải là nhà nớc. Kết
quả của quá trình này có thể hình thành một công ty cổ phần, cũng có thể là
các loại hình doanh nghiệp khác. Còn cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc là
quá trình chuyển doanh nghiệp nhà nớc thành công ty cổ phần trong đó nhà n-
ớc có thể bán tài sản cho t nhân, cũng có thể không bán cho t nhân.
Nh vậy, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc và t nhân hoá doanh
nghiệp nhà nớc là hai quá trình không đồng nhất, mặc dù chúng có một phần
chung. Nếu cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc có bán cổ phần cho t nhân thì
cổ phần hoá đã bao hàm cả một phần nội dung của t nhân hoá; nếu cổ phần
hoá không bán tài sản cho t nhân mà bán cho các pháp nhân là doanh nghiệp
nhà nớc thì cổ phần hoá không chứa đựng nội dung t nhân hoá. Hơn nữa, sự
khác nhau giữa cổ phần hoá và t nhân hoá là tính mục đích. Mục đích của t
nhân hoá là thu hẹp sở hữu nhà nớc, bất kể kết quả của việc thu hẹp ấy là xuất
hiện mô hình tổ chức doanh nghiệp nh thế nào. ở Việt Nam, mục đích của cổ
phần hoá là thay thế hình thức tổ chức hiện tại của doanh nghiệp nhà nớc bằng
hình thức công ty cổ phần với nhiều thành phần kinh tế tham gia vào cơ cấu cổ
đông của công ty cổ phần đó. Nh vậy, mục đích của cổ phần hoá doanh nghiệp
nhà nớc là thiên về cơ cấu lại mô hình tổ chức doanh nghiệp nhà nớc, thay đổi
cách quản lý doanh nghiệp nhà nớc của nhà nớc cũng nh nhằm đến mục tiêu
thu hút vốn cho các doanh nghiệp nhà nớc hiện tại và du nhập những yếu tố
tích cực mới vào nó. Tóm lại, cổ phần hoá và t nhân hoá có phần chung là đều
chứa đựng nội dung chuyển một phần tài sản thuộc sở hữu nhà nớc cho t nhân
nhng khác nhau về mục đích và cách thức thực hiện.
1.1.3, Các hình thức cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc.
Trong các nớc có nền kinh tế thị trờng, t nhân hoá có thể diễn ra dới
nhiều hình thức.
Thứ nhất là khuyến khích khu vực t góp vốn vào các dự án đầu t công.
Chính sách này đã đợc thực hiện ở nhiều nớc nh Pháp, Tây Ban Nha, Bỉ, và
ngày càng trở thành mốt ở Anh và Đức.
Hình thức thứ hai là khuyến khích thành lập các liên doanh công - t.

Hình thức thứ ba là bán các công ty con thuộc các ngành công nghiệp,
ngân hàng đã quốc hữu hoá cho khu vực t nhân.
Hình thức thứ t là tái t bản hoá thị trờng các công ty công bằng cách
cho các nhà đầu t t nhân tham gia, do đó giảm đợc số cổ phần mà nhà nớc
nắm giữ.
Hình thức thứ năm là bán một lợng nhỏ cổ phần trong các công ty
100% vốn nhà nớc hoặc nhà nớc nắm phần lớn vốn.
Hình thức thứ sáu là bán phần lớn cổ phần trong công ty đã quốc hữu
hoá, nhà nớc chỉ nắm phần nhỏ, thờng để lại bán đi trong tơng lai hoặc để bảo
đảm cho việc kiểm soát công ty cổ phần đó.
Hình thức cuối cùng là bán toàn bộ doanh nghiệp công cho các nhà
đầu t t nhân.
ở nớc ta, theo Nghị định số 64/2002/NĐ-CP ngày 19/06/2002 của
Chính phủ, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc đợc tiến hành dới các hình thức
sau đây:
(1) Giữ nguyên vốn nhà nớc hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ
phiếu thu hút thêm vốn.
(2) Bán một phần vốn nhà nớc hiện có tại doanh nghiệp.
(3) Bán toàn bộ vốn nhà nớc hiện có tại doanh nghiệp.
(4) Thực hiện các hình thức (2) hoặc (3) kết hợp với phát hành cổ
phiếu thu hút thêm vốn.
Mỗi hình thức cổ phần hoá có những u điểm và nhợc điểm nhất định.
Sự đa dạng trên cho phép lựa chọn hình thức thích hợp với mỗi lĩnh vực ngành
nghề kinh doanh cụ thể, loại hình doanh nghiệp đang có, mục đích của chủ sở
hữu, để tiến hành cổ phần hoá.
Khi chuyển đổi sở hữu theo hớng cổ phần hoá, Nhà nớc hoàn toàn có
thể chủ động trong việc xác định cơ cấu tỷ lệ cổ phần trong doanh nghiệp theo
mục đích của mình. Cùng với đà phát triển của kinh tế thị trờng, thay vì giữ
trọn một số ngành, nhà nớc có thể chi phối sự phát triển của nền kinh tế bằng
cách chỉ nắm giữ cổ phần chi phối trong một số doanh nghiệp có vị trí chiến l-

ợc ở các khu vực, các ngành kinh tế quan trọng.
1.2- Tính tất yếu cổ phần hoá doanh nghiệp nhà n ớc ở Việt Nam .
ở nớc ta, sau một thời gian dài thực thi mô hình nền kinh tế kế hoạch
tập trung, quan liêu, bao cấp; đồng nhất kinh tế nhà nớc với doanh nghiệp nhà
nớc, nên đã hình thành hệ thống doanh nghiệp nhà nớc với số lợng lớn, bao
trùm tất cả các ngành nghề, lĩnh vực trong nền kinh tế quốc dân, trong đó có
nhiều lĩnh vực doanh nghiệp nhà nớc hoạt động không hiệu quả. Khi chuyển
sang kinh tế thị trờng, hệ thống doanh nghiệp cồng kềnh và kém hiệu quả này
gây cản trở lớn, đòi hỏi phải có biện pháp cải cách đổi mới.
Việc cải cách doanh nghiệp nhà nớc đợc đặt ra ngay từ những năm đầu
của thập kỷ 80 khi nền kinh tế có những giảm sút nghiêm trọng, sức sản xuất
bị kìm hãm và kém phát triển. Hàng loạt biện pháp cải cách doanh nghiệp nhà
nớc đã đợc ban hành và triển khai thực hiện nh: Quyết định 25/CP về ba phần
kế hoạch, mở quyền tự chủ bớc đầu cho các xí nghiệp quốc doanh; Quyết định
113/CP về bãi bỏ độc quyền xuất nhập khẩu của các xí nghiệp thuộc Bộ Ngoại
thơng; Nghị quyết 306 của Bộ Chính trị về bảo đảm quyền tự chủ sản xuất,
kinh doanh của các đơn vị cơ sở; Quyết định 217 của Hội đồng Bộ trởng về
chuyển doanh nghiệp nhà nớc sang hạch toán kinh doanh; Quyết định 315,
Nghị định 388 của Hội đồng Bộ trởng, Quyết định 90, 91 của Thủ tớng chính
phủ về tổ chức, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nớc v v. Nhờ nỗ lực cải cách đổi
mới, đến đầu thập kỷ 90 thế kỷ 20, hệ thống doanh nghiệp nhà nớc đã thoát
khỏi khủng hoảng, về cơ bản thích nghi với kinh tế thị trờng và bớc đầu đã có
một số doanh nghiệp nhà nớc làm ăn có hiệu quả.
Tuy nhiên, sau nhiều năm đổi mới, hệ thống doanh nghiệp nhà nớc vẫn
tồn tại nhiều yếu kém, cụ thể là:
- Nhiều doanh nghiệp nhà nớc lâm vào tình trạng làm ăn thua lỗ,
không có khả năng thanh toán nợ.
Mặc dù số doanh nghiệp nhà nớc thua lỗ có giảm dần từ 21% năm
1991 xuống còn 16% năm 1995, nhng đến năm 1996 lại tăng lên 22%. Năm
1997, có 1.923 doanh nghiệp thua lỗ, chiếm 35% tổng số doanh nghiệp nhà n-

