Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.22 KB, 20 trang )

Trờng đại học kinh tế quốc dân
Khoa sau đại học
Tiểu luận kinh tế chính trị
Đề tài : Định hớng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế nhiều
thành phần trong thời kì quá độ ở việt nam.
Giảng viên hớng dẫn: TS Đào Phơng Liên
Ngời thực hiện: Nguyễn Văn Đức
Lớp: Cao học QTKD
Hà nội
Lời nói đầu
Trong giai đoạn hiện nay, Việt nam đang hội tụ đầy đủ những yếu tố
cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của kinh tế hàng hoá. Tuy nhiên,. nền
kinh tế của việt nam khi chuyển sang kinh tế nhiều thành phần định hớng xã
hội chủ nghĩa vẫn ở trong giai đoạn sơ khai, cha đạt đến trình độ của một nền
kinh tế hiện đại. Do vậy, định hớng xã hội chủ nghĩa của kinh tế nhiều thành
phần ở Việt Nam có những đặc trng riêng của nó. Để làm rõ vấn đề này nội
dung tiểu luận với đề tài Định hớng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế
nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam nh sau:
1. Tính tất yếu khách quan tồn tại nhiều thành phần kinh tế trong thời
kỳ quá độ.
2. Bản chất các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam.
3. Mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ ở
Việt Nam.
4. Một số giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy quá trình hình thành và
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hớng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam.
1. Tính tất yếu khách quan tồn tại nhiều thành phần kinh tế trong
thời kỳ quá độ.
Nền kinh tế thời kỳ quá độ tồn tại nhiều thành phần kinh tế là vì :
Thứ nhất, khoi gai cấp công nhân và nhân dân lao động giành đợc
chính quyền, tiếp quản nền kinh tế chủ yếu dựa trên chế độ t hữu về t liệu sản


xuất. Thực tế có hai loại t hữu: t hữu lớn: nhà máy, hầm mỏ, doanh nghiệp,
đồn điền của các chủ t bản trong và ngoài nớc, đó là kinh tế t bản chủ nghĩa,
và t hữu nhỏ: gồm những ngời nông dân cá thể, thở thủ công cá thể, những ng-
ời buôn bán nhỏ, đó là sản xuất nhỏ cá thể.
Thái độ của chính quyền mới đối với hai loại t hữu trên là khác nhau.
Đối với t hữu lớn, kinh tế t bản t nhân, chỉ có phơng pháp duy nhất là quốc
hữu hoá. Lý luận về quốc hữu hoá của chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định,
không nên quốc hữu hoá ngay một lúc, mà phải đợc tiến hành từ từ theo từng
giai đoạn, bằng hình thức và phơng pháp nào là tuỳ điều kiện cụ thể, cho nên
những doanh nghiệp thuộc TPKT t bản chủ nghĩa còn tồn tại nh một tất yếu
kinh tế, đồng thời hớng chủ nghĩa t bản vào con đờng t bản Nhà nớc, hình
thành TPKT t bản Nhà nớc.
Đối với t hữu nhỏ thì chỉ có thông qua con đờng hợp tác hoá, theo
nguyên tắc mà VI.Lênin vạch ra là tự nguyện, quản lý dân chủ cùng có lợi,
đồng thời tuân theo các quy luật khách quan, phải kiên trì thuyết phục, chờ
đợi họ. Do đó, trong thời kỳ quá độ còn tồn tại TPKT cá thể, tiểu chủ.
Hơn nữa, các thành phần kinh tế cũ do lịch sử để lại, chúng còn có vai
trò, chức năng, nhiệm vụ, còn có khả năng phát triển, do đó phải để cho tồn tại
và quan trọng hơn là tạo điều kiện cho chúng tồn tại và phát triển. Nhận thức
và hành động nh vậy là phù hợp với quy luật khách quan, phù hợp với lợi ích
kinh tế của các giai tầng trong xã hội, góp phần ổn định sản xuất và đời sống.
Vì thế Nhà nớc bằng đờng lối và các chính sách, luật pháp, cơ chế, biện
pháp khuyến khích kinh tế t nhân phát triển, góp phần tăng trởng và phát
triển kinh tế - xã hội.
Thứ hai, sự phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia, do đặc điểm lịch sử, điều
kiện chủ quan và khách quan nên tất yếu có sự phát triển không đều về lực l-
ợng sản xuất giữa các ngành, các vùng, các doanh nghiệp. Chính sự phát triển
không đều đó quyết định quan hệ sản xuất, trớc hết là hình thức, quy mô và
quan hệ sở hữu phù hợp với nó, nghĩa là tồn tại những quan hệ sản xuất không
giống nhau. Đó là cơ sở hình thành các thành phần kinh tế khác nhau.

Thứ ba, đề phát triển và tăng trởng kinh tế, củng cố và phát triển hệ
thống chính trị, xã hội. Nhà nớc xây dựng hệ thống những cơ sở kinh tế mới,
cùng với kết quả của quá trình quốc hữu hoá, hình thành TPKT Nhà nớc.
Thứ t, trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế, thông qua hợp tác và đầu t
nớc ngoài. Nhà nớc cùng các nhà t bản, các Công ty trong và ngoài nớc, cùng
đầu t, hình thành kinh tế t bản Nhà nớc.
Việc nhận thức và tổ chức thực hiện trên thực tế các TPKT trong thời kỳ
quá độ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn.
2. Bản chất các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ ở Việt
Nam.
Đại hội lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định nớc ta hiện
nay có các TPKT sau:
2.1.Thành phần kinh tế Nhà nớc.
Thành phần kinh tế Nhà nớc (TPKTNN) là những đơn vị, tổ chứec trực
tiếp sản xuất kinh doanh hoặc phục vụ sản xuất, kinh doanh mà toàn bộ nguồn
lực thuộc sở hữu Nhà nớc, hoặc phần vốn của Nhà nớc chiếm tỷ lệ khống chế.
Kinh tế Nhà nớc (KTNN) bao gồm các doanh nghiệp Nhà nớc (kinh tế
quốc doanh), các tài sản thuộc sở hữu Nhà nớc (đất đai, tài nguyên, các quỹ
dự trữ ngân hàng Nhà nớc, ngân sách, dự trữ quốc gia, kết cấu hạ tầng kinh tế
- xã hội )
Nh vậy, các doanh nghiệp Nhà nớc (kinh tế quốc doanh) đó là
TPKTNN (trớc kia gọi là TPKT quốc doanh) chỉ là một bộ phận chủ yếu nhất
là KTNN. Nghĩa là phạm trù KTNN rộng hơn phạm trù TPKTNN.
Cần phân biệt sở hữu Nhà nớc với TPKTNN. Phạm trù sở hữu Nhà nớc
rộng hơn phạm trù TPKTNN. TPKTNN trớc hết phải thuộc sở hữu Nhà nớc.
Nhng sở hữu Nhà nớc có thể do các TPKT khác sử dụng. Ví dụ: đất đai, Nhà
nớc đại biểu cho toàn dân sở hữu, nhng kinh tế hộ, hợp tác xã nông nghiệp,
các doanh nghiệp thuộc các TPKT khác sử dụng. Ngợc lại, thuộc sở hữu Nhà
nớc không phải là TPKTNN, chẳng hạn Nhà nớc góp vốn cổ phần chiếm tỷ lệ
thấp vào các doanh nghiệp thuộc các TPKT khác, thông qua liên doanh, liên

