Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

phương pháp xếp hạng doanh nghiệp và ứng dụng vào việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (488.86 KB, 74 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
Lời mở đầu
rong điều kiện hội nhập kinh tế và Việt Nam đã là thành viên của tổ chức
thương mại Thế giới (WTO), vì vậy nền kinh tế Việt Nam phải thực sự đối
mặt với những thách thức hết sức to lớn. Nguyên nhân của những thách thức đó
là nền kinh tế Việt Nam còn yếu kém về nhiều mặt: công nghệ còn lạc hậu, trình
độ còn chưa phát triển…Đặc biệt đối với ngành Ngân hàng, xu hướng tự do hoá
và toàn cầu hoá kinh tế khiến hoạt động kinh doanh của ngành Ngân hàng của
Việt Nam càng trở nên phức tạp, dẫn tới nhiều rủi ro hoạt động. Vì vậy quá trình
cải cách tài chính - ngân hàng là một bộ phận quan trọng, không thể tách rời
trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam.
T
Đối với các hoạt động kinh doanh của hệ thống Ngân hàng Việt Nam, rủi ro
hầu như có mặt trong từng nghiệp vụ ngân hàng và muốn có lợi nhuận thì phải
chấp nhận rủi ro. Tuy nhiên tín dụng là hoạt động chủ yếu hiện đang chiếm tỷ
trọng lớn nhất: từ 60-70% trong danh mục tài sản có của Ngân hàng, đặc biệt
nguồn tín dụng này đóng vai trò kênh dẫn vốn chủ đạo cho các doanh nghiệp.
Thế nhưng hoạt động tín dụng lại đang gặp nhiều khó khăn và có xu hướng đóng
băng. Sự đình trệ và hoạt động kém hiệu quả của hoạt động tín dụng không chỉ
ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của ngành ngân hàng mà còn gây trở ngại
không nhỏ cho sự phát triển của nền kinh tế và sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện
đại hoá của đất nước.
Trong hoạt động tín dụng, đánh giá rủi ro tín dụng là khâu đầu tiên, là điều
kiện tiên quyết trước khi cho vay. Vì vậy Ngân hàng nhà nước đã ban hành
quyết định số 68/1999/QĐ – NHNN9 ngày 27/02/1999 của Thống đốc ngân
hàng Nhà nước thành lập Trung tâm Thông tin tín dụng Ngân hàng Nhà nước
1
Chuyên đề tốt nghiệp
(Credit information center – viết tắt CIC). CIC có chức năng thu thập và cung
cấp, dịch vụ Thông tin tín dụng cho Ngân hàng Nhà nước, các tổ chức tín dụng,
tổ chức và cá nhân khác nhằm góp phần đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng,


phục vụ công tác quản lý của Ngân hàng Nhà nước, phòng ngừa, hạn chế rủi ro
tín dụng và phát triển kinh tế xã hội. Việc xếp hạng tín dụng doanh nghiệp có ý
nghĩa rất quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay, bởi vì thông qua xếp
hạng doanh nghiệp các Ngân hàng có thể xác định mức lãi suất cho vay đối với
từng doanh nghiệp, tạo điều kiện ổn định nền kinh tế. Vì vậy em đã chọn đề tài
“Phương pháp xếp hạng doanh nghiệp và ứng dụng vào Việt Nam”. Đề tài
của em gồm 3 phần:
Chương 1: Lý thuyết về rủi ro trong hoạt động Ngân hàng và thực trạng rủi
ro tín dụng ở Việt Nam.
Chương 2: Lý luận về xếp hạng doanh nghiệp.
Chương 3: Phương pháp xếp hạng tín dụng các doanh nghiệp.
Trong thời gian học tập ở trường kết hợp với thời gian thực tập ở Trung tâm
Thông tin tín dụng – Ngân hàng nhà nước, được sự giúp đỡ tận tình của các thầy
cô và của trung tâm nói chung, Phòng Phân tích nói riêng em đã hoàn thành
chuyên đề thực tập tốt nghiệp này.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo, hướng dẫn tận tình của thầy
giáo PGS. TS. NGUYỄN QUANG DONG – khoa Toán Kinh tế; cảm ơn cán bộ
nhân viên trong CIC nói chung, cùng các anh chị phòng Phân tích đã giúp đỡ em
hoàn thành chuyên đề này.
Em xin chân thành cảm ơn!
2
Chuyên đề tốt nghiệp
Chương 1: Lý thuyết về rủi ro trong hoạt động Ngân hàng
và thực trạng rủi ro tín dụng ở Việt Nam
1.1 Tổng quan về rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Ngân
hàng
1.1.1 Khái niệm về rủi ro
Rủi ro là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến. Vì vậy trong bất kỳ lĩnh
vực nào của đời sống đều có thể xảy ra rủi ro. Đối với cuộc sống đời thường rủi
ro có thể là những điều hết sức đơn giản chẳng hạn như bị mất cắp ; đối với

các Ngân hàng thương mại luôn luôn phải đối mặt với các loại rủi ro đó có thể là
rủi ro do khách hàng trả nợ không đúng hạn, cũng có thể là do Ngân hàng không
đáp ứng được nhu cầu rút tiền của người gửi tiền……
Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hoá đặc biệt
– hàng hoá tiền tệ, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Đa phần trong đó là các khoản tiền gửi
phải trả khi có yêu cầu. Nguồn tiền của các ngân hàng thương mại đang có thay
đổi mạnh mẽ do sự gia tăng cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng, giữa các ngân
hàng với các tổ chức tài chính dưới ảnh hưởng của công nghệ thông tin và quá
trình toàn cầu hoá. Các nguồn tiền của cá nhân và doanh nghiệp dễ dàng di
chuyển hơn, nhạy cảm với lãi suất hơn. Điều này tạo thuận lợi cho ngân hàng
trong việc tìm kiếm nguồn tiền song lại làm tăng tính kém ổn định của cả hệ
thống. Mặt khác tài sản của các ngân hàng chủ yếu là các động sản tài chính (các
khoản cho vay, chứng khoán) với tính rủi ro thị trường, rủi ro tín dụng rất cao.
Công nghệ của Ngân hàng ngày càng phát triển cho phép các Ngân hàng có thể
chuyển nguồn tiền đầu tư của mình tới những vùng xa trụ sở. Điều này vừa làm
giảm bớt rủi ro của Ngân hàng do đa dạng hoá khách hàng nhưng đồng thời cũng
3
Chuyên đề tốt nghiệp
làm tăng tính rủi ro do những biến động lớn trên thị trường Thế giới, khu vực và
do Ngân hàng không kiểm soát tốt được các khoản vay…Điều này không chỉ
xảy ra ở thị trường Việt Nam mà còn diễn ra ở trên Thế giới. Chẳng hạn vào cuối
năm 1997, khủng hoảng tài chính đã làm cho nhiều Ngân hàng ở châu Á bị mất
hàng tỷ đô la Mỹ, bị phá sản hoặc phải sát nhập; cũng vào năm 1997, nhiều
Ngân hàng thương mại Việt Nam do mở rộng cho vay tràn lan đã rơi vào tình
trạng nợ quá hạn, nợ khó đòi. Tóm lại tất cả các loại rủi ro của ngân hàng đều có
bản chất chung đó là khả nảng xảy ra tổn thất cho ngân hàng.
1.1.2 Các loại rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng
Dựa vào những tiêu thức khác nhau thì rủi ro của Ngân hàng được chia
thành những loại khác nhau. Nếu phân chia theo nguyên nhân các nhân tố tác
động thì rủi ro Ngân hàng bao gồm: rủi ro do người vay không trả được nợ cho

