ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ĐÀ NẴNG
NGUYỄN THỊ HÀ THU
HÌNH TƢỢNG NGƢỜI PHỤ NỮ
TRONG CUNG ỐN NGÂM KHÚC VÀ
CHINH PHỤ NGÂM NHÌN TỪ BÌNH DIỆN
LÝ THUYẾT TÍN HIỆU THẨM MỸ
Chun ngành: Ngơn ngữ học
Mã số: 60.22.02.40
TĨM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ HỌC
ĐÀ NẴNG - NĂM 2017
Cơng trình đƣợc hồn thành tại
Trƣờng Đại học Sƣ phạm-ĐHĐN
Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Văn Sáng
Phản biện 1: PGS-TS Lê Đức Luận
Phản biện 2: PGS-TS Võ Xuân Hào
Luận văn đã được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn tốt
nghiệp thạc sĩ ngành Ngôn ngữ học họp tại trường Đại học Sư
phạm-ĐHĐN vào ngày 30 tháng 9 năm 2017.
Có thể tìm hiểu luận văn tại:
- Trung tâm Thơng tin-Học liệu, Đại học Đà Nẵng
- Thư viện trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Tín hiệu thẩm mĩ, giá trị biểu trưng của ngôn ngữ trong
tác phẩm văn chương là một vấn đề hấp dẫn, là một cánh cửa
rộng mở cho việc tiếp cận thế giới nghệ thuật ngơn từ. Đó là
cách tiếp cận liên ngành ngơn ngữ - văn hóa về hệ thống tín
hiệu thẩm mĩ tồn tại trong ngôn ngữ văn chương. Do vậy, đề
tài luận văn của chúng tơi nghiên cứu Hình tượng người phụ
nữ trong Cung ốn ngâm khúc và Chinh phụ ngâm nhìn từ bình
diện lí thuyết tín hiệu thẩm mĩ là một hướng nghiên cứu hồn
tồn mới, có tính lí luận và tính thực tiễn cao trong việc nghiên
cứu và giảng dạy văn chương từ góc nhìn kí hiệu học hiện nay.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Lý thuyết kí hiệu học (semiotics) ra đời gắn liền với
chủ nghĩa cấu trúc trong nghiên cứu ngôn ngữ và nhân học của
thế kỉ XX. Có thể nói như vậy, bởi một lẽ, mãi đến năm 1916,
năm mà Giáo trình ngơn ngữ học đại cương của F.de Saussure
được xuất bản thì người ta mới chú ý đến vai trị của kí hiệu
học. Luận điểm của F.de Saussure đề xuất: ngơn ngữ là một hệ
thống kí hiệu, và ngôn ngữ học là một bộ phận của kí hiệu học,
xét theo một phương diện nào đó.
Ở Việt Nam, những vấn đề về kí hiệu học, đặc biệt là lý
thuyết tín hiệu thẩm mĩ, đã được áp dụng từ những năm 70 của
thế kỷ XX, phải kể đến các tác giả tiêu biểu như Hoàng Trinh,
Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Lai, Bùi Minh Toán, Trương Thị Nhàn,
Mai Thị Kiều Phượng, Trần Văn Sáng... Tuy nhiên, chúng tôi
nhận thấy số những cơng trình nghiên cứu riêng biệt ứng dụng
các lý thuyết kí hiệu học để nghiên cứu ngơn ngữ văn chương
trong một tác giả cụ thể không thật sự nhiều mà chủ yếu là
những bài nghiên cứu riêng lẻ về lí thuyết và/hoặc các phương
diện nào đó của kí hiệu học.
Đặc biệt, cho đến nay, chưa có một cơng trình nào nghiên
cứu về hình tượng người phụ nữ trong ngơn ngữ Cung ốn
ngâm khúc và Chinh phụ ngâm từ góc nhìn kí hiệu học như đề
tài của chúng tôi.
3. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn tập trung hướng vào những mục tiêu cụ thể
sau:
- ác lập được vị tr , vai tr của các hình thức ngôn ngữ iểu
đạt về người phụ nữ như là một ộ phận làm nên ình diện cái iểu
đạt của hình tượng người phụ nữ trong Cung ốn ngâm khúc và
Chinh phụ ngâm.
- Chỉ ra các ý nghĩa iểu trưng của các t n hiệu thẩm mĩ hằng
thể và t n hiệu thẩm mĩ iến thể chỉ về người phụ nữ trong Cung oán
ngâm khúc và Chinh phụ ngâm; qua đó góp phần chỉ ra những đặc
trưng văn hóa dân tộc và quan điểm xã hội, cách nhìn của hai tác giả
về người phụ nữ.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Tìm hiểu cơ sở lý thuyết về t n hiệu thẩm mĩ, k hiệu học,
về hoạt động giao tiếp trong ngôn ngữ văn chương phục vụ cho việc
triển khai đề tài luận văn;
- Phân t ch, miêu tả đặc điểm hình tượng người phụ nữ được
khảo sát trên ình diện cái iểu đạt và cái được iểu đạt trong Cung
oán ngâm khúc và Chinh phụ ngâm; tìm hiểu, so sánh các đặc điểm
về sự iểu đạt ằng ngôn ngữ và ý nghĩa iểu trưng của t n hiệu thẩm
mĩ chỉ người phụ nữ trong hai tác phẩm.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu được luận văn xác định là: hình tượng
người phụ nữ trong Cung ốn ngâm khúc và Chinh phụ ngâm từ góc nhìn
l thuyết t n hiệu thẩm mĩ.
4.2. h m vi nghiên cứu:
Về phương diện khảo sát, luận văn của chúng tôi tiến
hành khảo sát và nghiên cứu đối tượng kể trên ở các phương
diện cái biểu đạt: tín hiệu hằng thể, tín hiệu biến thể, các biểu
thức ngôn từ chỉ về người phụ nữ tương ứng trong Cung oán
ngâm khúc và Chinh phụ ngâm.