kết.
TPKTNN trớc hết là các doanh nghiệp Nhà nớc và doanh nghiệp cổ
phần đợc hình thành trên cơ sở:
Nhà nớc đầu t xây dựng
Quốc hữu hoá các doanh nghiệp t bản t nhân.
Góp cổ phần khống chế với các doanh nghiệp của các TPKT khác.
Ngoài ra, với bản chất Nhà nớc xã hội chủ nghĩa, Nhà nớc xác định đất
đai, tài nguyên thiên nhiên, ngân sách, các quỹ của Nhà nớc, cơ sở hạ tầng
kinh tế - xã hội do Nhà n ớc nắm giữ, chi phối, để điều tiết, định hớng sự
phát triển kinh tế - xã hội.
TPKTNN thuộc sở hữu Nhà nớc, sản xuất kinh doanh theo nguyên tắc
hạch toán kinh tế, thực hiện phân phối theo lao động và hiệu quả sản xuất kinh
doanh. Theo chủ trơng của Đảng ta, TPKTNN cần tập trung vào những ngành,
lĩnh vực trọng yếu nh kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, những cơ sở nh sản xuất
kinh doanh, thơng mại, dịch vụ quan trọng, những cơ sở kinh tế phục vụ an
ninh quốc phòng và vấn đề xã hội, để đảm bảo những cân đối lớn, chủ yếu của
nền kinh tế và thực hiện vai trò kinh tế của mình.
Quan niệm về vai trò của thành phần kinh tế Nhà nớc.
Trên thế giới nói chung cũng nh ở nớc ta, vai trò của thành phần kinh tế
Nhà nớc có tính ổn định tơng đối, tuỳ thời gian và tuỳ tình hình mà vai trò của
nó biến đổi phù hợp với bản chất của Nhà nớc.
Dới đây, đề cập đến các vai trò chủ yếu hiện nay của thành phần kinh tế
Nhà nớc ở nớc tra.
Thứ nhất, vai trò mở rộng của kinh tế Nhà nớc
Mở đờng, hớng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.
Thuộc sở hữu Nhà nớc và là công cụ để Nhà nớc quản lý vĩ mô nền kinh
tế, thành phần kinh tế Nhà nớc cần thiết và hoàn toàn có khả năng thực hiện
vai trò này.
Mở đờng: đi xung kích, tiên phong, khai thác và nêu tấm gơng. Thành
phần kinh tế Nhà nớc cần phải mở đờng các lĩnh vực sau:

1. Xây dựng mới, nâng cấp, cải tạo, mở rộng cơ sở hạ tầng phục vụ cho
sản xuất và cuộc sống nh: giao thông (đờng sá, cầu, cống) điện, thông tin liên
lạc, nớc sạch, các công trình công cộng khác phụcvụ cho sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá
Việc xây dựng cơ sở hạ tầng đòi hỏi vốn lớn, thời gian thi công dài,
hiệu quả thu hồi vốn thấp hoặc cap cấp. Vì thế, thông thờng nhiệm vụ đó đặt
lên vai kinh tế Nhà nớc và thành phần kinh tế Nhà nớc để khắc phục sự lạc
hậu của kết cấu hạ tầng và tạo nền tảnh cho nền kinh tế.
Thực hiện nhiệm vụ này, Nhà nớc cần phải xây dựng quy hoạch kế
hoạch một cách khoa học và khả thi.
Vấn đề đặt ra cần cân nhắc tính toán, thảo luận dân chủ trong khi thực
hiện và xác định những hạng mục công trình nào cần đầu t dứt điểm bằng khả
năng hiện có (tăng tỷ lệ đầu tn GDP và vốn vay), tránh dàn trải vốn, vốn
không giải ngân đợc, lãng phí, thất thoát, chất lợng và hiệu quả thấp.
Trớc mắt, cần tập trung vốn và các nguồn lực khác, khắc phục sự xuống
cấp của các tuyến giao thông và các cơ sở kinh tế hiện có. Đồng thời phân cấp
và xác định nhiệm vụ rõ ràng trong quá trình thực hiện.
Trong tổ chức thực hiện cần lựa chọn các phơng thức phù hợp nh đấu
thầu, khoán, liên doanh liên kết với bên ngoài, Nhà nớc và nhân dân cùng
làm
2. Tập trung nghiên cứu để xây dựng mới và cải tạo, bô sung, và giúp
đỡ các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác sản xuất những hàng
hoá và các ngành kinh tế mũi nhọn mà trong nớc có lợi thế, có khả năng cạnh
tranh, thị trờng có nhu cầu đem lại thu nhập lớn, thu hút đợc lực lợng lao
động, tạo đà cho Nhà nớc phát triển kinh tế và hội nhập các khu vực và thế
giới. Tất nhiên, Nhà nớc và thành phần kinh tế Nhà nớc cần xác định cụ thể
những lĩnh vực nào, hàng hoá nào cần phải mở đờng đi trớc. Việc phát triển
các ngành, các hàng hoá mũi nhọn tạo ra trụ cột đột phá của nền kinh tế, thể
hiện rõ chiến lợc phát triển kinh tế, tăng trởng nhanh và bền vững.
Có thể khẳng định, làm đợc nh vậy, vai trò mở đờng, đòn bẩy, hớng