ớc. Nếu tính đầy đủ các yếu tố chi phí, thiệt hại, tổn thất tài sản vào chi phí
kinh doanh thì số doanh nghiệp thua lỗ có thể lên tới 50%. Tổng số nợ phải trả
của các doanh nghiệp nhà nớc bằng 133% tổng số vốn nhà nớc tại doanh
nghiệp.
-Tính cạnh tranh của khu vực doanh nghiệp nhà nớc không cao.
Mặc dù một số doanh nghiệp nhà nớc đã nỗ lực cải tiến chất lợng sản
phẩm, đầu t đổi mới công nghệ nên sản phẩm đã chiểm lĩnh thị trờng trong n-
ớc và xuất khẩu nh may mặc, giày dép, điện dân dụng , song đa số doanh
nghiệp nhà nớc vẫn giữ công nghệ lạc hậu, cũ kỹ, không có khả năng tự đổi
mới. Chẳng hạn, thiết bị ngành cơ khí của Việt Nam lạc hậu từ 30 - 50 năm so
với thế giới. Một số ngành mới nh nhựa, dầu thực phẩm, đờng , giá thành cao
hơn giá thế giới từ 1,2 đến 1,5 lần.
- Quy mô của các doanh nghiệp nhà nớc nói chung nhỏ và không đồng
đều.
Vốn bình quân của một doanh nghiệp nhà nớc xấp xỉ 17 tỷ đồng, nhng
có đến 5.000 doanh nghiệp chỉ có vốn dới 5 tỷ đồng. Đến năm 1996 vẫn có
33% số doanh nghiệp nhà nớc có vốn dới 1 tỷ đồng, trong đó 50% có số vốn
dới 500 triệu đồng.
- Trình độ kỹ thuật, công nghệ của khu vực doanh nghiệp nhà nớc còn
lạc hậu, năng suất lao động và hiệu quả sản xuất thấp.
Chỉ có gần 4% doanh nghiệp nhà nớc đạt trình độ tự động hoá, 41%
đạt trình độ cơ khí, 55% còn ở trình độ thủ công. Nhiều doanh nghiệp nhà nớc
hiện nay vẫn đang sử dụng công nghệ của của những năm 50, 60 thế kỷ 20.
- Trình độ quản lý của đội ngũ cán bộ cha cao, trình độ tay nghề của
ngời lao động trong doanh nghiệp nhà nớc còn thấp.
Nhiều cán bộ quản lý trong các doanh nghiệp nhà nớc không thông
thạo kinh doanh, không có đủ kiến thức và kinh nghiệm cần thiết về quản lý
doanh nghiệp, nhất là tri thức về kinh tế thị trờng. Qua khảo sát gần đây ở 506
doanh nghiệp cho thấy, còn có trên 7,3% Giám đốc cha tốt nghiệp phổ thông
trung học.

- Tình trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt quản lý doanh nghiệp nhà nớc
cha quan tâm đúng mức đến hiệu quả sản xuất, kinh doanh vẫn còn phổ biến.
Một số cơ quan quản lý nhà nớc vẫn tiếp tục can thiệp vào công việc kinh
doanh của doanh nghiệp nhng lại không chịu trách nhiệm vật chất tơng xứng.
Đây cũng là một nguyên nhân chính làm cho tài sản của nhà nớc tại doanh
nghiệp không đợc sử dụng có hiệu quả.
Những tồn tại yếu kém nói trên của doanh nghiệp nhà nớc đòi hỏi phải
tìm tòi con đờng đổi mới, cơ cấu lại hệ thống doanh nghiệp nhà nớc để chúng
có đủ sức mạnh đảm đơng đợc vai trò quan trọng của mình. Một trong những
chủ trơng cơ cấu lại hệ thống doanh nghiệp nhà nớc đợc kỳ vọng nhất là cổ
phần hoá doanh nghiệp nhà nớc. Bởi vì, với việc chuyển một bộ phần doanh
nghiệp nhà nớc thành công ty cổ phần, chúng ta vừa có thể cơ cấu lại hệ thống
doanh nghiệp nhà nớc nhằm thu gọn đầu mối, tập trung nỗ lực của nhà nớc
vào các lĩnh vực chủ chốt, vừa không gây xáo trộn lớn; đồng thời việc thay thế
mô hình tổ chức kém hiệu quả ở các doanh nghiệp nhà nớc hiện tại bằng mô
hình công ty cổ phần cho phép vừa đa dạng hoá sở hữu, tạo động lực kích
thích, vừa tạo cơ chế để nhà nớc có thể triển khai sự kiểm soát hợp lý đối với
các doanh nghiệp nhà nớc đó. ích lợi của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc
có thể đợc xem xét ở các giác độ khác nhau:
1.2.1, Hình thành các điều kiện thuận lợi để cơ cấu lại nền kinh tế.
- Quá trình cổ phần hoá tạo điều kiện để cấu trúc lại nền kinh tế quốc
dân phù hợp với sự phân bố theo nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu,
đồng thời tăng vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nớc ở những ngành kinh tế quan
trọng hàng đầu. Nh vậy, kinh tế nhà nớc sẽ đảm bảo đợc vai trò là công cụ
điều tiết mà không cần quá nhiều lĩnh vực, quá nhiều ngành nghề khiến phải
đầu t vốn tràn lan, trong khi lại không nắm chắc đợc hiệu quả, dễ gây thất
thoát và thiệt hại về vốn, tài sản của nhà nớc.
- Cổ phần hoá giúp tái bố trí lại cơ cấu hệ thống doanh nghiệp nhà nớc
hiện nay và tập trung vào củng cố, phát triển các doanh nghiệp nhà nớc tại
một số ngành then chốt đảm bảo cho chúng hoạt động có hiệu quả thực sự và