Ngân hàng, rủi ro do lãi suất thay đổi, rủi ro do tỷ giá thay đổi, rủi ro do các
nguyên nhân khác như mất trộm, cháy nổ, giấy tờ giả…Tuy nhiên trong phạm vi
hoạt động của các Ngân hàng thương mại Việt Nam có thể tổng hợp thành một
số loại rủi ro cơ bản như sau:
1.1.2.1 Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất mà Ngân hàng phải gánh
chịu do khách hàng không trả đầy đủ cả gốc và lãi của khoản vay, hoặc là việc
thanh toán nợ gốc và lãi không đúng hạn.
Khi thực hiện một hoạt động cho vay cụ thể, Ngân hàng không dự kiến
khoản cho vay đó sẽ bị tổn thất. Tuy nhiên những khoản cho vay đó luôn hàm
chứa rủi ro. Một số ý kiến cho rằng trên quan điểm quản lý toàn bộ Ngân hàng,
tỷ lệ tổn thất dự kiến đối với hoạt động tín dụng luôn được xác định trước trong
4
Chuyên đề tốt nghiệp
chiến lược hoạt động chung. Do vậy, khi tổn thất dưới mức tổn thất dự kiến,
Ngân hàng coi đó là một thành công trong quản lý.
1.1.2.2 Rủi ro lãi suất
Khi huy động vốn của doanh nghiệp hoặc dân cư, Ngân hàng sẽ phải trả
lãi. Còn khi tài trợ, Ngân hàng sẽ thu lãi. Lãi suất của các khoản cho vay, tiền
gửi và chứng khoán thường xuyên biến động, có thể làm gia tăng lợi nhuận cho
Ngân hàng, ngược lại cũng có thể gây tổn thất cho Ngân hàng. Như vậy rủi ro lãi
suất là khả năng thu nhập giảm do chênh lệch lãi suất giảm, khi lãi suất thị
trường thay đổi ngoài dự kiến. Rủi ro lãi suất có thể có một số hình thức khác
nhau như rủi ro xác định lại lãi suất, rủi ro đường cong lãi suất thay đổi, rủi ro
tương quan lãi suất, và rủi ro quyền chọn đi kèm.
Nguyên nhân gây ra rủi ro lãi suất có thể gồm:
- Do sự không phù hợp về kỳ hạn của nguồn và tài sản, và chế độ lãi suất
cố định.
-
Do sự thay đổi của lãi suất thị trường ngoài dự kiến.

Rủi ro lãi suất là một loại rủi ro thị trường quan trọng, đặc biệt trong điều
kiện lãi suất thay đổi như hiện nay. Vì vậy, việc thực hiện các biện pháp để hạn
chế rủi ro lãi suất cũng là một nội dung quan trọng trong quản lý rủi ro của Ngân
hàng thương mại.
Các giải pháp phòng ngừa rủi ro lãi suất:
-
Phải duy trì cân đối các khoản vay nhạy cảm với lãi suất bên tài sản nợ
và tài sản có.
-
Sử dụng một chính sách lãi suất linh hoạt, đặc biệt với những khoản vay
lớn, thời hạn dài cần tìm kiếm nguồn vốn tương xứng, hoặc thực hiện cơ
chế lãi suất thả nổi.
5
Chuyên đề tốt nghiệp
-
Sử dụng các công cụ tài chính mới để hạn chế rủi ro ngoại bảng, như sử
dụng các nghiệp vụ kỳ hạn về lãi suất, nghiệp vụ kỳ hạn về tiền gửi, nghiệp
vụ kỳ hạn về lãi suất tiền vay, thực hiện hợp đồng tương lai do không cân
xứng tài sản nợ và tài sản có; thực hiện nghiệp vụ hoán đổi lãi suất, quyền
lựa chọn lãi suất.
1.1.2.3 Rủi ro tỷ giá
Rủi ro tỷ giá là khả năng xảy ra những tổn thất mà Ngân hàng phải gánh
chịu khi tỷ giá hối đoái thay đổi vượt quá thay đổi dự tính. Trong cơ chế thị
trường, tỷ giá thường xuyên dao động. Sự thay đổi này cùng với trạng thái hối
đoái của Ngân hàng tạo ra thu nhập thặng dư hoặc thâm hụt tạm thời. Tuy nhiên
có những thay đổi tỷ giá ngoài dự kiến dẫn đến tổn thất cho Ngân hàng.
Những nhân tố tác động đến rủi ro tỷ giá:
-
Lãi suất.
-

Các chính sách của chính phủ.
-
Sự đầu cơ trên thị trường.
-
Tính nhạy cảm của thị trường.
-
Lạm phát.
-
Sự ổn định về chính trị.
-
Loại tiền kinh doanh: một số đồng tiền có sự biến động về tỷ giá rất lớn
trong khi đó một số đồng tiền lại có sự biến động ít hơn.
Để hạn chế rủi ro tỷ giá người ta có thể có một số giải pháp sau:
-
Sử dụng một số công cụ - các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ để quản lí
rủi ro. Việc phòng ngừa rủi ro có thể dùng các nghiệp vụ sẵn có trên thị
trường. Việc phòng ngừa rủi ro của giao dịch kỳ hạn bằng một giao dịch
Swap, dùng giao dịch quyền chọn để hạn chế rủi ro.
6
Chuyên đề tốt nghiệp
-
Việc nắm giữ một loại ngoại tệ nào đó quá nhiều là mạo hiểm vì khiến
Ngân hàng phải gánh chịu rủi ro tỷ giá phát sinh. Vì vậy Ngân hàng nên
thực hiện đa dạng hoá các loại ngoại tệ kinh doanh tránh những phụ thuộc
quá nhiều vào Đôla Mỹ, phân tán rủi ro, thích nghi được với những biến
động bất thường về tỷ giá.
1.1.2.4 Rủi ro thanh toán
Rủi ro thanh toán là những tác động do sự biến động của Tài sản Nợ và
Tài sản Có trong quá trình hoạt động của Ngân hàng, làm cho Ngân hàng không
có đủ tiền để thực hiện các cam kết với khách hàng hay nói cách khác Ngân hàng