dẫn, giúp đỡ của kinh tế Nhà nớc và thành phần kinh tế Nhà nớc có tác dụng
mạnh nhất.
Tất nhiên, theo quy luật chung, khi hình thành các ngành sản xuất, các
hàng hoá có thế mạnh, thành phần kinh tế Nhà nớc không nhất thiết phải
chiếm lĩnh nó, mà có thể chuyển cho các thành phần kinh tế khác sử dụng, để
tiếp tục mở đờng.
3. Nhà nớc tạo điều kiện tối đa để khu vực kinh tế Nhà nớc và thành
phần kinh tế Nhà nớc đi đầu trong cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, trong
việc nghiên cứu, chế tạo, triển khai, nhập, chuyển giao các loại công nghệ,
nhằm khai thác sử dụng có hiệu quả tài nguyên, có khả năng giải quyết việc
làm và bảo vệ môi trờng sinh thái, đồng thời xoá bỏ dần tình trạng lạc hậu của
nền kinh tế tạo năng suất lao động cao, làm cơ sở nâng cao chất lợng và khả
năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trờng trong nớc và quốc tế.
Cần khẳng định rằng đầu t khoa học, công nghệ và giáo dục , đào tạo là
đầu t cho phát triển. Vì thế, Nhà nớc cần huy động mọi nguồn vốn đầu t thích
đáng hơn để có sự biến chuyển về chất của lực lợng sản xuất trong nền kinh
tế.
Kinh tế Nhà nớc và thành phần kinh tế Nhà nớc xâm nhập, lôi cuốn, tác
động đến các thành phần kinh tế khác biểu hiện trực tiếp và hiệu quả ở vai trò
mở đờng vào khoa học giáo dục và công nghệ.
4. Cùng các thành phần kinh tế khác, kinh tế Nhà nớc và thành phần
kinh tế Nhà nớc đóng vai trò quan trọng trong việc thăm dò, khai thác, bảo
quản, phát triển và sử dụng có hiệu quả tài nguyên và các tiềm năng của đất n-
ớc.
Hơn ai hết, khu vực kinh tế Nhà nớc là ngời nắm phần lớn tài sản quốc
gia, là chủ thể quan trọng chi phối các hoạt động sản xuất kinh doanh. Kinh tế
Nhà nớc cần phải đi tiên phong, là ngời mở đờng dẫn lối cho các thành phần
kinh tế khác, bằng chính vai trò kinh tế của mình, trong việc khai thác và sử
dụng có hiệu quả các nguồn tiềm năng có hạn của xã hội. Qua thực tiễn những
nớc thành công trong mô hình kinh tế thị trờng, trong quá trình phát triển,

kinh tế Nhà nớc đã có những đóng góp đáng kể trong việc cải tạo kinh tế cơ
cấu kinh tế, trong việc phát huy tiền năng kinh tế, trong việc khai thác tài
nguyên thiên nhiên, sử dụng lực lợng lao động, khai tiềm năng về khoa học kỹ
thuật, tạo dựng những ngành kinh tế công nghiệp cơ bản, trong quá trình xây
dựng cơ sở hạ tầng của xã hội
Tất nhiên trong nền kinh tế thị trờng không chỉ riêng khu vực kinh tế
Nhà nớc mà còn có các thành phần kinh tế khác cùng tham gia hoạt động
cùng góp phần khai thác và sử dụng các nguồn tiềm năng của xã hội. Trớc mắt
chấm dứt tình trạng khai thác tài nguyên bừa bãi, lãng phí, vô tổ chức.
5. Thành phầ kinh tế Nhà nớc tức là các doanh nghiệp Nhà nớc mở đ-
ờng, đi đầu trong đổi mới trình độ và năng lực quản lý kinh tế, với trang thiết
bị, công cụ quản lý kinh tế hiện đại, hiệu quả và chế độ phân phối hợp lý,
khuyến khích làm giàu chính đáng, lành mạnh hoạt động tài chính, chống lãng
phí, tham nhũng.
Trớc mắt và lâu dài, thành phần kinh tế Nhà nớc phải làm gơng đổi mới
một cách căn bản và thực chất lĩnh vực này. Một mặt, đảm bảo công bằng,
kích thích năng lực sáng tạo và tinh thần là chủ của ngời lao động; xoá dần
những nhức nhối trong xã hội, "quốc nạn" tham nhũng và những bất công
khác. Mặt khác, thành phần kinh tế Nhà nớc đóng góp xứng đứng cho các
mục tiêu chính sách xã hội.
6. Thành phần kinh tế Nhà nớc cũng là ngời tiên phong làm gơng cho
những thành phần kinh tế khác trong việc thực hiện chủ trơng chính sách của
Nhà nớc, đồng thời đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nguồn thu nhập cho
ngân sách quốc gia, tạo điều kiện đầu t cho kết cấu hạ tầng và các công trình
phúc lợi.
Kinh tế Nhà nớc và các doanh nghiệp Nhà nớc là nơi thu hút một lực l-
ợng lao động khá đông đảo, góp phần giải quyết việc làm, hạn chế tình trạng
thất nghiệp, hạn chế sự phân boá giàu nghèo, phân tầng xã hội.
7. Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, kinh tế Nhà nớc,
doanh nghiệp Nhà nớc bằng vai trò mở đờng, hỗ trợ của mình, thúc đẩy hình