tăng cờng vai trò chủ đạo của chúng trong nền kinh tế thị trờng.
1.2.2, Tạo động lực mạnh mẽ cho nhà đầu t và cho nền kinh tế bằng
cách đa dạng hoá sở hữu thông qua cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc.
- Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc tạo điều kiện bán cổ phần, thu
hút vốn đầu t của nhiều thành phần kinh tế, góp phần đa dạng hoá sở hữu cho
cả nền kinh tế, chứ không chỉ riêng các doanh nghiệp đợc cổ phần. Nó tạo
động lực cho ngời đầu t, ngời lao động có vốn cổ phần tích cực lao động vì lợi
nhuận chính đáng. Việc đa dạng hoá sở hữu cũng đặt tiền đề cho việc đổi mới
kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trờng thực hiện thống nhất, hài hoà lợi ích
giữa Nhà nớc, doanh nghiệp và tập thể ngời lao động.
- Đặc biệt, việc chia lợi nhuận cho ngời lao động là một yếu tố vừa
kích thích nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, vừa tạo cơ chế gắn bó giữa
ngời lao động và doanh nghiệp. Đây là điểm khác cơ bản so với tình hình tổ
chức doanh nghiệp nhà nớc cũ.
1.2.3, Tạo tiền đề cho thị trờng vốn ra đời, đáp ứng nhu cầu vốn cho
nền kinh tế.
Từ năm 1992 trở về trớc, phần chủ yếu trong tài sản cố định của doanh
nghiệp là đầu t từ ngân sách nhà nớc, phần vốn lu động còn lại đợc tài trợ
bằng tín dụng ngân hàng. Với số doanh nghiệp nhà nớc lớn nh hiện nay, nhà
nớc không thể đáp ứng đủ yêu cầu cấp vốn hoạt động cho các doanh nghiệp.
Để bổ sung phần vốn của nhà nớc còn thiếu, cần phải đa ra hình thức thích
hợp huy động vốn từ xã hội và hình thức đợc chọn đó là phát hành cổ phiếu ra
công chúng.
Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc tạo điều kiện tiền đề để hình thành
thị trờng vốn lành mạnh. việc thu hút vốn cổ phần của các thành phần kinh tế
và việc tiến hành bán cổ phiếu sẽ đảm bảo thu hút và bổ sung thêm vốn, nhất
là vốn trung và dài hạn cho các doanh nghiệp nhà nớc đã đợc cổ phần hoá, làm
giảm gánh nặng cho Ngân sách Nhà nớc. trong nhiều trờng hợp, còn tạo điều
kiện cho nhà nớc rút bớt vốn ở lĩnh vực này để đầu t sang lĩnh vực khác quan
trọng hơn. Cổ phần hoá còn góp phần tích cực cho việc hình thành thị trờng

chứng khoán, một yêu cầu cần thiết cho sự vận hành của nền kinh tế thị trờng.
1.2.4, Tác động tích cực đến việc cải tiến quản lý kinh tế có hiệu quả hơn.
Cùng với việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc, sự hình thành các
công ty, xí nghiệp cổ phần cũng khẳng định vai trò của Hội đồng quản trị là tổ
chức thay mặt các cổ đông, với t cách là ngời chủ thực sự của doanh nghiệp,
quản lý công ty, xí nghiệp cổ phần thực hiện mục tiêu: tất cả vì hiệu quả của
đồng vốn, vì quyền lợi và lợi nhuận của các cổ đông. Đây cũng là giải pháp để
hạn chế những can thiệp thô bạo, phi kinh tế của các cơ quan hành chính đối
với doanh nghiệp. Nó cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc tách chức năng
quản lý sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và chức năng quản lý nhà nớc
của cơ quan hành chính đối với các đơn vị kinh tế, tạo thế chủ động cho ngời
đầu t trong sản xuất, kinh doanh.
Mặt khác, cổ phần hoá tạo điều kiện cho khu vực kinh tế nhà nớc có
thể thâm nhập vào khu vực kinh tế t nhân để thực hiện vai trò chủ đạo của
mình thông qua việc nắm giữ một số cổ phần chi phối mà không cần đến biện
pháp hành chính.
1.2.5, Nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế, tạo môi trờng vừa
cạnh tranh, vừa liên kết, theo xu hớng các tập đoàn kinh tế mạnh.
Bao cấp và vai trò độc quyền của kinh tế quốc doanh trong nhiều năm
qua đã làm mất tính cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nớc. Việc cổ phần
hoá doanh nghiệp và chuyển chúng sang hoạt động theo Luật doanh nghiệp sẽ
đặt các doanh nghiệp vào mặt bằng pháp luật bình dẳng giữa các thành phần
trong nền kinh tế thị trờng, từ đó thúc đẩy việc cạnh tranh, buộc các doanh
nghiệp phải tổ chức quản lý, tái cơ cấu hữu hiệu để phát triển. Ngoài ra, các
doanh nghiệp nhà nớc sau cổ phần hoá hoạt động theo cơ chế tự chủ rộng rãi,
vừa dễ thích ứng với tính cạnh tranh trong nền kinh tế thông qua thị trờng, vừa
tạo tiền đề cho sự thâm nhập lẫn nhau giữa các thành phần kinh tế, đa dạng
hoá sở hữu trong một doanh nghiệp.
Cổ phần hoá còn là phơng tiện thực hiện mục tiêu chiến lợc: liên kết
giữa các doanh nghiệp để nâng cao năng lực cạnh tranh. Những năm gần đây,

trên thế giới xuất hiện sự sáp nhập giữa các công ty khổng lồ ở các nớc, khiến
chúng ta không thể không nghĩ đến vấn đề này đối với các doanh nghiệp ở
Việt Nam.
Việc đa dạng sở hữu của từng công ty và của cả nền kinh tế, ngoài việc
tạo động lực cạnh tranh mạnh mẽ theo hớng tăng lợi nhuận, hiệu quả, còn là
đòn bẩy kích thích quá trình liên kết để tạo thành các tập đoàn kinh tế mạnh
có u thế về thị trờng, về vốn nhằm thu đợc hiệu quả ngày một cao hơn.
1.2.6, Thực hiện quyền làm chủ thực sự của ngời lao động.
Với việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc, tất cả ngời lao động trong
xí nghiệp, bằng các nguồn vốn tự có, quỹ phúc lợi của doanh nghiệp đợc phân
bổ và cả vốn riêng cá nhân đều có thể tham gia mua cổ phiếu tại công ty, xí
nghiệp mình làm việc. Do đó, ngời lao động - từ công nhân đến Giám đốc - trở
thành ngời chủ thực sự đồng vốn của mình, đợc tham gia trực tiếp hoặc gián
tiếp vào xây dựng kế hoạch và các biện pháp lớn trong sản xuất, kinh doanh
của công ty, xí nghiệp cổ phần với quyết tâm, ý chí chung là có hiệu quả cao
nhất.
1.2.7, Đảm bảo thực hiện tốt các chính sách xã hội.
Cổ phần hoá tạo điều kiện cho việc phân phối bình đẳng, thoả đáng lợi
nhuận thu đợc dựa trên cơ sở góp vốn, năng suất lao động, hiệu quả sản xuất
kinh doanh chung của doanh nghiệp đợc cổ phần hoá, giúp cho việc xây dựng
các quỹ phúc lợi nh: Quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, quỹ bảo hiểm tai
nạn, quỹ thất nghiệp nhằm thực hiện tốt các chính sách xã hội đối với ngời
lao động.
Từ những lợi ích nói trên của việc cổ phần hoá và trớc tình trạng kém
hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nớc
hiện nay, cổ phần hoá là một lối ra cần thiết, hấp dẫn và đầy triển vọng, mang
lại lợi ích nhiều mặt cho cả nhà nớc và ngời lao động.
1.3- Kinh nghiệm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà n ớc ở một số n ớc
trên thế giới.
1.3.1, Thực tiễn cổ phần hoá ở một số nớc trên thế giới.