Về tư liệu khảo sát: luận văn khảo sát trên tác phẩm đã
công bố rộng rãi trong nhà trường, in bằng chữ quốc ngữ:
- Những khúc ngâm chọn lọc – Chinh phụ ngâm khúc và
Cung oán ngâm khúc do các tác giả Lương Văn Đang, Nguyễn
Thạch Giang và Nguyễn Lộc biên soạn của Nhà xuất bản Đại
học và Trung học chuyên nghiệp.
5. Phƣơng pháp và thủ pháp nghiên cứu
5.1. Thủ pháp thống kê, phân lo i
Phương pháp này được chúng tôi vận dụng để thống kê
các loại tín hiệu hằng thể và tín hiệu biến thể và phân loại theo
những tiêu chí cụ thể.
5.2. hương pháp miêu tả ngôn ngữ
Sau khi thống kê, phân loại cơ sở ngữ liệu là các hình
thức biểu đạt về người phụ nữ, tức cái biểu đạt, chúng tơi vận
dụng phương pháp này để phân tích, miêu tả đặc điểm cấu tạo,
ý nghĩa iểu trưng của chúng và đánh giá với các thủ pháp
nghiên cứu sau: thủ pháp phân tích thành tố trực tiếp, phân tích
ngơn cảnh/văn cảnh và thủ pháp trường nghĩa,...để miêu tả các
tín hiệu thẩm mĩ chỉ về người phụ nữ trong hai tác phẩm khảo
sát của luận văn.
6. Đóng góp của đề tài
l luận Củng cố và hệ thống hoá được các vấn đề cơ ản
của lý thuyết t n hiệu thẩm mĩ trong tác phẩm văn chương; ước đầu
vận dụng hướng nghiên cứu liên ngành ngơn ngữ - văn hóa - văn học
vào nghiên cứu hình tượng/ iểu tượng trong tác phẩm chương.
th c ti n Cung cấp thêm tư liệu và kết quả phân t ch
mới cho việc nghiên cứu và giảng dạy t n hiệu thẩm mĩ trong ngôn
ngữ thơ Cung ốn ngâm khúc và Chinh phụ ngâm nói riêng và trong
giao tiếp văn chương nói chung.
7. Cấu trúc luận văn:
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo,
luận văn gồm 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lí luận và những vấn đề liên quan
Chương 2: Hình tượng người phụ nữ trong Cung oán
ngâm khúc và Chinh phụ ngâm nhìn từ bình diện cái biểu đạt
Chương 3: Hình tượng người phụ nữ trong Cung oán
ngâm khúc và Chinh phụ ngâm nhìn từ bình diện cái được biểu
đạt
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN
1.1. LÝ THUYẾT VỀ KÍ HIỆU HỌC
1.1.1. Về khái niệm kí hiệu, tín hiệu, dấu hiệu
1.1.1.1. Định nghĩa
Có nhiều các quan niệm khác nhau về tín hiệu liên quan
đến cách hiểu rộng hẹp khác nhau của các tác giả. Chúng tôi
thống nhất quan niệm tín hiệu trong đề tài như sau: tín hiệu là
đơn vị có hai mặt: cái biểu đạt và cái được biểu đạt, được chủ
thể lý giải, nhận thức và lĩnh hội trong một hệ thống nhất định.
Trong luận văn, khái niệm kí hiệu, tín hiệu, dấu hiệu
được sử dụng đồng nhất.
1.1.1.2. Các đi u kiện của tín hiệu
Đặt trong mối quan hệ với sự vật, người nói, người
nghe, Buhler đã thấy tín hiệu thực hiện đồng thời cả ba chức
năng: chức năng biểu thị, chức năng iểu cảm và chức năng
thỉnh cầu.
Tín hiệu có thể được xem là những “biểu tượng”
(Symbole), những “hình hiệu” (icones), những “chỉ hiệu”
(indices) trong quan niệm của Ch.Pierce. Trong khi cơ chế tín
hiệu học theo F. de Saussure, tín hiệu là hợp thể cái biểu đạt và
cái được biểu đạt.
1.1.2. Kí hiệu học hai bình diện của F. de Saussure
1.1.2.1. Tín hiệu ngơn ngữ: cái biểu đạt và cái được
biểu đạt
Dưới góc nhìn kí hiệu học, ở bất kỳ góc độ nào, một tín
hiệu ngơn ngữ cũng phải bao hàm một hình thức ngữ âm (cái biểu
đạt) tương ứng với một nội dung ngữ nghĩa (cái được biểu đạt) và
ở bất kỳ cấp độ nào, giá trị tín hiệu ngơn ngữ cũng phải do những
mối quan hệ thuộc hệ thống ngôn ngữ quy định.
1.1.2.2. Các đặc tính của tín hiệu ngơn ngữ
Nói đến tín hiệu ngơn ngữ là nói đến t nh võ đốn, t nh
hình tuyến của cái biểu đạt và tính hệ thống cấu trúc. Vì thế, có
thể xác định ý nghĩa “tín hiệu” của ngơn ngữ trên tất cả các
đơn vị mang nghĩa ở nhiều cấp độ khác nhau: từ, ngữ, câu,
đoạn, văn ản.
1.1.3. Kí hiệu học ba bình diện của C.Pierce
Tất cả mọi vật đều được tri giác là kí hiệu nếu nó được
mã hóa/ kí hiệu hóa (Semiosis), theo đó k hiệu là một tam phân
với ba bình diện:
- Cái biểu đạt (Representament), là phương tiện chuyển
tải và tri giác được.
- Đối tượng (Objet) là cái được biểu đạt/ được đại diện
là vật thể tương liên với cái biểu đạt.
- Cái thuyết giải (Interpretant) là cái trung gian giữa hai
cái trên (cái biểu đạt và đối tượng), là cái lí giải quan hệ giữa
hai cái đó, nghĩa là nhờ nó, trong tư duy người tiếp nhận sẽ có
một tín hiệu tương th ch được tạo ra.