thành các trung tâm kinh tế - văn hoá - xã hội mới tiên tiến, tạo điều kiện
thuận lợi để phân bố lại dân c và hình thành các cụm dân c mới, trên cơ sở đó
hình thành những trung tâm dịch vụ hiện đại, thuận tiện để đẩy nhanh tăng tr-
ởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội.
8. Thành phần kinh tế Nhà nớc tiêu biểu xem trọng ngời lao động, động
lực của sự phát triển kinh tế.
Ngời lao động trong mọi chế độ xã hội bao giờ cũng là yếu tố cơ bản
của sự phát triển xã hội, nhng nếu có sự tách biệt giữa con ngời với t cách
động lực phát triển mà không xem trọng cong ngời với t cách mục tiêu mà xã
hội phải chăm lo thì nhất định động lực phát triển kinh tế cũng không thực
hiện đợc. Con ngời với t cách sáng tạo lực lợng sản xuất, đồng thời trong quá
trình đó cũng tự hoàn thiện nâng cao năng lực của mình.
Do đó, việc xem trọng nhân tốt con ngời là điều kiện quan trọng, quyết
định việc tăng trởng và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Vấn đề đặt ra là:
Muốn tăng hiệu quả sản xuất xã hội thì phải tăng chất lợng mức sống cho ngời
lao động.
Đào tạo ngời lao động nâng cao trình độ văn hoá khoa học, đầu t của
Chính phủ cho công tác đào tạo ngày càng tăng lên. Sự tồn tại và phát triển
của kinh tế thị trờng với nhiều hình thành kinh doanh đa dạng, thì bao giờ con
ngời vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển.
Còn nhiều lĩnh vực khác nữa mà kinh tế Nhà nớc mở đờng cho bản thân
nó và cho cả nền kinh tế vận động đi lên.
Tóm lại, vai trò mở đờng của kinh tế Nhà nớc và thành phần kinh tế
Nhà nớc về thực chất tạo nền tảng để định hớng cho nền kinh tế phát triển
đúng quỹ đạo, hợp quy luật, phát triển nhanh, bền vững, gắn ngay từ đầu
những vấn đề phát triển kinh tế với phát triển xã hội và bảo vệ môi trờng,
nhằm mục tiêu "dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, văn minh".
Thứ hai, vai trò lực lợng vật chất để Nhà nớc điều tiết và quản lý vĩ mô
nền kinh tế.
Để đièu tiết nền kinh tế, Nhà nớc phải có tiềm lực kinh tế mạnh.

Tiền lực kinh tế trong tay Nhà nớc phải dựa vào sự phát triển của nền
kinh tế, trong điều kiện hiện tại của nớc ta, chủ yếu dựa vào doanh nghiệp Nhà
nớc.
Cho đến nay, hầu nh những sản phẩm, hàng hoá cho sản xuất và đời
sống do doanh nghiệp Nhà nớc cung cấp nh: đờng sá, bến cảng, trạm, trại,
điện, nớc, bu chính viễn thông, giáo dục, văn hoá, xã hội Bộ phận kinh tế
phi Nhà nớc đảm nhận những dịch vụ chủ yếu cho sản xuất và đời sống: tài
chính, ngân hàng, vận tải hàng hoá và hành khách.
Một xã hội mạnh là xã hội của các nhà doanh nghiệp.
Tuy vậy, DNNN - tế bào của nền kinh tế, nơi sản xuất ra của cải cho xã
hội cha thực hiện đợc chức năng đơn vị kinh tế vi mô của mình, hiệu quả quá
thấp so với sự đầu t của Nhà nớc về nguồn tài chính và lao động.
Trong những nguyên nhân chủ quan và khách quan yếu kém của
DNNN, có lẽ căn nguyên gốc dễ là sản phẩm của "phong trào" quốc doanh
hoá (đối với các doanh nghiệp sinh ra trong thời bao cấp), phần lớn nó không
có lý do để ra đời, nên không có cơ sở để tồn tại ngay từ khi ra đời, nhng
không "chôn" đợc vì nó là hiện thân của CNXH.
Đối với các DNNN mới ra đời từ thời kỳ đổi mới đến nay, trừ một số ít
doanh nghiệp độc quyền, cũng chỉ là chắp vá, thay hình đổi dạng đua với các
doanh nghiệp t nhân trong nền kinh tế thị trờng manh nha, vo tổ chức. Vì thế,
có thể khẳng định rằng hầu nh các doanh nghiệp Nhà nớc cha có "màu cờ sắc
áo" nghĩa là không có chiến lợc phát triển rõ ràng, cơ bản và lâu dài, mà chủ
yếu sinh ra để làm theo mệnh lệnh để thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội
(thời bao cấp) và ăn chênh lệch giá trong thời chuyển đổi. Vì các DNNN là
"con đẻ" là chỗ dựa nên Nhà nớc "giúp đỡ" "u ái" từ trong trứng, từ con ngời
đến mặt hàng, thuế thấp, lãi suất u đãi, vốn nhiều, sử dụng vô tội vạ đặt trong
môi trờng quan hệ sản xuất lạc hậu, bảo thủ, nhất là cha tách bạch quyền sở
hữu và quyền sử dụng của những chủ hờ (giám đốc và ngời lao động) đều yếu
kém về trình độ văn hoá, chuyên môn nghiệp vụ quản lý kinh tế lẫn sức khoẻ
cộng với thiết bị, công nghệ lạc hậu, cũ kỹ vì thế sản phẩm không có khả

năng cạnh tranh vì chất lợng; mẫu mã kém, cho nên DNNN và kinh tế Nhà n-
ớc phi doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới căn bản và đúng hớng.
Vai trò là công cụ quản lý vĩ mô của kinh tế Nhà nớc phải tạo tiền đề
vững chắc cho nền kinh tế phát triển ổn định, đảm bảo những cân đối lớn của
nền kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội, cũng nh đủ mạnh để đối phó với
những đột biến bất thờng. Vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nớc thông qua kinh
tế Nhà nớc thể hiện ở sự phát triển của lực lợng sản xuất (ngời lao động, t liệu
sản xuất và khoa học), ở sự tận dụng nguồn lực khan hiếm để sản xuất vật chất
cho nền kinh tế và ở khả năng quản lý.
Cùng với hệ thống pháp luật, hành chính, Nhà nớc cần phải sử dụng
công cụ kinh tế Nhà nớc làm lực lợng vật chất để bổ sung kịp thời. Đặc biệt
khi có sự biến động xấu của cung cầu hàng hoá gây nên. Sự thừa hoặc thiéu
những mặt hàng chiến lợc trong đời sống thì Nhà nớc không thể bằng biện
pháp hành chính ra lệnh tịch thum, đóng cửa, bán hạ giá.v.v trái lại, Nhà n -
ớc phải sử dụng khu vực kinh tế Nhà nớc để can thiệp tức là cùng tham gia
mua bán với các chủ thể khác để bình ổn giá thị trờng. Hoặc khi cần thiết để
phát triển một số ngành kinh tế nhng còn quá mới mẻ, lại đòi hỏi nguồn vốn
lớn, thu hồi vốn lâu nếu nhân không muốn đầu t Nhà nớc không thể bằng
mệnh lệnh hành chính ra lệnh cho họ làm mà phải bằng lực lợng vật chất của
mình là kinh tế Nhà nớc để đầu t.
Trong nền kinh tế thị trờng mục đích chung của các doanh nghiệp là lợi
nhuận, nhng sự khác nhau ở chỗ; khu vực t nhân lợi nhuận là mục đích cá
nhân vì dựa trên chế độ t hữu về t liệu sản xuất, còn khu vực kinh tế Nhà nớc
lợi nhuận là phục vụ chung cho lợi ích của xã hội trong đó có bản thân ngời
lao động và điều quan trọng hơn nữa là tạo ra ổn định kinh tế, chính trị.
Kinh nghiệm nhiều nớc theo kinh tế thị trờng Nhà nớc thực hiện các
mục tiêu kinh tế xã hội ổn định, công bằng và hiệu quả thì đó là những nớc
quản lý kinh tế vĩ mô tốt. Việc Nhà nớc sử dụng công cụ của mình là kinh tế
Nhà nớc tham gia thị trờng không phải ý đồ bành trớng, thôn tính, bóp chết
khu vực kinh tế t nhân mà trái lại phải tạo điều kiện cho khu vực kinh tế t nhân