Cổ phần hoá doanh nghiệp ở Việt Nam là vấn đề mới. Vì vậy, việc
nghiên cứu kinh nghiệm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc ở các nớc trên thế
giới, đặc biệt là ở các nớc có điều kiện tơng đồng nh Trung Quốc để tìm ra
kinh nghiệm có thể vận dụng vào Việt Nam là vô cùng quan trọng.
1.3.1.1- Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà n ớc ở Trung Quốc.
Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc ở Trung Quốc bắt đầu từ
những năm 1980, khi đó Trung Quốc có 384.000 doanh nghiệp nhà nớc, sản
xuất chiếm 80,3% giá trị sản lợng công nghiệp toàn quốc. Lý do của việc cổ
phần hoá là khi chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trờng, nhiều doanh
nghiệp nhà nớc bộc lộ những yếu kém và hạn chế, nh hiệu quả kinh tế thấp,
làm ăn thua lỗ, trang thiết bị và kỹ thuật lạc hậu, thất thoát tài sản nhà nớc
nghiêm trọng Để khắc phục tình trạng đó, Trung Quốc chủ trơng đổi mới
doanh nghiệp nhà nớc và chuyển một bộ phận doanh nghiệp nhà nớc thành
công ty cổ phần.
Từ năm 1984, Trung Quốc cổ phần hoá thí điểm và chủ yếu tập trung
vào doanh nghiệp nhà nớc loại nhỏ. Năm 1991, Chính phủ Trung Quốc chính
thức triển khai cổ phần hoá 3.200 doanh nghiệp. Đến năm 1993, thực hiện cổ
phần đợc hơn 10.300 doanh nghiệp. Năm 1995, cả nớc Trung Quốc có khoảng
12.000 công ty cổ phần hỗn hợp, trong đó nhà nớc sở hữu 40%, các pháp nhân
40%, cá nhân 20%.
Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc ở Trung Quốc tiến hành dới 3 hình
thức:
Một là, doanh nghiệp nhà nớc cùng các doanh nghiệp trong nền kinh
tế tham gia nắm giữ cổ phiếu, hình thành công ty cổ phần.
Hai là, bán cổ phần cho công nhân viên chức nội bộ doanh nghiệp để
họ trở thành cổ đông của doanh nghiệp đó.
Ba là, phát hành công khai cổ phiếu ra xã hội dới hình thức doanh
nghiệp trực tiếp phát hành cổ phiếu trên thị trờng để tập trung vốn hoặc phát
hành qua tổ chức tín dụng hoặc huy động vốn góp từ doanh nghiệp khác.
1.3.1.2- Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà n ớc ở Hàn Quốc.

ở Hàn Quốc, khu vực kinh tế nhà nớc đóng vai trò cực kỳ quan trọng
trong sự phát triển kinh tế trong hơn 30 năm qua. Sự can thiệp mạnh mẽ của
Chính phủ vào quá trình phát triển kinh tế trong những năm 1960 là sự lựa
chọn tất yếu bởi vì: nhiệm vụ phát triển nhanh kinh tế đặt ra lúc đó không thế
đạt đợc nếu trông cậy vào giới kinh doanh t nhân còn ít vốn và thiếu kinh nghiệm.
Để khuyến khích kinh tế thị trờng và phát triển khu vực kinh tế t nhân,
ngay từ những năm 1968 - 1974, Hàn Quốc đã cổ phần 11 doanh nghiệp nhà
nớc. Năm 1981 - 1983, chơng trình cổ phần hoá lần thứ 2 đợc thực hiện nh là
một bộ phận của việc thực hiện chính sách đẩy mạnh hơn nữa nền kinh tế thị
trờng. Đến tháng 4/1987, Chính phủ Hàn Quốc đã đa ra một kế hoạch cổ phần
hoá với quy mô lớn, trong đó bán toàn bộ hay một phần lớn cổ phần của
Chính phủ trong 10 doanh nghiệp nhà nớc nh: Công ty điện lực Hàn Quốc,
Công ty thép Pohang, để chuyển sang cho khu vực t nhân.
Tổng số thu của Chính phủ Hàn Quốc từ cổ phần hoá trong giai đoạn
1988 - 1992 ớc khoảng 7,1 tỷ USD trên tổng số giá trị cổ phần thực tế của 11
doanh nghiệp nhà nớc đợc chọn để cổ phần hoá là 20,2 tỷ. Qua chính sách cổ
phần hoá của Chính phủ Hàn Quốc cho thấy có một số đặc điểm sau:
- Quy mô của chơng trình cổ phần hoá với số lợng cổ phiếu bán ra rất
lớn. Những doanh nghiệp đợc cổ phần là những doanh nghiệp lớn, hoạt động
sản xuất, kinh doanh trên phạm vi cả nớc, nh Công ty điện lực Hàn Quốc
- Chính phủ bán cổ phần của một số doanh nghiệp nhà nớc cho t nhân,
tạo môi trờng bình đẳng trong cạnh tranh giữa khu vực nhà nớc và khu vực t
nhân nhằm tăng cờng cạnh tranh và nâng cao hiệu quả các hoạt động sản xuất,
kinh doanh. Đồng thời, Chính phủ bán cổ phần của mình trong các ngân hàng
và sở giao dịch chứng khoán Hàn Quốc với mục đích phát triển thị trờng tài
chính và thực hiện cạnh tranh bình đẳng giữa doanh nghiệp nhà nớc và doanh
nghiệp t nhân. Đây là điểm khác biệt về mục tiêu tiến hành cổ phần hoá ở Hàn
Quốc so với các nớc khác.
- Thực hiện chuyển giao một phần sở hữu nhà nớc ở doanh nghiệp
quan trọng cho các tầng lớp nhân dân qua chơng trình cổ phần hoá toàn dân.

Thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc, Chính phủ Hàn Quốc
đặt ra một số mục tiêu sau:
- Mục tiêu quan trọng hàng đầu là nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh
doanh ở các doanh nghiệp đợc cổ phần hoá toàn dân vì chúng là những công
ty lớn, có vị trí chiến lợc trong lĩnh vực công nghiệp. Trong các doanh nghiệp
thực hiện cổ phần hoá toàn dân, Chính phủ vẫn giữ vai trò cổ đông đa số nhằm
buộc doanh nghiệp phải quản lý sản xuất, kinh doanh có hiệu quả.
- Phân phối lợi nhuận của các doanh nghiệp nhà nớc cho ngời có thu
nhập thấp nhằm đạt đến sự công bằng hơn giữa các tầng lớp dân c, chẳng hạn
nh: các cổ phiếu bán cho đối tợng là công nhân viên và ngời nghèo thấp hơn
30% giá trị. Bằng cách thực hiện cổ phần hoá nh vậy, Chính phủ nhằm mục
đích: hữu sản hoá ngời lao động, tạo cho họ có cơ hội cải thiện thu nhập của
mình và tăng cờng sự tham gia của nhân dân vào quản lý doanh nghiệp nhà n-
ớc.
- Thúc đẩy sự phát triển vững chắc thị trờng chứng khoán trong nớc,
tạo điều kiện phân phối vốn hợp lý, hiệu quả.
- Ngăn ngừa khả năng tập trung quyền lực vào một vài nhóm kinh
doanh lớn.
1.3.2, Bài học kinh nghiệm rút ra từ cổ phần hoá ở một số nớc trên
thế giới
1.3.2.1- Xác định quan điểm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà n ớc
Qua kinh nghiệm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc ở Trung Quốc
cho thấy, Trung Quốc dựa trên luận điểm chủ nghĩa Mác để tiến hành cổ phần
hoá doanh nghiệp nhà nớc, coi cổ phần hoá một bộ phận của doanh nghiệp
nhà nớc là một phần hữu cơ trong tổng thể đổi mới doanh nghiệp nhà nớc;
luôn khẳng định đây là con đờng tìm kiếm một cơ chế kinh doanh hiệu quả
đối với doanh nghiệp nhà nớc, chứ không phải là tìm kiếm các hình thức sở
hữu khác nhau; đổi mới doanh nghiệp nhà nớc là khâu then chốt trong cải
cách kinh tế, coi tiền đề cải cách doanh nghiệp là xây dựng đồng bộ cơ chế thị
trờng. Nhà nớc cần nhất quán về cách thức và mục tiêu cổ phần hoá doanh