không có khả năng thanh toán các giao dịch của khách hàng theo các cam kết
(thiếu hoặc mất khả năng thanh toán).
Rủi ro thanh khoản có thể xảy ra do nhiều nguyên nhân như:
-
Do Ngân hàng sử dụng vốn để đầu tư, cho vay nhưng chưa thu hồi được vì
chưa đến kỳ hạn khách hàng trả nợ, nhưng Ngân hàng phải thanh toán các
khoản nợ đến hạn (do sự biến động của tài sản Nợ và Tài sản Có trong quá
trình hoạt động).
-
Do có nhiều khoản vay kém chất lượng nên Ngân hàng không thu được nợ
làm cho Ngân hàng không có đủ tiền để thực hiện các cam kết với khách
hàng hay nói cách khác Ngân hàng không có khả năng thanh toán các giao
dịch của khách hàng theo các cam kết (thiếu hoặc mất khả năng thanh
toán).
-
Do những người gửi tiền đồng thời có nhu cầu rút tiền gửi ở Ngân hàng
ngay lập tức. Hoặc có dòng tiền lớn rút ra đột ngột do yếu tố mất ổn định
vĩ mô, do thông tin bất lợi cho Ngân hàng.
7
Chuyên đề tốt nghiệp
Thiếu khả năng thanh toán là thiếu tiền theo dự kiến, điều này đòi hỏi
Ngân hàng phải bù đắp lượng tiền thiếu với chi phí cao hơn bình thường dẫn đến
làm giảm lợi nhuận. Khi lợi nhuận giảm qua số cân bằng thu chi làm cho NH bị
lỗ trong kinh doanh. Nếu số lỗ này không được bù đắp và ngày càng tăng lên do
việc huy động vốn đảm bảo khả năng thanh toán sẽ dẫn đến việc NH bị phá sản.
Ngược lại khi Ngân hàng thừa khả năng thanh toán (tức là duy trì số tiền không
sinh lời hoặc sinh lời thấp quá lớn để đảm bảo khả năng thanh toán) cũng sẽ dẫn
đến thu nhập thấp, giảm khả năng sinh lời của Ngân hàng.
Trường hợp mất khả năng thanh toán cũng dẫn đến việc NH bị phá sản vì
mọi khách hàng là chủ nợ của NH sẽ cùng rút tiền ồ ạt (kể cả những khoản nợ

chưa đến hạn) trong khi những khách nợ của NH không thanh toán vì các khoản
nợ chưa đến hạn mà NH không thể huy động được tiền, kể cả việc chi phí cao
hơn mức bình thường.
Khi bị phá sản do mất khả năng thanh toán, hậu quả không phải chỉ xảy ra
đối với chính Ngân hàng đó mà nó thường kéo theo sự rút tiền ồ ạt của khách
hàng tại các Ngân hàng khác. Trường hợp xảy ra đối với NHTM cổ phần Á Châu
cuối năm 2003 là một minh chứng cho việc đó. Khi khách hàng rút tiền tại
NHTm cổ phần Á Châu, nhiều NH khác trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đã
phải xây dựng kế hoạch ứng phó trong trường hợp sự rút tiền ồ ạt của khách
hàng lan truyền. Vì vậy các Ngân hàng phải tính toán nhu cầu khả năng thanh
toán đó là việc tính toán nhu cầu phải chi và có thể phải chi của Ngân hàng.
1.1.2.5 Rủi ro trong dịch vụ bảo quản và quản lý chứng từ có giá
Trong điều kiện kinh tế thị trường như hiện nay, việc các Ngân hàng
thương mại đa dạng hoá hoạt động của mình được coi là những thay đổi tất yếu.
Một trong những hoạt động đó là bảo quản và quản lý chứng từ có giá, một công
8
Chuyên đề tốt nghiệp
việc được xem là có nhiều rủi ro. Vậy rủi ro trong quản lý và bảo quản chứng từ
có giá là gì? Đó là khả năng xảy ra những tổn thất mà Ngân hàng phải gánh chịu
trong việc quản lý và kinh doanh các loại chứng từ có giá. Các loại rủi ro mà
Ngân hàng phải chịu khi kinh doanh chứng khoán rất cao; những rủi ro đó bao
gồm:
-
Rủi ro thị trường: các giấy tờ có giá do các Ngân hàng thương mại nắm
giữ luôn có khả năng thay đổi giá trị do các tác động từ thị trường, hay từ chính
bản thân Ngân hàng thương mại, hoặc từ Chính phủ…Vì vậy các Ngân hàng
thương mại sẽ bị giảm giá trị tài sản nếu như dự đoán không đúng về tình hình
thị trường, gây ra những thiệt hại nhất định đối với Ngân hàng.
-
Rủi ro do người phát hành giấy tờ có giá không thể thanh toán được:

mọi giấy tờ có giá mà một Ngân hàng thương mại nắm giữ đều tiềm ẩn rủi ro
này (ngoại trừ trái phiếu Chính phủ). Các Ngân hàng thưong mại có thể chọn
loại hình giấy tờ có giá để đầu tư cho phù hợp với mục đích chính của mình,
nhưng luôn phải đánh giá đúng mức rủi ro của chứng khoán đó. Việc người phát
hành không thể thanh toán được luôn gây ra những thiệt hại đáng kể đối với các
Ngân hàng; nó gián tiếp gây ra những thiệt hại đối với toàn bộ hệ thống kinh tế
quốc gia. Chính vì thế mà các quốc gia đều đặt ra những quy định chỉ cho phép
Ngân hàng thương mại được phép kinh doanh số chứng khoán đã được xếp hạng
ở một mức nào đó.
-
Rủi ro nhân sự: hoạt động kinh doanh giấy tờ có giá của Ngân hàng
thương mại rất đa dạng. Nó đòi hỏi sự độc lập của các cá nhân, nhân viên Ngân
hàng. Chính vì thế mà những rủi ro phát sinh bởi chính các nhân viên của Ngân
hàng là điều không thể tránh khỏi, đặc biệt là trong hoạt động môi giới đầu tư
cho khách hàng.
9
Chuyên đề tốt nghiệp
-
Rủi ro do yêu cầu thanh khoản: các Ngân hàng luôn phải đáp ứng một
nhu cầu thanh khoản nhất định và việc đầu tư vào giấy tờ có giá có thể làm giảm
khả năng thanh khoản của Ngân hàng, làm tăng rủi ro do yêu cầu thanh khoản.
-
Rủi ro khác: các rủi ro khác mà một Ngân hàng phải đối mặt trong quản
lý và kinh doanh giấy tờ có giá bao gồm những rủi ro như cháy, mất mát, cướp…
Và còn nhiều rủi ro tới từ các hoạt động khác của Ngân hàng, chúng luôn có tác
động qua lại lẫn nhau.
1.1.2.6 Rủi ro khác
Ngoài các rủi ro trên Ngân hàng còn phải đối mặt với nhiều loại rủi ro
quan trọng khác như:
-