1.1.4. Tín hiệu thẩm mĩ trong ngơn ngữ văn chƣơng
1.1.4.1. Khái niệm tín hiệu thẩm mĩ
Hệ thống THTM tồn tại và hoạt động theo những quy
luật của tín hiệu và quy luật của tín hiệu ngơn ngữ vì mục đ ch
biểu đạt giá trị thẩm mĩ. Có thể hình dung THTM theo sơ đồ
hai mặt của tín hiệu như sau:
CBĐ: t n hiệu ngơn ngữ
THTM = CĐBĐ: ý nghĩa thẩm mĩ mang hàm ý iểu
trưng
1.1.4.2. Phân lo i tín hiệu thẩm mĩ
Về phân loại tín hiệu thẩm mĩ, hiện nay có nhiều cách
phân chia khác nhau của Đồ Hữu Châu, Trương Thị Nhàn, Bùi
Minh Toán, Trần Văn Sáng,.. trong luận văn này, chúng tơi
trình bày cách phân loại của Mai Thị Kiều Phượng trong cuốn
“Tín hiệu thẩm mĩ trong ngôn ngữ văn học” như sau: t n hiệu
thẩm mĩ đơn; tín hiệu thẩm mĩ phức; tín hiệu thẩm mĩ hằng
thể; tín hiệu thẩm mĩ biến thể.; tín hiệu thẩm mĩ nghĩa tự thân;
tín hiệu thẩm mĩ nghĩa kết hợp; tín hiệu thẩm mĩ trừu tượng –
khái quát và tín hiệu thẩm mĩ cụ thể;...
1.1.4.3. Biểu trưng hóa, cơ chế hình thành tín hiệu
thẩm mĩ trong ngơn ngữ văn chương
Biểu trưng hóa là muốn thiên về biểu thị cái q trình
biến những từ ngữ thơng thường thành những ẩn dụ, những
biểu trưng, iểu tượng, nghĩa là những từ ngữ có nghĩa óng,
nghĩa iểu trưng. Cũng như vậy, khi dùng cơ chế biểu trưng
hóa là muốn nhấn mạnh rằng biểu trưng hóa diễn ra theo một
cơ trình với những quy tắc riêng của nó. Nếu như biểu trưng
hóa là một cơ trình, tức một q trình diễn ra có tính quy tắc,
giống như sự hành chức của một bộ máy, thì biểu trưng là hệ
quả, là sản phẩm của cơ trình đó.
Từ lý thuyết kí hiệu học, có thể sơ đồ hóa về cơ chế
hình thành THTM trong ngơn ngữ văn chương như sau:
TÍN HIỆU
THẨM MĨ
(bậc 2)
CBĐ: t n hiệu ngơn ngữ (bậc 1)
=
CBĐ: âm thanh
CBĐ: ý nghĩa ngôn ngữ
CĐBĐ: ý nghĩa thẩm mĩ
1.2. LÝ THUYẾT HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP
1.2.1. Các nhân tố của hoạt động giao tiếp
1.2.1.1. Ngữ cảnh
1.2.1.3. Di n ngôn
1.2.2. Đặc điểm giao tiếp trong tác phẩm văn chƣơng
1.2.2.1. Đối ngôn (tác giả và b n đọc)
1.2.2.2. Ngữ cảnh, tình huống giao tiếp
1.2.2.3. Ngơn ngữ nghệ thuật
1.3. GIỚI THIỆU VỀ CUNG OÁN NGÂM KHÚC VÀ
CHINH PHỤ NGÂM
1.3.1. Về tác phẩm Cung oán ngâm khúc
Cung oán ngâm khúc là tác phẩm kiệt xuất của Nguyễn
Gia Thiều, được viết bằng chữ Nôm, gồm 356 câu thơ làm theo
thể song thất lục bát. Nó được xem như một bản cáo trạng tố
cáo chế độ phong kiến đã chà đạp con người thơng qua là tiếng
thét ai ốn của một trang tố nữ tài sắc vẹn tồn và tình cảm
trong sáng, cao quý mà bị ruồng bỏ.
1.3.2. Về tác phẩm Chinh phụ ngâm
Chinh phụ ngâm được viết bằng chữ Hán, do tác giả
Đặng Trần Côn sáng tác vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII. Nội
dung Chinh phụ ngâm phản ánh thái độ oán ghét chiến tranh
phong kiến phi nghĩa, đặc biệt là đề cao quyền sống cùng khao
khát tình u và hạnh phúc lứa đơi của con người thông qua
tâm trạng đau uồn của người chinh phụ đang sống trong tình
cảnh lẻ loi vì chồng phải tham gia vào những cuộc tranh giành
quyền lực của các vua chúa.
1.4. TIỂU KẾT
CHƢƠNG 2
HÌNH TƢỢNG NGƢỜI PHỤ NỮ
TRONG CUNG OÁN NGÂM KHÚC VÀ CHINH PHỤ
NGÂM
NHÌN TỪ BÌNH DIỆN CÁI BIỂU ĐẠT
2.1. SỰ BIỂU ĐẠT BẰNG NGƠN NGỮ HÌNH TƢỢNG
NGƢỜI PHỤ NỮ TRONG CUNG ỐN NGÂM KHÚC
2.1.1. Hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong Cung oán ngâm
khúc, xét ở cấp độ tín hiệu thẩm mĩ hằng thể
Ở đây, chúng tơi chỉ xem xét hình tượng người phụ nữ
trong tính hằng thể là người cung nữ. Kết quả phân loại như
sau:
STT
CÁC TÍN HIỆU
HẰNG THỂ
TẦN SỐ (SLXH)
TẦN SUẤT
(%)
1
ả sương khuê
1
14,28
2
cung phi
1
14,28
3
vị vong
1
14,28
4
vưu vật
1
14,28
5
Tây Thi
1
14,28
6
Hằng Nga
1
14,28
7
câu chõ
1
14,28
Tổng cộng
7
100
Bảng 2.1: Kết quả khảo sát tín hiệu hằng thể chỉ hình
tượng người phụ nữ trong tác phẩm Cung oán ngâm khúc
Các từ ngữ miêu tả, chiếu vật về hình ảnh người phụ nữ
với tư cách là những tín hiệu hằng thể khơng nhiều. Mỗi lần
xuất hiện các tín hiệu hằng thể trong mỗi câu thơ đều mang
hàm ý biểu trưng đa chiều, đa dạng về phẩm chất, thân phận
của người cung nữ.