nghiệp nhà nớc, trên cơ sở đó tạo sự nhất trí cao trong tổ chức thực hiện cổ
phần hoá.
1.3.2.2- Tính đặc thù của quá trình cổ phần hoá.
Mỗi quốc gia có những đặc điểm về hoàn cảnh chính trị, kinh tế - xã
hội cũng nh quan điểm về xây dựng và phát triển nền kinh tế khác nhau. Vì
vậy, quá trình cổ phần hoá ở các nớc có sự khác nhau về mục tiêu, bớc đi,
cách thức thực hiện. Song sự tơng đồng về quá trình cổ phần hoá ở mỗi nớc
chủ yếu là những vấn đề có tính kỹ thuật về tài chính, phơng pháp và các điều
kiện thực hiện, vì vậy, khi vận dụng kinh nghiệm của các nớc phải hết sức chú
ý đến đặc thù này.
1.3.2.3- Xây dựng môi tr ờng pháp lý trong quá trình cổ phần hoá.
Cùng với xây dựng và hoàn thiện toàn bộ môi trờng cho sản xuất kinh
doanh nói chung, ở tất cả các nớc đều rất chú trọng xây dựng và hoàn thiện
môi trờng pháp lý cho quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc đợc thuận
lợi. Đó là các bộ luật quan trọng đóng vai trò nh là những điều kiện để tạo lập
và ổn định kinh tế vĩ mô, tạo ra khung pháp lý cho sự chuyển hoá và hoạt
động của các doanh nghiệp nhà nớc đợc cổ phần hoá và các công ty nói
chung.
1.3.2.4- Lựa chọn hình thức và ph ơng pháp cổ phần hoá thích hợp để
đạt đ ợc mục tiêu đã xác định.
Trung Quốc tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc theo thứ tự
doanh nghiệp có quy mô nhỏ thực hiện trớc, quy mô vừa và lớn làm sau, gắn
với thành lập tập đoàn công ty cổ phần. Điều đó xuất phát từ quan điểm cho
rằng, các doanh nghiệp nhỏ ít vốn, ít lao động, có bộ máy quản lý gọn, quy
mô sản xuất không lớn nên dễ thống nhất đợc nhận thức về cổ phần hoá, dễ
xác định tài sản và phân phối cổ phần. Mặt khác, cổ phần hoá doanh nghiệp
nhà nớc là công việc mới mẻ, nếu cổ phần hoá ngay các doanh nghiệp lớn e
không đủ kinh nghiệm cần thiết và do vậy có thể không đạt đợc mục tiêu, gây
tâm lý tiêu cực đối với cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc. Hơn nữa, việc tiến
hành cổ phần hoá doanh nghiệp nhỏ cho phép rút ra bài học, kinh nghiệm để

cổ phần hoá các doanh nghiệp vừa và lớn đạt đợc kết quả mong muốn.
Về hình thức cổ phần hoá, Trung Quốc lựa chọn 3 hình thức sau đây:
- Doanh nghiệp nhà nớc cùng các doanh nghiệp trong nền kinh tế tham
gia nắm giữ cổ phiếu, hình thành công ty cổ phần.
Hình thức này có lợi cho việc hợp tác kinh tế theo chiều ngang, có lợi
cho việc di chuyển hợp lý và kết hợp tối u các yếu tố sản xuất nên phát triển
nhanh.
- Bán cổ phiếu cho ngời lao động trong nội bộ doanh nghiệp.
Hình thức này nhằm phát huy vai trò làm chủ của ngời lao động, nhng
nó cũng có thể làm nảy sinh mâu thuẫn giữa thu nhập trớc mắt của họ với sự
phát triển lâu dài của doanh nghiệp.
- Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc bằng cách phát hành công khai
cổ phiếu ra xã hội, trong đó có doanh nghiệp trực tiếp phát hành cổ phiếu ra
thị trờng để tập trung vốn, có doanh nghiệp phát hành qua hệ thống ngân
hàng.
1.3.2.5- Thành lập cơ quan cổ phần và sở hữu cổ phần nhà n ớc.
Đây là cơ quan thay mặt chính phủ trực tiếp tổ chức, chỉ đạo việc tiến
hành cổ phần hoá, thẩm gia giá trị doanh nghiệp để đa ra tổ chức đấu thầu,
đồng thời nó còn giải quyết hậu quả sau khi cổ phần hoá, quản lý vốn của nhà
nớc sau khi doanh nghiệp nhà nớc chuyển thành công ty cổ phần. Cùng với
việc đó, các nớc đều thành lập hệ thống các tổ chức tài chính để phục vụ cổ
phần hoá.
Riêng ở Trung Quốc, rất coi trọng công tác tuyên truyền giáo dục
thông qua nhiều hình thức để đi đến thống nhất nhận thức về cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nớc. Phát động nhân dân phát huy quyền làm chủ, sáng tạo;
không áp đặt cũng không buông lỏng quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà
nớc; khuyến khích các doanh nghiệp làm tốt, xử lý các doanh nghiệp làm sai
pháp luật.
1.3.2.6- Xây dựng quy trình cổ phần hoá và tuân thủ theo quy trình
này.

Quy trình cổ phần hoá thờng gồm các bớc sau:
- Xác định danh sách các doanh nghiệp nhà nớc đủ điều kiện cổ phần
hoá.
- Xác định chính xác tài sản thực tế của doanh nghiệp.
- Tuyên truyền quảng cáo, hoàn thiện chính sách, chuẩn bị đầy đủ điều
kiện giúp mọi ngời nắm đợc đầy đủ thực chất hoạt động của doanh nghiệp và
có quyết định mua cổ phiếu.
- Lựa chọn phơng thức bán cổ phiếu nh: bán rộng rãi hay bán cho đối
tợng xác định; bán theo giá u đãi cho ngời của doanh nghiệp.
- Giải quyết các vấn đề của xã hội sau cổ phần hoá.
1.3.2.7- Chính phủ phải dành một khoản kinh phí nhất định cho cổ
phần hoá doanh nghiệp nhà nớc, đồng thời cần giải quyết tốt các vấn đề xã hội
khi chuyển doanh nghiệp nhà nớc thành công ty cổ phần, nh vấn đề việc làm,
thu nhập của ngời lao động, phúc lợi xã hội, vấn đề lợi tức
1.3.2.8- Tốc độ tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc phụ
thuộc vào mức độ phát triển nền kinh tế thị trờng. Quốc gia có nền kinh tế thị
trờng đã phát triển, thị trờng chứng khoán đã đi vào hoạt động nề nếp, khu vực
kinh tế t nhân đã mạnh thì quá trình cổ phần hoá ở các quốc gia đó diễn ra
thuận lợi hơn.
Tóm lại, kinh nghiệm của các nớc cho chúng ta thấy những bài học
thành công và cả những vấn đề vớng mắc trong quá trình cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nớc. Những bài học thiết thực đối với chúng ta đó là:
Sự quyết tâm của Chính phủ trong việc thực hiện cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nớc; có nhận thức đúng vai trò và sự cần thiết của cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nớc để tạo nên sự thống nhất trong tổ chức thực hiện; mục
tiêu, phơng pháp, bớc đi trong tiến hành cổ phần hoá cần phải đợc xác định cụ
thể, rõ ràng và phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đất nớc; xây dựng khung
pháp lý cho cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc đợc tiến hành thuận lợi, đặc
biệt coi trong chính sách xã hội, nhất là chính sách đối với ngời lao động tại
doanh nghiệp nhà nớc cổ phần hoá; xây dựng năng lực tổ chức điều hành của

