Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

các giải pháp nâng cao tăng cường vốn và nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển trong các doanh nghiệp nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (538.44 KB, 44 trang )

CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TRONG
HỆ THỐNG CÁC DNNN.
I. Lý luận chung về đầu tư,đầu tư phát triển.
1. Khái quát về đầu tư,đầu tư phát triển
1.1.Đầu tư
Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các
hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn
các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được kết quả đó. Như vậy, mục tiêu của mọi
công cuộc đầu tư là đạt được các kết quả lớn hơn so với những hy sinh về
nguồn lực mà người đầu tư phải gánh chịu khi tiến hành đầu tư.
Nguồn lực phải hy sinh có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao
động và trí tuệ.
Đầu tư được chia làm ba loại chính:
- Đầu tư phát triển
- Đầu tư tài chính
- Đầu tư thương mại
Ba loại đầu tư này luôn luôn tồn tại và có quan hệ tương hỗ nhau. Đầu tư
phát triển để tăng tích lũy,phát triển đầu tư tài chính và đầu tư thương
mại.Ngược lại đầu tư tài chính và đầu tư thương mại hỗ trợ và tạo điều kiện
để tăng cường đầu tư phát triển.
1.2.Đầu tư phát triển
1.2.1 Khái niệm đầu tư phát triển
Đầu tư phát triển là bộ phận của đầu tư, là việc chi dùng vốn ở hiện tại để
tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản vật
chất (nhà xưởng thiết bị…) và tài sản trí tuệ (tri thức kỹ năng…), gia tăng
năng lực sản xuất, tạo nên việc làm và vì mục tiêu phát triển.
Đầu tư phát triển cần rất nhiều loại nguồn lực. Theo nghĩa hẹp, nguồn lực
cho đầu tư phát triển là tiền vốn. Theo nghĩa rộng, nguồn lực cho đầu tư phát
1
triển là tiền vốn, đất đai, lao động, máy móc thiết bị, tài nguyên. Như vậy, khi
xem xét lựa chọn dự án đầu tư hay đánh giá hiệu quả hoạt động của đầu tư


phát triển cần tính đúng tính đủ các nguồn lực tham gia.
Đối tượng của đầu tư phát triển là tập hợp các yếu tố được chủ đầu tư bỏ
vốn thực hiện nhằm đạt được nhưng mục tiêu nhất định. Trên quan điểm phân
công lao động xã hội, có hai nhóm đối tượng đầu tư chính đó là đầu tư theo
ngành và đầu tư theo lãnh thổ. Trên góc độ tính chất và mục đích đầu tư, đối
tượng đầu tư chia làm hai nhóm chính: công trình vì mục tiêu lợi nhuận và
công trình phi lợi nhuận. Trên góc độ xem xét mức độ quan trọng, đối tượng
đầu tư chia thành: loại được khuyến khích đầu tư, loại không được khuyến
khích đầu tư và loại bị cấm đầu tư. Từ góc độ tài sản, đối tượng đầu tư chia
thành: những tài sản vật chất (tài sản thực) và tài sản vô hình. Tài sản vật
chất, ở đây, là những tài sản cố định được dùng cho sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp và nền kinh tế và tài sản lưu động. Tài sản vô hình phát minh
sáng chế, uy tín, thương hiệu…
Các kết quả đạt được của đầu tư góp phần làm tăng thêm năng lực sản xuất
của xã hội. Hiệu quả của đầu tư phát triển phản ánh quan hệ so sánh giữa kết
quả xa hội thu được với chi phí chi ra để đạt được kết quả đó. Kết quả và hiệu
quả đầu tư phát triển cần được xem xét cả phương diện chủ đầu tư và xã hội,
đảm bảo kết hợp hài hòa giữa các loại lợi ích, phát huy vai trò chủ động sáng
tạo của chủ đầu tư, vai trò quản lý giám sát của cơ quan quản lý nhà nước các
cấp. Thực tế, có những khoản đầu tư tuy không trực tiếp tạo ra tài sản cố định
và tài sản lưu động cho hoạt động sản xuất kinh doanh như đầu tư cho y tế,
giáo dục, xóa đói giảm nghèo…nhưng lại rát quan trọng để nâng cao chất
lượng cuộc sống và vì mục tiêu phát triển, do đó, cũng được xem là đầu tư
phát triển.
1.2.2 Mục đích và kết quả chung
2
Mục đích của đầu tư phát triển là vì sự phát triển bền vững vì lợi ích quốc
gia, cộng đồng và nhà đầu tư. Trong đó, đầu tư trong nước nhằm thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, tăng thu nhập quốc dân, góp phần giải quyết việc làm và
nâng cao đời sống các thành viên trong xã hội.

1.2.3 Đặc điểm đầu tư phát triển
- Quy mô tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho đầu tư phát triển thường
rất lớn. Vốn đầu tư lớn nằm khê đọng lâu trong suốt quá trình đầu tư. Quy mô
vốn đầu tư lớn đòi hỏi phải có giải pháp tạo vốn và huy động vốn hợp lý, xây
dựng các chính sách, quy hoạch, kế hoạch đầu tư đúng đắn, quản lý chặt chẽ
tổng vốn đầu tư, bố trí vốn theo tiến độ đầu tư, thực hiện đầu tư trọng tâm
trọng điểm.
- Thời kỳ đầu tư kéo dài. Thời kỳ đầu tư tính từ khi khởi công xây dựng dự
án đến khi dự án hoàn thành và đi vào hoạt động. Nhiều công trình đầu tư
phát triển kéo dài hàng chục năm. Do vốn lớn lại khê đọng trong suốt quá
trình thực hiện đầu tư nên để nâng cao hiệu quả sử vốn đầu tư, cần tiến hành
phân kỳ đầu tư, bố trí vốn và các nguồn lực tập trung hoàn thành dứt điểm
từng hạng mục công trình, quản lý chặt chẽ tiến độ kế hoạch đầu tư, khắc
phục tình trạng thiếu vốn, nợ đọng vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
- Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài. Thời gian vận hành các
kết quả đầu tư tính từ khi đưa công trình vào hoạt động cho đến khi hết thời
hạn sử dụng và đào thải công trình. Nhiều thành quả đầu tư phát huy tác dụng
lâu dài, có thể tồn tại vĩnh viễn như Kim Tự Tháp Ai Cập, Nhà Thờ La Mã ở
Rôm, Vạn Lý Trường Thành ở Trung Quốc …. Trong suốt quá trình vận
hành, các thành quả đầu tư chịu tác động của hai mặt, cả tích cực và tiêu cực,
của nhiều yếu tố tự nhiên, chính trị, xã hội…Để thích ứng với đặc điểm này
công tác quản lý hoạt động đầu tư cần chú ý một số nội dung sau:
+ Thứ nhất, cần xây dựng cơ chế và phương pháp dự báo khoa học ở cả
cấp vĩ mô và vi mô về nhu cầu thị trường đối với sản phẩm đầu tư trong tương
lai, dự kiến khả năng cung từng năm và cả vòng đời dự án.
3
+ Thứ hai, quản lý tốt quá trình vận hành, nhanh chóng dưa các thành quả
đầu tư vào sử dụng, hoạt động tối đa công suất để nhanh chóng thu hồi vốn,
tránh hao mòn vô hình.
+ Thứ ba, chú ý đúng mức đến yếu tố độ trễ thời gian trong đầu tư. Đầu tư