2.1.2. Hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong Cung oán
ngâm khúc, xét ở cấp độ tín hiệu thẩm mĩ biến thể
Các tín hiệu biến thể chỉ người phụ nữ trong Cung ốn
ngâm khúc chính là sự miêu tả-cụ thể hóa các tín hiệu hằng thể
trong mối quan hệ đồng nhất và đối lập, quan hệ kết hợp và
liên tưởng qua ngôn ngữ biểu đạt trong tác phẩm.
Kết quả được thể hiện qua bảng tổng hợp dưới đây:
Số lƣợng
Tần số (Slxh)
Tần suất (%)
1. Biến thể từ vựng
40
96
24.2
2. Biến thể quan hệ
52
65
16.4
3. Biến thể kết hợp
194
235
59.4
286
396
100
BIẾN THỂ
Tổng
Bảng 2.2: Số lượng và tần số xuất hiện của tín hiệu
biến thể chỉ người phụ nữ trong tác phẩm Cung oán ngâm khúc
Điều này cho chúng ta thấy được tính chất khái quát
nhằm mục đ ch iểu trưng hóa, thể hiện và ca ngợi hình ảnh
người phụ nữ trong tác phẩm được miêu tả qua các dạng biến
thể khác nhau, trong đó loại tín hiệu biến thể kết hợp chiếm
một tỉ lệ chủ đạo (59,4%).
2.1.2.1. Các biến thể từ v ng chỉ người phụ nữ trong
Cung oán ngâm khúc
Cách miêu tả người phụ nữ trong thể loại khúc ngâm
bằng các hình ảnh quen thuộc như đóa trà my, hoa hải đường,
những chồi thược dược, những đóa hoa lan, bơng đào, đóa lê...
phản ánh t nh ước lệ, tượng trưng của thi pháp văn học Trung
đại nói chung mà Cung ốn ngâm khúc khơng phải là một
ngoại lệ.
2.1.2.2. Các biến thể kết hợp chỉ người phụ nữ trong
Cung ốn ngâm khúc
a. Tín hiệu kết hợp là danh từ/danh ngữ
Các yếu tố miêu tả là danh từ riêng nhằm chỉ vẻ đẹp sắc
nước hương trời của người cung nữ được v như Gấm nàng
Ban, nàng Tây Thi, chị Hằng Nga.... Các tín hiệu thẩm mĩ do
danh từ riêng đảm nhận đã tạo nên những đặc trưng riêng cho
vẻ đẹp ngoại hình, cho con người của nàng cung nữ.
b. Tín hiệu kết hợp là động từ/động ngữ
Qua khảo sát cho thấy có khoảng 70 đơn vị với 112 lần
xuất hiện. Những động từ này giúp miêu tả, khắc họa rõ nét
tâm trạng, tính cách của cung nữ khi phải rơi vào cảnh cô đơn,
sầu muộn, tâm trạng dùng dằng, buồn tủi, đau đớn của người
chinh phụ khi tiễn chồng ra trận: dằng dặc, cầm tay, bước đi,
nhìn, ngẩn ngơ, trơng...
c. Tín hiệu kết hợp là tính từ/tính ngữ
Theo thống kê có khoảng 82 đơn vị với 98 lần xuất
hiện, chiếm 31,8%. Chúng là những định ngữ nghệ thuật làm
phong phú thêm những nét nghĩa iểu trưng cho hình tượng
người cung nữ.
d. Tín hiệu kết hợp là số từ
Các tín hiệu thẩm mĩ kết hợp là số từ trong tác phẩm
Cung oán ngâm khúc xuất hiện tương đối nhiều như: nghìn
(vàng), nghìn (tía), một hai, ba nghìn, sáu (khắc), năm (canh),
trăm (chiều), mấy, ….Cách miêu tả bằng cách lượng hóa đã thể
hiện được tâm tư, tình cảm của tác giả dành cho nhân vật cung
nữ.
2.1.2.3. Biến thể quan hệ chỉ người phụ nữ trong
Cung oán ngâm khúc
a. Các biến thể quan hệ chỉ thời gian
Trải dài khúc ngâm chúng ta có thể nhận thấy rằng thời
gian trong đêm tối được tác giả sử dụng rất nhiều. Và đây cũng
là khoảng thời gian cô đơn, giày v tâm can nàng cung nữ,
khiến tâm trí nàng ln mơ về những ngày ái ân nồng đượm
với đấng quân vương: một đêm, chiều ủ dột, đêm xưa, đêm năm
canh.
b. Các biến thể quan hệ là khơng gian
Khơng gian trong Cung ốn ngâm khúc là khơng gian
ưng t của chốn phịng the cơ quạnh mà người cung nữ phải
sống: thâm khuê, cửa châu, cung quế, lầu đãi nguyệt, gác thừa
lương, gác phương, lầu xanh,... Những biến thể khơng gian
trong Cung ốn ngâm khúc đều tn thủ qui ước của d ng thơ
cung oán khi tác giả đã lấy chốn phịng the làm khơng gian
trung tâm sự tồn tại của người cung nữ.
c. Các biến thể quan hệ chỉ con người
Cùng xuất hiện với các tín hiệu thẩm mĩ chỉ người cung
nữ cịn có các biến thể quan hệ chỉ người thuộc các tầng lớp
khác nhau như nhà vua, chồng, khách công hầu… tất cả đều
tạo nên một mối quan hệ mật thiết với hình tượng cung nữ.
chẳng hạn, vua được so sánh như bóng dương, như chúa
xn...