cơ quan thuộc chính phủ đủ sức thực hiện nhiệm vụ trong quá trình cổ phần
hoá ở doanh nghiệp nhà nớc.
Phần thứ hai
thực trạng cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nớc ở Việt Nam
2.1- Chủ tr ơng, chính sách của Đảng và Nhà n ớc về cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà n ớc.
Trong những năm 80 của thế kỷ 20, nền kinh tế đất nớc trong tình
trạng khủng hoảng nghiêm trọng, hoạt động của các doanh nghiệp nhà nớc đã
bộc lộ nhiều yếu kém do nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu bất cập về cơ
chế quản lý doanh nghiệp. Chính vì vậy, việc đổi mới, sắp xếp lại hệ thống
doanh nghiệp nhà nớc là một đòi hỏi tất yếu.
Ngay từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20, cùng với việc đổi mới các chính
sách kinh tế - xã hội, Đảng ta đã sớm có chủ trơng chuyển một bộ phận doanh
nghiệp nhà nớc thành công ty cổ phần cụ, cụ thể nh sau:
- Nghị quyết hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ơng Đảng khoá
VII (tháng 12/1991) nêu rõ: "chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều
kiện thành công ty cổ phần và thành lập một số công ty quốc doanh cổ phần
mới, phải làm thí điểm, chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu đáo trớc khi mở
rộng phạm vi thích hợp".
Nghị quyết Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII
(tháng 11/1994) đã nêu mục đích, hình thức cổ phần hoá và mức độ sở hữu
nhà nớc tại doanh nghiệp nhà nớc cổ phần hoá: "Để thu hút thêm vốn, tạo
thêm động lực, ngăn chặn tiêu cực, thúc đẩy doanh nghiệp nhà nớc làm ăn có
hiệu quả, cần thực hiện các hình thức cổ phần hoá có mức độ thích hợp với
tính chất và lĩnh vực sản xuất, kinh doanh; trong đó sở hữu nhà nớc chiếm tỷ
lệ cổ phần chi phối".
Nghị quyết số 10 - NQ/TW ngày 17/03/1995 của Bộ Chính trị về tiếp
tục đổi mới để phát huy vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nớc đã bổ sung
thêm về phơng châm tiến hành cổ phần hoá, tỷ lệ bán cổ phần cho ngời trong

và ngoài doanh nghiệp: "Thực hiện từng bớc vững chắc cổ phần hoá một bộ
phận doanh nghiệp mà Nhà nớc không cần giữ 100% vốn. Tuỳ tính chất, loại
hình doanh nghiệp để tạo động lực bên trong trực tiếp thúc đẩy phát triển và
bán cổ phần cho các tổ chức hay cá nhân ngoài doanh nghiệp để thu hút thêm
vốn, mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh".
- Trong kết luận của Bộ Chính trị (văn bản số 301 - BBK/BCT, ngày
12/09/1995) về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1996 - 2000 đã bổ
sung thêm mục tiêu giữ vững định hớng xã hội chủ nghĩa của cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nớc và phân loại doanh nghiệp nhà nớc để cổ phần hoá.
- Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của đảng (tháng
6/1996) đã chỉ rõ: "Tổng kết kinh nghiệm, hoàn chỉnh khuôn khổ pháp luật để
triển khai tích cực, vững chắc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc nhằm huy
động thêm vốn, tạo động lực mới thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả,
làm tài sản Nhà nớc ngày một tăng lên, là sự kết hợp kinh tế nhà nớc với kinh
tế nhân dân để phát triển đất nớc chứ không phải để t nhân hoá. Bên cạnh
những doanh nghiệp 100% vốn nhà nớc, sẽ có nhiều doanh nghiệp mà Nhà n-
ớc nắm cổ phần chi phối. Gọi thêm cổ phần hoặc bán cổ phần cho ngời lao
động tại doanh nghiệp, cho các tổ chức và cá nhân ngoài doanh nghiệp tuỳ tr-
ờng hợp cụ thế; vốn thu phải đợc dùng để đầu t sản xuất, kinh doanh".
- Trên cơ sở đánh giá tiến trình cổ phần hoá, ngày 4/4/1997 Bộ Chính
trị ra thông báo số 63/TB - TW yêu cầu các cấp uỷ Đảng và chính quyền phải
quán triệt và tuyên truyền, giải thích trong nhân dân chủ trơng, chính sách của
Đảng về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc, có chính sách khuyến khích ngời
lao động tại doanh nghiệp cổ phần hoá mua cổ phần, hỗ trợ công nhân nghèo
mua cổ phần nhằm góp phần xoá đói giảm nghèo; cấp cho ngời lao động trong
doanh nghiệp cổ phần hoá một số cổ phần tuỳ theo thời gian cống hiến của
mỗi ngời; có cơ chế để hàng năm gọi thêm cổ phần. Đồng thời, yêu cầu phải
tăng cờng vai trò của các tổ chức Đảng, tổ chức quần chúng tại các doanh
nghiệp cổ phần hoá; tiến hành phân loại doanh nghiệp nhà nớc để lựa chọn
doanh nghiệp cổ phần hoá; áp dụng các hình thức cổ phần hoá đa dạng, phù