Rủi ro chính trị: khi xảy ra những thay đổi về pháp luật, những quy định
về luật pháp trong và ngoài nước sẽ có ảnh hưởng xấu tới thu nhập của Ngân
hàng.
-
Rủi ro phạm tội: xảy ra khi những người chủ Ngân hàng, nhân viên hay
các khách hàng có hành vi phạm pháp như thực hiện các hành động lừa đảo, biển
thủ, trộm cắp, hay các hành động bất hợp pháp khác làm Ngân hàng thua lỗ.
-
Rủi ro do các tình huống bất ngờ: đó là các tình huống mang tính chất
bất ngờ như động đất, núi lửa, hoả hoạn….
1.2 Rủi ro tín dụng trong hoạt động của Ngân hàng thương mại
1.2.1 Khái niệm về rủi ro tín dụng
Như đã trình bày ở phần trên: rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn
thất mà Ngân hàng phải gánh chịu do khách hàng không trả đầy đủ cả gốc và lãi
của khoản vay, hoặc là việc thanh toán nợ gốc và lãi không đúng hạn.
10
Chuyên đề tốt nghiệp
Rủi ro tín dụng là kết quả của việc Ngân hàng cấp tín dụng cho khách
hàng và Ngân hàng nhận được các giấy nhận nợ do con nợ phát hành với sự cam
kết là sẽ thanh toán cả gốc và lãi đúng hạn cho Ngân hàng. Do đó tại thời điểm
cấp tín dụng và chấp nhận giấy nhận nợ nghĩa là Ngân hàng đã thừa nhận khả
năng thanh toán đầy đủ và đúng hạn của khách hàng mình với một xác suất cao,
còn xác suất mất khả năng thanh toán của khách hàng là thấp hơn nhiều. Trái
phiếu coupon có thu nhập cố định và giấy nhận nợ tín dụng đối với Ngân hàng là
hai ví dụ điển hình về giấy nhận nợ do công ty phát hành. Trong cả hai trường
hợp, Ngân hàng đều đầu tư vào các giấy nhận nợ nhằm nhận được trái tức từ trái
phiếu và lãi suất từ khoản tín dụng nếu người vay tiền không bị phá sản. Trường
hợp người vay tiền phá sản, Ngân hàng thường không thu được lợi tức cũng như
lãi suất và có thể bị mất toàn bộ hoặc một phần vốn gốc là phụ thuộc vào khả
năng Ngân hàng tiếp cận đối với tài sản của con nợ trong khi giải quyết phá sản

hoặc giải thể.
Sau đây là phân phối xác suất lợi tức đầu tư Ngân hàng vào trái phiếu và
các khoản cho vay tín dụng.
Đồ thị 1.1: Phân phối xác suất của lợi tức đầu tư


11
P=1
0
gốc gốc và lãi
tiền hoàn trả
Xác suất (p)
Chuyên đề tốt nghiệp
Chúng ta thấy rằng đỉnh của đồ thị biểu diễn xác suất hoàn trả đầy đủ cả
gốc và lãi của khoản vay là tương đối cao (tuy nhiên luôn nhỏ hơn 1). Đặc điểm
luân chuyển vốn của các công ty có thể là nguyên nhân gây nên rủi ro tín dụng ở
các mức độ khác nhau. Tỷ lệ không thanh toán được một phần hay toàn bộ tiền
lãi là khoảng cách từ điểm “gốc” đến điểm “gốc và lãi”; và tỷ lệ không thanh
toán được một phần hay toàn bộ tiền gốc là từ điểm “0” đến điểm “gốc”. Đồ thị
1.1 cũng chỉ ra rằng xác suất mà ngân hàng thu được cả gốc và lãi là cao hơn
nhiều so với trường hợp không thu được cả gốc và lãi, điều này nói lên rằng bổn
phận của Ngân hàng là phải đánh giá được mức độ rủi ro dự tính của các khoản
đầu tư và đặt yêu cầu cho phần thu nhập phụ trội so với rủi ro tương xứng với
mức độ rủi ro của các chứng khoán mà Ngân hàng nắm giữ.
Đồ thị 1.2: Phân bổ xác suất rủi ro đối với một danh mục đầu tư



Sự phân bổ lợi tức đối với rủi ro tín dụng đặt ra cho Ngân hàng là phải
giám sát và thu thập được những thông tin về công ty mà Ngân hàng đã đầu tư.

Nghĩa là chiến lược quản trị rủi ro tín dụng cùng với việc quản trị công ty hiệu
12
P=1
0
h
o
à
n
t
rả

tố
i

đ
a
tiền hoàn trả
Xác suất (p)
Chuyên đề tốt nghiệp
quả có ảnh hưởng đến đường cong phân bổ xác suất trong việc thu hồi tín dụng.
Ngoài ra, sự phân bổ rủi ro tín dụng trên Đồ thị 1.1 là trường hợp chỉ đầu tư vào
một loại tài sản và đo mức độ rủi ro của nó. Một trong những lợi thế của Ngân
hàng so với những nhà đầu tư riêng lẻ là khả năng đa dạng hoá danh mục đầu tư
của Ngân hàng là rất lớn, và thông qua việc đa dạng hoá danh mục đầu tư thì rủi
ro tín dụng giảm đáng kể. Trong phạm vi Đồ thị 1.1 nếu thông qua đa dạng hoá
đầu tư thì rủi ro tín dụng sẽ được làm dịu đi. Trong trường hợp, một Ngân hàng
thực hiện tốt việc đa dạng hoá danh mục đầu tư của mình, thì hình dáng đồ thị
phân bổ xác suất thu hồi gốc và lãi như được chỉ ra ở Đồ thị 1.2.
Ngân hàng thu được lượng tiền cực đại khi mà toàn bộ các khoản tín dụng
và trái phiếu được đầu tư thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi. Trong thực tế, một số