2.2. SỰ BIỂU ĐẠT BẰNG NGƠN NGỮ HÌNH TƢỢNG
NGƢỜI PHỤ NỮ TRONG CHINH PHỤ NGÂM
2.1.1. Hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong Chinh phụ
ngâm, xét ở cấp độ tín hiệu thẩm mĩ hằng thể
Trong Chinh phụ ngâm, tác giả đã miêu tả vẻ đẹp mĩ
miều của người chinh phụ với nhiều hình tượng khác nhau, qua
đó đã khắc họa rõ hơn dung nhan của nàng chinh phụ, thể hiện
qua dữ liệu khảo sát như sau:
STT
Tín hiệu thẩm mĩ hằng thể
Số lần xh
Tỉ lệ (%)
1
thiếp
32
76.1
2
phụ nữ
1
2.4
3
con gái
1
2.4
4
Ả Chức
2
4.8
5
Chị Hằng
1
2.4
6
khuê phụ
2
4.8
7
chinh phụ
2
4.8
8
nạ dòng
1
2.4
42
100
Tổng cộng
Bảng 2.6: Tần số và tần suất của các biến thể hằng thể
chỉ hình tượng người phụ nữ trong tác phẩm Chinh phụ ngâm
khúc
2.1.2. Hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong Chinh phụ
ngâm, xét ở cấp độ tín hiệu thẩm mĩ biến thể
Khảo sát tác phẩm cho thấy THTM chỉ người phụ nữ
qua các biến thể từ vựng, biến thể quan hệ, biến thể kết hợp có
kết quả như sau
Số lƣợng
Tần số (Slxh)
Tần suất (%)
1. Biến thể từ vựng
21
104
27.9
2. Biến thể quan hệ
78
89
24.0
3. Biến thể kết hợp
145
179
48.2
BIẾN THỂ
Tổng
244
372
100
Bảng 2.7: Số lượng và tần số xuất hiện của tín hiệu
biến thể người phụ nữ trong tác phẩm Chinh phụ ngâm khúc.
Qua bảng thống kê trên cho thấy, hình tượng người phụ
nữ được miêu tả qua nhiều biến thể ngơn ngữ khác nhau. Trong
đó, nhóm các THTM biến thể kết hợp chiếm tỉ lệ cao nhất
(48,2%).
2.1.2.1. Các biến thể từ v ng chỉ người phụ nữ trong
Chinh phụ ngâm
Khảo sát Chinh phụ ngâm, chúng ta thấy biến thể từ
vựng chỉ người phụ nữ được tác giả sử dụng khá nhiều trong
khúc ngâm như: nguyệt, hoa, bóng trăng, phù dung… đặc biệt
ta thấy tác giả dùng chữ “trăng”, chữ “nguyệt” để chỉ người
chinh phụ là tiêu biểu.
2.1.2.2. Các biến thể kết hợp chỉ người phụ nữ trong
Chinh phụ ngâm
a. Tín hiệu kết hợp là danh từ/danh ngữ
Chúng ta thấy tác giả đã sử dụng biến thể kết hợp là
danh từ/danh ngữ với số lượng khơng nhiều, trong đó đáng chú
ý là hai cấu trúc danh ngữ ả Chức, chị Hằng…
b. Tín hiệu kết hợp là động từ/động ngữ
Qua khảo sát, tác giả đã có 97 lần sử dụng các động từ
để thể hiện hành động, suy nghĩ, tâm trạng của người chinh
phụ: cầm tay, bước đi, nhìn, ngẩn ngơ trơng,...
c. Tín hiệu kết hợp là tính từ/tính ngữ
Nỗi nhớ nhung và tâm trạng của người chinh phụ đã được
thể hiện rất rõ qua hàng loạt tính từ/tính ngữ. Chúng ta có thể nhận
thấy tâm trạng nhớ nhung của nàng chinh phụ về người chồng nơi
chiến trận đã được tác giả miêu tả một cách da diết, thiết tha: thăm
thẳm, xa vời, đau đáu, bơ phờ, thơ thơ thẩn thẩn đằng đẵng, dằng
dặc, mê mải, chứa chan,...
2.1.2.3. Biến thể quan hệ chỉ người phụ nữ trong
Chinh phụ ngâm
a. Các biến thể quan hệ là thời gian
Chúng ta có thể tìm thấy trong Chinh phụ ngâm những
cơng thức mang t nh ước lệ về việc diễn tả thời gian, lấy sự
việc thiên nhiên diễn tả ước đi của năm tháng: thưở lâm hành,
thưở đăng đồ,...
Hình ảnh những chim oanh, quyên, én quyện bên những
liễu, đào bông, phù dung,... chỉ mùa thu, mùa hạ, mùa xuân đã
diễn tả ước đi theo chu kỳ của thời gian đồng thời thể hiện
tâm trạng chờ mong mỏi mòn của người chinh phụ với lời hứa
của chồng.
b. Các biến thể quan hệ là không gian
Xuyên suốt khúc ngâm chúng ta thấy tác giả đã miêu tả
một bức tranh khơng gian trơng ngóng, mong chờ người chồng
của nàng chinh phụ: trông bến Nam, trông đường Bắc, Non
Đông, Lũng Tây, Trông bốn bề…
c. Các biến thể quan hệ là con người
Hình ảnh người chinh phu, là đức vua, là hình ảnh cha
mẹ/vợ con… với nhiều ý nghĩa iểu đạt khác nhau. Thơng qua
các tín hiệu quan hệ sóng đơi giữa người chinh phụ với chinh
phu, với hài nhi, với lão thân, khách phong lưu, đấng hào
kiệt,... đã góp phần miêu tả rõ nét tâm trạng, tính cách của
người chinh phụ trong tác phẩm.
2.3. SO SÁNH SỰ BIỂU ĐẠT BẰNG NGƠN NGỮ HÌNH
TƢỢNG NGƢỜI PHỤ NỮ TRONG CUNG OÁN NGÂM
KHÚC VÀ CHINH PHỤ NGÂM
2.3.1. Điểm tƣơng đồng
2.3.1.1. V hình thức biểu đ t
Về số lượng: Trong Cung ốn ngâm khúc và Chinh phụ
ngâm, hình tượng người phụ nữ được thể hiện phong phú với
sự xuất hiện của ba loại biến thể chủ yếu như sau: Biến thể từ
vựng, Biến thể quan hệ, Biến thể kết hợp. Về tần số: Tần số
xuất hiện của các loại biến thể trong hai khúc ngâm của cả
Đặng Trần Côn và Nguyễn Gia Thiều thì các loại biến thể từ
vựng lúc nào cũng chiếm ưu thế hơn so với hai loại biến thể
còn lại.