trong năm nhưng thành quả đầu tư chưa chắc đã phát huy tác dụng ngay trong
năm đó mà từ những năm sau và kéo dài trong nhiều năm. Đây là đặc điểm rất
riêng của lĩnh vực đầu tư, ảnh hưởng lớn đến công tác quản lý đầu tư.
- Các thành quả trong hoạt động đầu tư phát triển mà là các công trình xây
dựng thường phát huy tác dụng ở ngay tại nơi nó được tạo dựng nên, do đó
quá trình thực hiện đầu tư cũng như thời kỳ vận hành các kết quả đầu tư chịu
ảnh hưởng lớn của các nhân tố tự nhiên, kinh tế, xã hội vùng. Không thể dễ
dàng di chuyển các công trình đã đầu tư từ nơi này sang nơi khác, nên công
tác quản lý đầu tư phát triển cần quán triệt đặc điểm này trên một số nội dung
sau :
+ Trước tiên cần phải có chủ trương đầu tư và quyết định đầu tư đúng đắn.
Đầu tư cái gì, công suất bao nhiêu là hợp lý… cần phải được nghiên cứu kĩ
lưỡng, dựa trên những căn cứ khoa học. Thí dụ, công suất xây dựng nhà máy
sàng tuyển than ở khu vục có mỏ than ( do đó, quy mô vốn đầu tư) phụ thuộc
rất nhiều vào trữ lượng than của mỏ. Nếu trữ lượng của mỏ ít thì quy mô nhà
máy sàng tuyển không nên lớn để đảm bảo cho nhà máy hàng năm hoạt động
hết công suất với số năm tồn tại của nhà máy theo dự kiến trong dự án.
+ Lựa chọn địa điểm đầu tư hợp lý. Để lựa chọn địa điểm đầu tư đúng cần
phải dựa trên những căn cứ khoa học, dựa vào một hệ thống các chỉ tiêu kinh
tế, chính trị, xã hội, môi trường, văn hóa…Cần xây dựng một bộ tiêu chí khác
nhau và nhiều phương án so sánh để lựa chọn vùng lãnh thổ và địa điểm đầu
tư cụ thể hợp lý nhất, sao cho khai thác được tối đa lợi thế vùng và không
gian đầu tư cụ thể, tao điều kiện nâng cao hiệu quả sủ dụng vốn đầu tư.
+ Đầu tư phát triển có độ rủi ro cao. Do quy mô vốn đầu tư lớn, thời kỳ
đầu tư kéo dài và thời gian vận hành các kết quả đầu tư cũng kéo dài…nên
4
mức độ rủi ro của hoạt động đầu tư phát triển thường cao. Rủi ro đầu tư do
nhiều nguyên nhân, trong đó, nguyên nhân chủ quan từ phía các nhà đầu tư
quản lý kém, chất lượng sản phẩm không đạt yêu cầu… có nguyên nhân
khách quan nhu giá nguyên liệu tăng, giá sản phẩm giảm, công suất không

đatj công suất thiết kế…Ví dụ, để nghiên cứu tính khả thi về mặt thị trường,
chủ đầu tư phải nghiên cứu tình hình cung, cầu, giá cả… của sản phẩm dự
dịnh đầu tư của dự án. Với mức giá sản phẩm là 10000đồng/sản phẩm, dự án
xây dựng dòng tiền thu, chi và tính được tổng lợi nhuận thuần của cả vòng đời
dự án. Tổng lợi nhuận thuần cang lớn, quyết định đầu tư càng dễ dàng. Tuy
nhiên nếu khi dự án đi vào hoạt động, giá của sản phẩm giảm và chỉ là 5000
đ, thì trong các điều kiện khác không đổi, tổng lợi nhuận thuần của dự án chỉ
đạt 50% so với dự kiến ban đầu. Đây là rủi ro do giá bán sản phẩm giảm. Như
vậy, để quản lý hoạt động đầu tư có hiệu quả, cần thực hiện các biện pháp
quản lý ruỉ ro bao gồm:
+ Thứ nhất, nhận diện rủi ro đầu tư. Có nhiều nguyên nhân rủi ro, do vay,
việc xác định đúng nguyên nhân rủi ro sẽ là khâu quan trọng đầu tiên đẻ tìm
ra giả pháp phù hợp để khắc phục.
+ Thứ hai, đánh giá mức độ rủi ro. Rủi ro có khi xảy ra rất nghiêm trọng,
nhưng có khi chưa đến mức gây nên nhưng thiệt hại về kinh tế.Đánh giá đúng
mức độ rủi ro sẽ giúp ta đưa ra nhưng biện pháp phòng và chống phù hợp.
+ Thứ ba, xây dựng các biện pháp phòng và chống rủi ro. Mỗi loại rủi ro
và mức độ rủi ro nhiều hay ít sẽ có biện pháp phòng và chống tương ứng
nhằm hạn chế đến mức thấp nhất có thể có do rủi ro này gây ra.
1.2.4 Nguồn vốn cho đầu tư phát triển
Nguồn lực để thực hiện đầu tư là vốn. Nội dung và nguồn gốc của vốn là
những vấn đề cốt lõi cần phải giải quyết của lý thuyết đầu tư phát triển.Bản
chất của đầu tư phát triển còn được thể hiện ở nội dung vốn và nguồn vốn đầu
tư, lý luận biện chứng về mối quan hệ hữu cơ giữa hai vấn đề này.
5
Vốn đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của vốn nói chung. Trên phương
diện kinh tế, vốn đầu tư phát triển là biểu hiện bằng tiền toàn bộ những chi
phí đã chi ra để tạo ra năng lực sản xuất (tăng thêm tài sản cố định và tài sản
lưu động) và các khoản đầu tư phát triển khác.Về cơ bản vốn đầu tư phát triển
mang những đặc trung của vốn như:(1) vốn đại diện cho một lượng giá trị tài