khoản tín dụng và trái phiếu không thể thu hồi đủ, thu đúng được một phần hay
toàn bộ số lãi và gốc. Vì vậy, mức độ thu hồi trung bình của các danh mục đầu tư
có thể nhỏ hơn so với trường hợp thu được đầy đủ cả gốc và lãi. Kết quả của
việc đa dạng hoá đầu tư là việc hạn chế được xác suất xảy ra các hậu quả xấu
trong danh mục đầu tư. Một danh mục đầu tư được đa dạng hóa đã rút ngắn được
phạm vi rủi ro tín dụng. Trong thực tế, đa dạng hoá danh mục đầu tư chỉ có thể
giảm được rủi ro tín dụng đặc thù riêng của các ngành kinh tế, tuy nhiên rủi ro có
tính chất hệ thống, chung cho cả nền kinh tế có ảnh hưởng đến tất cả các ngành
kinh tế thì không thể loại trừ được.
1.2.2 Các hình thức biểu hiện của rủi ro tín dụng
1.2.2.1 Nợ có vấn đề
Khi thực hiện nghiệp vụ cho vay, các Ngân hàng thương mại đều mong
muốn rằng khoản cho vay đó sẽ được hoàn trả đầy đủ, đúng thời hạn như đã thoả
thuận. Vì vậy, để đảm bảo an toàn cho hoạt động của mình, sau khi cấp tín dụng
13
Chuyên đề tốt nghiệp
cho khách hàng, Ngân hàng phải thường xuyên giám sát khoản tín dụng đã cấp
đó, để xem khách hàng có sử dụng vốn đúng mục đích đã thoả thuận không? Và
mức độ hiệu quả sử dụng vốn vay của khách hàng như thế nào?
Do đó có thể nói rằng, hoạt động giám sát có vai trò hết sức quan trọng: nó
hướng vào những dấu hiệu báo trước các vấn đề kinh doanh nảy sinh, cũng như
những biện pháp khắc phục, giúp Ngân hàng nhận biết và phát hiện được các
khoản nợ xấu có vấn đề, để có hành động và biện pháp cần thiết, kịp thời để
ngăn ngừa hoặc xử lý.
Nợ có vấn đề là những khoản vay, trong đó thoả thuận hoàn trả của khách
hàng có khả năng đổ vỡ, dù hiện tại những khoản vay đó chưa đến kỳ hạn trả nợ
gốc và lãi.
Muốn tránh được thiệt hại và tổn thất, thì cán bộ tín dụng cần sớm phát
hiện ra những khoản nợ có vấn đề, để kịp thời ngăn ngừa hoặc xử lý. Nếu không
có thể sẽ không giải quyết được vấn đề trước khi tình hình trở nên xấu hơn.

Trong thực tế có nhiều dấu hiệu biểu hiện khoản vay sẽ gặp khó khăn. Một số
trường hợp cho thấy khó khăn xuất hiện ngay khi bắt đầu cho vay, một số khác
có thể xuất hiện chậm hơn, và một số đột ngột phát sinh mà không hề có dấu
hiệu báo trước. Như vậy có nghĩa là không có một mô hình nhất định nào về các
biến cố thường xuyên xảy ra để có thể kết luận rằng một khoản cho vay sẽ khó
hoàn trả. Tuy nhiên, ta có thể dựa vào một số nhóm dấu hiệu để cảnh báo rủi ro
tín dụng trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng.
1.2.2.2 Nợ quá hạn
Nợ quá hạn là một khoản tín dụng được cấp ra nhưng không thể thu hồi
được đúng hạn, do những nguyên nhân khác nhau gây ra. Nợ quá hạn sẽ làm
tăng các khoản chi phí cho việc đi đòi nợ, làm tăng chi phí cho hoạt động kinh
14
Chuyên đề tốt nghiệp
doanh nên có ảnh hưởng xấu tới hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Nợ quá
hạn cũng sẽ làm mất cân bằng các cân đối tài chính, ảnh hưởng xấu tới tính chủ
động trong kế hoạch nguồn vốn của Ngân hàng. Quy mô nợ quá hạn càng lớn thì
tính rủi ro càng cao. Tuy vậy, nó còn phụ thuộc vào cả quy mô cho vay của Ngân
hàng.
Tỷ lệ nợ quá hạn = (Nợ quá hạn / Tổng dư nợ) là một chỉ tiêu mà hầu hết
các Ngân hàng đều sử dụng để đánh giá mức độ rủi ro trong hoạt động tín dụng.
Nếu tỷ lệ đó cao thì có thể nói rằng hoạt động tín dụng của Ngân hàng là không
hiệu quả, nguy cơ rủi ro tín dụng rất có khả năng xảy ra, Ngân hàng cần phải
xem xét lại quy trình cho vay của mình nhằm làm giảm bớt nợ quá hạn. Ngược
lại, nếu tỷ lệ đó thấp thì rủi ro tín dụng nếu có xảy ra cũng không ảnh hưởng lớn
tới hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
1.2.2.3 Nợ khó đòi
Nợ khó đòi là nợ quá hạn không được thanh toán, mặc dù Ngân hàng đã
gia hạn nợ. Chính vì vậy có thể nói đây là chỉ tiêu rõ ràng nhất để phản ánh mức
độ tổn thất trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Hầu hết các Ngân hàng
thương mại đều thực hiện lập quỹ dự phòng rủi ro bằng 100% số nợ khó đòi.

Tỷ lệ nợ khó đòi = (Nợ khó đòi / Tổng dư nợ) cho biết Ngân hàng cho
vay 100 đơn vị tiền tệ thì tỷ lệ tổn thất bao nhiêu đơn vị tiền tệ. Nợ khó đòi và tỷ
lệ nợ khó đòi = (Nợ khó đòi / Tổng dư nợ) phản ánh trực tiếp chất lượng tín dụng
nói riêng và hoạt động kinh doanh của Ngân hàng nói chung. Nợ khó đòi cao
làm cho Ngân hàng phải trích lập quỹ dự phòng rủi ro nhiều hơn, chi phí hoạt
động kinh doanh của Ngân hàng sẽ tăng, qua đó đẩy lãi suất cho vay của Ngân
hàng tăng lên, làm giảm tính cạnh tranh của Ngân hàng.
15
Chuyên đề tốt nghiệp
1.2.2.4 Lãi treo
Lãi treo là số tiền lãi mà khách hàng không trả được cho Ngân hàng khi
đến hạn thanh toán. Đây cũng là một dấu hiệu quan trọng để nhận biết rủi ro tín
dụng. Bởi vì việc thanh toán lãi thường không gắn liền với việc trả gốc, và có giá
trị nhỏ hơn gốc rất nhiều, được trả vào những thời điểm nhất định, tuỳ theo sự
thoả thuận của Ngân hàng và khách hàng. Khi khách hàng không thanh toán
được tiền lãi của khoản vay thì có thể coi đấy là một dấu hiệu thể hiện rằng
doanh nghiệp đang gặp khó khăn về tài chính.
Tỷ lệ (Lãi treo phát sinh / Tổng thu nhập) từ hoạt động tín dụng, cũng là
một chỉ tiêu quan trọng trong việc đánh giá mức độ rủi ro của Ngân hàng.
Tuy nhiên việc nhận biết rủi ro tín dụng nếu chỉ thông qua các khoản nợ
có vấn đề, nợ quá hạn, nợ khó đòi và lãi treo thì dường như đã khá là muộn đối
với các Ngân hàng. Bởi vì chỉ khi tình hình của khách hàng là khó khăn đặc biệt
thì những dấu hiệu này mới bộc lộ. Đến lúc đó thì tổn thất mà Ngân hàng có thể
gặp phải sẽ là rất lớn. Vậy nên, điều mà các Ngân hàng quan tâm là những dấu
hiệu có thể tạo ra rủi ro tín dụng; để từ đó có thể chủ động và kịp thời đưa ra
biện pháp phù hợp, nhằm hạn chế những khó khăn tổn thất cho cả Ngân hàng và
khách hàng. Do đó, ngoài các dấu hiệu ở trên, các cán bộ tín dụng còn nhận biết
rủi ro tín dụng thông qua một số dấu hiệu khác.
1.2.2.5 Cơ cấu dư nợ tín dụng
Giống như mọi hoạt động đầu tư khác: hoạt động tín dụng của Ngân hàng