2.3.1.2. V cấu t o của các biến thể
Cả hai tác phầm đều xuất hiện đầy đủ các TH hằng thể
và các loại TH biến thể chỉ người phụ nữ: biến thể từ vựng,
biến thể kết hợp, biến thể quan hệ. Mỗi loại hằng thể và biến
thể đều bắt nguồn từ những hình ảnh qn thuộc mang tính
tượng trưng ước lệ trong văn chương cổ như ả Chức, chị Hằng,
má đào, đóa lê, đóa phù dung, trăng, hoa, nguyệt,... Đặc biệt là
các biến thể kết hợp là tính từ/tính ngữ ln đưa lại tính biểu
trưng hóa cao khi miêu tả tính cách, thân phận người phụ nữ:
thăm thẳm, đau đáu, chứa chan, dằng dặc,... Mỗi biến thể kết
hợp là tính từ được xem như các định ngữ nghệ thuật miêu tả,
khắc họa tính cách, tâm trạng và thân phận của người cung nữ
và người chinh phụ như những THTM trong tác phẩm.
2.3.2. Điểm khác biệt
2.3.2.1. V hình thức biểu đ t
Trong tác phẩm Cung oán ngâm khúc và Chinh phụ
ngâm, số lượng xuất hiện của các THTM chỉ người phụ nữ là
hoàn toàn khác nhau, lần lượt là 286 đơn vị và 244 đơn vị. Như
vậy, số lượng THTM chỉ người phụ nữ trong Cung oán ngâm
khúc là nhiều hơn so với số lượng THTM chỉ người phụ nữ
trong tác phẩm Chinh phụ ngâm.
2.3.2.2. Tần số xuất hiện của các biến thể
Tần số xuất hiện trong Cung ốn ngâm khúc là 396 lần,
cịn tần số xuất hiện trong Chinh phụ ngâm là 372 lần. Trong
đó, các iến thể kết hợp xuất hiện nhiều nhất, với 235 lần
(chiếm 59,4%) trong Cung oán ngâm khúc và 179 lần (chiếm
40,2%) trong Chinh phụ ngâm khúc.
Có thể nói, trong hai tác phẩm, việc lựa chọn cái biểu
đạt của hình tượng về người phụ nữ ln có sự cân nhắc kĩ
lưỡng.
2.4. TIỂU KẾT
CHƢƠNG 3
HÌNH TƢỢNG NGƢỜI PHỤ NỮ
TRONG CUNG ỐN NGÂM KHÚC VÀ CHINH PHỤ
NGÂM
NHÌN TỪ BÌNH DIỆN CÁI ĐƢỢC BIỂU ĐẠT
3.1. GIÁ TRỊ BIỂU TRƢNG CỦA TÍN HIỆU THẨM MĨ
CHỈ NGƢỜI PHỤ NỮ TRONG CUNG OÁN NGÂM KHÚC
3.1.1. Giá trị biểu trƣng của tín hiệu thẩm mĩ hằng
thể chỉ ngƣời phụ nữ trong Cung ốn ngâm khúc
Hình tượng người cung nữ trong Cung oán ngâm khúc
được biểu đạt qua các tín hiệu hằng thể: cung nữ, khách tiêu
phòng, vưu vật, ả sương khuê, cung phi, vị vong, ... Mỗi lần
xuất hiện các tín hiệu hằng thể trong mỗi câu thơ đều mang
hàm ý biểu trưng đa chiều, đa dạng về phẩm chất, thân phận
của người cung nữ, vừa mang vẻ đẹp kiêu sa, đầy sức sống, vẻ
đẹp gợi cảm của trào lưu văn học nhân đạo: khẳng định vẻ đẹp
tự nhiên của con người. Sắc đẹp của nàng như một đóa phù
dung rực rỡ, mang t nh ước lệ cao, như vẻ phù dung, như áng
đào kiểm, như khóe thu ba,...:
Trộm nhớ thưở gây hình tạo hóa
Vẻ phù dung một đóa hoa tươi.
Với việc sử dụng các hình ảnh ước lệ mang tính biểu
trưng cao dường như Nguyễn Gia Thiều đã dồn tất cả vẻ đẹp cổ
kim lên hình tượng người cung nữ, và đó cũng là cách miêu tả
vẻ đẹp truyền thống của văn học thời bấy giờ.
3.1.2. Giá trị biểu trƣng của tín hiệu thẩm mĩ biến
thể chỉ ngƣời phụ nữ trong Cung oán ngâm khúc
3.1.2.1. Ý nghĩa biểu trưng hóa qua các biến thể từ
v ng chỉ người phụ nữ trong Cung ốn ngâm khúc
Hình tượng người cung nữ được khắc họa, được liên
tưởng qua các biến thể từ vựng- những biểu thức ngôn từ đồng
quy chiếu trong tác phẩm như hoa, gót sen, nguyệt, trăng,...
Nguyễn Gia Thiều đã nhìn người cung nữ như những
bơng hoa đồ mi, thược dược, mẫu đơn, lan, huệ, phù dung, cúc,
đào…
Đóa lê ngon mắt cửu trùng
Tuy mày điểm nhạt nhưng lòng cũng siêu
Các THTM biến thể như “nguyệt”, “hoa”, “đào”,
“mận” cũng thiên về nhấn mạnh hay hàm ý chuyện tình cảm
đơi lứa, hoặc chuyện ân ái vợ chồng:
Khi ấp mận ôm đào gác nguyệt
Lúc cười sương cợt tuyết đền phong.