sản;(2) vốn phải vận động sinh lời;(3) vốn cần được tích tụ và tập trung đến
một mức nhất định mới có thể phát huy tác dụng;(4) vốn phải gắn với chủ sở
hữu;(5) vốn có giá trị về mặt thời gian.
Nội dung cơ bản của vốn đầu tư phát triển trên phạm vi nền kinh tế bao
gồm:
(a). Vốn đầu tư xây dựng cơ bản: là những chi phí bằng tiền để xây dựng
mới ,mở rộng,xây dựng lại hoặc khôi phục năng lực sản xuất của tài sản cố
định trong nền kinh tế quốc dân.
(b). Vốn lưu động bổ sung: bao gồm những khoản đầu tư nhằm mua sắm
nguyên vật liệu,thuê mướn lao động…làm tăng tài sản lưu động trong kỳ của
toàn bộ xã hội.
(c). Vốn đầu tư phát triển khác: là tất cả cá khoản đầu tư của xã hội nhằm
gia tăng năng lực phát triển của xã hội,nâng cao trình độ dân trí,cải thiện chất
lượng môi trường.Ví dụ như vốn đầu tư cho lĩnh vực giáo dục:chương trình
phổ cập giáo dục,nghiên cứu,triển khai đầo tạo…Vốn chi cho các chương
trình mục tiêu quốc gia nhằm tăng cường sức khoẻ cộng đồng như chương
trình tiêm chủng mở rộng,chương trình nước sạch nông thôn…
Nguồn vốn đầu tư phát triển là thuật ngữ chỉ các nguồn tích luỹ, tập
trung và phân phối cho đầu tư. Về bản chất, nguồn hình thành vốn đầu tư phát
triển chính là phần tiết kiệm hay tích luỹ mà nền kinh tế có thể huy động để
đưa vào quá trình tái sản xuất xã hội. Nguồn vốn đầu tư phát triển trên
phương diện vĩ mô, bao gồm nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài.
Nguồn vốn trong nước gồm: Vốn nhà nước, vốn dân doanh và vốn trên thị
trường vốn. Nguồn vốn nước ngoài bao gồm: Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
6
(FDI), vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), vốn vay thương mại nước
ngoài và nguồn vốn trên thị trường vốn quốc tế. Trong mỗi thời kỳ khác nhau,
quy mô và tỷ trọng vốn của từng nguồn vốn có thể thay đổi nhưng để chủ
động phát triển KTXH của quốc gia theo định hướng chiến lược và kế hoạch
đặt ra, cần nhất quán quan điểm: xem vốn trong nước giữ vai trò quết định,

vốn nước ngoài là quan trọng.
II.LÝ LUẬN VỀ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC (DNNN).
1. Khái niệm chung về DNNN
Trên cơ sở Nghị quyết Trung ương Ba, khóa IX, Luật DNNN năm
2003, tại Điều 1 đã quy định: "DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu
toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới
hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn".
Đó là những doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc giữ
hơn 50% vốn điều lệ. DNNN được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước,
công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, trong đó:
1 - DNNN có 100% vốn Nhà nước hoạt động theo Luật DNNN mới (năm
2003) được gọi là Công ty nhà nước (để phân biệt với DNNN có 100% vốn
nhà nước hoạt động theo các luật khác);
2 - Công ty cổ phần, công ty TNHH một hoặc hai thành viên trở lên có 100%
vốn Nhà nước hoạt động theo Luật Doanh nghiệp;
3 - Công ty cổ phần, Công ty TNHH hai thành viên trở lên có cổ phần chi
phối hoặc vốn góp chi phối của Nhà nước hoạt động theo Luật Doanh nghiệp,
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Do khái niệm DNNN được mở rộng hơn trước đây, cho nên, nếu dùng
cùng một khái niệm DNNN thì dễ lẫn lộn giữa ba loại DNNN nói trên. Để
phân biệt giữa DNNN hoạt động theo Luật DNNN mới với DNNN hoạt động
theo các luật khác, loại DNNN do Nhà nước thành lập, sở hữu 100% vốn điều
7
lệ hoạt động theo luật DNNN mới (Luật DNNN năm 1995 gọi là DNNN)
được gọi là Công ty Nhà nước.
Ngoài ra theo khoản 1 điều 4 chương I của Luật doanh nghiệp 2005 (sửa
đổi) thì: “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở
giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật
nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”.
Cũng theo khoản 22 điều 4 chương I của luật này thì “DNNN là doanh

nghiệp trong đó nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ”.
Vai trò chủ đạo của DNNN thể hiện qua:
Vai trò kinh tế: DNNN giúp khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị
trường; đảm nhận các lĩnh vực sản xuất - kinh doanh có tính chiến lược đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội đòi hỏi vốn đầu tư lớn vượt quá khả năng của
tư nhân; tham gia vào những lĩnh vực khoa học-công nghệ mũi nhọn, có hệ số
rủi ro cao; tham gia vào một số ngành có lợi thế cạnh tranh.
Vai trò chính trị: Một là, DNNN nắm giữ những ngành đặc biệt quan trọng
liên quan đến an ninh, quốc phòng quốc gia. Hai là, DNNN tham gia chiếm
giữ một số vị trí thiết yếu, quan trọng (tuỳ theo từng thời kỳ phát triển kinh tế)
để chủ động định hướng xã hội, làm đối trọng trong phát triển hội nhập kinh
tế quốc tế.
Vai trò xã hội: DNNN gánh vác chức năng và vai trò xã hội và khác biệt so
với các loại hình doanh nghiệp khác, những ngành ở những địa bàn khó khăn
có ý nghĩa chính trị-xã hội mà tư nhân không muốn đầu tư, đảm bảo cân bằng
về đầu tư phát triển theo vùng, miền, đảm nhận các ngành sản xuất hàng hoá
công cộng thiết yếu.
.
2.Các nội dung cơ bản của đầu tư phát triển trong DNNN.
Theo khái niệm, nội dung đầu tư phát triển bao gồm: Đầu tư những tài
sản vật chất (tài sản thực) và đầu tư những tài sản vô hình. Đầu tư phát triển
các tài sản vật chất gồm: đầu tư tài sản cố định (đầu tư xây dựng cơ bản) và
8
đầu tư vào hàng tồn kho. Đầu tư phát triển tái sản vô hình gồm các nội dung:
đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đầu tư nghiên cứu triển khai các
hoạt động khoa học-công nghệ-kĩ thuật, đầu tư xây dựng thương hiệu-quảng
cáo…
2.1. Đầu tư xây dựng cơ bản
Đầu tư xây dựng cơ bản là hoạt động đầu tư nhằm tái tạo tài sản cố định
của doanh nghiệp. Đầu tư xây dựng cơ bản bao gồm các hoạt động chính như:

Xây lắp và mua sắm máy móc thiết bị. Trong doanh nghiệp đặc biệt doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh, để các hoạt động diễn ra bình thường đều cần
xây dựng nhà xưởng, kho tàng, các công trình kiến trúc, mua và lắp đặt trên
nền bệ các máy móc thiết bị… Hoạt động đầu tư này đòi hỏi vốn lớn và chiếm
tỉ trọng cao trong tổng vốn đầu tư phát triển của đơn vị.
2.2. Đầu tư bổ sung hàng tồn trữ.
2.2.1 Khái niệm
Hàng tồn trữ trong doanh nghiệp là toàn bộ nguyên-nhiên vật liệu, bán
thành phẩm và sản phẩm hoàn thành được tồn trữ trong doanh nghiệp. Tùy
theo loại hình doanh nghiệp, quy mô và cơ cấu các mặt hàng tồn trữ cũng
khác nhau. Nguyên vật liệu là một bộ phạn hàng tồn trữ không thể thiếu của
doanh nghiệp sản xuất nhưng lại không có trong doanh nghiệp thương mại
dịch vụ. Tỉ trọng đầu tư vào hàng tồn trữ trong tổng vốn đầu tư phát triển của
doanh nghiệp thương mại thường cao hơn các loại hình doanh nghiệp khác.
Do vậy xác định quy mô đầu tư hàng tồn trữ tối ưu cho doanh nghiệp là rất
cần thiết.
9
*Vai trò của dự trữ
Dụ trữ luôn là vấn đề sống còn là một đòi hỏi tất yếu khách quan, nó
đảm bảo tính liên tục và hiệu quả của sản xuất và tiêu dùng .
Trong mô hình dự trữ JIT ( Just in time ) chỉ ra:
+ Nếu dự trữ thật nhiều dẫn đến ứng đọng vốn , hàng hoá hỏng , tăng
chi phí bảo quản không hiệu quả.
+ Nếu dự trữ ít quá không đủ nguyên vật liệu để sản xuất , không đủ
hàng hoá để bán và dẫn đến gián đoạn sản xuất kinh doanh .
+ Cần phải phân biệt giữa dự trữ và tình trạng dư thừa ứng đọng sản
phẩm trong các doanh nghiệp
2.2.2 Phân loại hàng tồn trữ :
- Căn cứ vào khái niệm hàng tồn trữ được chia thành :
+ Nguyên vật liệu, bán thành phẩm

+ Thành phẩm
- Căn cứ vào bản chất của cầu hàng tồn trữ được chia thành :
+ Cầu các khoản mục độc lập
+ Cầu các khoản mục phụ thuộc
2.2.3 Chi phí hàng tồn trữ
- Theo quan điểm của nhà quản trị chi phí tồn trữ gồm hai loại chi phí
đặt hàng và chi phí dự trữ hàng.
- Chi phí đặt hàng là toàn bộ chi phí liên quan đến việc thiết lập một
đơn hàng.
- Nội dung của chi phí đặt hàng :
+ Chi phí tìm nguồn hàng
+ Chi phí thực hiện quy trình đặt hàng
+ Chi phí chuẩn bị chuyển hàng về kho
- Đặc điểm của chi phí đặt hàng là tương đối ổn định khi quy mô đặt
hàng thay đổi.
10
2.2.4 Chi phí dự trữ hàng
- Chi phí dự trữ hàng là toàn bộ chi phí liên quan đến hàng đang dự trữ
tại kho.
- Nội dung của chi phí dự trữ hàng :
+ Chi phí về kho hàng (lệ phí kho bãi, bảo hiểm kho hàng…)
+ Chi phí sử dụng thiết bị (điện nước
+ Chi phí về nhân lực (tiền công của bảo vệ, giám sát tư
vấn…)
+ Lệ phí đầu tư vào hàng dự trữ lãi suất tiền vay
+ Những hao hụt được phép.
- Đặc điểm chi phí dự trữ là thay đổi tỷ lệ thuận với quy mô đặt hàng.
2.3. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực.
Nguồn nhân lực có vị trí đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế và doanh
nghiệp. Chỉ có nguồn nhân lực chất lượng cao mới đảm bảo dành thắng lợi

trong cạnh tranh. Do vậy, đầu tư nâng cao chất lượng nhân lực là rất cần thiết.
Đầu tư phát triển nguồn nhân lực bao gồm: đầu tư cho hoạt động đào tạo
(chính quy, không chính quy, dài hạn, ngắn hạn, bồi dưỡng nghiệp vụ….) đội
ngũ lao động; đầu tư cho công tác chăm sóc sức khỏe-y tế; đầu tư cải thiện
môi trường-điều kiện lao động của người lao động…Trả lương đúng và đủ
cho người lao động cũng được xem là hoạt động đầu tư phát triển. Đầu tư phát
triển nguồn nhân lực trong doanh nghiệp bắt đầu từ khâu tuyển người lao
động. Đây là cơ sở để có được lực lượng lao động tốt, bởi vậy khâu tuyển
người đòi hỏi cần phải rất khắt khe cẩn thận nhất.Tuyển người hiện nay đòi
hỏi phải đạt được các yêu cầu như : Trình độ văn hoá , ngoại ngữ, trình độ vi
tính …Tiếp đến là quá trình nâng cao khả năng lao động của người lao động
thường xuyên.Trong điều kiện đổi mới hiện nay rất nhiều công nghệ hiện đại
đã và đang được ứng dụng trong các loại hình doanh nghiệp nước ta.Vì vậy
việc đào tạo lao động là yêu cầu vô cùng quan trọng .Cuối cùng là việc khen
thưởng tổ chức các hoạt động về tinh thần giúp người lao động hăng say trong
11
công việc từ đó nâng cao năng suất lao động. Các hinh thức khen thưởng đang
được thực hiện ở các doanh nghiệp các cá nhân thành viên có thanh tích tốt
đều được thưởng xứng đáng góp phần nâng cao trong xí nghiệp , công ty , các
cuộc thi các cá nhân …Nhờ có chính sách đào tạo lao động nhiều doanh
nghiệp đã đạt được những thanh công to lớn , góp phần không nhỏ trong
chiến lược sản xuất kinh doanh cũng như chiến lược cạnh tranh của mình.
2.4. Đầu tư nghiên cứu và triển khai các hoạt động khoa học và công nghệ.
Phát triển sản phẩm mới và các lĩnh vực hoạt động mới đòi hỏi đầu tư
cho các họat động nghiên cứu, triển khai, ứng dụng công nghệ. Đầu tư nghiên
cứu hoặc mua công nghệ đòi hỏi vốn lớn và độ rủi ro cao. Hiện nay khả năng
cho họat động nghiên cứu và triển khai khoa học và công nghệ của doanh
nghiệp Việt Nam còn khá khiêm tốn. Cùng với đà phát triển của kinh tế đất
nước và doanh nghiệp, trong tương lai tỷ lệ chi cho hoạt động đầu tư này sẽ
ngày càng tăng ương ứng với nhu cầu và khả năng của doanh nghiệp.