cũng phải tuân thủ nguyên tắc “không bỏ tất cả trứng vào một giỏ”. Bởi vì doanh
thu của Ngân hàng chủ yếu từ lãi do hoạt động tín dụng mang lại. Nếu tỷ trọng
cho vay đối với một khách hàng trong tổng dư nợ quá lớn thì khi khách hàng này
gặp khó khăn trong việc trả nợ cho Ngân hàng, sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới doanh
16
Chuyên đề tốt nghiệp
thu của Ngân hàng. Cũng như vậy, nếu Ngân hàng chỉ tập trung cho các doanh
nghiệp hoạt động trong một lĩnh vực nào đó vay thì rủi ro sẽ là rất lớn nếu như
ngành đó hoạt động không hiệu quả.
1.2.2.6 Một số dấu hiệu khác
• Nhóm các dấu hiệu về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
-
Khả năng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp giảm sút, thể hiện ở giá
trị sản lượng và doanh thu của doanh nghiệp bị giảm.
-
Thu nhập không thường xuyên và ổn định: cơ cấu doanh thu thay đổi bất
thường, như doanh thu các hoạt động phụ chiếm tỷ trọng lớn hơn…
-
Hệ số quay vòng vốn lưu động thấp, có sự gia tăng bất thường về hàng tồn
kho và sự gia ttăng các khoản nợ thương mại, đặc biệt là các khoản nợ với
thời gian dài.
• Nhóm các dấu hiệu liên quan đến phương pháp quản lý và tổ chức
của khách hàng.
- Thay đổi thường xuyên cơ cấu của hệ thống quản lý hoặc ban điều hành
- Có sự mất đoàn kết, bè cánh, tranh giành quyền lực trong nội bộ doanh
nghiệp, có hiện tượng nhân tài rời bỏ doanh nghiệp.
- Hệ thống quản trị hoặc ban điều hành luôn bất đồng về mục đích, điều
hành độc đoán hoặc quá phân tán.
- Cơ cấu nhân lực của doanh nghiệp không hợp lý, bộ phận quản lý ngày

càng phình to, có các hoạt động sát nhập với các doanh nghiệp yếu kém
khác.
- Có những khoản chi phí bất hợp lý.
17
Chuyên đề tốt nghiệp
Ngoài ra còn có một số dấu hiệu khác như: nhóm các dấu hiệu thuộc về
mặt pháp luật, nhóm các dấu hiệu thuộc về kỹ thuật và thương mại….
1.2.3 Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng cho Ngân hàng, có thể
phân thành các loại nguyên nhân như sau:
1.2.3.1 Những nguyên nhân bất khả kháng
Những nguyên nhân bất khả kháng tác động tới người vay, làm mất khả
năng thanh toán cho Ngân hàng. Ví dụ: Thiên tai, chiến tranh, hoặc những thay
đổi tầm vĩ mô (thay đổi của Chính phủ, chính sách kinh tế, hàng rào thuế
quan…) vượt quá tầm kiểm soát của người vay lẫn người cho vay.
Những thay đổi này thường xuyên xảy ra, tác động liên tục tới người vay,
tạo thuận lợi hoặc khó khăn cho người vay. Nhiều người vay, với bản lĩnh của
mình có khả năng dự báo, thích ứng, hoặc khắc phục những khó khăn. Trong
những trường hợp khác, người vay có thể sẽ bị tổn thất song vẫn có thể trả nợ
cho Ngân hàng đúng hạn, đủ gốc và lãi. Tuy nhiên, khi tác động của những
nguyên nhân bất khả kháng đối với người vay là nặng nề thì khả năng trả nợ của
họ bị suy giảm.
1.2.3.2 Nguyên nhân thuộc về chủ quan người vay
Trình độ yếu kém của người vay trong dự đoán các vấn đề kinh tế, yếu
kém trong quản lý, chủ định lừa đảo cán bộ Ngân hàng, chây ì…. là nguyên nhân
gây ra rủi ro tín dụng. Rất nhiều người vay sẵn sàng mạo hiểm với kì vọng thu
được lợi nhuận cao. Để đạt được mục đích của mình, họ sẵn sàng tìm mọi thủ
đoạn ứng phó với Ngân hàng như cung cấp thông tin sai, mua chuộc… Nhiều
người vay đã không tính toán kĩ lưỡng hoặc không có khả năng tính toán kĩ
lưỡng những bất trắc có thể xảy ra, không có khả năng thích ứng và khắc phục