hoạt động. Nh vậy, trong nền kinh tế thị trờng hiện đại luôn tồn tại hai lực l-
ợng: khu vực kinh tế Nhà nớc và khu vực kinh tế t nhân, giữa chúng có mối
quan hệ tơng hỗ bổ sung cho nhau chứ không phải cản trở triệt tiêu nhau. Nhà
nớc với t cách ngời trọng tài có nhiệm vụ động viên mọi nguồn tiềm lực của
xã hội, chứ không phải tạo thuận lợi cho khu vực này gây khó khăn cho khu
vực kia.
Vai trò định hớng điều tiết của kinh tế Nhà nớc và thành phần kinh tế
Nhà nớc phải thể hiện là một đòn bẩy quan trọng để hạn chế tình trạng cạnh
tranh quá mức nhằm ổn dịnh và thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát
triển tạo đà cho việc tăng trởng kinh tế.
Kinh tế Nhà nớc là một công cụ điều tiết vĩ mô quan trọng để hạn chế
những khuyết tật của kinh tế thị trờng, kịp thời lấp đi những "khoảng chống"
của kinh tế thị trờng. Kinh tế Nhà nớc đóng vai trò tiên phong ttrong sản xuất
kinh doanh, vực những ngành sinh lợi thấp nhng cần thiết cho quốc tế dân
sinh, những ngành kinh tế mà các thành phần khác không mấy quan tâm nhng
lại rất cần cho xã hội và không thể bỏ qua, những ngành vốn lớn, thu hồi lâu
nh việc đầu t cơ sở hạ tầng của nền kinh tế, các công trình phúc lợi, các lĩnh
vực bảo vệ môi sinh môi trờng
Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trờng hiện đại với sự tham gia của
nhiều chủ thể, trong cơ chế cạnh tranh và đào thải bên cạnh những mặt tích
cực mà mỗi chủ thể sản xuất kinh doanh đã góp phần tạo nên, thì cũng chính
họ đã làm lộ ra những hạn chế, khiếm khuyết, đó là: tình trạng cạnh tranh và
đào thải đôi khi dẫn đến tình trạng "vô chính phủ" việc chạy theo lợi nhuận và
động cơ duy nhát của chủ thể kinh doanh hoặc cố tình, hoặc vô tình bị dẫn đắt
bởi "bàn tay vô tình" đã vi phạm lợi ích chung của xã hội, tình trạng lãng phí
tài nguyên, cạn kiệt môi sinh môi trờng phân tầng xã hội, phân hoá giàu
nghèo, và các tệ nạn xã hội đang là những vấn đề nan giải ở các nớc theo mô
hình kinh tế thị trờng. Để hạn chế những khuyết tật trên kinh tế Nhà nớc cùng
với các công cụ đòn bẩy kinh tế để quản lý nền kinh tế vĩ mô đảm bảo ổn
định, công bằng, hiệu quả của nền kinh tế.

Thứ ba, kinh tế Nhà nớc là nguồn lực nuôi bộ máy Nhà nớc.
Các cán bộ, viên chức Nhà nớc, đợc Nhà nớc trả lơng từ ngân sách Nhà
nớc, thông qua phân phối lại trong nền kinh tế quốc dân. Thuế là nguồn thu
chủ yếu của ngân sách. Vì vậy, để cải tiến tiền lơng thực hiện đợc và có ý
nghĩa thiết thực, một mặt, chủ yếu là giảm biên chế trong hệ thống bộ máy
Nhà nớc, bắt đầu từ việc xác định bộ máy Nhà nớc hợp lý, hiệu lực và hiệu
quả, xác định chức năng, nhiệm vụ cụ thể các cơ quan, đơn vị cũng nh từng
chức danh cụ thể của nó, từ đó tiêu chuẩn hoá cán bộ, và thi tuyển viên chức
Nhà nớc. Mặt khác, tăng thu ngân sách Nhà nớc, trớc mắt giảm dần tình trạng
khê, trốn, lậu, nợ thuế, đảm bảo thu đúng đối tợng, thu đủ và kịp thời.
Vai trò mở, vai trò lực lợng vật chất và côg cụ quản lý kinh tế vĩ mô của
kinh tế Nhà nớc và nguồn lực nuôi bộ máy Nhà nớc có mối quan hệ gắn bó
lẫn nhau tạo nền tảng cho xã hội mới, đồng thời là cơ sở xác định phơng hớng
đổi mới kinh tế Nhà nớc.
Tiếp tục đổi mới và phát triển KTNN để đảm bảo những mục tiêu kinh
tế - xã hội. Trớc hết, cần hoàn thiện chế độ, chính sách, luật pháp đảm bảo
doanh nghiệp Nhà nớc thật sự là đơn vị sản xuất hàng hoá có t cách pháp
nhân. Phân định dứt khoát quyền sở hữu Nhà nớc với quyền đại diện chủ sở
hữu Nhà nớc; quyền sở hữu Nhà nớc với quyền sử dụng; quản lý ; tách bạch
rõ ràng chức năng quản lý kinh tế với quản lý tài sản của Nhà nớc và quản lý
kinh doanh của doanh nghiệp.
Để đổi mới và tiếp tục phát triển kinh tế Nhà nớc phải phân theo và sắp
xếp lại hệ thống doanh nghiệp Nhà nớc theo hớng:
Một là, xác định các doanh nghiệp công ích cần thiết, hoạt động không
vì mục đích lợi nhuận là chính (nh các doanh nghiệp phục vụ anh ninh, quốc
phòng, giao thông công cộng, trờng học, bệnh viện ) cần có chính sách cơ
chế phù hợp để quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đợc đầu t, đảm
bảo mục tiêu chính trị - xã hội trong quá trình tăng trởng và phát triển nhằm
nâng cao đời sông nhân dân.
Hai là, những doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh thu lợi