*Các yếu tố ảnh hưởng đến nghiên cứu và triển khai của doanh nghiệp
-Khả năng tài chính của doanh nghiệp: khả năng tài chính của doanh nghiệp
sx cho phép xác định được khả năng và quy mô đầu tư nghiên cứu và triển
khai của doanh nghiệp.
-Quy mô sản xuất kinh doanh cua doanh nghiệp: quy mô sản xuất kinh doanh
cang lớn thì khả năng quy mô đầu tư nghiên cứu triển khai càng lớn .
-Cơ hội về đổi mới kĩ thuật và các cơ hội trong ngành: những ngành có nhiều
cơ hội đổi mới công nghệ và kĩ thuật đòi hỏi các doanh nghiệp trong ngành
đó phải tích cực đầu tư cho nghiên cứu nắm bắt kịp thời các cơ hội về kĩ thuật
và công nghệ của ngành.
Khi đánh giá hiệu quả đầu tư nghiên cứu triển khai các doanh nghiệp
thường dựa trên một số quan điểm sau :
12
+ Thứ nhất là, hiệu quả đầu tư nghiên cứu triển khai phải được xem xét
đánh giá toàn diện về các mặt tài chính kinh tế xã hội , môi trường .
+ Thứ hai là, hiệu quả đầu tư nghiên cứu và triển khai vừa có thể lượng
hoá được vừa có thể không lượng hoá được. Do đó kết quả của đầu tư cho
nghiên cứu và triển khai có thể được thể hiện dưới dạng hiện hoặc dưới dạng
ẩn tuỳ theo dự án, chương trình nghiên cứu.
Tóm lại có thể nói đầu tư cho nghiên cứu triển khai đóng vai trò quan
trọng trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Các chương trình và
dự án R&D gắn chặt với chiến lược kinh doanh giúp các doanh nghiệp đạt
được các mục tiêu ngắn hạn cũng như dài hạn về kinh tế cũng như các ảnh
hưởng khác.
CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ KHOA HỌC CÔNG
NGHỆ MỚI VÀO SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
Một số chỉ tiêu có thể dùng để đánh giá hiệu quả đầu tư khoa học công
nghệ (KHCN) vào sản xuất kinh doanh (SXKD) của doanh nghiệp (DN). Các
chỉ tiêu đó là:
+ Giá thành sản phẩm;

+ Chất lượng hàng hóa;
+ Lợi nhuận.
*Đánh giá hiệu quả đầu tư KHCN mới vào SXKD bằng các chỉ tiêu
nêu trên có nhiều ưu điểm, đang được nhiều DN áp dụng. Tuy nhiên đối với
DN (ngành, lĩnh vực) có chu kỳ SXKD dài hạn từ 5 đến 7 năm, tức là kể từ
khi đầu tư KHCN mới phải trải qua 5-7 năm mới có sản phẩm, hàng hóa, lợi
nhuận, nhưng lại có yêu cầu biết hiệu quả ngắn hạn (Ví dụ sau một năm đầu
tư KHCN mới) nhằm điều chỉnh SXKD và đầu tư KHCN. Thậm chí có
trường hợp còn muốn biết hiệu quả trước khi đầu tư KHCN để đưa ra quyết
định có đầu tư hay không, hay đầu tư như thế nào. Ở đây thấy rất rõ ràng là
chưa có các thông tin: Giá thành, chất lượng hàng hóa hay lợi nhuận để đánh
giá hiệu quả đầu tư KHCN mới. Muốn khắc phục trở ngại này cần phải dùng
13
thông tin thay thế thích hợp đối với DN. Chẳng hạn như thay thế thông tin lợi
nhuận bằng thông tin số lao động có công ăn việc làm. Ở nước ta hiện nay
đầu tư KHCN mới làm tăng (giảm) số lao động có công ăn việc làm cũng
được coi là hiệu quả. Nếu vậy hiệu quả được đánh giá bằng công thức sau
đây:
00
x
:
N
H
x
N


=
H: Hệ số co dãn đầu tư KHCN thường tính bằng %. Phản ánh tăng (giảm) 1%
đầu tư KHCN làm tăng (giảm) bao nhiêu % số lao động có việc làm.


N
: Số lao động có việc làm tăng (giảm)

N
= N
l
- N
0
N
l
: Số lao động có việc làm sau khi đầu tư KHCN mới (kỳ báo cáo)
N
0
: Số lao động có việc làm trước khi đầu tư KHCN mới (kỳ gốc)

x
: Mức đầu tư KHCN tăng (giảm)

x
= x
1
- x
0
x
l
: Mức đầu tư KHCN mới (kỳ báo cáo)
x
0
: Mức đầu tư KHCN cũ (kỳ gốc)

Ví dụ có số liệu thống kê về đầu tư KHCN và số lao động có việc làm của DN
như sau
Ký hiệu Kỳ gốc Kỳ báo cáo
Tăng (giảm)
Tuyệt đối %
Mức đầu tư KHCN (tỷ đ) x 10 10,2 0,2 2
Số lao động có việc làm (người) N 100 130 30 30
H = 30% : 2% = 15
14
Kết quả bằng số cho biết: tăng thêm 1% đầu tư KHCN làm tăng 15% số
lao động có việc làm đã chứng tỏ đầu tư có hiệu quả. Ở đây cần lưu ý nếu đầu
tư thêm KHCN làm giảm số lao động có việc làm thì phải căn cứ vào kế
hoạch sử dụng lao động của DN mới có thể kết luận là hiệu quả hay không
hiệu quả. Nếu giảm số lao động có việc làm với nghĩa giải phóng lao động,
chuyển bớt một bộ phận lao động vào việc mở rộng quy mô sản xuất, phát
triển thêm ngành nghề,v.v… thì vẫn được coi là hiệu quả.
*Thông qua đánh giá hiệu quả đầu tư KHCN mới, có thể biết được khả
năng cạnh tranh và hội nhập vào thị trường của DN.
Trong kinh tế thị trường DN được tự chủ SXKD, tự chủ thu thập xử lý
thông tin thị trường. Ví dụ như thông tin đầu tư KHCN mới của đối tác, DN
tự thu thập xử lý (hoặc phải bỏ tiền để mua) để biết khả năng cạnh tranh và
hội nhập của mình vào một thị trường nào đó.Giả sử thu thập được thông tin
thị trường như sau
Tên DN
Mức đầu tư KHCN (x) Lợi nhuận (P)
Năm
2000
Năm
2001
Năm

2002
Năm
2000
Năm
2001
Năm
2002
A 400 408,0 420,04 5 5,20 5,668
B 600 618,0 636,54 6 6,72 7,728
C 650 656,5 676,20 6 6,30 7,623
D 700 728,0 149,84 10 12,40 15,500
E 400 412,0 424,36 3 3,18 3,371
Với thông tin ở bảng trên có thể đánh giá hiệu quả đầu tư KHCN mới
bằng chỉ tiêu hệ số co giãn đầu tư KHCN mới.
Gọi:
i
H
: Hệ số co dãn đầu tư KHCN bình quân năm của DN;
H
: Hệ số co dãn đầu tư KHCN bình quân năm của thị trường.
So sánh
i
H
với
H
:
15
Nếu
i
H