18
Chuyên đề tốt nghiệp
khó khăn trong kinh doanh. Trong trường hợp còn lại, người vay kinh doanh có
lãi song vẫn không trả nợ cho Ngân hàng đúng hẹn, chây ì với hy vọng có thể
quỵt nợ hoặc sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt.
1.2.3.3 Nguyên nhân thuộc về Ngân hàng
Chất lượng cán bộ kém, không đủ trình độ đánh giá khách hàng hoặc
đánh giá không tốt, cố tình làm sai…. Là một trong những nguyên nhân của rủi
ro tín dụng. Nhân viên Ngân hàng phải tiếp cận với nhiều ngành nghề, nhiều
vùng, thậm chí nhiều quốc gia. Để cho vay tốt, họ phải am hiểu khách hàng, lĩnh
vực mà khách hàng kinh doanh, môi trường mà khách hàng sống. Họ phải có khả
năng dự báo các vấn đề liên quan người vay…. Như vậy họ cần phải được đào
tạo và tự đào tạo kĩ lưỡng, liên tục và toàn diện. Khi nhân viên tín dụng cho vay
đối với khách hàng mà họ chưa đủ trình độ để hiểu kĩ lưỡng, rủi ro tín dụng luôn
rình rập họ. Sống trong môi trường “tiền bạc”, nhiều nhân viên Ngân hàng đã
không tránh khỏi cám dỗ của đồng tiền. Họ tiếp tay cho khách hàng rút ruột
Ngân hàng. Như vậy, chất lượng nhân viên Ngân hàng bao gồm trình độ và đạo
đức nghề nghiệp không đảm bảo là nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng.
1.3 Thực trạng rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thương mại
Việt Nam
1.3.1 Các loại rủi ro tín dụng
Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước về việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi
ro tín dụng trong hoạt động Ngân hàng của tổ chức tín dụng.
Theo Quyết định này khái niệm nợ được định nghĩa rất rộng. Nợ không
chỉ bao gồm các khoản cho vay, cho thuê tài chính, chiết khấu, tái chiết khấu
19
Chuyên đề tốt nghiệp
thương phiếu và các giấy tờ có giá khác, tiền trả thay cho người được bảo lãnh,
mà còn bao gồm các khoản ứng trước, thấu chi và các khoản bao thanh toán (một

hình thức cấp tín dụng mới được phép theo Quy chế bao thanh toán của các
TCTD ban hành kèm theo Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN ngày 6/9/2004
của NHNN) và các hình thức tín dụng khác.
Việc phân loại nợ cũng được xác định hết sức rõ ràng. Theo phương pháp
“định lượng” Quyết định 493 đã phân loại nợ thành 5 nhóm, bao gồm:
Nhóm 1: nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm nợ trong hạn được đánh giá có khả
năng thu hồi đủ gốc và lãi đúng hạn và các khoản nợ có thể phát sinh trong
tương lai như các khoản bảo lãnh, cam kết cho vay, chấp nhận thanh toán.
Nhóm 2: nợ cần chú ý, bao gồm nợ quá hạn dưới 90 ngày và cơ cấu lại
thời hạn trả nợ.
Nhóm 3: nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180
ngày và nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn 90 ngày.
Nhóm 4: nợ nghi ngờ, bao gồm nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày và
nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ từ 90 ngày đến 180 ngày.
Nhóm 5: nợ có khả năng mất vốn, bao gồm nợ quá hạn trên 360 ngày, nợ
cơ cấu lại thời hạn trả nợ trên 180 ngày và nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý.
Tuy nhiên cần lưu ý là cho dù có tiêu chí thời gian quá hạn trả nợ cụ thể để
phân loại nợ như trên, các tổ chức tín dụng (TCTD) và Ngân hàng (NH) vẫn có
quyền chủ động tự quyết định phân loại nợ nào vào nhóm nợ rủi ro cao hơn
tưong ứng với mức độ rủi ro nếu đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng suy
giảm.
Điều đặc biệt ở Quyết định này là lần đầu tiên phương pháp “định tính”
được cho phép áp dụng đối với các TCTD đủ điều kiện. Theo phương pháp này
20
Chuyên đề tốt nghiệp
nợ cũng được phân thành 5 nhóm nợ tương ứng như 5 nhóm nợ theo cách phân
loại “định lượng”, nhưng không nhất thiết căn cứ vào số ngày quá hạn chưa
thanh toán nợ, mà căn cứ trên hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ và chính sách
dự phòng rủi ro của TCTD được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận. Các nhóm nợ
bao gồm:

Nhóm 1: nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng thu
hồi đầy đủ gốc và lãi đúng hạn.
Nhóm 2: nợ cần chú ý, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng thu hồi
đầy đủ gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ.
Nhóm 3: nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ được đánh giá là không có khả
năng thu hồi gốc và lãi khi đến hạn.
Nhóm 4: nợ nghi ngờ, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng tổn thất
cao.
Nhóm 5: nợ có khả năng mất vốn, bao gồm nợ được đánh giá là không
còn khả năng thu hồi, mất vốn.
Như vậy Quyết định 493 đặt ra yêu cầu quản lý nợ, kiểm soát rủi ro cao
hơn đối với các TCTD và việc thi hành Quyết định 493 sẽ đánh giá đúng bản
chất và chất lượng tín dụng của các TCTD. Những chuẩn mực đặt ra trong quy
định này đã hướng tới sự hoà nhập với chuẩn mực thế giới tức là yêu cầu cao
hơn. Việc thi hành những quy định mới sẽ đòi hỏi có những thay đổi mới ở các
Ngân hàng thương mại và cả Ngân hàng Nhà nước, vì những chi phí phát sinh từ
những thay đổi đó sẽ chuyển sang khách hàng vay nên chi phí cho vay sẽ có thể
tăng. Các NH cũng sẽ ưu tiên cho việc cho vay có bảo đảm để giảm gánh nặng
về dự phòng rủi ro.
21
Chuyên đề tốt nghiệp
1.3.2 Tình hình rủi ro tín dụng ở các NH thương mại Việt Nam
Kể từ khi Quyết định 493 ra đời, giới NH cũng e ngại rằng con số biểu thị
nợ xấu của họ sẽ bị đẩy lên cao hơn nhiều so với trước đây. Tuy nhiên tỷ lệ nợ
xấu của các NH không đáng ngại lắm, theo phát ngôn chính thống từ Ngân hàng
Nhà nước tỷ lệ nợ xấu tổng hợp toàn bộ hệ thống NH tính đến cuối năm 2005 là
4,4%. Phải chăng con số này quá đẹp, tuy nhiên Ngân hàng Nhà nước đã tổ chức
kiểm tra và làm việc với 5 NH thương mại quốc doanh. Theo Thống đốc Lê Đức
Thuý, “kết quả kiểm tra cũng không xấu”. Bình quân tỷ lệ nợ xấu các NH tự xếp
theo chuẩn mới là 6,27%, còn theo kết quả kiểm tra của Ngân hàng Nhà nước là