nhuận, tập trung kiện toàn và nâng cao hiệu quả các doanh nghiệp lớn, những
doanh nghiệp hoạt động tốt, có khả năng cạnh tranh và tham gia thị trờng thế
giới, phải trở thành những doanh nghiệp mạnh toàn diện, đầu đàn về công
nghiệp - kỹ thuật và chất lợng sản phẩm, đi đầu về bảo đảm xã hội, phát huy
giúp đỡ và ảnh hởng tốt đến sự phát triển kinh tế - xã hội bằng tính chất xã hội
chủ nghĩa của mình, tạo ra sự chuyển biến vững chắc theo định hớng xã hội
chủ nghĩa.
Đối với những doanh nghiệp Nhà nớc nhỏ và quá nhỏ, những doanh
nghiệp không có vai trò quan trọng, làm ăn thua lỗ, yếu kém, cần dứt điểm xử
lý thích hợp nh chuyển hình thức sở hữu, cổ phần hoá, cho thuê, khoán, sáp
nhập, giải thể hoặc phá sản theo luật. Triển khai tích cực và vững chắc cổ phần
hoá doanh nghiệp Nhà nớc theo các mức độ khác nhau, thực hiện đa dạng hoá
sở hữu, tạo động lực cho các chủ thể kinh tế, tăng thêm vốn mở rộng sản xuất
kinh doanh.
Những doanh nghiệp mang tính độc quyền
3. Mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ ở
Việt Nam.
4. Một số giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy quá trình hình thành
và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hớng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam.
4.1. Tiếp tục đẩy mạnh phân công lao động xã hội
Phân công lao động xã hội đã từng đợc Lênin coi là cơ sở của nền kinh
tế hàng hóa, ở Việt Nam chúng ta vẫn cần thiết phải đẩy mạnh phân công lao
động xã hội. Tuy nhiên, để quá trình phân công lao động xã hội của ta trong
thời gian tới đạt đợc hiệu quả cao cần phải chú ý đến các vấn đề sau đây:
Thứ nhất: Phân công lao động xã hội phải phù hợp với xu hớng phát
triển của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại. Cuộc cách mạng
khoa học công nghệ hiện đại đang làm thay đổi cơ cấu kinh tế truyền thống và
xuất hiện nhiều ngành kinh tế mới có hàm lợng khoa học công nghệ cao. Phân
công lao động xã hội phải tính đến quan hệ cung cầu về lao động cho các

ngành mới đó.
Thứ hai: Phân công lao động xã hội phải hớng vào việc phát huy các
lợi thế so sánh của Việt Nam. Các chuyên gia kinh tế đánh giá hiện tại Việt
Nam đang có các lợi thế so sánh là lao động, tài nguyên và vị trí địa lý. Song
thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ bùng nổ của công nghệ điện tử, thông tin, năng lợng
mới, vật liệu nhân tạo và công nghệ sinh học v.v Vì vậy, nếu ta không phát
huy đợc ngay từ bây giờ trong tơng lai sẽ có nguy cơ bị mất lợi thế.
Thứ ba: Phân công lao động xã hội phải phục vụ quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hớng công nghiệp hóa, hiện đại hóa: cơ cấu công - nông
nghiệp - dịch vụ. Vì vậy, phải trên cơ sở nâng cao năng suất lao động trong
các ngành sản xuất vật chất, từng bớc rút bớt lao động nông nghiệp và công
nghiệp sang làm việc ở ngành dịch vụ và các lĩnh vực phi sản xuất vật chất
khác.
Thứ t: Phân công lao động xã hội phải tính đến khả năng hội nhập kinh
tế của Việt Nam vào với khu vực và thế giới.
Thứ năm: Phân công lao động xã hội phải hớng vào việc hình thành
các vùng kinh tế, các khu công nghiệp mới. Phải đặt phân công lao động xã
hội trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và
quá trình đô thị hóa.
4.2. Thực hiện đa dạng hóa hình thức sở hữu, trên nguyên tắc lấy công
hữu làm nền tảng
Một nền kinh tế nhiều thành phần phải là nền kinh tế tồn tại trên cơ sở
đa dạng hóa sở hữu. Cho tới nay, trên thế giới cha có nớc nào thành công
trong phát triển kinh tế trên cơ sở đơn nhất về hình thức sở hữu. Kể cả CNTB,
thì ở giai đoạn đầu khi mà tự do cạnh tranh còn thống trị cũng ít nhất tồn tại
hai hình thức t hữu: t hữu nhỏ của những ngời lao động cá thể và t hữu lớn t
bản chủ nghĩa. Dần dần trong quá trình phát triển, những bất cập của nền kinh
tế tự do cạnh tranh ngày càng bộc lộ, sở hữu nhà nớc đã hình thành, gắn liền
với đó là vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nớc. Hiện nay, nền kinh tế
ở hầu hết các nớc trên thế giới đều tồn tại hai khu vực kinh tế: t nhân và nhà n-