>
H
chứng tỏ DN có khả năng cạnh tranh và hội nhập được vào thị
trường;
Nếu
i
H
<
H
chứng tỏ DN ít có khả năng cạnh tranh và hội nhập được vào thị
trường.
1

Σ
=
n
H
H
i
i
i
H
: Hệ số co dãn đầu tư KHCN bình quân của DN
H
i
: Hệ số co dãn đầu tư KHCN từng năm của DN
n: Số năm nghiên cứu
11
−−
∆∆

=
i
xi
i
Pi
i
x
:
P
H
H
i
: Hệ số co dãn đầu tư KHCN từng năm của DN

Pi
: Mức lợi nhuận tăng (giảm) qua các năm ∆
Pi
= P
i
- P
i-1
P
i
: Mức lợi nhuận năm sau
P
i-l
: Mức lợi nhuận năm trước liền kề

xi
: Mức đầu tư KHCN tăng (giảm) liên tiếp qua các năm ∆

xi
= x
i
- x
i-l
x
i
: Mức đầu tư KHCN năm sau
x
i-1
: Mức đầu tư KHCN năm trước liền kề
m
H
H
i
Σ
=
H
: Hệ số co dãn đầu tư KHCN bình quân năm của thị trường
16
i
H
: Hệ số co dãn đầu tư KHCN bình quân năm của DN
m: Số DN được nghiên cứu
Để có số liệu tính
i
H

H
, số liệu ban đầu ở bảng trên được xử lý như sau:

Tên DN A B C D E Chung

Pi
(tỷ đồng)
2001/2000 0,20 0,72 0,30 2,40 0,18
2002/2001 0,468
1,00
8
1,323 3,100 0,191

xi
(tỷ đồng)
2001/2000 8 18 6,5 28 12
2002/2001 12,04 18,54 19,695 21,84 12,36
1


i
Pi
P
(%)
2001/2000 4,00
12,0
0
5,00 24,00 6,00
2002/2001 9,00
15,0
0
21,00 25,00 6,01


1


i
xi
x
(%)
2001/2000 2,00 3,00 1,00 4,00 3,00
2002/2001 2,95 3,00 3,00 3,00 3,00
Hi (%)
Năm 2001 2,00 4,00 5,00 6,00 2,00
Năm 2002 3,05 5,00 7,00 8,33 2,00
i
H
2,52 4,50 6,00 7,17 2,00 4,44
Dòng
i
H
(dòng cuối cùng) cho biết những thông tin:
- Hệ số co dãn đầu tư KHCN bình quân năm của từng DN
- Hệ số co dãn đầu tư KHCN bình quân năm của thị trường: 4,44%
- Các DN có sức cạnh tranh và hội nhập vào thị trường mạnh lần lượt là các DN:
D, C, B.
- Các DN có sức cạnh tranh và hội nhập vào thị trường yếu lần lượt là các
DN: E, A.
- DN D có hệ số co dãn đầu tư KHCN bằng 7,17 lớn nhất, nên DN này có sức
cạnh tranh mạnh nhất so với các DN khác.
Trong giai đoạn hiện nay đánh giá hiệu quả đầu tư KHCN mới là rất cần thiết.
Có nhiều chỉ tiêu dùng để đánh giá, nhưng chỉ tiêu hệ số co dãn đầu tư KHCN
là chỉ tiêu có ý nghĩa kinh tế thiết thực nhất, vì nó phản ánh DN đã thực sự

17
thu được lợi nhuận tức là đã thực sự cạnh tranh và hội nhập được vào thị
trường.
2.5. Đầu tư cho hoạt động marketing.
Thứ nhất là : đầu tư cho việc nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp
trước hết là nghiên cứu khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.Có thể nói
cạnh tranh là một đặc tính cơ bản nhất của thị trường của doanh nghiệp, sẽ
không có thị trường nếu không có cạnh tranh, trong môi trường cạnh tranh
hoàn hảo mục tiêu của doanh nghiệp, người tiêu dùng là tối đa hoá lợi nhuận
và sự tiện ích của chính mình, khả năng cạnh tranh là nguồn năng lượng thiết
yếu để doanh nghiệp tiếp tục vững bước trên con đường hội nhập kinh tế.
Thực tế cho thấy doanh nghiệp kinh doanh thành công thực hiện các kĩ
năng cạnh tranh rất thuần thục, nó tạo thành phương pháp cạnh tranh đặc
trưng của doanh nghiệp
Các kĩ năng này tập trung vào :
-Tạo lập và phát triển uy tín doanh nghiệp
-Coi trọng chiến lược mở rông thị trương
-Xây dựng và thực hiện đổi mới sản phẩm , mẫu mã
-Luôn tìm cách giảm chi phí sản xuất
-Sách lược tiêu thụ sản phẩm khôn khéo
18
Thứ hai là: khi nghiên cứu thị trường trong đầu tư tài sản vô hình của
doanh nghiệp ta cần phải nghiên cứu hành vi của người tiêu dùng.
Hành vi của người tiêu dùng thực hiện trong việc tìm kiếm, mua, sử
dụng đánh giá và vứt bỏ các sản phẩm và dịch vụ mà họ dự định sẽ thoả mãn
các nhu cầu của họ. Nghiên cứu hành vi của người tiêu dùng là nghiên cứu
các cá nhân đưa ra quyết định thế nào đối với việc chi tiêu các nguồn tài
nguyên có thể sử dụng của họ trong các hạng mục liên quan đến sự tiêu dùng.
Qua việc nghiên cứu hành vi người tiêu dùng sẽ cung cấp cho các nhà sản
xuất những thông tin quan trọng để họ lên kế hoạch sản xuất thiết kế cải tiến

và xây dựng được cac chiến lược khuyến mại.
Mục đích của nghiên cứu người tiêu dùng là phục vụ cho công tác quản
lí kinh doanh sản xuất và dịch vụ. Các nhà quản lí muốn biết nguyên nhân
hành vi của người tiêu dùng , họ muốn biết con người đưa ra quyết định mua
hàng sử dụng, cất kho và vứt bỏ các sản phẩm như thế nào từ đó xây dựng
chiến lược Marketing lập ra những mảng thị trường mới cho một sản phẩm
riêng hay một loại sản phẩm. Nghiên cứu hành vi người tiêu dùng được tiến
hành bởi các tổ chức Maketing riêng biệt.
Thấy được tầm quan trọng và cần thiết của việc nghiên cứu hành vi
người tiêu dùng, các doanh nghiệp đang đầu tư một cách thích đáng cho việc
nghiên cứu. Việc nghiên cứu thành công giúp doanh nghiệp có chiến lược sản
xuất kinh doanh đúng hướng, tiêu thụ nhanh sản phẩm quay vòng vốn nhanh
thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Từ các nội dung của đầu tư phát triển đã trình bày ở trên, các DNNN
hoạt động trên các lĩnh vực khác nhau cần xác định nội dung nào là quan
trọng, có vai trò quyết định đến các nội dung khác ở doanh nghiệp mình để
tập trung đầu tư và phát triển.
19
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CỦA HỆ
THỐNG CÁC DNNN.
Số doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất kinh doanh tại thời điểm
31/12 hàng năm phân theo loại hình doanh nghiệp ở nước ta có thể được thể
hiện qua bảng số liệu tóm lược sau:
2001 2002 2003 2004 2005
Tổng số 51680 62908 72012 91755 112952
DNNN 5355 5363 4845 4596 4086
+ Trung ương 1997 2052 1898 1967 1825
+ Địa phương 3358 3311 2947 2629 2261
Cơ cấu %
DNNN 10,36 8,52 6,73 5,01 3,62