7,7%. Với các ngân hàng quốc doanh, nợ xấu theo chuẩn mới hiện ở mức trên
dưới 23 ngàn tỷ (tính đến tháng 11/2005). Với khối NH thương mại cổ phần, nợ
xấu dường như không phải là vấn đề lớn khi hầu hết các NH đều có một con số
khá đẹp, phần lớn đều nằm dưới mức 1%. Một số NH vừa thoát hiểm như
Eximbank cũng có tỷ lệ nợ xấu khả quan dưới 4%; với VP Bank, nợ xấu chỉ ở
khoảng 0,8-0,9%
Sang năm 2006, khi kết thúc hầu hết các NH đều đứng trước những con số
lợi nhuận ấn tượng. Có thể nói năm 2006 là năm thành công nhất của ngành NH
Việt Nam từ trước đến nay. Nhưng có giá trị hơn, có chiều sâu hơn là những
chuyển biến tích cực của việc xử lý nợ xấu. Nợ xấu của NH Ngoại thương Việt
Nam (Vietcombank) đang ở mức khoảng 2,9-3,0% tổng dư nợ, cao hơn tiêu chí
phân loại cũ là 0,6%. Và nếu so với mặt bằng chung cách đây khoảng 5 năm thì
đó là một tỷ lệ quá lý tưởng (so với 12-13%). Tỷ lệ nợ xấu của các NH quốc
doanh còn lại có mức chênh lệch đáng kể: NH Công thương (Incombank) ở vào
khoảng 6% tổng dư nợ, NH Đầu tư và phát triển (BIDV) ở khoảng 9% tổng dư
22
Chuyên đề tốt nghiệp
nợ. Với NH thương mại cổ phần, tỷ lệ trên còn thấp hơn nhiều. Theo báo cáo của
một số NH cổ phần, tỷ lệ nợ xấu chỉ xoay quanh mức 1%.
Điều đặc biệt, sau khi thống nhất với bộ tài chính, Ngân hàng Nhà nước đã
có công văn quy định một số nhóm nợ mà NH thương mại nhà nước được bán
cho Công ty mua nợ, bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp (DATC).
Theo công văn số 7129/NHNN-TD ngày 18/8/2006 của Ngân hàng Nhà nước,
các khoản nợ xấu mà NH thương mại nhà nước được bán cho DATC gồm nợ
dưới tiêu chuẩn, nợ nghi ngờ, nợ có khả năng mất vốn.
23
Chuyên đề tốt nghiệp
Chương 2: Lý luận về xếp hạng tín dụng doanh nghiệp
2.1 Tổng quan về xếp hạng tín dụng doanh nghiệp
2.1.1 Khái niệm về xếp hạng doanh nghiệp

Xếp hạng doanh nghiệp là thuật ngữ bắt nguồn từ Tiếng Anh là Credit
Ratings trong đó Credit là sự tín nhiệm còn Ratings nghĩa là xếp hạng. Thuật
ngữ này lần đầu tiên xuất hiện vào năm 1909 trong cuốn “Cẩm nang chứng
khoán đường sắt” do John Moody phát hành. Trong cuốn sách này ông đã nghiên
cứu, phân tích và công bố bảng xếp hạng cho 1500 trái phiếu của 250 công ty
theo hệ thống các ký hiệu dễ hiểu, đơn giản được sắp xếp theo thứ tự các chữ cái
ABC. Sau khi phát hành cuốn sách, Moondy vẫn tiếp tục nghiên cứu và cho
công bố bảng xếp hạng của các doanh nghiệp trong các ngành khác. Một số tiêu
chuẩn và những ký hiệu mà Moody đưa ra sau này đã trở thành các chuẩn mực
quốc tế.
Tuy nhiên trong những năm đầu, việc xếp hạng chỉ mang tính chất ngẫu
hứng, lẻ tẻ; trong suốt hơn 50 năm sau khi ra đời hoạt động này cũng chỉ phổ
biến ở Mỹ. Hoạt động này chỉ trở nên phổ biến ở các nước phát triển từ những
năm 1960 và là một hoạt động rất quan trọng của các TCTD, nhưng ở Việt Nam
hoạt động xếp hạng doanh nghiệp chỉ được các TCTD áp dụng từ một vài năm
gần đây.
Hiện nay chưa có một khái niệm thống nhất về hoạt động này nhưng
chúng ta có thể hiểu Xếp hạng doanh nghiệp là sự đánh giá hiện thời về mức
độ sẵn sàng và khả năng trả nợ (gốc và lãi) đối với khoản nợ của doanh nghiệp
trong suốt thời gian tồn tại khoản nợ đó.
24
Chuyên đề tốt nghiệp
Như vậy việc xếp hạng doanh nghiệp được thực hiện trong mối tương
quan giữa hiện tại và quá khứ để từ đó đưa ra những dự đoán về tương lai hay
nói cách khác việc xếp hạng doanh nghiệp là kết quả của quá trình phân tích tỉ
mỉ và kỹ lưỡng tình hình hoạt động của doanh nghiệp, tư cách khách hàng… tại
thời điểm hiện tại và trong quá khứ từ đó dự đoán thứ hạng tín dụng của doanh
nghiệp nhằm xác định khả năng thu hồi vốn (gồm cả gốc và lãi) của các TCTD
và là cơ sở nền tảng cho việc ra quyết định có cấp tín dụng cho doanh nghiệp hay
không và nếu cấp thì ở mức nào là hợp lý.

2.1.2 Sự cần thiết của công tác đánh giá xếp hạng doanh nghiệp
Ngày nay cùng với quá trình phát triển kinh tế, hệ thống các NH thương
mại ngày càng mở rộng để đáp ứng các nhu cầu trong thanh toán tín dụng và các
dịch vụ NH khác. Song song với quá trình đó mức độ rủi ro mà NH gặp phải
ngày càng lớn do sự ảnh hưởng của biến động kinh tế Thế giới, số lượng khách
hàng ngày càng tăng và khó kiểm soát thông tin về họ. Đặc biệt trong hoạt động
tín dụng của NH, nó ngày càng chứa đựng nhiều rủi ro và nhiệm vụ vủa NH là
hạn chế rủi ro thường gặp phải mà vẫn đảm bảo lợi nhuận cho NH. Khi đưa ra
bất kỳ một quyết định cho vay nào, NH cũng phải xem xét đến tình hình sản xuất
kinh doanh và khả năng trả nợ của doanh nghiệp bởi đây sẽ là nhân tố quyết định
đến rủi ro và khả năng thu hồi vốn của NH sau này. Tuy nhiên, không phải lúc
nào, việc đánh giá này cũng chính xác, nhất là khi thông tin về doanh nghiệp lại
bé nhỏ và không đáng tin cậy. Điều này dẫn đến tình trạng: nhiều doanh nghiệp
tốt không có nguồn vốn để phát triển trong khi rất nhiều khoản tín dụng đã được
cấp cho những doanh nghiệp làm ăn kém, không có khả năng trả nợ, thậm chí có
nhiều trường hợp khoản vốn vay còn được sử dụng sai mục đích ban đầu dẫn đến
tổn thất rất lớn cho NH.
25

×