hợp với từng điều kiện cụ thể; hoàn chỉnh các chính sách về cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nớc.
- Hội nghị lần thứ t Ban chấp hành Trung ơng Đảng khoá VIII (thánh
12/1997) nêu rõ giải pháp cổ phần hoá nh sau: "Phân loại doanh nghiệp công
ích và doanh nghiệp kinh doanh, xác định danh mục loại doanh nghiệp cần giữ
100% vốn nhà nớc, loại doanh nghiệp nhà nớc cần nắm giữ cổ phần chi phối,
loại doanh nghiệp nhà nớc chỉ cần nắm giữ cổ phần ở mức thấp" và "Đối với
doanh nghiệp nhà nớc mà nhà nớc không cần nắm 100% vốn cần lập kế
hoạch cổ phần hoá để tạo động lực phát triển, thúc đẩy làm ăn có hiệu quả".
Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ơng Đảng khoá
IX nêu rõ định hớng cổ phần hoá đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh
là: "Nhà nớc giữ cổ phần chi phối hoặc giữ 100% vốn đối với doanh nghiệp
nhà nớc hoạt động sản xuất kinh doanh trong các ngành và lĩnh vực: bán buôn
lơng thực, bán buôn xăng dầu, sản xuất điện, khai thác khoáng sản quan trọng,
sản xuất một số sản phẩm cơ khí, điện tử, công nghệ thông tin, sản xuất kim
loại đen, kim loại màu, sản xuất hoá chất cơ bản, phân hoá học, thuốc bảo vệ
thực vật, sản xuất xi măng, công nghiệp xây dựng, sản xuất một số hàng tiêu
dùng và công nghiệp thực phẩm quan trọng, sản xuất hoá dợc, thuốc chữa
bệnh, vân tải hàng không, đờng sắt, viễn dơng, kinh doanh tiền tệ, bảo hiểm,
xổ số kiến thiết, dịch vụ viễn thông cơ bản; chủ yếu là các doanh nghiệp có
quy mô lớn, có đóng góp lớn cho ngân sách, đi đầu trong việc ứng dụng công
nghệ mũi nhọn, công nghệ cao và góp phần ổn định kinh tế vĩ mô". Đồng thời
"chuyển các doanh nghiệp mà Nhà nớc giữ 100% vốn sang hình thức công ty
trách nhiệm hữu hạn một chủ sở hữu là nhà nớc hoặc công ty cổ phần gồm các
cổ đông là các doanh nghiệp nhà nớc".
Với doanh nghiệp hoạt động công ích, Nghị quyết này chỉ rõ định h-
ớng cổ phần hoá là: "Nhà nớc giữ 100% vốn hoặc cổ phần chi phối đối với
những doanh nghiệp hoạt động công ích đang hoạt động trong các lĩnh vực:
kiểm định kỹ thuật phơng tiện giao thông cơ giới; xuất bản sách giáo khoa;
sách báo chính trị; phim thời sự và tài liệu; quản lý và bảo trì hệ thống đờng

sắt quốc gia, sân bay; quản lý thuỷ nông đầu nguồn; trồng và bảo vệ rừng đầu
nguồn; thoát nớc ở đô thị lớn; ánh sáng đờng phố; quản lý, bảo vệ hệ thống đ-
ờng bộ, bến xe, đờng thuỷ quan trọng; sản xuất sản phẩm và cung ứng các
dịch vụ khác theo quy định của Chính phủ".
Nh vậy, chủ trơng của Đảng về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc là
nhất quán và ngày càng đợc cụ thế hoá về mục tiêu, phơng thức, đối tợng và
giải pháp cổ phần hoá.
Căn cứ vào các Nghị quyết của Đảng, Chính phủ đã từng bớc có các
văn bản chỉ đạo tổ chức thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc, cụ thể
nh sau:
Ngày 8/6/1992, Chủ tịch Hội đồng Bộ trởng (nay là Chính phủ) đã ban
hành Quyết định số 202/CT về việc tiếp tục thí điểm chuyển một số doanh
nghiệp nhà nớc thành công ty cổ phần. Trong đó nêu rõ: chọn 7 doanh nghiệp,
đồng thời giao nhiệm vụ cho mỗi Bộ, Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ơng chọn từ 1 đến 2 doanh nghiệp để tổ chức thí điểm chuyển
thành công ty cổ phần.
Ngày 4/3/1993 Thủ tớng Chính phủ có chỉ thị số 84/TTg về việc xúc
tiến thực hiện thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc và các giải pháp đa
dạng hoá hình thức sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nớc.
Qua một thời gian thực hiện thí điểm, trên cơ sở đánh giá các u điểm
và vớng mắc của quá trình cổ phần hoá, ngày 7/5/1996 Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 28/CP về việc chuyển một số doanh nghiệp nhà nớc thành công
ty cổ phần. Sau đó, ngày 26/3/1997 Chính phủ đã ban hành Nghị định số
25/CP về việc sửa đổi một số điều của Nghị quyết số 28/CP để giải quyết một
số vớng mắc nảy sinh trong quá trình cổ phần hoá.
Để đẩy nhanh hơn nữa quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc,
ngày 29/6/1998 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 44/CP về việc chuyển
doanh nghiệp nhà nớc thành công ty cổ phần, thay thế cho Nghị định số 28/CP
và 25/CP nêu trên.
Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc là công tác hoàn toàn mới mẻ đối

với nớc ta, không những chỉ nhằm nâng cao hiệu quả và thay đổi cơ cấu doanh
nghiệp mà còn phải đảm bảo định hớng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, Chính phủ
đã chỉ đạo các bộ chức năng nghiên cứu ban hành nhiều văn bản hớng dẫn
phục vụ yêu câù thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc và từng bớc bổ
sung, hoàn thiện các cơ chế chính sách đáp ứng yêu cầu nhiều mặt của quá
trình cổ phần hoá.
Thực hiện định hớng sắp xếp, phát triển doanh nghiệp nhà nớc và thực
hiện chủ trơng đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc mà Hội nghị lần
thứ ba Ban chấp hành Trung ơng (khoá IX) đa ra, ngày 19/6/2002 chính phủ
đã ban hành Nghị định số 64/2002/NĐ-CP về việc chuyển doanh nghiệp nhà
nớc thành công ty cổ phần, thay thế Nghị định số 44/1998/NĐ-CP. Đây là một
bớc tiến nữa nhằm tạo ra khung pháp lý thuận lợi hơn cho cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nớc ở nớc ta.
2.2- Quá trình thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà n ớc ở Việt
Nam.
Từ khi có chủ trơng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc của Đảng và
Chính phủ đến nay, quá trình cổ phần hoá có thể phân chia làm 3 giai đoạn:
giai đoạn thí điểm cổ phần hoá, giai đoạn mở rộng cổ phần hoá và giai đoạn
thúc đẩy cổ phần hoá.
2.2.1- Giai đoạn thí điểm (6/1992 - 5/1996)
Ngày 8/6/1992 Chủ tịch Hội đồng Bộ trởng ra Quyết định số 202/CP,
chỉ đạo tiếp tục khai triển việc tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc
thành công ty cổ phần. Đây có thể coi là điểm mốc Việt Nam bớc vào giai
đoạn thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc.
Thực hiện Quyết định này, trong chỉ thị 84/TTg ngày 4/3/1993 Chính
phủ đã chọn 7 doanh nghiệp làm thí điểm chuyển thành công ty cổ phần và 19
doanh nghiệp nhà nớc để các Bộ và địa phơng trực tiếp tiến hành cổ phần hoá.
Sau một thời gian tiến hành làm thử, cả 7 doanh nghiệp nhà nớc đợc Chính
phủ chọn làm thí điểm đều xin rút. Trong số 19 doanh nghiệp nhà nớc do Bộ
và địa phơng chỉ đạo cổ phần hoá, chỉ có 5 doanh nghiệp thực hiện cổ phần