+ Trung ương 3,86 3,26 2,64 2,14 1,62
+ Địa phương 6,50 5,26 4,09 2,87 2,00
(Nguồn: Niên giám thống kê 2006)
Từ bảng số liệu chúng ta thấy rằng số lượng các DNNN có xu hướng
ngày càng giảm và điều này hoàn toàn phù hợp. Xét về lý thuyết, khu vực
DNNN trong nền kinh tế thị trường không cần có tỷ trọng cao mà chỉ cần
chiếm giữ những vị trí then chốt. Lý thuyết và kinh nghiệm thực tiễn cho thấy,
tỷ trọng DNNN được coi là quá lớn khi vượt quá giới hạn 20-25% và quá nhỏ
khi ở dưới mức 5% GDP. Trong thời kỳ chuyển đổi cần khẳng định vai trò
chủ đạo của DNNN nhưng xét về lâu dài DNNN sẽ giữ vai trò nòng cốt, là
một trong những công cụ điều tiết vĩ mô. Xét về cơ cấu sở hữu, DNNN là một
bộ phận quan trọng, cùng với các bộ phận sở hữu khác phát triển bình đẳng và
cạnh tranh với nhau.
Trong những năm vừa qua, phần lớn các DNNN được sắp xếp lại theo
hướng cổ phần hóa đã nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm đối với nền kinh
20
tế, sản xuất kinh doanh đã có lãi, nhiều DN đã mạnh dạn đầu tư đổi mới công
nghệ, máy móc thiết bị để nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm,
khắc phục tình trạng lỗ lũy kế và có vốn tích lũy để tái sản xuất mở rộng.
Trong đó vốn là nguồn lực để thực hiện đầu tư phát triển. Việc sử dụng
vốn như thế nào có ý nghĩa rất quan trọng đối với doanh nghiệp. DNNN là
loại hình kinh tế được nhà nước đầu tư vốn lớn vì vậy việc sử dụng vốn có
hiệu quả hay không ảnh hưởng rất nhiều đến sự phát triển của nền kinh tế. Từ
sau khi thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế, nhà nước đã có những chính
sách phù hợp hơn đối với sự phát triển của DNNN, nhờ vậy hiệu quả sử dụng
vốn của DNNN đã được nâng cao rõ rệt. Tuy nhiên vẫn còn nhiều mặt hạn
chế để hiểu rõ tinh hình sử dụng vốn đầu tư của DNNN ta xem bảng số liệu
sau :
Vốn sản xuất kinh doanh và doanh thu thuần của DNNN
Tỷ đồng

2000 2002 2003 2004 2005
Vốn sản xuất kinh
doanh
Tổng số 998423 1352076 1567179 1966165 2435048
DNNN 670234 858560 932942 1128483 1338255
+ Trung ương 577990 734004 798163 968447 1165902
+ Địa phương 92244 124556 134779 160036 172354
Doanh thu thuần
Tổng số 809786 1194902 1436151 1719401 2157802
DNNN 444673 611167 666022 708045 838395.6
+ Trung ương 316896 466788 504577 532381 663393.9
+ Địa phương 127777 144379 161445 175664 175001.6
Qua bảng số liệu chúng ta thấy rằng quy mô về vốn đầu tư cho khu vực
kinh tế nhà nước tăng dần qua các thời kỳ, tốc độ tăng đồng đều và ổn định,
trong đó tốc độ tăng của vốn cho các DNNN ở cấp trung ương tăng nhanh
hơn so với cấp địa phương (cụ thể là 101,7% so với 86,8%). Thứ hai là tỷ
trọng vốn đầu tư cho khu vực DNNN nhà nước có xu hướng giảm dần qua
các thời kỳ (từ 67,13% xuống 54,96%) - điều này là hoàn toàn hợp lý và phù
21
hợp với yêu cầu của tiến trình cổ phần hóa các DNNN tuy nhiên là tỷ trọng
này vẫn còn khá cao, cần tiếp tục điều chỉnh giảm.
SỐ DNNN HOẠT ĐỘNG LỖ - LÃI QUA CÁC THỜI KỲ
Năm 2000 2001 2002
Tổng số DN 41310 47838 60496
DNNN có
lãi
Số DN 4539 4249 4450
Tổng mức lãi(Tỷ đồng) 20865 23557 29131
Lãi bình quân 1DN(Triệu
đồng)

4597 5544 6546
DNNN lỗ
Số DN 1005 894 787
Tổng mức lỗ(Tỷ đồng) -3299 -3411 -3171
Lỗ bình quân 1DN(Triệu
đồng)
-3283 -3815 -4030
So với
tổng số DN
Số DN lãi 78.82 79.35 82.96
Số DN lỗ 17.45 16.69 14.67
( Nguồn : Tổng cục thống kê)
Đi sâu vào phân tích hoạt động sử dụng vốn vào SXKD, và quan trọng
hơn là mảng sử dụng vốn cho hoạt động đầu tư phát triển của các DNNN nhà
nước, chúng ta có thể bắt gặp một số tồn tại cơ bản sau:
1.Về đầu tư xây dựng cơ bản.
Xây dựng cơ bản luôn là quá trình đi tiên phong của bất cứ quá trình
đầu tư nào. Nó tạo ra các cơ sở vật chất mới làm tiền đề cho việc tiến hành
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Quyết toán chi ngân sách nhà nước (tóm lược)
22
(Nguồn: Quyết toán chi ngân sách nhà nước-Tổng cục thống kê)
Từ bảng số liệu chúng ta thấy rằng chi cho xây dựng cơ bản chiếm tỷ
trọng rất lớn trong tổng chi cho đầu tư phát triển (luôn đạt mức trên 85%), qua
đó chúng ta mới thấy được vai trò quan trọng xây dựng cơ bản trong đầu tư
phát triển. Tuy nhiên chúng ta cũng nhận thấy rằng quy mô tăng của vốn xây
dựng cơ bản lại đang có xu hướng giảm qua các giai đoạn, cụ thể là giai đoạn
2002-2003 vốn tăng 13650 tỷ đồng nhưng giai đoạn 2003-2004 vốn chỉ tăng
7316 tỷ đồng. Điều này có thể giải thích là giai đoạn đầu các doanh nghiệp
phải đầu tư mới hoàn toàn vì vậy vốn xây dựng cơ bản đòi hỏi lớn, đến giai