ớc trong quan hệ bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Sự tơng tác giữa hai khu vực kinh
tế t nhân và nhà nớc lại dẫn đến sự đa dạng hóa về hình thức sở hữu: t hữu
nhỏ, t hữu lớn TBCN, đồng sở hữu giữa nhà nớc và t nhân, sở hữu cổ phần, sở
hữu nhà nớc v.v Chính sự đa dạng hóa về hình thức sở hữu nh vậy đã tạo nên
những sắc thái khác nhau trong mô hình kinh tế của mỗi một quốc gia. Việt
Nam chủ trơng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hớng XHCN cũng
phải thực hiện đa dạng hóa hình thức sở hữu.
Để thực hiện đa dạng hóa hình thức sở hữu, chúng ta phải giải quyết
tốt các vấn đề sau:
Một là: nhất quán với chính sách kinh tế nhiều thành phần. Cụ thể:
Phải coi chính sách kinh tế nhiều thành phần là một chiến lợc phát
triển có ý nghĩa lâu dài, chứ không phải là một giải pháp tình thế.
Phải đảm bảo cho tất cả các doanh nghiệp, không phân biệt thành
phần kinh tế, quyền tự chủ trong kinh doanh và quyền bình đẳng trớc pháp
luật.
Phải xóa bỏ tâm lý kỳ thị, phân biệt đối xử giữa những ngời làm việc
trong thành phần kinh tế nhà nớc với những ngời làm việc ở các thành phần
kinh tế ngoài nhà nớc.
Có nh vậy mới tạo đợc lòng tin, khuyến khích các tầng lớp dân c yên
tâm bỏ vốn ra kinh doanh làm giàu cho bản thân và qua đó làm giàu cho đất n-
ớc.
Hai là: đổi mới và tăng cờng vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế
nhà nớc theo hớng:
Chuyển các doanh nghiệp nhà nớc sang chế độ hạch toán kinh doanh
và tự chủ về mọi mặt nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh
nghiệp nhà nớc.
Phân định rõ chức năng sở hữu của Nhà nớc với chức năng sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nớc để tránh tình trạng ôm đồm về chức
năng, chồng chéo về nhiệm vụ.
Tích cực triển khai cổ phần hóa đối với các doanh nghiệp không nằm

trong diện Nhà nớc nhất thiết phải nắm.
Các doanh nghiệp nhà nớc còn lại chuyển sang hình thức công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên (theo Nghị định 63/2001/NĐ-CP).
Ba là: đổi mới kinh tế tập thể
Chuyển đổi các hợp tác xã nông nghiệp kiểu cũ sang các hình thức
hợp tác xã theo luật hợp tác xã mới, trên tinh thần lấy hộ nông dân làm đơn vị
kinh tế tự chủ, khuyến khích các hộ nông dân phát triển sản xuất theo mô hình
kinh tế trang trại.
Hình thành ở nông thôn các hợp tác xã dịch vụ đầu vào và đầu ra cho
sản xuất nông nghiệp.
Khuyến khích phát triển các hợp tác xã cổ phần trong tiểu thủ công
nghiệp, thơng nghiệp và dịch vụ.
4.3. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ.
Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Các doanh nghiệp chỉ có thể đứng vững, nâng cao đợc năng lực cạnh
tranh nếu thờng xuyên đổi mới công nghệ để hạ thấp chi phí, nâng cao chất l-
ợng sản phẩm, đổi mới cơ cấu, chủng loại mặt hàng. So với thế giới trình độ
công nghệ của ta còn thấp kém, không đồng bộ. Vì vậy, phải đẩy mạnh công
tác nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ mới vào sản xuất, quản lý và
lu thông hàng hóa trên thị trờng.
Hệ thống cơ sở hạ tầng vật chất của ta hiện nay còn lạc hậu, không
đồng bộ, mất cân đối. Đó chính là một trở ngại ảnh hởng lớn đến tính khả thi
của chủ trơng khuyến khích đầu t đối với cả các nhà đầu t trong nớc cũng nh
ngoài nớc, trở ngại cho quá trình hội nhập của Việt Nam vào với kinh tế khu
vực và kinh tế thế giới. Vì vậy, cần phải đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, phải cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới hệ thống cơ sở hạ tầng vật chất
cho nền kinh tế, để tạo địa bàn thuận lợi cho các nhà đầu t. Trớc mắt, Nhà nớc
nên tập trung u tiên nâng cấp, xây dựng cho một số công trình thiết yếu, nh đ-
ờng sá, sân bay, bến cảng, điện, nớc, hệ thống thông tin liên lạc, ngân hàng,
bảo hiểm v.v

4.4. Hình thành và phát triển một cách đồng bộ hệ thống thị trờng, bao
gồm cả thị trờng đầu vào và thị trờng đầu ra
Muốn có một hệ thống thị trờng đồng bộ trớc hết phải có đầy đủ các
thị trờng bộ phận, nh vậy là phải phát triển tất cả các thị trờng và quản lý tốt
các thị trờng này. Trong thời gian tới, chúng ta sẽ tiếp tục phát triển mạnh thị
trờng hàng hóa và dịch vụ, khắc phục tình trạng kinh doanh trái phép, trốn lậu
thuế; tổ chức và quản lý chặt chẽ các quan hệ thuê mớn và sử dụng lao động,
các quan hệ mua bán và kinh doanh bất động sản; hoàn thiện thị trờng tiền tệ,
thị trờng chứng khoán v.v Vấn đề này lại có liên quan nhiều tới việc hoàn
thiện và bổ sung các bộ luật, nh: Luật đất đai, Luật lao động, Luật doanh
nghiệp, Luật phá sản, Luật ngân hàng, Luật thị trờng chứng khoán Nhà nớc
hiện cũng đang có nhiều nỗ lực để thúc đẩy nhanh hơn sự phát triển của một
số thị trờng trọng điểm nh thị trờng chứng khoán, thị trờng đất đai, thị trờng
sức lao động
Tuy nhiên, phát triển đồng bộ các thị trờng không chỉ đơn giản là phát
triển tất cả các loại thị trờng, mà đi liền với nó, việc tạo ra sự liên kết, cân đối
giữa các thị trờng lại còn quan trọng hơn, bởi vì, trong hệ thống thị trờng, nếu
một loại thị trờng nào đó phát triển không đầy đủ hoặc trì trệ chắc chắn sẽ có
ảnh hởng tới sự phát huy chức năng của các thị trờng khác, sẽ ảnh hởng tới
hiệu quả tổng thể của hệ thống thị trờng. Vấn đề này đã từng đợc Mác và
Lênin bàn đến khi phân tích tái sản xuất và lu thông t bản xã hội, các nhà kinh
tế học hiện đại nh L.Walras, P.Samuelson cũng đã từng đa ra những lý thuyết
về sự cân bằng giữa các thị trờng.
4.5. Đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế và các nhà kinh doanh
giỏi, biết làm giàu theo pháp luật
Mỗi cơ chế kinh tế có một đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh tơng
ứng. Chúng ta phải đẩy mạnh sự nghiệp đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ
quản lý kinh tế, các nhà kinh doanh sao cho đáp ứng đợc yêu cầu của nền KT.
Đội ngũ đó phải có năng lực chuyên môn giỏi, phải hiểu biết về pháp luật,
thích ứng mau lẹ với cơ chế thị trờng, dám chịu trách nhiệm, chịu rủi ro và