3.1.2.2. Giá trị biểu trưng của các yếu tố ngơn ngữ có
chức năng miêu tả THTM chỉ người phụ nữ trong Cung oán
ngâm khúc
+ Ý nghĩa biểu trưng hóa của các yếu tố miêu tả là động
từ/động ngữ
Trong khúc ngâm, hình ảnh người cung nữ một mình lẻ loi,
cô đơn giữa cảnh lộng lẫy vàng son nơi cung cấm,... để lại trong l ng
người đọc một cảm giác uồn thương đến nao lòng:
Trong cung quế âm thầm chiếc bóng,
Đêm năm canh trơng ngóng lần lần.
Lầu đãi nguyệt đứng ngồi dạ vũ,
Gác thừa lương thức ngủ thu phong.
Những cặp động từ “trơng ngóng, đứng ngồi, thức ngủ” đã
diễn tả không chỉ những hành động lặp đi lặp lại mà c n iểu hiện
tâm trạng khắc khoải, ồn chồn của người cung nữ.
+ Ý nghĩa biểu trưng hóa của các yếu tố miêu tả là
tính từ/tính ngữ
Chỉ với 356 câu thơ nhưng Cung ốn ngâm khúc đã có
tới 88 biến thể kết hợp là tính từ/tính ngữ, với 116 lần xuất
hiện. Nỗi niềm của cung nữ được thể hiện qua hàng loạt tính từ
chỉ tâm trạng: buồn (6 lần), sầu – rầu (6 lần), ngán, , tủi, đau,
xót…hay những từ ngữ mang tính biểu trưng miêu tả cao như
trập trùng, tân toan, cửu trùng, tê tái, ủ ê, ủ dột, âm thầm, rầu
rĩ, hẩm hiu, thê lương, cô miên, ra rả, ỏ ê, ỏe ọe… đã tạo ra
những ngữ kết hợp gợi đến những số phận bất hạnh, yếu ớt,
chìm nổi trong cuộc đời người cung nữ.
Một mình đứng tủi ngồi sầu
Đã than với nguyệt, lại rầu với hoa.
3.1.2.3. Giá trị biểu trưng của các biến thể quan hệ
chỉ người phụ nữ trong Cung oán ngâm khúc
+ Ý nghĩa biểu trưng hóa của các biến thể quan hệ
chỉ thời gian
Thời gian Cung oán ngâm khúc chủ yếu là mùa thu và
óng đêm, những kiểu thời gian tượng trưng, gợi nhiều tâm
trạng như chiều muộn, hồng hơn, đêm thâu…
Trải vách quế gió vàng hiu hắt
Mảnh vũ y l nh ngắt như đồng.
Với Cung oán ngâm khúc, đêm tối luôn là thời gian của tâm
trạng khi con người chỉ c n lại một mình, đối diện với ản thân mình
nên tâm tư hiện lên rõ nhất.
Cái đêm hơm ấy đêm gì
Giấc chiêm bao những đêm xưa...
Nỗi niềm dường như đều được ộc ạch trong khung cảnh
đêm thâu.
+ Ý nghĩa biểu trưng hóa của các biến thể quan hệ
chỉ khơng gian
Nàng cung nữ được đặt trong những không gian hạn
hẹp qui ước đó là chốn thâm cung hay chốn khuê phịng. Có thể
nói khơng gian Cung ốn ngâm khúc là khơng gian ưng t
của chốn tiêu phịng lạnh lẽo. lầu đãi nguyệt đứng ngồi dạ vũ,
gác thừa lương thức ngủ thu phong .
Tình rầu rĩ làm ngây nhĩ mục
Chốn phịng không như giục mây mưa.
Ước lệ về thời gian không gian này xuất phát từ quan
niệm thời gian tuần hoàn, không gian bất biến trong văn học
trung đại.
+ Ý nghĩa biểu trưng hóa của các biến thể quan hệ
chỉ người
Bên cạnh hình ảnh đẹp của người cung nữ thì hình ảnh
của đức vua/ đấng quân vương cũng được miêu tả tương đối
đầy đủ về t nh cách mang t nh ước lệ như: mặt rồng, mặt trời,
cửu trùng, chí tơn, chúa xuân…, qua đó giúp cho người đọc
cảm nhận rõ hơn tâm trạng, tình cảm của người cung nữ.
Khoảnh làm chi bấy chúa xuân!
Chơi hoa cho rữa nhụy dần lại thôi.
3.2. GIÁ TRỊ BIỂU TRƢNG CỦA TÍN HIỆU THẨM MĨ
CHỈ NGƢỜI PHỤ NỮ TRONG CHINH PHỤ NGÂM
3.2.1. Giá trị biểu trƣng của tín hiệu thẩm mĩ hằng
thể chỉ ngƣời phụ nữ trong Chinh phụ ngâm
Như đã khảo sát ở chương 2, t n hiệu hằng thể chỉ
người phụ nữ trong Chinh phụ ngâm ch nh là hình tượng người
chinh phụ, với các biểu thức đồng quy chiếu về người chinh
phụ trong tác phẩm: thiếp, thân phụ, chinh phụ, ...
Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam
Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân.
Từ tín hiệu hằng thể này, tác giả mới miêu tả-cụ thể hóa
qua các biến thể từ vựng, biến thể kết hợp và biến thể quan hệ.
3.2.2. Giá trị biểu trƣng của tín hiệu thẩm mĩ biến
thể chỉ ngƣời phụ nữ trong Chinh phụ ngâm
3.2.2.1. Ý nghĩa biểu trưng hóa của các biến thể từ
v ng chỉ người phụ nữ trong Chinh phụ ngâm
Trong Chinh phụ ngâm, tác giả cũng sử dụng nhiều
biến thể từ vựng của THTM chỉ người chinh phụ, qua đó khắc
họa cụ thể hơn về hình tượng người chinh phụ trong tác phẩm:
phần má đào, khách má hồng, trăng, hoa, nguyệt,... Nàng
chinh phụ còn là “trăng”, là “nguyệt”, gợi lên những tình cảm
khác nhau của chinh phụ, khi nhớ thương, khi lo lắng, khi đau
đớn cho người chồng của mình:
Trống Trường Thành lung lay bóng nguyệt,
Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây.