đoạn vận hành sản xuất thì doanh nghiệp chỉ phải đầu tư sửa chữa và mở rộng
sản xuất do đó lượng vốn cho xay dựng cơ bản không cần nhiều như ban đầu.
Mặc dù xây dựng cơ bản đóng vai trò quan trọng như vậy nhưng quá
trình tiến hành hoạt động này của các DNNN lại chưa thực sự coi trọng nó.
Có thể đề cập ở đây chính là vấn đề thất thoát và lãng phí trong đầu tư xây
dựng cơ bản. Lãng phí và thất thoát, tiêu cực trong đầu tư và xây dựng đang
là vấn đề nhức nhối, cả xã hội quan tâm; kéo dài nhiều năm với mức độ ngày
càng trầm trọng mà đến nay vẫn chưa có biện pháp hữu hiệu để hạn chế.
Không có một bộ số liệu chính thức nào thống kê được chính xác tỷ lệ thất
Tỷ đồng
2000 2001 2002 2003 2004
TỔNG CHI
10896
1 129773
14820
8
18118
3 214176
Trong tổng chi
Chi đầu tư phát triển
29624 40236 45218 59629 66115
Trong đó: Chi XDCB
26211 36139 40740 54430 61746
Cơ cấu (%)
88,48 89,82 90,10 91,28 93,39
Tốc độ tăng của vốn chi XDCB
%
2000 2001 2002 2003 2004
Tốc độ phát triển liên hoàn
100 137,87 112,73 133,60 113,44

Tốc độ phát triển định gốc
100 137,87 155,50 207,66 235,57
23
thoát trong hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản nhưng có thể khẳng định rằng:
“Mọi dự án đầu tư xây dựng cơ bản đều có sai phạm”.
Kết quả kiểm tra năm 2002 của 995 dự án với tổng vốn đầu tư 20.736
tỷ đồng, đã phát hiện sai phạm về tài chính và sử dụng vốn đầu tư là 1.151 tỷ
đồng, bằng khoảng 5,5% tổng vốn đầu tư các công trình được kiểm tra. Riêng
17 công trình do Thanh tra Nhà nước thực hiện kiểm tra phát hiện sai phạm
tài chính lên tới 13%. Đó là chưa kể đến các lãng phí lớn do chậm triển khai
công trình và nhất là do sai sót trong chủ trương đầu tư mà hiện chưa có cách
đánh giá thống nhất
(Nguồn: Báo cáo tại hội nghị toàn quốc về Quản lý đầu tư và Xây dựng
Cơ bản)
Theo kết quả thanh tra quản lý đầu tư xây dựng, tất cả các dự án đều có
sai phạm, diễn ra ở tất cả các khâu, các giai đoạn đầu tư, đặc biệt là công tác
lập dự án, thiết kế sơ sài dẫn tới vượt dự toán rất cao.
Qua thống kê 36 tỉnh, thành phát hiện tổng giá trị sai phạm lên tới
113,913 tỷ đồng, chủ yếu là thất thoát, lãng phí do chất lượng khảo sát, thiết
kế không phù hợp, thay đổi chủng loại vật liệu, trang thiết bị không đảm
bảo… Trong công tác đấu thầu, các sai phạm thường gặp như chỉ định thầu,
xét thầu, áp dụng kết quả đấu thầu sai qui định, bán thầu
Đây là một kết quả đáng chú ý của việc thực hiện việc thanh tra, kiểm
tra hành chính, chuyên ngành năm 2006. Đến nay, toàn ngành thanh tra đã cơ
bản kết thúc 12.636 cuộc trong tổng số 14.167 cuộc đã triển khai; phát hiện
sai phạm với tổng giá trị 6.382,961 tỉ đồng và 5.478,583 triệu USD, hơn
11.346ha đất. Qua thanh tra, kiểm tra, ngoài kiến nghị xử lý, khắc phục phần
có giá trị sai phạm, giảm trừ, loại khỏi quyết toán , các tổ chức thanh tra nhà
nước đã kiến nghị thu hồi 447,712 tỉ đồng và 207.923 USD; kiểm tra xử lý
hành chính gần 3.000 trường hợp và kiến nghị cơ quan điều tra xử lý 95 vụ

với 201 người.
24
Đi sâu vào tìm hiểu vấn đề náy chúng ta thấy rằng: Vốn đầu tư thất
thoát diễn ra từ khâu chuẩn bị dự án, thẩm định và phê duyệt dự án đầu tư đến
khâu thực hiện đầu tư và xây dựng. Tình trạng đầu tư không theo quy hoạch
được duyệt; khâu khảo sát nghiên cứu thiếu tính đồng bộ, không đầy đủ các
chỉ tiêu kinh tế, khả năng tài chính, nguồn nguyên liệu, bảo vệ môi trường,
điều tra thăm dò thị trường không kỹ; chủ trương đầu tư không đúng khi xem
xét, phê duyệt dự án đầu tư. Việc thẩm định và phê duyệt chỉ quan tâm tới
tổng mức vốn đầu tư, không quan tâm tới hiệu quả, điều kiện vận hành của dự
án, nên nhiều dự án sau khi hoàn thành và đưa vào sử dụng không phát huy
tác dụng, gây lãng phí rất lớn.
Ngoài ra, do năng lực quản lý điều hành kém của chủ đầu tư, các ban
quản lý dự án, các tổ chức tư vấn cũng là nguyên nhân gây lãng phí, thất thoát
vốn đầu tư.
Nguyên nhân chính, tổng quát của hiện tượng lãng phí và thất thoát
nằm ở chính những cơ chế kiểm soát hiện có; vừa cồng kềnh, vừa chồng chéo
nhau, làm cho có quá nhiều người có thẩm quyền can thiệp vào công trình
nhưng không thể xác định được trách nhiệm chính thuộc về ai, do đó không
thể quản lý được hoặc quản lý rất kém hiệu quả.
2.Về đầu tư phát triển nguồn nhân lực.
Theo đánh giá của nhiều quốc gia thì Việt Nam có một lực lượng lao
động dồi dào, đa phần là lực lượng trẻ có khả năng thích ứng nhanh trước
những ngành nghề mới. Tuy nhiên, cần phải thừa nhận: lực lượng lao động
nhiều nhưng chất lượng lao động thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển
của đất nước trong hiện tại và những năm tiếp theo. Trình độ chuyên môn kỹ
thuật của những người lao động còn thấp và cơ cấu các loại trình độ chưa hợp
lý, cơ cấu ngành nghề phân bố cũng chưa hợp lý, có nhiều ngành nghề đào tạo
thừa không sử dụng hết, song lại có nhiều ngành nghề quá thiếu, đặc biệt là
đội ngũ công nhân kỹ thuật thiếu hầu hết ở các ngành, khu vực kinh tế. Tình

25

×