trung thành với con đờng XHCN mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.
Song song với đào tạo và đào tạo lại, cần phải có phơng hớng sử dụng,
bồi dỡng, đãi ngộ đúng đắn đội ngũ đó, nhằm khuyến khích các nhà quản lý
kinh tế, các doanh nhân cống hiến tài năng và sức lực cho sự nghiệp phát triển
kinh tế của đất nớc. Cơ cấu của đội ngũ cán bộ cần đợc chú ý đảm bảo ở cả
tầm vi mô lẫn vĩ mô, cả về cán bộ quản lý kinh tế, lẫn cán bộ kinh doanh.
4.6. Thực hiện chính sách kinh tế đối ngoại có lợi, trên nguyên tắc:
phát huy nội lực, giữ vững độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia
Nhiều năm, trong cơ chế cũ, nền kinh tế nớc ta thực chất là khép kín
đối với thị trờng thế giới và chia cắt thị trờng giữa các địa phơng trong phạm
vi cả nớc. Quan điểm xây dựng một cơ cấu kinh tế hoàn chỉnh đã dẫn đến tình
trạng thừa thì bán, thiếu thì mua trong quan hệ với thị trờng thế giới. Hậu quả
là kinh tế đối ngoại phát triển hết sức chậm chạp, nền kinh tế mang tính chất
tự sản, tự tiêu nhng lại phụ thuộc vào viện trợ bên ngoài rất nhiều. ở các địa
phơng cũng vậy, mỗi tỉnh căn cứ vào nhu cầu của mình cũng có ý đồ xây dựng
một cơ cấu kinh tế hoàn chỉnh, khép kín. Giao lu hàng hóa trong phạm vi cả n-
ớc bị ách tắc, bị "bế quan tỏa cảng", "cấm chợ, ngăn sông".
Sự phát triển của lực lợng sản xuất thế giới đã vợt khỏi biên giới quốc
gia, kinh tế hàng hóa đã xâm nhập vào mọi ngõ ngách của thị trờng thế giới,
trong khi đó, sự phát triển và phân bố không đều về tài nguyên, về sức lao
động v.v đã tạo ra "lợi thế so sánh" cho từng vùng, từng nớc khác nhau và
các lợi thế so sánh chỉ có thể phát huy đợc hiệu quả trong một cơ chế vừa hợp
tác, vừa cạnh tranh giữa các nớc. Chính vì vậy, mở cửa và là một tất yếu, đóng
cửa là tự sát, hay cũng có thể nói: biệt lập trong sự đóng kín là cha đẻ của sự
đói nghèo.
Thực tế cũng cho thấy, trong thời kỳ Mỹ bao vây cấm vận, nhiều tập
đoàn kinh tế, công ty lớn trên thế giới vẫn làm ăn với ta, một số nớc dùng
những hình thức khác nhau để thâm nhập vào thị trờng Việt Nam. Vì vậy, nếu
biết kết hợp nhuần nhuyễn giữa độc lập tự chủ với hợp tác cùng có lợi, đồng
thời hạn chế thấp nhất những thua thiệt về kinh tế sẽ tạo ra một cơ chế để thu

hút các nguồn lực từ bên ngoài.
Chính vì vậy, chính sách kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nớc ta là:
đa dạng hóa các hình thức kinh tế đối ngoại, đa phơng hóa trong quan hệ thị
trờng với mọi quốc gia, mọi tổ chức kinh tế trên thế giới trên nguyên tắc tôn
trọng độc lập, chủ quyền và các bên cùng có lợi. Mục tiêu cần đạt đợc của
chính sách trên là thu hút nguồn lực bên ngoài để phát huy nguồn lực và lợi
thế bên trong, bảo đảm sự hoạt động bình thờng của nền kinh tế trong nớc khi
điều kiện quốc tế có thể có những biến động.
4.7. Đổi mới và nâng cao năng lực quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nớc
Nhà nớc thực hiện tốt chức năng định hớng sự phát triển kinh tế, kiểm
kê, kiểm soát mọi hoạt động kinh tế - xã hội, tạo lập khuôn khổ pháp luật và
hệ thống chính sách nhất quán, trực tiếp đầu t vào một số lĩnh vực thiết yếu,
nhất là kết cấu hạ tầng để tạo ra môi trờng ổn định và thuận lợi cho giới kinh
doanh làm ăn phát đạt, hạn chế các hiện tợng tiêu cực.
Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính để nhà nớc thực hiện đúng chức
năng quản lý vĩ mô và chức năng chủ sở hữu tài sản công cộng của quốc gia,
không can thiệp vào chức năng quản trị doanh nghiệp và quyền tự chủ hạch
toán của doanh nghiệp .
Kết luận
Việt Nam hiện đang ở giai đoạn đầu của quá trình chuyển sang nền
kinh tế nhiều thành phần, nền kinh tế vẫn còn đang trong tình trạng kém phát
triển, song những thành công mà chúng ta đã đạt đợc là không thể phủ nhận.
Hiện tại, nhà nớc Việt nam, dới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam
cũng đã đang có nhiều nỗ lực tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, để tìm ra
những giải pháp tốt nhất, phù hợp nhất, nhằm thúc đẩy nhanh quá trình hình
thành và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hớng xã hội chủ nghĩa
trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam.
Tài liệu tham khảo
1. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng cộng sản VIệt
Nam. Nhà xuất bản chính trị Quốc Gi, Hà nội 2001.

2. Giáo trình Kinh tế chính trị Mac-Lênin, tập 1,2, NXB Giáo dục
1998.
3. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác- Lênin, NXB chính trị Quốc Gia,
Hà nội-1999.
4. Kinh tế chính trị học- Nhà xuất bản Thống Kê -2002.

×