hoá. Nh vậy, đến tháng 5/1996 cả nớc chỉ có 5 doanh nghiệp đợc chuyển
thành công ty cổ phần, trong đó 3 thuộc Bộ và 2 doanh nghiệp nhà nớc thuộc
địa phơng đợc cổ phần hoá. Các doanh nghiệp thí điểm cổ phần hoá đều là
những doanh nghiệp mới đợc thành lập, có quy mô vừa và nhỏ, chủ yếu sản
xuất hàng hoá và dịch vụ trong lĩnh vực không quan trọng.
Tóm lại, việc triển khai thí điểm cổ phần hoá còn quá chậm, không đạt
yêu cầu mong muốn. Đây là giai đoạn đầy khó khăn vì cơ chế vận hành của
công ty cổ phần và cổ phần hoá là vấn đề rất mới ở Việt Nam.
2.2.2- Giai đoạn mở rộng cổ phần hoá (5/1996 - 6/1998)
Rút kinh nghiệm giai đoạn thí điểm, từ tổng kết thực tiễn, chính phủ
đã ban hành Nghị định 28/CP ngày 7/5/1996 về việc chuyển một số doanh
nghiệp nhà nớc thành công ty cổ phần thay thế Quyết định 202/CP.
Theo Nghị định 28/CP, Nhà nớc ta chủ trơng mở rộng cổ phần hoá đến
tất cả các doanh nghiệp nhà nớc mà xét thấy không cần nắm giữ 100% vốn,
tập trung chủ yếu vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tất cả các ngành và các
địa phơng. Hình thức cổ phần hoá đợc bổ sung thêm, phơng thức định giá đã
xây dựng cụ thể hơn, các u đãi cho doanh nghiệp sau cổ phần hoá và cho ngời
lao động cũng đợc quy định cụ thể hơn.
Sau hai năm thực hiện, vẫn tồn tại tình hình là số doanh nghiệp đăng
ký thì nhiều (có trên 200 doanh nghiệp đăng ký cổ phần hoá, chiểm 3% số
doanh nghiệp hiện có), nhng trong quá trình thực hiện có gần 88% số doanh
nghiệp đã đăng ký lại xin rút không thực hiện cổ phần hoá. Kết quả chỉ có 25
doanh nghiệp nhà nớc tiến hành hoàn chỉnh cổ phần hoá; trong đó có 12
doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp và xây dựng, 3 doanh nghiệp thuộc
ngành giao thông vận tải, 3 doanh nghiệp thuộc ngành chế biến nông lâm thuỷ
sản và 7 doanh nghiệp thuộc ngành dịch vụ. Tổng số vốn điều lệ của 25 doanh
nghiệp khoảng 244 tỷ đồng, trong đó bình quân chung Nhà nớc sở hữu 36%,
ngời lao động 42% và cổ đông ngoài doanh nghiệp 22%. Về quy mô: 1 doanh
nghiệp có vốn 120 tỷ đồng, 5 doanh nghiệp có vốn hơn 10 tỷ đồng. Trong số
25 doanh nghiệp này có 1 doanh nghiệp Nhà nớc không nắm giữ cổ phần là

Công ty đầu t sản xuất và thơng mại Hà Nội.
Sau khi cổ phần hoá, các doanh nghiệp đều hoạt động có hiệu quả cao
hơn trớc: vốn điều lệ (kể cả vốn nhà nớc) tăng bình quân 19,05%/năm, doanh
thu tăng bình quân 46%/năm, lợi nhuận tăng bình quân 44%/năm, các khoản
nộp ngân sách tăng 82%/năm, thu nhập ngời lao động tăng 14,3%/năm. Thành
tựu cổ phần hoá đã tác động mạnh mẽ đến ngời lao động, khuyến khích nhiệt
tình của ngời lao động. Tuy nhiên, quá trình cổ phần hoá còn chậm và gặp
phải những khó khăn, vớng mắc về pháp lý, chẳng hạn quy định xác định giá
trị doanh nghiệp nh Nghị định 28/CP là cha phù hợp với nguyên tắc thị trờng,
hoặc quy định không đợc chuyển nhợng cổ phiếu cho không là quá cứng nhắc.
Thực tế đó đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới chính sách cổ phần hoá theo hớng
thông thoáng, tích cực hơn nữa.
2.2.3- Giai đoạn thúc đẩy cổ phần hoá từ 6/1998 đến nay.
Mốc khởi đầu giai đoạn này là sự ra đời Nghị định số 44/CP
(29/6/1998) thay thế cho Nghị định 28/CP. Nhìn chung Nghị định số 44/CP đa
ra nhiều u đãi hơn cho doanh nghiệp nhà nớc cổ phần hoá, thay đổi cách bán
cổ phiếu u đãi cho ngời lao động cũng nh bổ sung một số điều kiện cụ thể cho
cách định giá doanh nghiệp. Cùng với Nghị định 44/CP là việc Chính phủ ban
hành danh mục phân loại doanh nghiệp nhà nớc, theo đó có hơn 60% số doanh
nghiệp nhà nớc hiện có thuộc diện chuyển đổi sở hữu, đa số trong số doanh
nghiệp này thuộc diện cổ phần hoá. Chính sách về cổ phần hoá doanh nghiệp
nhà nớc phù hợp hơn với thực tế nớc ta, nên trong 6 tháng cuối năm 1998 và
cả năm 1999, tốc độ cổ phần hoá đợc đẩy nhanh. Tính đến cuối năm 1999 đã
cổ phần hoá đợc 370 doanh nghiệp với tổng số vốn điều lệ là 2.067 tỷ đồng,
trong đó vốn nhà nớc là 635 tỷ đồng (30,7%), vốn của ngời lao động và cổ
đông ngời doanh nghiệp là 1.432 tỷ đồng (69,3%).
Năm 2000, tốc độ cổ phần hoá có chững lại nhng cả năm cũng cổ phần
hoá đợc 250 doanh nghiệp, đa số doanh nghiệp nhà nớc đã cổ phần hoá lên
620 doanh nghiệp, phân bố gần đều khắp các ngành, địa phơng và tổng công
ty, trong số 620 doanh nghiệp đã cổ phần hoá tính đến 31/12/2000, số doanh

nghiệp có vốn điều lệ lớn hơn 10 tỷ đồng chiếm 13%, từ 5 - 10 tỷ đồng chiếm
20%, còn lại (67%) là doanh nghiệp nhỏ có vốn dới 5 tỷ đồng. Quy mô vốn
của các doanh nghiệp cổ phần hoá rất khác nhau. Có những doanh nghiệp khá
lớn nh Công ty cổ phần đờng Lam Sơn vốn điều lệ 150 tỷ đồng, Công ty cổ
phần cáp và vật liệu bu chính viễn thông: 120 tỷ đồng, nhng cũng có nhiều
công ty vốn chỉ vài trăm triệu đồng, thậm chí vài chục triệu đồng, nh Công ty
cổ phần vật liệu xây dựng Quảng Xơng: 75 triệu đồng, Công ty cổ phần cá
Sông Thao: 95 triệu đồng,
Đến tháng 5/2001, cả nớc đã cổ phần hoá đợc 631 doanh nghiệp nhà
nớc (529 doanh nghiệp và 102 bộ phận doanh nghiệp), bằng 11% tổng số
doanh nghiệp nhà nớc hiện có; với số vốn chiếm 1,97% tổng số vốn nhà nớc
trong các doanh nghiệp nhà nớc; đã thu hút thêm 1.736 tỷ đồng vốn của ngời
lao động và ngoài xã hội.
Tính đến tháng 6/2002, số doanh nghiệp nhà nớc thực hiện cổ phần
hoá trên cả nớc đạt gần 890, chiếm trên 14% tổng số doanh nghiệp nhà nớc
đang hoạt động, nhng số vốn cũng chỉ chiếm khoảng 2% tổng số vốn nhà nớc

×