3.2.2.2. Ý nghĩa biểu trưng hóa của các yếu tố ngơn
ngữ có chức năng miêu tả người phụ nữ trong Chinh phụ
ngâm
+ Ý nghĩa biểu trưng hóa của các yếu tố miêu tả là
động từ/động ngữ
Mỗi hành động, suy nghĩ của người chinh phụ đều được
tác giả khắc họa rõ nét qua các THTM biến thể kết hợp là
những động từ/động ngữ dằng dặc buồn, phiền chẳng rửa, dạ
chẳng khuây, ...:
Đưa chàng lòng dằng dặc buồn,
Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền.
Nàng chinh phụ “lịng dằng dặc buồn” vì nàng muốn
theo chàng nhưng uồn nỗi chàng thì đi đường bộ, nàng thì
khơng đi được như ngựa chàng cưỡi; chàng đi đường thủy thì
nàng chẳng được như thuyền chở chàng; trong lòng chinh phu
– chinh phụ cứ thế mà vấn vương, day dứt.
+ Ý nghĩa biểu trưng hóa của các yếu tố miêu tả là
tính từ/tính ngữ:
Khi miêu tả hình tượng người phụ nữ trong Chinh phụ
ngâm qua các biến thể kết hợp là tính từ/tính ngữ, đã tạo nên
các định ngữ nghệ thuật trong tác phẩm văn chương: thẳm
thẳm, đau đáu,... nàng chinh phụ đã gửi niềm thương nhớ
chồng theo ngọn gió đơng (gió mùa xuân) như muốn nhờ gió
nói hộ với chồng nơi miền biên ải tấc lòng nhung nhớ của
nàng:
Non Yên dầu chẳng tới miền,
Nhớ nàng thăm thẳm đường lên bằng trời.
2.2.2.3. Giá trị biểu trưng của các biến thể quan hệ chỉ người
phụ nữ trong Chinh phụ ngâm
+ Ý nghĩa biểu trưng hóa của các biến thể quan hệ chỉ thời
gian:
Nỗi cô đơn và sầu muộn của nàng thấm đẫm cả không
gian và thời gian đằng đẵng, dằng dặc:
Khắc chờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.
Nghe tiếng gà gáy, nhìn óng cây h e, người chinh phụ
cảm thấy khắc giờ sao lại dài như một năm. Khắc chờ đằng
đẵng như niên” có nguồn gốc từ câu “Sầu tự hải, khắc như
niên”. Những cách diễn đạt "đằng đẵng", "dằng dặc",... luôn
tạo nên âm điệu buồn thương, ngân xa như tiếng thở dài của
người thiếu phụ đăm đắm chờ chồng.
+ Ý nghĩa biểu trưng hóa của các biến thể quan hệ là
không gian:
Chinh phụ ngâm thể hiện đầy đủ những cảm thức về
không gian của con người Trung đại. Đó là khơng gian chiến
địa gắn liền với số phận người chinh phu và không gian buồng
khuê của người chinh phụ. Đặt hai không gian trên cạnh nhau,
độc giả sẽ cảm nhận rõ khơng gian một bên thì rộng mở mênh
mang (chiến địa), một bên thì hạn hẹp quanh quẩn (chốn kh
phịng). Sự sóng đơi đối lập này được láy đi láy lại trong những
cặp câu đối ngẫu chặt chẽ:
Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn.
+ Ý nghĩa biểu trưng hóa của các biến thể quan hệ chỉ
người
Bên cạnh hình ảnh người chinh phụ thì hình ảnh người
chinh phu trong tác phẩm Chinh phụ ngâm cũng được tác giả
đề cập đến. Nhờ vào các biến thể quan hệ người chinh phu qua
các lần xuất hiện như chàng trai trẻ, chí làm trai, áo chàng,
ngựa chàng,... đã làm tôn lên chiều sâu tâm tưởng và tính cách
của người chinh phụ.
Áo chàng đỏ tựa ráng pha,
Ng a chàng sắc trắng như là tuyết in.
3.3. SO SÁNH HÌNH TƢỢNG NGƢỜI PHỤ NỮ TRONG
CUNG ỐN NGÂM KHÚC VÀ CHINH PHỤ NGÂM
TRÊN BÌNH DIỆN CÁI ĐƢỢC BIỂU ĐẠT
3.3.1. Điểm tƣơng đồng
Hình tượng người phụ nữ trong hai tác phẩm đều xuất
hiện ở cả tính hằng thể và biến thể; góp phần vào việc mở rộng,
khắc sâu thêm bình diện cái được biểu đạt của hình tượng về
người phụ nữ.
Đặc biệt là, các THTM biến thể từ vựng đã thể hiện
được tính kế thừa nhưng cũng rất sáng tạo trong việc sử dụng
chất liệu thơ ca truyền thống của dân tộc như những hình ảnh
mang t nh ước lệ tượng trưng, t ch điển: hoa, nguyệt, ả Chức,
chị Hằng, Tây Thi, má đào, đóa lê, đóa phù dung,... đã tạo nên
một Nguyễn Gia Thiều và một Đặng Trần Cơn mang đầy tính
chất triết l nhân văn sâu sắc và một phong cách thơ độc đáo..
3.3.1.2. V các biểu thức ngôn ngữ miêu tả THTM chỉ
người phụ nữ
a. Các biểu thức ngơn ngữ miêu tả ngoại hình người
phụ nữ
Điều dễ nhận thấy trong hai tác phẩm là các tác giả đã
sử dụng biểu tượng thiên nhiên, đặc biệt biểu tượng “hoa” để
miêu tả người phụ nữ trong tác phẩm. Người phụ nữ là bông
hoa tinh túy nhất, ngọt ngào nhất trong vơ số lồi hoa của tạo
vật. Vì thế, hình ảnh được đem ra so sánh với hoa mà ta bắt gặp
nhiều nhất và cũng là ý nghĩa iểu trưng chủ yếu của từ “hoa”
là hình ảnh người phụ nữ đẹp.
b. Các biểu thức miêu tả chốn phòng thecủa người phụ
nữ
Những tương tư, ham muốn ân ái được các tác giả thể
hiện tế nhị qua các vật dụng liên quan đến chuyện phòng the.